Truyện 2

- Một Chân Trong Lòng Đất

- Những Con Mèo Dũng Cảm

- Hậu Duệ Của Bà Tú Xương

Một Chân Trong Lòng Đất

Tác giả đã hai lần nhận giải thưởng viết về nước Mỹ. Với bài "Chương Kết Của Cuộc Đời", cô nhận giải danh dự 2001. Sau 4 năm liên tục góp thêm bài viết mới, cô nhận giải vinh danh tác phẩm Viết Về Nước Mỹ 2005, với bài viết về một cựu sĩ quan Việt Nam Cộng Hoà trong dịp 30 lần thứng Tư tại Mỹ. Tác giả hiện cư trú và làm việc tại vùng San Jose. Bài mới của cô là chuyện đời một người Mỹ ở thế hệ "baby boomer," thế hệ từng một thời gắn liền với chiến tranh Việt Nam.

***

Lần họp mặt năm nay ở Student Union cho các Alumni (cựu Sinh viên tốt nghiệp từ trường), ngoài những chuyện về tình hình công việc, về kinh nghiệm chuyên môn như lịch trình sinh hoạt của những lần họp mặt bình thường, chúng tôi được nghe kể về một câu chuyện rất cảm động của một "đàn anh", ông Robert Smith, ra trường từ năm 1959, trước cả lúc chúng tôi ra đời. Diễn giả, -một người cùng lớp với ông Robert, thường được gọi một cách thân mật là Bob- còn cho chúng tôi coi một slide show lưu trữ từ hội cựu sinh viên của trường. Một chuỗi hình ảnh về cuộc đời ông Bob từ đen trắng của cuối thập niên 50s đến màu sắc nhợt nhạt của đầu thập niên 60s, và cuối cùng là những cái hình màu sắc rất sắc sảo của thời đại "Digital Camera" đầu thế kỷ 21.

Quãng đời của một người Mỹ ở thế hệ "baby boomer" ở một xứ sở giàu có bình an lại một thời gắn liền với chiến tranh Việt Nam.

Thời đó có lẽ khoa học chưa phát triển như bây giờ nên cuộc đời của ông Bob chỉ được bắt đấu ghi lại bằng hình ảnh khi ông xong Trung học, vào trường San Jose State University ở California, lúc đó tên là San Jose State College.

Đó là những năm yên bình của thanh niên đương thời, họ không phải đi lính, vì lúc đó quân đội Mỹ chưa trực tiếp tham chiến ở Việt Nam. Đó là những năm hiền hòa, bình yên ở các trường Đại học, không có bạo loạn, không có biểu tình phản chiến (đặc biệt là ở Đại học Berkeley, một nơi được mệnh danh là "hang ổ phản chiến" trong những năm Mỹ tham chiến ở Việt Nam). Khi nhiều người lính Mỹ đi tham chiến ở ngoại quốc không bao giờ về, rồi cô đào Jane Fonda (chỉ hiểu biết mù mờ về chiến tranh Việt Nam qua cách đưa tin lệch lạc kiểu "một nửa cái bánh mì thì cũng vẫn là bánh mì, nhưng một nửa sự thật thì đã là một sự giả dối", và đầy thiên kiến của hệ thống truyền thông ở Mỹ lúc đó), sau khi thành "Jane Hanoi", trở về Mỹ, chế thêm dầu vào ngọn lửa phản chiến, sinh viên trường Berkeley đi biểu tình thường xuyên hơn là đi học, kéo theo phong trào phản chiến rầm rộ ở rất nhiều trường Đại học khắp nơi trên đất Mỹ, nhất là ở Calỉfornia.

May mắn là class 59 của ông Bob ra trường trước khi biểu tình phản chiến trở thành một phong trào, lấn trội cả phong trào hippies, -đặc biệt là ở các trường Đại học ở miền Tây nước Mỹ vốn nổi tiếng là phóng khoáng, không bảo thủ như cảc trường ở miền Đông-, nên ông học hành tới nơi tới chốn, không bị gián đoạn.

Slide show thời sinh viên của ông Bob đưa chúng tôi trở về với một thời yên tĩnh, bình yên ở trường Đại học. Thời đó dân số không cao như bây giờ, không có nhiều người tiếp tục đèn sách sau Trung học, nên tất cả sinh viên đều sống nội trú, và mọi người thân thiện với nhau hơn hiện tại rất nhiều. Dĩ nhiên họ không có computer, không có twitter, không có myspace, không có facebook, không có Cell Phone, không có text message, nên họ có nhiều thời gian sinh hoạt với nhau, từ những cuối tuần ngồi hát country music (tương tự nhạc dân ca của Việt Nam) đến những lần sửa xe tập thể, cả nhóm cùng sửa vài chiếc xe cùng lúc. Ông Bob nổi bật lên giữa các bạn cùng trang lứa, vì ông đàn guitar điêu luyện lại hát cũng rất hay. Nhưng điều thu hút rất nhiều nữ sinh viên đến phòng nội trú của ông Bob vì ông có một cái xe Ford sport hai cửa đời 1929, thuộc loại xe classic thời đó, mà ông, với sự giúp sức của một vài ngưòi bạn cùng ngành Mechanical Engineering, đã tự thay máy mới, tự sơn sửa lại chiếc xe đã gần 30 tuổi.

Trong số những cô sinh viên, đang ở độ tuổi đẹp nhất đời người, đã "tình trong như đã mặt ngoài còn e" với chàng tuổi trẻ Bob Smith, cô Katrina được vào chung kết, thường được ông Bob chở đi chơi cuối tuần trên cái xe thể thao mui trần classic đã được sơn sửa lại rất đẹp.

Hồi đó, hình như khoa học chưa phát triển nhiều, không có các trò chơi điện tử, người ta có nhiều thì giờ đọc sách hơn, nên cũng chín chắn và khôn ngoan hơn những người cùng tuổi ở đầu thế kỷ 21. Ở tuổi hai mươi, ông Bob đã tự định hướng rõ ràng cho cuộc đời của mình. Tốt nghiệp Đại học, chàng thanh niên Bob Smith tự nguyện tham gia binh chủng Hải quân, đi cho biết đó biết đây, rồi trở về lại quê nhà ở San Jose, California nắng ấm, tìm đến nhà cô Katrina ngỏ lời cầu hôn. Dĩ nhiên cô Katrina nhận lời vì chàng Bob ngày xưa sau hai năm lênh đênh trên đại dương trong màu áo Hải quân, trở về "home sweet home", phong trần hơn, bản lĩnh hơn, và hình như yêu cô nhiều hơn trước.

Họ lấy nhau chỉ vài tháng sau đó và sống khá hạnh phúc. Cô Katrina bây giờ đã thành bà Smith, lại ngồi bên cạnh ông Bob Smith trên cái xe Ford dong ruỗi trên nhiều đường phố ở San Jose. Điều khác biệt nhất là cái xe Ford họ cùng đi cuối thập niên 60s là cái xe Ford sedan bốn cửa (thay cho cái xe thể thao hai cửa ngày họ còn là sinh viên), phía sau lần lượt có một, hai, rồi ba đứa con. Tiếng cười giòn giã của cha mẹ, trộn lẫn tiếng cười trong vắt của ba đứa con nhỏ làm hàng xóm và người ngoại cuộc đều cho là đó là một gia đình hạnh phúc vẹn toàn; ông bà Smith sẽ có nhau đến cuối đời như lời hứa ở nhà thờ ngày đám cưới "we ll be together until death".

Ấy vậy mà họ ly dị sau hai mươi hai năm chung sống, khi đứa con út vừa bước vào Trung học. Bạn bè chung của họ, những Alumni của San Jose State College năm xưa, có tò mò hỏi lý do, cả hai người đều trả lời giống nhau, rất lịch sự, rất kín đáo kiểu Mỹ:

- Có nhiều người lớn tuổi hơn, tự nhiên đi theo hai hướng khác nhau, chứ không còn đi cùng một đường như thời còn trẻ. Chúng tôi cũng vậy, nên chia tay vì ý nguyện và lợi ích của cả hai bên.

Họ chia tay nhau, từ một mái nhà chung ở San Jose, California, ông Bob dọn về Phoenix, Arizona, bà Katrina qua sống tận ở Boston, Massachusetts, chỉ liên lạc với nhau khi có chuyện liên quan đến ba đứa con chung của họ.

Lúc đứa con út trên mười tám tuổi, đủ trưởng thành để tự quyết định được tất cả mọi chuyện, sợi dây liên lạc giữa ông Bob và bà Katrina vốn đã mong manh, đứt hẳn từ ngày người con út xong Trung học.

Ông Bob đã trải qua rất nhiều công việc sau khi rời quân đội. Nhưng công việc ông yêu thích nhất là công việc quản trị một nhóm salesman bán xe hơi trải dài ở tất cả các tiểu bang miền Tây của nước Mỹ. Kiến thức của một người tốt nghiệp ngành kỹ sư cơ khí và kinh nghiệm của một cựu sĩ quan truyền thông hải quân giúp ông Bob thành công vượt bực trong sự nghiệp, liên tục được thăng tiến trong công việc. Và cũng như ngày xưa, ông Bob ở tuổi năm mươi cũng có sức hấp dẫn người khác phái không kém chàng Bob tuổi hai mươi, sinh viên Đại học năm xưa.

