- Cầu Vồng Giữa Mùa Hè
- Gió Đông Ở Trời Tây
- Chuyện Từ Trường Việt ngữ
- Chuyện Mùa Valentine: Hoàng Thu
- Góp Một Bàn Tay Cho Mùa Bầu Cử Mỹ
Cầu Vồng Giữa Mùa Hè
Trong mỗi câu chuyện với tôi, bao giờ bà Meena cũng có thành ngữ "IN my day" (diễn giải bằng tiếng Việt là thời của tôi, hồi đó, thời trước…). Tôi vẫn bỏ ra mười phút mỗi tuần nghe những câu chuyện 'in my day" của bà, mà liên tưởng đến những người già Việt Nam ở Mỹ vừa hoài vọng những ngày xưa cũ, vừa để một phần tâm hồn ở bên kia bờ Thái Bình Dương.
Bà Meena trở thành "bạn" của tôi sau gần sáu tháng tôi sống ở đường McComick. Sự riêng tư gần như tuyệt đối ở Mỹ và đời sống bận rộn không làm hàng xóm có một mối thân tình "bà con xa, xóm giềng gần" như trong những xóm nhỏ ở đô thị, hay những làng quê bên lũy tre xanh của Việt Nam.
Tôi chỉ biết về đời sống ở quê hương thứ hai của mình bằng hiện tại và tương lai nhiều hơn là quá khứ, cho đến khi tôi thực sự là bạn của bà Meena một "người bạn lệch tuổi" theo như cách viết của nhà văn Hà Thúc Sinh.
Ngày chúng tôi dọn đến căn nhà ở góc đường, ngày đứa đầu tiên trong mấy chị em thực hiện được "giấc mơ Hoa Kỳ" và bắt đầu hiểu nỗi lo toan của mortgare mỗi tháng, bà hàng xóm ở phía đối diện đang làm vườn trước sân cỏ bên kia đường. Một lúc nghỉ tay nào đó, bà ngẫng đầu lên và chỉ cười xã giao "Hi" với chúng tôi như để làm quen với những người hàng xóm mới. Quán tính Việt Nam "kính lão đắc thọ" làm chúng tôi vừa mở miệng chào lại bà, vừa giơ tay dở cái mũ đang đội trên đầu xuống. Chắc là bà Meena không hiểu phong tục của những di dân với văn hóa Đông phương, nhưng chúng tôi làm điều đó như một "phản xạ tự nhiên" khi chào một người ở thế hệ lớn hơn.
Bên kia đường đối diện nhà chúng tôi là nhà bà Meena một bà cụ người Mỹ trạc tuổi mẹ chúng tôi, có một mái tóc bạch kim bồng bềnh. Nhiều lúc tôi vẫn tự hỏi có bao nhiêu sợi bạc vì tuổi tác và bao nhiêu sợi trắng vì đó là màu nguyên thủy từ DNA của bà" Lối xưng hô của người Mỹ rất là tổng quát, chỉ có "you" cho người đối diện, bất kể người đó ở tuổi nào hay ở giai cấp nào của xã hội nên chúng tôi không phải phân vân nên gọi là Meena bằng "cụ, bà, bác hay cô" như khi nói chuyện không phải với người đồng hương lớn tuổi.
Lúc đầu, bà Meena chỉ giữ tình hàng xóm rất chừng mực, khách sáo có lẽ để thăm dò và phán đoán chúng tôi. Đến khi chúng tôi sơn lại căn nhà màu trắng, và thay mái nhà đã "ngã màu rêu phong" bằng một mái ngói mới và tu sửa lại những nét điêu tàn mà người chủ, không hiểu vì gặp chuyện buồn trong công ăn việc làm hay trong đời sống gia đình mà không hề săn sóc căn nhà từ gần cả năm trước ngày bán cho chúng tôi, bà mới tỏ ra là một người hàng xóm thân cận với chúng tôi. Mỗi sáng thứ bảy, chúng tôi cặm cụi cắt cỏ, làm vườn và trồng thêm những bụi Lilly cùng hàng hoa hồng đủ màu sắc. Góc đường Mc Comick và Springfield chợt rực rỡ hơn, những người hàng xóm đi bộ hoặc lái xe đi ngang đều chào hỏi chúng tôi niềm nở. Riêng bà Meena vào một sáng thứ bảy chúng tôi đang làm vườn như thường lệ bà chạy qua tận tình chỉ bảo chúng tôi cách chăm sóc vườn tược hoa cỏ. Bà còn niềm nở mời chúng tôi ra thăm sân sau nhà bà, một khu vườn nhỏ được ngăn làm hai: một bên là chỗ đọc sách giữa trời của bà, bên kia là những viên đá đủ cỡ, đủ màu, nhặt nhanh từ khắp nơi trên thế giới, những quốc gia mà ông bà từng đặt chân đến.
Người già thường sống ở quá khứ. Cho nên, bà Meena rất hào hứng khi kể với chúng tôi về những cuộc du ngoạn cùng chồng khi ông còn sinh thời, về thành phố Santa Clara hãy còn vắng vẻ, đìu hiu ngày ông bà mới lấy nhau và mua một trong những căn nhà được xây dựng đầu tiên trên đường McComick. Hồi đó, đời sống không văn minh như bây giờ nhưng dưới cái nhìn của bà Meena người ta quý trọng và để ý nhau nhiều hơn, đời sống đỡ bất an hơn. Hồi đó, không cần phải vẽ hình con mắt ở lề đường với chữ "neighborhood watch" mọi người vẫn tự động coi ngó nhà cửa cho nhau và bất cứ một người lạ khả nghi nào lãng vãng đều được thông báo cho cảnh sát địa phương.
Lý do chính để bà Meena quý chúng tôi không phải vì chúng tôi lễ phép và lịch sự với bà mà là vì bà thích nói về một thời hào hừng của người chồng quá cố trong chiến tranh Việt Nam và chúng tôi cũng thích tìm hiểu về giai đoạn đó. Vì vậy cả bà Meena lẫn chúng tôi đều coi đi, coi lai ít nhất là 3 lần phim "Forrest Gump" có một cái lông chim màu trắng bay phất phới ở cảnh đầu và cảnh cuối, phản ảnh nhân sinh quan "đời nhẹ tựa lông hồng" và quan niệm Phật giaó "cuộc đời sắc sắc, không không". Phim có cốt truyện hay lại càng tuyệt vời hơn nhờ tài diễn xuất của Tom Hanks tài tử của mọi thời đại, mọi lứa tuổi đã mang chúng tôi về thời kỳ "in my day" của bà Meena.
Bà phân tích chiến tranh Việt Nam, nói về những cuộc biểu tình phản chiến ở rất nhiều tiểu bang trên nước Mỹ, đặc biệt là ở thủ đô Washington DC, không thua Peter Jennings của ABC, hay Tom Brokaw của NBC. Là vì ông Jeff chồng của bà Meena đã trải qua sáu năm của thời trai trẻ ở Việt Nam. Sáu năm đó đầu thập niên sáu mươi, bà Meena phải vò võ nuôi con một mình như hình ảnh người đàn bà Việt Nam trong "Chinh phụ ngâm" của Đoàn Thị Điểm.
Nhịp sống thời đó còn chậm, không tất bật như bây giờ nên bà có thì giờ theo dõi qua màn ảnh truyền hình màu, lúc đó màu sắc hãy còn nhợt nhạt thô so hình ảnh những người lính Mỹ ở quây quần trong những trại lính ở VN, hay đang mang vác súng đạn đầy mình trong một khu rừng nào đó ở một đất nước nhỏ bé, xa xôi ngàn dặm có mưa nhiệt đới, có những cánh rừng U Minh đầy muỗi.
Lúc đó, chưa có email, điện thoại xuyên đại dương giá rất cao và chất lượng âm thanh không được tốt, ông lại là một người lính nay đây mai đó, nên bà chỉ có tin chồng qua những tấm postcard hay qua những bức thư viết vội vã với đầy lời thương nhớ dành cho bà và cậu con trai chưa đến tuổi vào mẫu giáo.
Bà Meena cùng nhiều người vợ lính khác đã rất phẫn nộ khi cô đào Jane Fonda, chỉ biết một mà không biết mười, ra thăm Hà Nội và trở về Mỹ châm lửa thêm cho những cuộc biểu tình phản chiến của những người Mỹ biết nhiều thứ nhưng rất là ngây thơ, mù mờ với chủ nghĩa CS. Có một lần, bà Meena gởi con cho bà ngoại cùng hai người vợ lính khác bay qua tận Virginia để chào đón những quan tài đem về từ Việt Nam được an táng ở nghĩa trang quốc gia Arlington và để vinh danh những người lính mãi mãi không quay về.