Ông lập gia đình lần thứ hai, rồi lại chia tay. Lần này, hôn nhân chấp nối chỉ kéo dài được gần ba năm và không sản xuất thêm một "Smith Junior" nào. Người bạn thân nhất dò hỏi lý do, câu trả lời lại vẫn như xưa:

- Chúng tôi thỏa thuận chia tay nhau vì ý nguyện và lợi ích của cả hai bên.

Bà Smith thứ hai, không có con với ông nên liên lạc cũng đứt khi hai chữ ký trên tờ giấy ly dị vừa được thị thực xong trước tòa án.

"Life goes on", ông Bob lại dọn nhà, lại sống bình thản như không có gì xảy ra, không nhắc đến cả hai bà "cựu Smith". Thân nhân và bạn bè của ông đều có chung cảm tưởng là mỗi một chặng đời của ông Bob đóng lại, ông khóa kín, và liệng luôn chìa khóa, không sống với dĩ vãng, dù đó là một quá khứ hòa đồng, hạnh phúc, hay một quá khứ bất hòa, xung đột.

Vậy mà, một ngày đẹp trời đầu mùa Xuân năm nay, bạn bè của ông, class 59, sinh sống và làm ăn khắp nơi trên nước Mỹ, lần lượt nhận được điện thoại của ông Bob với một thông tin rất bình tĩnh và rất ngắn gọn từ bên kia đầu dây:

- Bob đây, tôi bị bệnh ung thư não, chỉ còn sống nhiều lắm là chín mươi (90) ngày nữa.

Mọi người qua phút bàng hoàng, khi bình tĩnh lại, họ đều hỏi một câu tương tự nhau:

- Rất tiếc khi nghe tin này, tôi có thể làm gì được cho bạn"

Tất cả mọi người đều nhận được một yêu cầu duy nhất:

- Gọi điện thoại báo tin cho tất cả những người biết tôi mà bạn còn giữ được liên lạc.

Có ai lại nỡ từ chối lời yêu cầu của một người sắp ra đi vĩnh viễn, đang mang bệnh ung thư đến thời kỳ cuối, coi như đã đặt một chân trong lòng đất" Thế là những cú điện thoại đột xuất, những cái E mail nối lại liên lạc tưởng như đã mất hẳn từ rất lâu giữa những người bạn cùng khóa năm xưa.

Có những người bạn bặt tin ông Bob từ khi họ ở tuổi hai mươi, cùng tung lên chân không chiếc mũ ra trường hình vuông màu đen, có đính dãi tassel màu xanh với hai con số 59 mạ vàng, bên cạnh ngọn tháp cổ phủ một loại dây leo thực vật màu xanh, tươi mát quanh năm, biểu tượng truyền thống của trường San Jose State University.

Có những người không gặp lại ông Bob từ tiệc cưới của chàng Bob và nàng Katrina theo kiểu garden wedding năm xưa.

Nhưng tất cả họ đều nhận ra giọng nói trầm ấm, bình tĩnh kèm theo tiếng cười qua điện thoại như người ở đầu dây bên kia đang nói về cái chết sắp xảy ra của một con ong, cái kiến, hoặc của một ông X, bà Y nào đó không liên quan gì đến mình. Đó là giọng nói của ông Bob Smith, một người nhiều tài, và phải chăng cũng vì thế nên bị "trời xanh quen thói má hồng đánh ghen"".

Thời gian tính chỉ còn chưa đến ba tháng, chưa đến chín mươi ngày. Những người bạn thân nhất của ông Bob tự động sắp xếp một cuộc họp mặt ở San Jose, thành phố mà họ rất thân quen thời còn ở tuổi hai mươi, cũng là nơi babyboomer Robert Smith chào đời.

Chuông điện thoại reo lên liên tục trải dài từ Đông sang Tây, từ Nam lên Bắc của nước Mỹ, trên telephone của những người bạn cùng thời với ông Bob.

E mail là một lối liên lạc thuận tiện nhất ở đầu thế kỷ 21, nhưng đến lúc có chuyện khẩn cấp thì đướng dây điện thoại vẫn được ưa chuộng hơn, và truyền đạt được cảm xúc của người gọi nhiều hơn là E mail. Chưa kể có những người thỉnh thoảng mới "mở hộp thư online" để đọc thư điện tử, để thấy là mình đã bị "bỏ lại bên lề cuộc sống" từ lúc nào!

Bạn bè của ông Bob,từ bạn thời thơ dại, đến bạn Trung học, rồi Đại học, bạn cùng ở Hải quân, bạn đi làm......, kẻ trước người sau nhận được tin không vui về người bạn cũ học giỏi, cao lớn, đẹp trai, hoạt bát, năng nổ của mình.

Dĩ nhiên cả hai bà "cựu Smith" (bà Katrina, người sinh thành ba đứa con của ông Bob, và bà Dorothy mà duyên nợ với ông Bob chỉ kéo dài ba năm) đều nhận được hung tin đời sống của ông Bob chỉ còn được tính từng ngày qua tiếng nói trầm ấm mà hai bà đã từng một thời rất đổi thương yêu.

Sau khi biết được chính xác ngày giờ và địa điểm cho một cuộc đoàn tụ để chia tay vĩnh viễn với ông Bob, như những đám bèo nổi trôi trên mặt nước, hợp rồi tan, tan rồi hợp, mọi người thu xếp công việc, mua vé máy bay về thăm ông. Họ còn cẩn thận gởi đến tặng cho "nhân vật chính của cuộc họp mặt" một cái vé máy bay khứ hồi từ Austin, Texas đến San Jose, California. Vì sau khi qua nhiều thử nghiệm y khoa, lấy cả đến ý kiến thứ ba của các Bác sĩ chuyên môn, biết chắc mình bị ung thư não (brain tumors cancer), ông Bob thu xếp mọi việc, bán nhà ở Arizona, rồi về Texas sống với người con út trong những ngày còn lại của đời.

Nơi họp mặt là một cái nhà ở lưng chừng đồi, cao đủ để họ có thể thấy cả "thung lũng hoa vàng" về đêm, không quá cao để tai bị ù khi leo dốc. Họ vừa quý người bạn xưa, "cây đinh của khu nội trú nam sinh" năm nào, vừa thương bạn sắp vĩnh viễn từ bỏ cuộc đời. Từ khắp nơi trên nước Mỹ, những người bạn của ông Bob tụ họp về San Jose, trước là thăm ông Bob lần cuối, sau là dịp để gặp lại bạn bè từ thời bước vào tuổi hai mươi, để xem "dung nhan ngày ấy bây giờ ra sao" ?

Ai nấy đều phát tướng ra, chiều cao có bị mai một chút ít theo năm tháng, nhưng chiều ngang thì bành trướng thấy rõ, trọng lượng tăng lên tỷ lệ thuận với tuổi đời như quy luật tự nhiên "what’ s going up, will be down" của tạo hóa, của một đất nước calories nạp vào từ thức ăn thường vượt trội calories tiêu thụ từ hoạt động hàng ngày.

Duy có mỗi ông Bob, ông ốm hẳn đi, hốc hác mệt mỏi, da đỏ ửng, nhăn nhúm như cổ một con gà tây, từ hậu quả của rất nhiều lần đi chemotherapy (hóa học trị liệu), hy vọng y học đương thời, - bằng cách "dĩ độc trị độc" đưa chất độc vào người bệnh ung thư, ngăn chận sự phát triển bừa bãi, nhanh chóng của một số tế bào trong cơ thể- có thể ngăn chận được sự phát triển thiếu trật tự của những tế bào não, hệ thống chỉ huy của mỗi con người. Buồn thay, hệ quả của chemotherapy thấy rất rõ, ông lost appetite, không ăn uống được, mệt mỏi, dã dượi cả ngày, mái tóc màu brunette dày rụng dần rồi biến mất, nhưng kết quả lại không có như hy vọng mong manh của những "thiên thần áo trắng"chuyên về ung thư, của hầu hết bệnh nhân bị brain tumor.

Là một người lạc quan, dù biết một chân của mình đã đặt vào lòng đất, ông gọi điện thoại cho một số bạn bè, và đã dẫn đến cuộc họp mặt của những người đã bước vào tuổi về hưu, mà vẫn hồn nhiên, vui vẻ như vẫn còn đang ở độ tuổi đẹp nhất đời người. Không một ai đề cập đến bệnh tật, đến "cuộc hẹn với tử thần" đã đến rất gần của ông Bob.

Đó là một cuộc họp mặt ngoài trời, cuối xuân, đầu hè, bầu trời trong xanh đầy nắng ấm, những bông hoa dại màu vàng nở rực rỡ trên triền đồi, đẹp như trong tranh. Cả hai bà Smith được xếp ngồi hai bên ông, đều thương yêu và chìu chuộng ông như ngày xưa họ đã từng có một khoảng thời gian hạnh phúc với tình nghĩa vợ chồng, như họ không hề có bất đồng để đến nỗi phải đưa nhau ra tòa ly dị. Một người bạn đã nửa đùa nửa thật:

- Ông bà Smith trên màn ảnh movie đâu có hạnh phúc như ông và các bà Smith ở đây.