Đúng như truyền thống tự do tuyệt đối, bà Meena cùng những người vợ lính khác cũng đeo nơ vàng (biểu tượng của sự chờ đợi) cũng nói lên tiếng nói của những người vợ lính bằng một cuộc biểu tình ủng hộ những thanh niên Mỹ trẻ "gác bút nghiên lo việc đao cung". Nhưng vì một lý do nào đó, ống kính truyền hình và máy ảnh của các phóng viên nhà báo vẫn tập trung ở những cuộc biểu tình phản chiến nhiều hơn (hình như đó cũng là điều rất là bất hạnh của đất nước Việt Nam). Không một ai ở Capital Hill bỏ thì giờ và tiền bạc "lobby" cho một đất nước nhỏ bé, xa xôi nên quốc hội Mỹ cắt viện trợ cho miền Nam trong khi Tàu và Nga vẫn cung cấp đầy đủ lương khô và súng đạn cho miền Bắc, đẩy Việt Nam vào "vận nước nổi trôi".
Bà Meena kể lại là bà cũng không biết nhiều về chiến tranh Việt Nam lắm và cũng rất là đau lòng trước những chiếc quan tài bọc kẽm có phủ cờ Hoa Kỳ. Nhưng bà tin điều ông Jeff làm là đúng. Cũng vì vậy, cô sinh viên Meena son trẻ của thập niên năm mươi đã lấy chàng Jeff từ trường võ bị West Point thay vì chọn những thanh niên khác, tốt nghiệp từ trường Princeton toàn "con nhà giàu, học giỏi, đẹp trai" hay trường Yale lẫy lừng khắp thế giới chuyên đào tạo những nhà lãnh đạo cao nhất của nước Mỹ. Ngoài tình yêu dành cho ông, bà còn kính trọng và tin tưởng những điều ông làm là đúng. Chúng tôi quý bà Meena nhất ở điểm này, vì thấy bà rất gần với hình ảnh những người đàn bà Việt Nam đầy khí tiết và chung thủy không hề "tham phú phụ bần".
Khi hiệp định Paris ký kết năm 1973 ông Jefftừ Việt Nam trở về, hình dáng bên ngoài vẫn lành lặn nhưng bên trong một mẫu đạn nhỏ vẫn còn nằm đó nên mỗi lần trời trở lạnh, cột xương sống của ông lại hành tội cả ông lẫn bà. Làm xong nhiệm vụ của một công dân Hoa Kỳ khi đất nước cần, ông rời bộ quân phục trở lại đời sống dân sự bình an, tiện nghi của đất nước giàu nhất thế giới. Họ dồn hết vốn liếng và trợ cấp của quân đội cấp cho ông khi ông giải ngũ, mở một trạm xăng chỉ cách nhà không đầy hai miles. Trạm xăng đó bây giờ vẫn còn nguyên tên cũ, mặc dù đã đổi chủ ít nhất hai lần.
Không cần phải nói, bà Meena luôn luôn đổ xăng ở trạm xăng đó, không phải vì đó là trạm xăng gần nhà nhất, mà còn là dịp để nhìn lại những thay đổi kể từ ngày "in my day" nhìn lại một cơ ngơi mà thấp thoáng đâu đó vẫn còn hình ảnh của người chồng quá cố, can cường với kẻ thù, nhưng rất dịu dàng với vợ con, bạn bè và hàng xóm.
Theo lời bà, bước đầu mở một cơ sở thương mại không có nhiều vốn liếng, ông bà đành thay phiên nhau ra đứng bán ở trạm xăng. Dạo đó không có hệ thống trả tiền bằng thẻ credit hay the Debit tự động ở cột bơm xăng. Thế nên, lúc nào cũng có khách vào trạm xăng nếu không để trả tiền mua xăng thì cũng để mua lon nước ngọt, tấm bản đồ, bao thuốc lá, chai nhớt….hay chỉ để hỏi đường ra xa lộ. Ông bà tất bật cả ngày, có khi phải để cô con gái thứ hai, chào đời sau ngày ông trở về từ Việt Nam chơi trong góc phòng chứa hàng ở góc tiệm. Khi trạm bán xăng khấm khá hơn họ thuê ba nhân viên thay phiên nhau làm mở tiệm xăng 24 tiếng mỗi ngày, chỉ có ông ra cơ sở thương mại mỗi ngày. Bà ở nhà bắt đầu xây dựng "viện bảo tàng chinh chiến" của ông và xây dựng "vườn tĩnh tâm" của bà.
Gọi là "viện bảo tàng chinh chiến" vì ông mang về rất nhiều thứ ở Đông Nam Á, đặc biệt ở chiến trường Việt Nam trong thời gian ông theo quân đội, phục vụ ở nhiều nước trên thế giới, từ cái gạt tàn thuốc làm bằng vỏ đạn đến tấm thẻ bài, mấy cái huy chương quân đội ông nhận được, hình bán thân của ông trong quân phục với quân hàm Trung tá lẫm liệt uy nghi, hình ông chụp với Bob Hope ở Đà Nẵng trong dịp người tài tử có tấm lòng này đi tiền đồn thăm lính Mỹ vào dịp lễ Giáng sinh, hình ông chụp với xướng ngôn viên của chương trình "Good morning, Vietnam" dành cho lính Mỹ, đến những tấm hình ông chụp với các sĩ quan Việt Nam, rất dễ nhận ra ông với dáng dấp của người Tây phương cao trội hẳn…
Tôi đặc biệt chú ý đến chiếc trâm cài tóc làm bằng vỏ cây và một cây thước dài khoảng 3 inchs có khắc hai chữ "Charlie" vì những di vật của ông Jeff không những chỉ có ý nghĩa với riêng ông, được ông mang theo trong hành trang quân đội rất gọn nhẹ, mà còn giúp tôi hiểu thêm nhiều điều về VN thời chiến tranh trước năm 1975 và quý trọng ba tôi, cùng những người đã một thời chiến đấu cho cờ vàng nhiều hơn.
Bà Meena thì đặc biệt quý những viên đá đủ màu. Đến lúc cậu con trai lớn đã thành người, lập gia đình và dọn về Colorado, cô con gái nhỏ vào đại học, thấy trách nhiệm sắp hoàn thành, ông bà thuê một người quản lý trông coi trạm xăng và bắt đầu du lịch nhiều nơi. Ở mỗi nơi trên thế giới có dịp đặt chân đến bà mang về đủ loại đá đủ màu khắp năm châu bốn biển, biến mãnh vườn nhỏ của bà thành một ống kính vạn hoa vĩ đại. Nhất là về mùa hè những tia nắng mặt trời làm việc lâu hơn, chiếu qua những viên đá đủ cỡ, đủ màu làm thành một dãi cầu vòng giữa trời nắng chói chang.
Ở trong nhà, bà Meena giữ nguyên phòng làm việc của ông Jeff. Không có một thay đổi nào từ nagỳ ông Jeff vào bệnh viện sau một cơn stroke nặng (tiếng Việt gọi là đứt mạch máu não) và mãi mãi không về. Cả cái mũ baseball và cái áo Jacket màu olive ông mang về từ một thời chinh chiến, vẫn móc ở giá treo áo trong góc phòng như chủ nhân của nó vẫn ở quanh đây.
Khó tìm được một người đàn bà Mỹ chung thủy, kính yêu chồng như bà Meena. Sự kiện bà có thể tự cắt cỏ, tự làm vườn, tự thay bánh xe, thay nhớt xe được không phải là khó tìm đối với đàn bà, con gái Mỹ. Nhưng tìm được một người đàn bà Tây phương có những nét trung trinh, đôi khi hơn cả đàn bà Á Đông như bà Meena cũng khó như tìm thấy cầu vòng giữa mùa hè.
Tiếc là tôi chỉ được biết ông Jeff qua di ảnh, nhưng tôi biết đó là một người đàn ông đúng nghĩa có bản lĩnh, hiểu mình muốn gì và đủ nghị lực làm điều mình muốn. Cá tính của ông mạnh đến nổi ông đã để lại cho bà Meena rất nhiều thói quen của ông lúc còn sinh thời. Chẳng hạn, bà không hề quên việc đi xuống downtown San Jose mỗi năm dự lễ diễn hành vào ngày Cựu chiến binh của Mỹ 11 tháng 11 hàng năm, hay không bỏ sót ba lần đi bơi mỗi tuần ở hồ tắm của công viên thành phố, dù nắng hay mưa. Mỗi năm cũng vào ngày cựu chiến binh bà ghé qua nghĩa trang thăm ông và luôn mang hoa Carnation cánh trắng, nhụy vàng đặt trên phần mộ của ông, thì thầm với ông rằng "tôi cũng mới đi xem diễn hành về như mọi năm đây ông ạ! Tôi đâu có quên ông, đâu có quên những người mặc quân phục phải chịu nhiều thiệt thòi". Cũng giống như những người già ở Việt Nam, bà Meena đã chuẩn bị nơi "thác về" của mình, nằm song song cạnh ông.