Cả nhóm bạn cùng cười, nụ cười hồn nhiên như tuổi già vẫn còn ở cách họ rất xa, như ông Bob không hề bị căn bịnh ung thư não bộ đuổi gần đến exit của sự sống. Họ say sưa nhắc lại kỷ niệm cũ, những ngày thanh xuân ở trường Đại học San Jose State, rồi kể cho nhau nghe về những ngày mới bước vào đời, đã vấp ngã, rồi tự đứng lên, tự nghiền ngẫm nỗi đau của mình để tránh những lần té ngã khác, những cạm bẫy khác của cuộc đời. Ngay cả lúc nhắc về những người bạn đã bị tổng động viên trong chiến tranh Việt Nam, rồi mãi mãi không về, chỉ còn mỗi một cái tên nằm nhỏ nhoi, khiêm tốn trong một danh sách dài đến hơn năm mươi tám ngàn cái tên trên bức tường đá đen ở Washington DC., mặt họ cũng không ánh lên nét buồn mà rạng rỡ niềm tự hào cho những người bạn đã sống một cuộc đời ngắn ngủi nhưng rất đáng sống, đã làm thay cho họ điều họ không làm được.

Lúc đầu, họ đã dặn dò nhau trước, chỉ nói về chuyện vui để nâng cao tinh thần của ông Bob, để những ngày cuối đời của ông vui hơn, kéo dài hơn dự đoán của các Bác sĩ chuyên ngành. Nhưng không ngờ, những chuyện vui không chỉ làm rạng rỡ khuôn mặt của ông Bob, mà còn làm chính họ vui lên, như trên đời này không có gì phải lo nghĩ, như hạnh phúc và niềm vui luôn luôn lấn trội, đè bẹp khổ đau, phiền muộn.

Hai bà "cựu Smith", đã từng một thời là "một nửa" của ông Bob, biết ý ông, đặt lên dĩa thức ăn của ông những món ông thích nhất, chẳng hạn thịt bò steak phải nướng đúng kiểu Omaha, Nebraska nổi tiếng, đủ để chín tới, không để chín nhừ "well done"; chẳng hạn mash potatoes phải trộn nhiều baby onions, điểm vài hạt tiêu trắng để hương vị đậm đà hơn, chẳng hạn orange juice phải có pulp lợn cợn mới thấy mùi vị của cam nhiều hơn.....Vì vui, vì được săn sóc đúng ý, hôm đó ông Bob ăn uống ngon miệng, như chưa từng bị mất appetite vì hậu quả của những lần đi chemotherapy ở bệnh viện.

Họ còn chơi basketball, thay phiên nhau liệng banh vào cái rỗ lưới được gắn chặt ở một góc sân . Hình ảnh một nhóm những người đã ở tuổi về hưu, được hưởng toàn bộ tiền hưu trí, trong quần short, áo polo sport của mùa hè vui đùa bên nhau, cười vui rạng rỡ, hàng xóm không hề biết là họ đang có một cái "going away party" tiễn ông Bob sắp đi vào cõi vĩnh hằng.

Chỉ gần hai tháng sau đó, ông Bob ra đi thanh thản, bình yên, không phải chỉ đặt một chân trong lòng đất mà gởi cả thân xác về với cát bụi, sau khi đã vận dụng hết tàn lực của mình để chống lại với những tế bào não phát triễn vô trật tự, nhưng rất nhanh chóng, hơn dự tưởng của các Bác sĩ chuyên ngành.

Slide show chấm dứt bằng hình ảnh một chùm bong bóng đủ màu có một cái bong bóng màu xanh đậm bay tách ra, nhỏ dần rồi khuất hẳn vào bầu trời với hàng chữ màu đen "In memory of Robert W. Smith ", bên dưới là câu nói đáng được ghi lại của ông từ cuộc họp mặt cuối cùng với bạn bè:

"Chúng ta không thể kiểm soát được điều gì xảy đến cho chúng ta, nhưng chúng ta có thể kiểm soát được phản ứng của chúng ta với những gì xảy ra".

Không hẹn mà chúng tôi, tất cả những người tham dự cuộc họp Alumni của SJSU hôm đó, đều đứng dậy, vỗ tay. Dù không nói ra, nhưng chúng tôi cùng đứng dậy để chào ông Bob lần cuối và vỗ tay vì tinh thần và ý chí của ông, cũng như tình bạn thắm thiết của các "đàn anh đàn chị class 1959", đúng nửa thế kỷ trước.

Riêng tôi, tôi cứ tự hỏi không biết người Mỹ có một bài hát nào có ý nghĩa tương tự như câu hát "Có tốt với tôi thì tốt với tôi bây giờ..." của người Việt Nam ? Chắc là có mà tôi chưa có dịp được nghe.

Cũng từ cuộc họp đó, từ cuộc đời ông Bob, tôi học được rất nhiều điều. Mỗi lần bực tức và buồn phiền vì ai đó, tôi vẫn nghĩ đến câu nói cuối cùng của ông Bob với bạn bè đã được ghi lại bằng slide show để tự kiểm soát mình, tránh được những đụng chạm không cần thiết. "Life is too short" để cải vả, hơn thua, để tranh giành những cái mà không một ai có thể mang theo với mình về nơi miên viễn.

Nguyễn Trần Diệu Hương

Santa Clara - Aug /09

(Để gọi là một nén hương lòng cho H3, Kent & những bệnh nhân brain tumor đã quá cố)

Những Con Mèo Dũng Cảm

*

Tôi gọi cả hai người là Cô, một Cô là em ruột của Ba, và một Cô là cô giáo ở trường Trung học. Cả hai người đều tuổi mèo, không biết là "mão nào" trong giáp, ất, bính , đinh..., chỉ biết năm nay cả hai Cô của tôi đều đã bước vào tuồi bảy mươi.

Cô Linh là em gái của Ba tôi trong một gia đình khá đông con cùa ông bà Nội nhưng Ba và Cô rất thân nhau vì có một thời hai anh em đều trọ học ở Huế. Ba học đệ nhị cấp ở trường Khải Định (sau này đổi thành Quốc Học). Cô Linh học đệ nhất cấp ở Đồng Khánh. Sống xa nhà nên phải tự lo lấy tất cả mọi thứ trong một cái nhà trọ cho "học sinh trong Quảng ra thi" và trọ học. Ở tuổi muời sáu, không biết vì cô Linh đảm đang, nấu ăn ngon hay vì Ba tôi dễ tính, hai anh em đều khỏe mạnh và lớn nhanh như thổi. Mỗi lần về nhà nghỉ hè hay Tết, dù đang đi học không có nhiều tiền, nhưng cô Linh và ba cũng thu xếp mua mè xửng, kẹo cau đem về nhà làm quà từ những đồng tiền đi dạy kèm ít ỏi kiếm được.

Khi Ba để ý Mẹ (lúc đó học cùng trường, trên cô Linh hai lớp), cô Linh nhận lời làm "chim xanh" rất có hiệu quả và tích cực. Đến phiên cô Linh được một anh sinh viên Y người Huế, anh của một người bạn học cùng lớp, theo đuổi, Ba đáp lễ bằng cách "làm lơ" để lâu lâu cô Linh được đi chơi với bạn trai khoảng một tiếng vào ban ngày, vào lúc Ba rảnh để Ba có thể đạp xe đạp đi theo từ xa "giám sát tình hình". Cứ như vậy, mọi chuyện rất là êm xuôi, ông bà Nội đang đi dạy ở Quảng Bình không hề hay biết, vẫn tưởng cả con trai lẫn con gái còn hồn nhiên, ngây thơ chưa vướng vào "đường vào tình yêu có trăm lần vui có vạn lần buồn"

Rồi Ba nhập ngũ ở trường Võ khoa Thủ Đức, không còn ai "giám sát" cô Linh trong những ngày trọ học ở Huế. Ông bà Nội vẫn không biết "sự tình" nhưng không muốn con gái trọ học một mình mà không có người "giám sát" nên "triệu hồi" cô Linh về nhà, tạm nghỉ học một năm; chờ năm tới, chú Kiên đủ tuổi vô Quốc Học, hai chị em sẽ ra Huế trọ học với nhau. Quan niệm thời đó, đàn bà con gái được học lên Trung học là "đạt yêu cầu", học sớm hay muộn không phải là chuyện quan trọng

Ông bà Nội rất phong kiến, dạy các con theo kiểu "quân xử thần tử, thần bất tử, bất trung. phụ xử tử vong, tử bất vong bất hiếu" nên cô Linh buồn bã về lại Quảng Bình trong khi cả trái tim đã để lại ở Huế.

Một năm trời qua rất nhanh, chú Kiên đậu vô Quốc học, cô Linh vui vẻ trở lại Huế học tiếp, mặc dù vì nghỉ một năm nên bị học dưới bạn mình một lớp. Chú Kiên được ông bà Nội dặn dò và "huấn luyện" kỹ luỡng để luôn luôn là "tai mắt của ông bà Nội ở Huế" coi chừng cô Linh, nhưng chú còn nhỏ, ham chơi nên cô Linh thấy thoải mái hơn thời còn trọ học với Ba.

Cô và người bạn trai đã hò hẹn kiểu thập niên 50 của thế kỷ hai mươi, nghĩa là mỗi lần cô tan học, anh sinh viên Y khoa ở Huế ngồi trên chiếc velo solex bên kia đường như đang chờ đón ai, thật ra là chỉ để thấy cô Linh ra trường, bốn mắt chạm nhau từ một khoảng cách cả trăm thước, nhưng với thời đó ở Huế (một thành phố bảo thủ, ngay cả người gánh đậu hủ đi bán rong cũng mặc áo dài) là cả một cuộc hẹn hò, và đã được gọi là "can đảm". Không biết đó có phải là tình yêu không ? Nhưng nhìn nhau hằng ngày mà hai người không dám nói với nhau một lời nào!

Rồi anh sinh viên Y khoa ra trường và đi thực tập chuyên môn ở bệnh viện Chợ Rẫy (Sài Gòn). Tưởng là "tình đã bay xa" nhưng không biết duyên nợ từ kiếp nào, hơn 5 năm sau, qua một người quen mai mối, ông bà Nội bằng lòng gã cô Linh cho con trai một người bạn ở Huế.

Đến ngày đám hỏi, cô Linh mới biết được mặt hôn phu của mình. Và "đời bỗng đẹp như mơ", khi người đó đúng là anh sinh viên y khoa ngày xưa vẫn đứng ở trước cổng trường Đồng Khánh. Chuyện tưởng như mơ, vậy mà hạnh phúc màu hồng có thật và nằm trong tầm tay với của hai vợ chồng cô Linh.

Lấy nhau không lâu, chú Đạt, chồng cô Linh, bị động viên, và trở thành Bác sĩ Quân y. Chú đổi về Nha Trang, làm việc ở Quân y viện Nguyễn Huệ, và ba đứa con lần lượt ra đời ở căn nhà gần biển có mùi vị của đại dương pha lẫn mùi vị của hạnh phúc. Ngoài công việc ở quân y viện, mỗi tối chú vẫn làm việc ở phòng khám tư đặt ngay ở một góc vườn của cô chú. Những bệnh nhân nghèo thường được chú khám miễn phí và đôi khi cho cả thuốc mà chú vẫn được các dược phòng gởi biếu.

Chiến tranh càng khốc liệt, mỗi ngày rất nhiều thương bệnh binh được đưa về quân y viện, chú càng bận rộn, thường về trễ hơn giờ giấc bình thường. Nên người đến khám bệnh ở phòng mạch tư, đôi lúc phải ngồi chờ chú cả tiếng đồng hồ ở một góc vườn nhà của cô chú.

Có lần, cô Linh đi chợ về, tay xách giỏ, đầu đội nón lá, ăn mặc rất giản dị. Một người ngồi chờ ở phòng đợi dành cho bệnh nhân đến hỏi cô:

- Chị ơi, khi nào Bác sĩ về vậy chị"

Cô trả lời:

- Dạ tôi không biết.

Ông bệnh nhân hỏi tiếp:

- Có bà Bác sĩ ở nhà không vậy chị"

Cô điềm tĩnh trả lời:

- Dạ có, ông cần chi không ạ"

- Chị có thể cho tôi gặp bà bác sỉ được không "

- Dạ được, ông chờ cho một phút.

Cô đi vào ngã sau, và cho người nhà ra mời ông ta vào phòng khách. Gặp cô, người khách rối rít xin lỗi vì thoạt đầu thấy cô với cung cách giản dị, ăn mặc xuềnh xoàng, không phấn son như là đa số những "bà bác sĩ" khác, người ta đã tưởng cô là nguời giúp việc trong nhà. Cô cười nhũn nhặn:

- Dạ không có chi. Lâu lâu vẫn có người lầm như vậy.

Ba người con của cô chú đều thông minh, sáng sủa. Hạnh phúc lấp lánh, rạng rỡ phản chiếu trong ánh mắt của cô chú. Nhưng hình như hạnh phúc càng toàn hảo thì càng mong manh nên có lần ngồi bên nhau, chú chỉ cho cô thấy một vết bầm đỏ ở đùi của chú và thì thầm với nét đăm chiêu:

- Vết này cứ nằm ở đây hoài, y học chưa chữa lành được đâu.

Tưởng chỉ là những chia xẻ của chú về những vui buồn trong công việc hằng ngày. Không ngờ chỉ một tháng sau đó, vào khoảng giữa năm 1971, chú vĩnh viễn ra đi rất đột ngột, bỏ lại vợ đẹp con ngoan, vì bệnh ung thư máu.

Nỗi đau bất chợt và lớn đến nỗi cô Linh mất cảm giác. Suốt những ngày tang lễ, cô không có một giọt nước mắt, mặt mày thất thần. Cả bên nội lẫn bên ngoại đều sợ Cô bị bệnh thần kinh khi thành góa phụ ở tuổi 32 hết sức bất ngờ. Ba người con của cô chú thì ngược lại, vì nhỏ qua, không hiểu được nỗi đau mất cha nên vẫn cười đùa trong tang phục. Hai con trai của cô còn ngây thơ dùng gậy chống làm kiếm đánh nhau, như trong truyện tranh, bên quan tài của cha.

Từ nhà cô chú đến nghĩa trang nơi chú yên nghỉ ngàn đời dài hơn mười lăm cây số nhưng có nhiều lần cô Linh đi bộ một mình từ nhà ra thăm mộ chú đang trong giai đoạn xây cất rồi đi bộ về, tổng cộng gần ba mươi cây số, dài bằng khoảng cách giữa Sài Gòn và Biên Hòa, vẫn trong y phục đơn sơ và chiếc nón lá. Điều duy nhất khác đi là cái quai nón nhung đỏ đã được thay bằng một dãi vải sô trắng.

Một lần, đi thăm mộ chú về, giữa trưa trời nắng chang chang, cô vẫn đi không mỏi mệt, người cùng đi với cô hôm đó là chị Thuần, một người giúp việc nhà cho cô chú từ khi cô chú mới lấy nhau, than mệt. Cô và chị Thuần đứng lại ở một quán nước bên đường . Cạnh bên quán có một ông thầy bói. Chị Thuần rủ cô Linh đặt quẻ coi bói. Ông thầy bói nhận tiền quẻ, nói năm điều ba chuyện, rồi nhìn thấy cô Linh còn trẻ đẹp, ông thầy bói đoán:

- Số bà được hưởng phúc lộc từ chồng.

Ngồi bên cạnh, chị Thuần buột miệng:

- Thầy của tui vừa mới qua đời. Còn đâu phúc lộc mà hưởng !

Ông thầy bói lại đoán tiếp:

- Bà sẽ lấy chồng lại một lần nữa.

Vẫn im lặng từ đầu, khi nghe đến đây, cô Linh buộc miệng:

- Nếu phải đi bước nữa, chắc là tôi lấy ông chứ không lấy ai khác!

Rồi kéo tay chị Thuần đứng lên đi về. Chuyện nghe kể như là chuyện tiếu lâm kiểu ca dao dân gian Việt Nam

"Chỉ tay xem bói cho người.

Số Thầy thì để cho ruồi nó bu..."

Nhưng đó là chuyện thật của cô Linh, em gái ba tôi, một người đàn bà đẹp chắc là đã bị "trời xanh quen thói má hồng đánh ghen"

Từ khi chú qua đời, cô xin vào dạy ở trung tâm giáo dục Hàn Thuyên ở Nha Trang, một trường có cả nam sinh lẫn nữ sinh, từ lớp một đến lớp mười hai. Cô xin đi dạy ở đó, để có thể để mắt đến cả ba đứa con trong suốt thời gian đi học. Mục đích là vậy, nhưng đôi khi "nhân định không thắng nổi thiên định", nên khi con út của cô vừa lên lớp một thì biến cố tháng 4 /75 xảy đến, trung tâm giáo dục Hàn Thuyên cũng không còn, và các con của cô học ở hai trường khác nhau, trong khi cô lại dạy ở một ngôi trường khác.

Đầu thập niên 80s, cô Linh gởi các con của cô vượt biên cả bằng đường bộ lẫn đường biển. Nhiều long đong, vất vả, có lúc phải vào tù ra khám, cuối cùng các con cô đã đến được quê hương thứ hai, bỏ lại cô một mình ở căn nhà kỷ niệm, với phòng khám bệnh tư của chú nay đã trở thành một phòng chứa đồ đạc, những thứ đồ dùng đã có từ lúc cô chú mới lấy nhau, nhưng đã trở nên có giá trị khi mang ra chợ trời trong một xã hội chủ nghĩa mà mọi thứ đều quý!

Những ngày cô đơn đó, các con đã ở Mỹ, cô chỉ còn nguồn an ủi duy nhất là bà Nội. Bà về ở hẳn với cô từ khi chú mất. Lúc đó, lâu lâu ghé thăm bà Nội và cô, tôi vẫn thấy cô đứng lặng người trước bàn thờ chú, nhìn đăm đăm vào hình của chú, vẫn còn khá trẻ khi vĩnh viễn ra đi bỏ lại cuộc đời. Hình như cô thoát ra khỏi khoảnh khắc hiện tại để vọng tưởng về kỷ niệm. Những lúc như vậy, tôi thấy cô giống tượng "Hòn Vọng Phu" trong huyền thoại và thi ca Việt Nam.

*

Cùng tuổi con mèo như cô Linh, cô Hân là cô giáo dạy môn Quốc Văn ở trường Trung học ngày xưa của tôi. Tôi chỉ được biết Cô vài năm ở Mỹ gần đây qua cô giáo dạy sử năm lớp 7 ngày xưa nhưng quý Cô như một người thuộc thế hệ các bậc sinh thành vì Cô luôn luôn cho tôi những lời khuyên quý báu khi cần thiết.

Chúng tôi ở cùng một thành phố nhỏ của miền Bắc California. Cô Hân ở phía Nam, tôi ở phía Bắc, nhưng như vậy là rất gần ở Mỹ. Lâu lâu có những buổi họp mặt hay tiệc tùng có liên quan đến ngôi trường Trung học ngày xưa, tôi thường đến chở cô đi vì cô vẫn ngại :

- Bây giờ cô lớn tuổi rồi, phản ứng không còn nhanh nữa, cô chỉ dám lái xe đi những nơi gần nhà.

Những lần "dong ruỗi đường xa" trên xa lộ với cô, cô kể cho tôi nghe nhiều chuyện. Chuyện tôi nhớ nhất là chuyện cô đã can đảm gồng gánh gia đình một mình với bốn con thơ.