Mỗi năm hai lần vào dịp lễ độc lập July 4 và lễ tạ ơn Thanksgiving hai người con của bà Meena cùng gia đình nhỏ của họ bay về thăm bà. Xem ra họ cũng rất là thương mẹ, nhưng không ai thích ngồi nghe những câu chuyện "in my day" được lập đi lập lại của bà và họ lại càng không tha thiết lắm đến "viện bảo tàng chinh chiến" của ông. Do vậy, bà Meena rất quý chúng tôi vì tuần nào chúng tôi cũng thay phiên nhau ngồi nghe bà kể lại những mẫu chuyện "In my day". Có những điều được lập đi, lập lại nhiều lần nhưng chúng tôi không thấy nhàm chán. Vì qua bà chúng tôi thấy thấp thoáng hình ảnh mẹ và những người đàn bà Việt Nam hiền phụ, vẫn chu tròn bổn phận dù phải chịu nhiều gian truân cùng vận nước nổi trôi.
Bà dạy tôi cách luộc "ravioli" không làm những viên nuôi kiểu Ý bể miệng hay nở quá to. Bà cũng dạy tôi cách chọn những trái Cantaloupe hay melon để chắc chắn có được những trái dứa Nam Mỹ ngọt ngào vừa chín tới. Đáp lại tôi chỉ bà cách làm chả giò nhân tôm, gói nhỏ bỏ vào vừa lọt trong miệng theo kiểu người Huế. Và mở thùng thư của bà, cất giữ mọi thư từ hóa đơn khi bà vắng nhà trong những chuyến du lịch cùng "Senior club" vào mùa xuân hay hè mỗi năm.
Dạo gần đây, bà Meena yếu hơn chỉ còn lái xe trên những đường phố nhỏ. Mỗi lần phải dùng xa lộ bà thường đi Taxi hay đi nhờ Shuttle Bus của những người bạn ở trong một khu tập thể cho những người già gần đó.
Có lần trong lúc làm vườn bà lỡ trượt chân chỉ là trên mặt bằng của thảm cỏ nhưng vì là người già nên chân phải của bà bị bó bột gần bốn tháng. Hai người con của bà có về thăm mẹ vào cuối tuần rồi lại bay đi, về với công việc và gia đình riêng của họ. Vốn dĩ là một người hoạt động thích sống "outdoor" và sống cả ngày trong khu "vườn tĩnh tâm" bà Meena rất bực bội khi phải ngồi trên xe lăn, chỉ nhìn được không gian bên ngoài qua khung cửa sổ. Em tôi mang cái PC cũ mà sở vừa phế thải qua cho bà. Nó cặm cụi nữa ngày mở CPU ra lắp ráp rồi mang qua gắn ở phòng làm việc của ông. Sau đó tôi hướng dẫn bà cách dùng Microsoft word và cách search internet, cách viết email. Bà Meena cũng thuộc loại người sáng dạ nên chỉ sau một ngày thứ bảy bà đã biết cách ra vào internet. Và từ đó bà càng tin yêu chúng tôi hơn. Bà cho chúng tôi một chìa khóa nhà bà nhưng chúng tôi không dám nhận, viện cớ là chúng tôi đâu có giờ vào nhà bà mỗi ngày. Và chúng tôi chỉ vào nhà bà khi có bà ở nhà.
Hai người con của bà có cho chúng tôi số phone và địa chỉ email của họ để trong trường hợp khẩn cấp bà Meena bệnh nặng chúng tôi có thể báo tin cho họ ngay. Chúng tôi vẫn giữ kỹ những dữ kiện đó trong PC, và trong "Address book" của mình, cầu mong là sẽ còn lâu, lâu lắm mới có dịp dùng đến.