Cùng tuổi với cô Linh, cô Hân cũng đẹp và có hoàn cảnh tương tự như cô ruột của tôi. Nhà cô Hân ở ngoại ô Biên Hòa. Lúc cô đến tuổi vô Trung học, tỉnh lỵ chưa có được một ngôi trường Trung học nên học sinh muốn học Trung học phải lên trọ học ở Sài Gòn.

Học xong Trung học, cô vào Sư phạm và ra trường dạy môn Quốc văn ở các lớp đệ nhất cấp. Cô có cả "tiểu đăng khoa" và "đại đăng khoa" cùng lúc. Đám cưới của cô với một ông Bác sĩ quân y trẻ mới ra trường có rất đông những nhà văn, nhà thơ của thập niên 60s thế kỷ hai mươi ở Sài Gòn vì ba chồng của cô là một nhà văn rất nổi tiếng.

Cô cũng có những năm tháng hạnh phúc vẹn toàn. Những đứa con kháu khỉnh lần lượt chào đời khẳng định hạnh phúc toàn hảo có thật trên đời. Chồng cô được biệt phái qua làm việc ở một bệnh viện tỉnh. Ông Bác sĩ trẻ cũng mở một phòng khám tư, chắc là "mát tay" (theo lời cô) nên ngày nào cũng rất đông bệnh nhân, nhưng ngày thứ tư là ngày bệnh nhân đông nhất vì đó là ngày ông khám bệnh miễn phí hàng tuần.

Cô đi dạy ở ngôi trường Trung học tỉnh lỵ, vẫn dung dị, khiêm tốn như ngày còn trọ học ở Sài Gòn ờ trường Gia Long và trường Sư phạm. Năm đầu mới đi dạy, cô mặc áo dài trắng, đi dạy bằng xe lam công cộng chở khách, ngồi lẫn cùng các nữ sinh, người ngoài nhìn vào cứ tưởng đó là một nữ sinh lớp mười hai.

Hạnh phúc của cô đang toàn vẹn như một viên kim cương không tỳ vết thì bỗng biến thành một giọt lệ khi không may chồng cô bị bịnh ung thư máu (leukemia). Thời đó, y học chưa phát triển như bây giờ, nên ông bác sĩ trẻ cũng ra đi ở tuổi ngoài ba mươi bỏ lại vợ đẹp, con thơ.

Tinh thần cô hoảng loạn. Màu hồng dường như đã biến mất khỏi cuộc đời trong cái nhìn của cô Hân. Nhưng cô vẫn phải tự đứng lên, can đảm sống, sống để nuôi các con nên người.

Cô xin đổi về trung tâm giáo dục Lê Quý Đôn ở Sài Gòn, một trường dạy từ lớp một đến lớp mười hai cho cả nữ sinh và nam sinh để có thể vừa đi làm nuôi con, vừa để mắt đến tất cả các con của mình.

Tưởng là định mệnh chỉ thử thách cô đến vậy, nhưng biến cố tháng 4/75 lại đặt cô trước thử thách lớn hơn bội phần khi cô một mình mang cả bốn con thơ dại vượt đại dương.

Nói theo ngôn ngữ của truyện Kiều "trời xanh quen thói má hồng đánh ghen" nhưng vẫn chừa cho cô một lối thoát nên chỉ một lần mang con ra biển, cô và các con đã tới bờ bến tự do bình an.

Ở quê người, chỉ có mấy mẹ con, được sponsor về Michigan đầu thập niên 80s, một nơi mà cô đã kể là mỗi lần đi làm trong mùa đông, trời và đất đều phủ tuyết trắng, cô vẫn nhớ đến mấy câu thơ :

.."Mình em một màu mắt,

Mình em một màu da,

Mình em mắt lệ nhòa..."

Dĩ nhiên là cô rất nhớ bục giảng, nhớ học trò xưa, nhớ và nhớ cả một quảng đời hạnh phúc nhất đã phải bỏ lại cùng với quê nhà ở sau lưng. Nhưng bổn phận của cô vừa là cha, vừa là mẹ, -ở quê người với mọi thứ đều khác: ngôn ngữ màu da, tập quán, văn hóa...-, nặng nề bội phần. Nhiều lúc tưởng chừng như cô không đủ sức gánh gồng bổn phận nhưng cô vẫn tự khuyên nhủ chính mình bằng một truyện ngắn của nhà văn Khái Hưng "Anh phải sống".

Cô lặng lẽ nuôi con, lặng lẽ đi làm công việc tay chân nuôi các con còn ở bậc Tiểu học. Sống ở miền Đông Bắc được hai năm, cô chở bốn con nhỏ và cả tài sản trên một cái xe Wolswagen đã trên mười tuổi đi dọc theo chiều ngang nước Mỹ, từ Đông sang Tây, về định cư ở ven biển miền Tây nắng ấm, khí hậu tương tự Đà Lạt của Việt Nam. Ngày đi, đêm nghỉ ở motel 6, và ghé vào các văn phòng địa phương ở rải rác khắp nước Mỹ của AAA, một tổ chức bảo hiểm xe cộ lớn nhất ở Mỹ, chuyên cung cấp bản đồ và chỉ đường rất tường tận, cụ thể cho khách hàng mua bảo hiểm phải lái xe xuyên bang. Thời đó, đầu thập niên 80s của thế kỷ hai mươi, chưa có computer, dĩ nhiên là không có mapquest, không có GPS. Nhưng cách làm việc rất có hiệu quả, và lòng tử tế của nhân viên AAA (American Automobile Association) đã giúp một người phụ nữ Việt Nam tỵ nạn, lưu lạc xứ người đưa các con đi dọc theo chiều ngang nước Mỹ bằng xe hơi đến nơi đến chốn an toàn. Họ cũng chỉ đường cho cô đến những supermarket dọc đường để mua sữa, mua thức ăn cho các con của cô. Vừa đi, cô vừa cầu nguyện cho mấy mẹ con đi an toàn, cầu nguyện cho chiếc xe cũ đừng giở chứng, nằm vạ dọc đường. Cậu con trai lớn nhất của cô lúc đó vừa mười ba tuổi, đã là một phụ tá rất đắc lực của mẹ trong việc nhìn bản đồ, và lo cho ba đứa em dọc đường. Cứ thế ngày đi, đêm nghỉ, mấy mẹ con đến California bình yên sau gần một tuần băng ngang nước Mỹ bằng chiếc xe cũ kỷ.

Về California, với sự giúp đỡ của một người bạn, Cô Hân ổn định đời sống, đi học, thi vào làm công chức cho chính phủ tiểu bang. Cô đơn độc nuôi dạy, hướng dẫn các con đi lên từng bậc, tiểu học, trung học, rồi đại học. Cô kể lại:

- Hồi đó, ngày nào Cô cũng cho tụi nhỏ ăn thịt gà vì gà vừa dễ nấu , vừa rẻ. Ăn trưa, ăn tối, từ thứ hai đến chủ nhật , thực đơn có thay đổi mỗi ngày nhưng tất cả món ăn đều chế biến từ thịt gà. Đến nổi mãi đến bây giờ tụi nhỏ vẫn còn "sợ" thit gà. Nhưng chắc là thương Mẹ vất vả một mình nên không đứa nào nở nói ra !

Mỗi dịp Tết Việt Nam, từ mùa Đông trắng xóa ở Michigan xưa cũ đến cái lạnh se sắt có một chút nắng nhạt mỗi ngày ở California bây giờ, Cô Hân vẫn làm bằng tất cả khả năng của mình để có được mùi hương trầm ở bàn thờ ông bà tổ tiên, tập cho các con của Cô , mặc dù lớn lên ở Mỹ nhưng vẫn biết giữ được tục lệ truyền thống đón ông bà ngày ba mươi, và đưa ông bà ngày mùng ba Tết. Tụi nhỏ vui vì có được một không khí ấm cúng, những món ăn ngon lạ ngày Tết , nhưng đó là những ngày cô Hân buồn nhất khi nghĩ đến thân xác chồng ở một góc quê nhà không ai hương khói.

Vài năm gần đây, Cô về hưu, làm tròn bổn phận với cả đất nước lẫn gia đình. Không ai có thể đòi hỏi thêm sự đóng góp của Cô nhưng Cô vẫn làm việc thiện nguyện mỗi tuẩn bốn tiếng đồng hồ bằng kiến thức và kinh nghiệm cùa Cô trong hơn hai mươi năm làm việc ở Mỹ.

*

Tết này, cả hai "Cô" của tôi, "hai con mèo xinh xắn rất hiền lành nhưng dũng cảm" - vẫn sống lặng lẽ bên đời từ tuổi ba mươi- đều đã có mái tóc màu muối tiêu nhưng nét đẹp thời xuân sắc vẫn còn phảng phất.

Bầy con của hai Cô, những em bé ngây thơ không biết gì ngày ba mất, đã trở thành những người trung niên thành công ở Mỹ. Và vì có được hai bà mẹ nuôi con một mình rất chu toàn nên họ đều rất biết ơn và rất thương mẹ, một người phải gánh vác cả hai vai trò của cả cha lẫn mẹ..

Ờ miền Đông Bắc nước Mỹ, cô Linh đã qua đoàn tụ với các con từ gần hai mươi năm qua, không còn buồn như đầu thập niên 70s khi chú Đạt mới mất. Mỗi độ Xuân về, Cô vẫn dọn mâm cơm ngày Tết rất truyền thống với những món chú thích dù hôm đó lá cuối tuần, các con cháu về đông đủ; hay là ngày giữa tuần chì có mỗi một mình Cô lặng lẽ ra vào bên di ành chú..