Chúng tôi quý bà Meena vì rất nhiều lẽ, không phải chỉ vì bà ở gần như suốt ngày có thể trông chừng nhà giúp chúng tôi từ ô cửa sổ nhà bà, như những người hàng xóm khác vẫn nghĩ. Vả chăng, nơi chúng tôi ở là một thành phố nhỏ chưa có một vụ lộn xộn nào xảy ra. Con đường McComick lại càng bình yên hơn có những tàng cây khổng lồ che chở cả con đường như đất nước Hoa Kỳ đã chở che rất nhiều người tỵ nạn thuộc đủ quốc tịch, đủ màu da. Hơn thế nữa, khi giúp được cho bà Meena điều gì chúng tôi vẫn nghĩ đến ba mẹ ở bên kia đại dương khi "tối lửa tắt đèn" chúng tôi chưa về kịp, cũng có người giúp đỡ như chúng tôi đối xử với bà Meena.
Nếu đời sống cứ phẳng lặng trôi qua ở một đất nước bình yên, với tiêu chuẩn sống cao nhất thế giới như Mỹ, đến lúc chúng tôi bước vào tuổi của bà Meena bây giờ, những câu chuyện "in my day" sẽ bao gồm nhiều kỷ niệm ở quê hương thứ hai hơn là quê hương thứ nhất. Lúc đó "In my day" của tôi sẽ đầy vị ngọt ngào, đầy màu sắc cầu vồøng của những năm tháng sống lưu vong, nhưng buồn thay tôi biết chắc chắn vị chua cay, màu đen tối của thời mới lớn ở quê nhà sau năm 75 vẫn mãi mãi còn đó, không bao giờ nhòa.
Bởi vì, như Mandela Nelson một nhà lãnh đạo nổi tiếng, một người tù vĩ đại đã nói "Chúng ta có thể tha thứ, nhưng chúng ta sẽ không bao giờ quên".
Nguyễn Trần Diệu Hương
Santa Clara, tháng 3/04 Quà cho sinh nhật Mar 18th của Anh-NĐT
Gió Đông Ở Trời Tây
Mười sáu năm sau, chúng tôi gặp lại nhau lần đầu tiên kể từ thời thơ dại. Cô bé An Chi mắt nai, da nâu hồng duyên dáng, ngây thơ của thuở nào đã thành một thiếu phụ trung niên chững chạc, điều hành phòng mạch của mình rất thành công.
Sinh trưởng trong một gia đình chuộng khoa bảng, có bố là một sĩ quan QLVNCH, ngay từ lúc bắt đầu đi học, An Chi và các em của cô đã được dạy theo phương cách quân đội của bố "thi hành trước, khiếu nại sau". Sáu chị em An Chi sống dưới lề lối kỷ luật của bố và sự giáo dục khắt khe của mẹ: phải học hành chăm chỉ, để sau này lớn lên thành được "ông này, bà nọ" với bằng cấp, khoa bảng, để bố mẹ cô có thể "mở mặt với đời".
Khi "làn sóng đỏ" từ bên kia cầu Hiền Lương tràn vào tận mũi Cà Mau, bố An Chi đưa được cả gia đình rời Việt Nam vào những ngày cuối tháng 4 đầy hoảng loạn của Saigon. Từ Guam, gia đình An Chi được đưa về camp Fort Chaffee ở Arkansas và bắt đầu cuộc sống mới ở St. Louis, Missouri với hai bàn tay trắng.
Cả gia đình tám người ở trong một căn apartment ba phòng ngủ, một phòng tắm. Bố An Chi đi làm full time, và ban đêm ở tuổi bắt đầu mang kính lão, ông cần cù, kiên nhẫn đến trường Community college học về ngành ngân hàng, địa ốc. Cái dáng mệt mỏi của ông xuất hiện ở bãi đậu xe của trường đủ hai semesters trong năm học cũng giống như hình ảnh một con ốc sên già lặng lẽ leo dốc trong bài toán về vận tốc và thời gian ở năm cuối tiểu học, con ốc sên kiên tâm leo được 0.2 mét ban ngày, ban đêm bị rớt xuống 0.1mét. Dù biết rằng cố gắng của mình không đem lại kết quả hoàn hảo như ý muốn, dù biết rằng "lực bất tòng tâm" ông vẫn đi học để thoát khỏi công việc tay chân, và nêu một gương sáng cho đàn con đang lớn. Khi về nhà, ông mệt mỏi không còn đủ sức để ý đến các con chỉ lập lại thông điệp mỗi tuần một lần trong bữa ăn đoàn tụ gia đình rất quý hiếm vào mỗi tối chủ nhật: "các con phải học, đời bố mẹ đã trễ để làm lại từ đầu, nhưng đời các con còn dài, các con phải giúp bố mẹ có thể mở mặt với đời". Cái thông điệp được lập đi lập lại rất nhiều lần mà chị em An Chi vẫn thì thầm sau lưng ông "Biết rồi, khổ lắm, nói mãi!".
Lúc đó hình như chỉ mỗi mình An Chi và cậu em kế đang học ở Junior High là đủ sức để hiểu "thông điệp" của bố, đầu óc thơ dại của những đứa nhỏ hơn chỉ nghĩ về "Tom and Jerry", Barney hay Elmo vànhững phim hoạt họa nổi tiếng cho trẻ em.
Cũng như những ngày còn ở quê nhà, mẹ An Chi không phải đi làm. Bà ở nhà, tiếp tục nhồi nhét vào đầu óc lũ con lời khuyên phải học hành chăm chỉ đàng hoàng, để có thể có được việc làm tốt, kiếm được nhiều tiền. Là một người đàn bà đẹp, lấy chồng rất sớm từ tuổi mười tám, chưa được học xong Trung học, bước thẳng từ sự bảo bọc của cha mẹ sang sự bảo bọc của chồng, mẹ An Chi dù rất thương con, nhưng không biết cách nào "làm bạn" với con, chị em An Chi không thương mẹ như những người con khác thương người sinh ra và nuôi dạy mình nên người.
Gia đình An Chi vẫn gắn chặt với nhau, nhưng chất keo gắn những thành viên trong gia đình chỉ gắn được họ về mặt thể xác, nhưng không hòa hợp được về mặt tinh thần. Nghĩa là chị em An Chi vẫn ngoan, vẫn nghe lời cha mẹ, vẫn "đi thưa về trình" nhưng trong tâm tưởng chị em Chi chỉ sợ và biết ơn, mà hình như chưa bao giờ thương yêu bố mẹ. Đối với họ, chăm lo học hành là con đường ngắn nhất để thoát khỏi "vòng kiềm tỏa" của bố mẹ, mà vẫn sống đầy đủ trong xã hội Mỹ có tiêu chuẩn sống cao nhất thế giới.
Nếu còn sống ở Việt Nam, chắc là tình trạng không đến nỗi như vậy! Ở đây, lại là xã hội Mỹ, một xã hội Tây phương với đời sống bận rộn, phóng khoáng và tự do khác hẳn quan niệm Đông Phương. Cho nên chị em An Chi càng ngày càng xa rời bố mẹ, những con chim non chỉ sớm đủ lông đủ cánh để bay vào trời xanh, dẫu nhiều bất trắc nhưng không đơn điệu, tẻ nhạt như trong gia đình.
Học xong trung học, An Chi xin vào một trường đại học ở miền Tây, để càng xa bố mẹ càng tốt. Cô vào nội trú, và là một người "học tới nơi, chơi tới chốn". Điểm học của cô không có gì phải phàn nàn, cô không bao giờ phải lấy lại một lớp nào hai lần. Thời khóa biểu của một con chim non mới rời tổ ấm luôn luôn đầy ắp giờ lên lớp, làm bài trong lab, giờ đi thực tập, giờ đi movie và cả giờ dancing hay giờ phóng xe mui trần trên xa lộ với những người bạn Mỹ con nhà giàu, có xe sport đời mới.
Mùa hè, An Chi về lại miền Trung Tây nước Mỹ thăm bố mẹ, các em chỉ được hai tuần, rồi lại thấy nhớ cái không khí Hollywood của ven biển miền Tây. Cô nói dối phải đi thực tập hay lấy lớp học mùa hè để bay về miền Tây, sống một thời tuổi trẻ ồn ào, sôi động kiểu Mỹ. Mẹ An Chi dĩ nhiên không biết một chút gì về cuộc sống của An Chi ở UCLA (trường đại học California ở Los Angeles) luôn tự hào về cô con gái đầu lòng của mình và không biết là mình đã sai lầm trong việc giáo dục con cái, càng ngày càng đẩy lũ con xa dần bố mẹ trong tâm tưởng.