Ở miền Tây Nam Hoa kỳ, Cô Hân vẫn dậy sớm mỗi ngày mùng một Tết âm lịch, tự nấu nước sôi pha trà sen đậm đặc như ý chồng ngày xưa. Cô vẫn đặt cái khay có hai tách nhỏ cùng một bình nước trà lên bộ bàn ghế nhỏ cho hai người ngồi, mặc dù cái ghế bên kia vẫn bỏ trống từ gần bốn mươi năm nay.

Trong tâm tưởng của cả hai Cô- "hai con mèo đã một thời ngái ngủ trên tay anh"- vẩn quay lại cuốn phim hạnh phúc rực rỡ như hoa lá mùa Xuân. Và thời tiết băng giá màu trắng cùa đất trời mùa Đông ở Mỹ cũng chợt phảng phất màu vàng cùa hoa mai, màu xanh lá cây của bánh chưng ngày Tết, và màu hồng của hạnh phúc

Nguyễn Trần Diệu Hương

Hậu Duệ Của Bà Tú Xương

Ở ngoài nhìn vào, chúng tôi thấy Quỳnh có số khổ (nếu thật sự đời sống có số mạng? ) khổ từ nhỏ cho đến bây giờ! Nhưng Quỳnh luôn tìm thấy "hạnh phúc ở quanh đây, đâu là chuyện bất ngờ".

Quỳnh có một người anh song sinh, nhưng hai anh em chẳng giống nhau tí nào! Thạnh chỉ ra đời trước Quỳnh mười ba phút, nhưng nặng gấp rưỡi Quỳnh. Hình như Quỳnh đã biết nghĩ đến người khác và nhường nhịn từ hồi còn chưa chào đời. Quỳnh nhường cho Thạnh "ra" trước, rồi nhường luôn thức ăn từ lúc còn trong bụng mẹ cho Thạnh nên mới ra đời Thạnh đã to cao hơn hẳn Quỳnh.

Hồi còn thơ dại, học tiểu học, Quỳnh đã khác hẳn cả lớp, không chỉ ở mái tóc ngắn cũn cỡn như những ca sĩ của ban nhạc The Beatlles (mặc dù Quỳnh là con gái) mà còn khác chúng tôi ở chỗ Quỳnh vẽ rất đẹp và luôn sống trên.....mây, như trong những bức vẽ của mình.

Lên trung học, mỗi lần thầy, cô giáo dạy môn văn, gọi Quỳnh trong giờ phân tích những tác phẩm văn chương Quỳnh luôn có những ý kiến trái ngược người khác. Quỳnh còn chơi bóng bàn rất hay mặc dù thân thể Quỳnh lúc đó dẹp lép, nhỏ con, không có chút gì là một vận động viên bóng bàn cấp liên trường. Bởi vậy chúng tôi gọi Quỳnh là "Quỳnh Omega" để phân biệt với "Quỳnh Hercules" rất to con, cũng chơi thể thao rất giỏi.

Lớn lên, Quỳnh càng lúc càng khác người, nhưng cái khác người rất dung dị, dễ mến. Quỳnh chưa bao giờ đi học một trường lớp nào về hội họa, nhưng vẽ rất đẹp, và mê trường phái đầy màu sắc, rất khó hiểu của danh họa Picasso. Khi qua Mỹ, có điều kiện đầy đu,û Quỳnh vùi đầu vào thư viện vừa để học bài, vừa để tìm hiểu thêm về Picasso. Thế giới muôn màu của những họa sĩ đã tạo cho Quỳnh một nhân sinh quan càng ngày càng khác lạ. Quỳnh mê thiên nhiên và thích vẻ đẹp nguyên thủy tự nhiên. Điều đó không ngờ thành định mệnh sau này của Quỳnh.

Năm học thứ hai ở Community College, Quỳnh có một ông thầy dạy Philosophy gàn như đa số các triết gia. Ông ta đi dạy bằng xe đạp hoặc đi bộ, vì không biết lái xe hơi, và vì không muốn lái một phương tiện di chuyển phổ thông như hơn hai trăm triệu người Mỹ vẫn gọi là Dutch Pennsylvania. Ông thầy này là người Amish, thuộc dòng dõi lớp người Đức đầu tiên dân đến Hoa Kỳ từ thời nhưng người Châu Âu theo con tàu May Flower cùng Columbus đặt chân đến lục địa Bắc Mỹ. Con cháu những người Đức bảo thủ đầu tiên đó vẫn giữ cách sống từ thế kỷ mười chín, nghĩa là họ tự chế tạo đồ dùng, phương tiện di chuyển là ngựa, và vẫn giữ những nhà máy xay bằng lực đẩy của gió. Từ chối những tiện nghi mà khoa học mang đến cho nhân loại, mãi cho đến bây giờ, họ vẫn sống rất đơn giản, đạm bạc, giữa những đồng cỏ mênh mông, trên một phần đất nhỏ của hai tiểu bang Pennylvania và Wisconsin. Ngừơi Amish rất khéo tay, tuy không sống đời du mục, họ có kiểu sống quây quần như bộ lạc. Họ vẫn học hành, nhưng chỉ học hết học đến hết lớp tám, nghĩa là hết Junior High. Vì theo họ, với đời sống không cần tiện nghi do khoa học mang lại, giáo dục từ bậc trung học (High School) trở lên không cần thiết. Vậy mà, không hiểu lý do nào, ông thầy người Amish của Quỳnh lại có bằng Master về triết học. Ông ta không chịu học lái xe, mặc dù đã về sống ở một thành phố lớn, ra khỏi "lũy tre làng", bỏ lại sau lưng những nhà máy xay lúa, những cái giếng quay tay từ thế kỷ mười chín của cộng đồng Amish, những con ngựa hiền từ, nhẫn nại của người Amish từ cánh đồng này đến cánh đồng khác.

Ông thầy của Quỳnh, ở giữa thành phố lớn Dallas rất văn minh hiện đại ở trung tâm nước Mỹ, vẫn sống đơn giản như truyền thống người Dutch Pennsylvania, nhưhg lại thích học hỏi, thích đời sống khoa bảng.

Theo nguyên tắc vật lý, điện cùng dấu đẩy nhau, điện khác dấu hút nhau. Vậy mà, cả hai người, như hai điện tích cùng dấu, có nhiều điểm tương đồng: cùng tốt, cùng xem vật chất "nhẹ như lông hồng", cùng không thực tế chút nào, là ông thầy và Quỳnh đều ngầm để ý đến nhau đặc biệt. Ông thầy chú ý cô sinh viên lè phè bụi đời, tóc hoe vàng, không phải vì thuốc nhuộm tóc, mà vì nắng mùa hè khô nóng của Texas. Cô học trò chẳng giống ai, Mỹ không ra Mỹ, Tây chẳng ta Tây, Tàu cũng chẳng phải Tàu, càng không giống Việt Nam chút nào, nhưng thông minh, chăm học. Quỳnh rất thích học giờ Triết của thầy, và tìm thấy ở thầy những lời giảng từ tim óc, từ lòng yêu nghề đặc biệt, chứ không phải vì những cái paycheck mỗi hai tuần. Đời sống theo lối người Amish đâu có cần đến nhiều paycheck!

Ở giờ học đầu tiên, khi điểm danh học trò, ông thầy không thể phát âm chữ "Quỳnh" chính xác mặc dù Quỳnh đã phát âm rất chậm cho ông nghe hai lần, ông đành gọi Quỳnh với chữ tắt là "Q". Quỳnh rất thích cách gọi này, vì "Q" phát âm theo kiểu Mỹ gần giống như "cute", nghĩa là dễ thương. Đàn bà, con gái baogiờ lại chẳng thích mình được khen là dễ thương! Ông thầy lại gọi tên Quỳnh là "dễ thương", lý do đó đủ để Quỳnh nhớ ông thầy người Amish nhất trong số rất nhiều thầy cô trong những năm đại học.

Mùa học trôi nhanh, Quỳnh chuyển lên trường đại học khác, và hình ảnh của ông thầy dạy Triết cũng được xếp ở một xó nào trong ký ức đầy màu sắc của Quỳnh. Đến khi sắp ra trường, nhìn lại yêu cầu, thấy mình thiếu mất một lớp General Education, Quỳnh quay về Community College lấy thêm một lớp Micro- Economics để hoàn thành yêu cầu căn bản về kiến thức tổng quát cho bằng Cử Nhân. Học ở Commuity College vừa rẻ, vừa dễ hơn học ở hệ thống đại học 4 năm, nên Quỳnh có thời giờ ngẩng đầu ngắm trời, trăng, mây nước mỗi lần về học ở Junior College.

Định mệnh tình cờ, một lần đang ngồi ở sân vận động của trường vừa đọc sách, vừa nhìn một chút nắng vàng hiếm có của mùa đông Texas, Quỳnh gặp lại ông thầy dạy triết đặc biệt của hai năm trước. Ông thầy khoác cái cặp sau lưng như học trò, đang tản bộ trên lối đi giữa những thảm cỏ xanh chung quanh sân vận động. Thầy trò nhận ra ngay "đối tượng đặc biệt" của mình, và cùng ngồi ở những bậc thang của sân vận động, nhìn trời, nhìn đất, ban đầu nói chuyện trời mưa, trời nắng, sau đó trao đổi về nhân sinh quan rất đặc biệt của nhau.

Ông thầy kể cho Quỳnh chuyện về lại làng Amish ở Pennsylvania thăm nhà, cái quạt xay gió vẫn thân thương, bánh mì làm từ hạt lúa mì tự trồng lấy vẫn ngọt ngào, kiểu ăn mặc cổ kính của đàn bà con gái Amish vẫn còn sức hấp dẫn, nhưng tất cả đã không còn sức cuốn hút như ngày ông còn ở trong vòng rào của cộng đồng Amish.Về lại Dallas, ông luôn nhớ nhà, nhớ đời sống cô lập gần gũi thiên nhiên, nhưng trình độ của một người có bằng master không thể nào thích hợp ở một cộng đồng quan niệm trình độ giáo dục trên lớp tám là không cần thiết. Vì lẽ đó, ở nơi nào ông thầy của Quỳnh cũng thấy cô đơn, cái cô đơn của một người sống trong một cộng đồng, nhưng thấy mình không thuộc về cộng đồng đó.

Quỳnh chăm chú nghe ông thầy kể chuyện, và liên tưởng đến nhiều người Việt Nam lớn tuổi sống đời lưu vong ở Mỹ, cũng có tâm trạng tương tự tâm trạng ông thầy dạy Triết của mình.

Ở quê hương thứ hai rất nhiều người Việt Nam, nhất là những người lớn tuổi, đến Mỹ muộn màng, không còn đủ thời gian để hội nhập vào đời sống mới, luôn thấy mình đứng bên lề cuộc sống ở đất nước hợp chủng quốc văn minh, giàu có. Buồn thay, chọn lựa thứ hai của họ, đời sống ở quê nhà cũng không phải là chọn lựa hợp lý, vì về lại quê nhà, họ thấy mình lạc loài giữa cuộc sống đầy dối trá, lọc lừa, bất an ngay trên chính quê hương, nơi chôn nhau cắt rốn của mình. Thôi thì, dù sao, thấymình lạc lõng ở quê người vẫn đỡ xót xa hơn thấy mình lạc loài ngay trên quê cha đất tổ.

Tương tự như thế, ông thầy của Quỳnh chọn lựa đời sống ở Dallas, mặc dù ông vẫn luôn bỏ một phần tư tưởng hướng về làng Amish, nơi ông đã trải qua ấu thơ và thiếu thời êm đềm hạnh phúc, nơi những người thân yêu của ông vẫn hài lòng, an phận với đời sống đạm bạc, gần gũi thiên nhiên.

Từ hai khía cạnh khác nhau, ông thầy và Quỳnh đều cảm nhận được nổi cô đơn, lạc loài của một người sống không đúng chỗ của mình, nhưng không làm gì được để thay đổi tình thế. Ít nhất, họ cũng tìm được tình bạn, ngoài tình thầy trò.

Mỗi khi có giờ rảnh, Quỳnh và ông thầy lại mang giá vẽ, mang sách ra công viên. Ở đó thay vì "bên anh đọc sách bên nàng quay tơ" như trong một câu ca dao ở thế kỷ 19 của Việt Nam, ông thầy đọc sách, và Quỳnh vẽ, lúc nào mỏi mắt, họ cùng nhìn trời và nhìn nhau, thông cảm với "nổi lòng Từ Thức" của nhau.

Mùa hè, cả hai người cùng đạp xe đạp đến một góc công viên của thành phố, nơi họ vẫn ngồi vẽ, hay đọc sách.

Khi đông về, trời lạnh cóng, ông thầy và Quỳnh gặp nhau ở thư viện hay ở tiệm cà phê Starbucks. Quỳnh dịch ra tiếng Anh cho ông thầy những câu thơ của Nguyễn Khuyến "Thu ăn măng trúc, Đông ăn giá, Xuân tắm hồ sen, Hạ tắm ao" hay của Nguyễn Công Trứ "Tri túc tiện túc, đãi túc hà thời túc. Tri nhàn tiên nhàn, đãi nhàn hà thời nhàn". Ông thầy người Mỹ gốc Đức mê tít nhân sinh quan của những nhà nho Việt Nam vào thế kỷ mười chín, mê văn hóa Việt Nam, và từ từ mê luôn cô học trò cũ người Mỹ gốc Việt Nam.

Tình thầy trò của họ sau ba năm biến thành tình bạn, rồi tình yêu từ lúc nào cả hai cùng không nhớ.

Ba Mẹ Quỳnh biết chuyện, không ủng hộ, nhưng cũng không phản đối. Sinh con ra, ông bà biết tính từng đứa, nhất là Quỳnh, đứa con áp út ít nói, hiền lành, nhưng rất cương quyết trong việc bảo vệ lập trường của mình. Vả chăng, ông thầy cũ dạy Triết của Quỳnh, và là ông con rể tương lai của ông bà, khá hiền lành, lễ phép, chỉ phải tội không được tháo vát lắm. Nhưng chắc là mẫu người đó hợp với Quỳnh, vì đời sống của Quỳnh vốn đơn giản, từ thời nhỏ cho đến bây giờ. Quỳnh không phải là loại người mê vật chất, lại chịu khó, và ít để ý đến dư luận chung quanh. Nếu Quỳnh về làm dâu một gia đình người Amish, chắc là vẫn êm xuôi, hạnh phúc.

Rồi Quỳnh trở thành một thành viên không chính thức của làng Amish khi Quỳnh lấy ông thầy dạy Triết ngày xưa. Trong ngày đám cưới, cặp vợ chồng mới vẫn đơn giản, chân chất. Quỳnh không trang điểm, vẫn khuôn mặt của ngày thường, không mascara, không eyeshadow, không có cả má hồng, môi son, chỉ có một lớp lotion để giữ da khỏi khô như mọi ngày bình thường khác. Các chị của Quỳnh thuyết phục lắm, Quỳnh mới chịu đặt một vòng hoa carnation tươi lên đầu, và mặc áo cô dâu, đó cũng là cái áo dạ hội đầu tiên trong đời của Quỳnh.

Biết tính bạn học từ xưa, bay về Dallas nhân ngày "thiếp theo chàng về dinh" của Quỳnh, chúng tôi cùng không trang điểm, không ăn mặc cầu kỳ như khi đi dự những tiệc tùng, đám cưới khác. Chúng tôi muốn hòa đồng với bạn trong ngày vui nhất đời của Quỳnh như thời nhỏ dại, chúng tôi vẫn có đồng phục giống nhau thời tiểu học.

Quà cưới cho Quỳnh không phải là một tấm check có giá trị gấp ba giá trị của bữa ăn mười món ở một nhà hàng sang trọng, mà là một US saving bond mười năm của chính phủ được mua bằng tiền đóng góp của bạn học thời Tiểu học đang sống đời lưu vong ở khắp năm Châu bốn biển. Chúng tôi muốn để dành tiền cho Quỳnh để phòng khi gia đình nhỏ của bạn "tối lửa tắt đèn" về tài chánh.

Ông thầy cũ, bây giờ đã là chồng của Quỳnh, vẫn có dáng dấp Triết gia, mặt mày sáng sủa, nhưng lúc nào cũng như chìm vào hư không, ngay cả trong ngày vui nhất đời của mình.

Đám cưới xong, Quỳnh dọn về căn apartment của chồng, chỉ mang theo sách, vở, giá vẽ, hai cái vợt pingpong và một í áo quần cần thiết. Quà cáp được tặng Quỳnh bỏ lại cho ba mẹ và các em bởi vì cả hai vợ chồng đều không coi trọng vật chất.

Khi Quỳnh về thăm nhà chồng ở làng Amish, Pennsylvania, không chỉ gia đình chồng mà dân làng Amish quý Quỳnh vô cùng, vì Quỳnh là người đầu tiên trở thành một thành viên của cộng đồng Amish mà không bị "cultural shock". Ngược lại, nhà chồng và người làng Amish rất ngạc nhiên trước vẻ dung dị, dễ thương của cô dâu ngoại quốc ở một thành phố lớn, vẫn sống rất thoải mái với cách sống và tiện nghi hạn hẹp của thế kỷ mười chín.

Ở đó, một thị trấn heo hút của tiểu bang Philadelphia, Quỳnh có thể thấy được màu vàng xanh của trăng non, màu vàng cam của trăng già mỗi tháng mà không cần phải tắt hết đèn trong nhà. Ở đó, Quỳnh không thấy mệt mỏi trước những sức ép đầy bon chen của đời sống thường nhật. Và ở đó, Quỳnh thấy lại được hình ảnh tương tự những nhân vật thần thoại trong truyện cổ tích Việt Nam.

Khi ông thầy ngày xưa, bây giờ đã là chồng, muốn theo đuổi chương trình học để lấy bằng tiến sĩ, Quỳnh đồng ý ngay, mặc dù lúc đó Quỳnh sắp cho ra đời đứa con đầu lòng.

Kể từ lúc đó "Quỳnh Omega" của chúng tôi trở thành "Bà Tú Xương" ở Mỹ. Bởi vì nỗi vất vả của Quỳnh vượt trội hơn khó khăn của những bà vợ khác ở Mỹ.

Chồng không phải là loại người tháo vát, Quỳnh gánh lấy " mọi việc đàn ông" trong nhà: thay nhớt xe, thay một miếng gạch vuông bị bể từ bathtub, sơn một lớp sơn chống mục cho cái balcony bằng gỗ...Vậy mà Quỳnh chấp nhận tự tại, an nhiên, với nụ cười rạng rỡ, hạnh phúc.

Dù đời sống vật chất "không bằng chị bằng em" hai vợ chồng trông trẻ hơn tuổi nhiều. Hình như khi người ta không bận lòng với đủ thứ bill, đủ thứ statement hằng tháng, đầu óc thảnh thơi, quá trình lão hóa cũng bị đẩylui, không bành trướng nhanh chóng như đối với những người mãi mê lặn ngụp trong "cái vòng danh lợi cong cong". Cho nên hai vợ chồng vẫn giống như hình chụp trong đám cưới hơn năm năm trước.

Chồng Quỳnh trở lại trường theo đuổi chương trình tiến sĩ, chuyển từ full time sang part time, rồi nghỉ hẳn không đi làm. Quỳnh xoay sở một mình, đi làm full time, đưa chồng (vì chồng Quỳnh vãn không chịu học lái xe), đón con, nấu ăn đủ món: món Đức cho chồng, món Mỹ cho con và món Việt cho mình. Khi nào mệt quá, Quỳnh nấu một nồi soup lớn với đủ thứ còn lại trong tủ lạnh, gọi là "international dish", vợ chồng con cái vẫn vui vẻ ngồi bên nhau "ăn để sống, chứ không phải sống để ăn."

Ngày xưa bà Tú Xương "quanh năm buôn bán ở ven sông, nuôi đủ năm con với một chồng" , ngày nay Quỳnh chỉ phải nuôi một con với một chồng nhưng nếu so sánh thi hai nỗi vất vã chắc cũng thuộc loại "bên tám lạng, bên nửa cân". Khi chúng tôi "ngả mũ chào thua" về sự đảm đang, có thể sánh ngang hàng bà Tú Xương của Quỳnh, bạn vẫn cười tươi, đưa ra lời giải thích của một tín đồ Thiên Chúa giáo ngoan đạo:

- Có lẽ tại tao thích "vác thánh giá", dù nặng nề, nhưng nếu mình vác nổi thì hạnh phúc vô cùng.

Cứ tưởng tượng Quỳnh xoay như chong chóng cả ngày với đủ thứ công việc: ở sở, ở nhà, đưa chồng đến trường, đưa con đi trung tâm giữ trẻ, rồi đón cả hai về nhà vào cuối ngày, chúng tôi phục sức làm việc và tấm lòng cùng khả năng chịu đựng của bạn, vậy mà Quỳnh vẫn cười tươi, vẫn an nhiên hạnh phúc, và vẫn sản xuất "babies" đều đều. Đến khi chồng Quỳnh xong Tiến sĩ, phải mất gần một năm sau, anh ta mới xin được việc làm hợp với khả năng của mình. Cuộc sống khá hơn vì có hai nguồn thu nhập, nhưng vợ chồng Quỳnh vẫn sống giản dị, vẫn không màng đến vật chất. Lúc này, đến phiên chồng Quỳnh trở thành " bread winner" trong gia đình, bạn của chúng tôi may mắn hơn bà Tú Xương ngày xưa. Gia đình nhỏ của Quỳnh vẫn quay về làng Amish mỗi năm một lần. Trong tủ quần áo của Quỳnh ngoài áo dài Việt Nam với khăn vành để mặc vào dịp tết âm lịch còn có lễ phục của phụ nữ Amish với mũ đội đầu vào dịp lễ Thanksgiving. Và con của Quỳnh được dạy theo cả hai văn hóa Việt Nam và văn hóa của người Dutch Pennsylvania. Giống hệt bố mẹ, con Quỳnh không mê tivi, mê chơi game như các bạn cùng tuổi, mà mê thiên nhiên, mê đọc sách, thích vẽ và thích những trò chơi ngoài trời. Điều đặc biệt là cả hai "tác phẩm" của vợ chồng Quỳnh đều nói rất thông thạo cả ba thứ tiếng Mỹ, Việt và Đức.

Mỗi lần có dịp ghé Dallas thăm Quỳnh, chúng tôi vẫn đùa mình đang trở về với thế kỷ 19, mặc dù nhà Quỳnh vẫn có đủ phương tiện của Thế kỷ 21, có đủ computer, fax machine và cả plasma tive (chỉ để coi chương trình discovery và PBS, chương trình giáo dục cho trẻ con ở Mỹ) Không giống như hầu hết đàn bà, con gái ở Mỹ, Quỳnh không thích shopping, không thích ăn ngon, mặc đẹp, mà quan niệm chỉ nên ăn đủ no, mặc đủ ấm, giống hệt ông chồng người Amish. Hai vợ chồng cùng coi vật chất nhẹ tựa lông hồng, cùng tránh xa "cái vòng danh lợi cong cong" cùng biết theo lời dạy của văn hào Dale Camegie và dịch giả Nguyễn Hiến Lê "quẳng đi lo đi để vui sống" nên năm tháng trôi qua, vợ chồng Quỳnh vẫn vậy, vẫn giống như ngày họ mới gặp nhau, dù vẫn ở trong khu apartment gần nơi làm việc để chồng Quỳnh có thể đạp xe đến sở làm.

Khi kỹ thuật hi- tech ở Mỹ lên đến đỉnh cao, và phải tuột dốc như quy luật chung "what goes up, will be down", Quỳnh bị mất việc.

Chẳng những không buồn, Quỳnh còn vui vì có dịp trở lại trường học, học về hội hoạ, và hoàn tất chương trình Cao học về Information System Technology. Trời thương, chồng Quỳnh vừa được ký hợp đồng giảng dạy ba năm với một trường Community College, nên Quỳnh vẫn trẻ trung, an tâm khoác cặp trở lại trường học, an tâm "dùi mài kinh sử" full time thêm hai năm nữa để lấy bằng cao học.

Mỗi sáng, Quỳnh chở hai đứa con đến trường tiểu học bằng chiếc Volvo cũ kỹ rồi đến lớp học của riêng mình, không phải là "con đi trường học, mẹ đi trường đời" như trong ca dao Việt Nam, mà cả mẹ lẫn con đều được đến trường học. Chiều về Quỳnh tất tả đón con, đón chồng rồi về nhà nấu ăn, lo cơm tối tươm tất, lo sẵn thức ăn trưa ngày mai mang theo cho chồng, cho con và cả cho mình.

Có lần cả gia đình Quỳnh qua Đức thăm quê xưa của nhà chồng. Chuyến vacation chỉ kéo dài hai tuần, nhưng đủ để Quỳnh ghi lại nhiều nét đẹp thiên nhiên của quốc gia đã nổi tiếng với bức tường ngăn đôi Đông và Tây Bá Linh thời chiến tranh lạnh trên những bức phác thảo của mình.

Người Châu Âu vốn chăm chút cách ăn mặc hơn người Mỹ, vợ chồng Quỳnh lại là một trong những người Mỹ ăn mặc xuề xoà nhất, nên nổi bật giữa những người Đức cao to ăn mặc chỉnh tề. Hơn nữa như từ thưở nào, Quỳnh luôn dẹp lép, gần như chỉ có da bọc xương, mà không hề có mỡ (body fat của Quỳnh chắc chưa đến 1%), không thể tìm được áo quần vừa với khổ người, nên trông giống như dân Hipppies của thập niên 70. Lâu lâu bị các chị càu nhàu về chuyện ăn mặc không được "mode" lắm, Quỳnh biện luận rất dễ thương, tuy không thực tế chút nào:

- Ở Mỹ, áo quần cho đàn bà con gái, số nhỏ nhất là số zero, cũng quá rộng đối với Quỳnh. Khi nào người ta sản xuất áo quần số âm, bảo đảm em sẽ ăn mặc không thua tài tử Hollywood.

Mỗi khi gặp phải quá nhiều "stress", quá nhiều áp lực từ đời sống, chúng tôi vẫn bảo nhau cố gắng giản dị như Quỳnh, nhìn đời qua lăng kính màu xanh, và cố tránh xa mọi cám dỗ vật chất thường tình, nhưng thật ra làm được điều đó không phải dễ đối với mộ người bình thường. Quỳnh làm được, và rất hạnh phúc vì Quỳnh là "Quỳnh omega" là một hậu duệ tuyệt vời của bà Tú Xương, của những người hiền phụ Việt Nam suốt đời hy sinh cho chồng con, cho người khác, màkhông hề nghĩ đến mình. Quỳnh còn khuyên chúng tôi (nghe quen quen như một philosopher nào đó đã viết trong sách):

- Cứ sống như hôm nay là ngày cuối cùng trong đời của mình, như vậy sẽ không phải nhọc lòng bon chen, không phải sa sút tinh thần khi thấy mình chưa bằng ai. Càng chạy đua theo vật chất, càng tự làm khổ mình, và dễ lên "lão làng" trước thời hạn!

Giữa Dallas dập dìu của Texas, Quỳnh vẫn thấy được thời thơ dại êm đềm ngày còn nhỏ ở quê nhà, mà không cần phải vận dụng nhiều đến ký ức và trí tưởng tượng như chúng tôi. Chồng Quỳnh vẫn thấy được cái hoang sơ êm đềm của cộng đồng Amish ở một làng quê xa xôi hẻo lánh của Pennsylvania, hai đứa con nhỏ của họ vẫn thích chơi thả diều, có tiếng sáo diều vi vu, hơn là chơi game. Và như vậy, phải chăng hạnh phúc đâu có cầu kỳ và khó tìm như người ta vẫn nghĩ ?

Nguyễn Trần Diệu Hương

(Đầu năm 2005- Viết cho TH, hoa hồng vàng của Texas)