Ba An Chi, đã hội nhập đời sống Mỹ hơn mười năm, cả về đời sống của một người công nhân lao động chân tay lẫn đời sống của một người lao động trí óc, mơ hồ cảm nhận con gái đầu của mình không còn là một cô gái Việt Nam ngoan hiền theo lối Đông phương. Thế nhưng đời sống bận rộn ở Mỹ và trách nhiệm đối với bầy con đang lớn "ăn như tằm ăn rồi" và nhu cầu vật chất không có giới hạn làm ông quay cuồng và không có thì giờ quan sát, kèm cặp An Chi như thời cô mới lớn.
Vả chăng, An Chi vẫn rất thành công trong việc học, mỗi năm lên một lớp, từ năm Freshman an nhàn vừa học vừa chơi, cho đến năm senior bận rộn đầy projects, cô vẫn học hành trên trung bình, và vẫn có những phiếu điểm đầy sức thuyết phục đem về cho ba mẹ mỗi quarter và vẫn xứng đáng là một con chim đầu đàn chăm lo học hành nêu gương sáng cho bầy em đang lớn.
Với An Chi, điều duy nhất mẹ cô đúng là phải học để thành công, để có được một lối sống xa hoa của xã hội Mỹ có tiêu chuẩn sống cao nhất thế giới. An Chi không bao giờ phí tiền mua vé số, vì cô đã thấy được xác suất trúng rất nhỏ nhoi từ toán thống kê ở năm thứ ba đại học. Và hơn ai hết, cô hiểu là không thể trông mong gì ở tài sản của ba mẹ để lại cho cô, như một vài người bạn Mỹ cùng lớp. Vậy thì còn cách nào khác hơn là cố gắng học hành" Và ít nhất, với trình độ đại học, nếu không giàu có thì cũng không vất vả như ba cô, như hàng chục ngàn người Việt Nam bỏ xứ lưu vong vào cuối thập niên 70. Thời gian nan cơ cực đó đã đóng một dấu ấn không bao giờ nhòa trong thiếu thời của An Chi.
Ở tuổi hai mươi hai, An Chi đem về cho ba mẹ thành quả đầu tiên trong việc nuôi dạy đàn con: bằng đại học đầu tiên của đứa con đầu. Với chuyên ngành Micro-Bio, An Chi muốn học thêm vài năm nữa về Y khoa, nhưng cô hiểu bố mẹ cô còn đang rất chật vật với bầy em đang lớn, không thể nuôi cô đi học, mà cô thì không thể vừa đi học, vừa đi làm như những năm đầu đại học, vì càng học lên cao học phí càng cao và cũng đòi hỏi nhiều thời gian hơn, cô không thể vừa đi học, vừa đi làm như bốn năm qua. Đó là lần đầu tiên trong đời An Chi cảm nhận được nổi thua thiệt của con nhà nghèo.
Cô xin được việc làm như một research associate cho một công ty Bio-Chem ở Los Angeles. Cô không muốn bỏ nắng ấm Cali để quay về miền Trung tây êm đềm nhưng tẻ nhạt với cô. Vả chăng, anh bạn trai người bản xứ cao lớn, trắng trẻo, đẹp trai ra trường cùng năm với cô về ngành giáo dục là nguyên nhân chính để An Chi quyết định ở hẳn CA sau khi ra trường. Thêm vào đó, cóc, ổi, me, bò bía, bún ốc ở Little Saigon cũng là một hấp lực với An Chi. Nhưng lý do đưa ra với bố mẹ chỉ là lý do duy nhất, đầy sức thuyết phục, cố tìm được việc làm ngay sau khi ra trường ở Los Angeles. Ở Mỹ công ăn việc làm vẫn là yếu tố tiên quyết để mọi người chọn nơi cư ngụ.
Có một điều An Chi không dám nói và chưa biết phải "breaking news" với bố mẹ như thế nào: lối sống kiểu Mỹ rất là phóng khoáng đưa cô đến kết quả "tiền trảm hậu tấu" mà cô biết ba mẹ cô không bao giờ chấp nhận: tám tháng nữa, cô sẽ là mẹ một đứa bé mang hai hay ba dòng máu: một nửa huyết thống Việt Nam của cô, một phần tư dòng Mỹ và một phần tư gốc gác Canada của George, người tình từ năm thứ ba đại học của cô.
Ở tuổi hai mươi hai hãy còn mê ăn, mê ngủ. An Chi đã thức trắng suốt hai đêm liền, để suy nghĩ về tất cả mọi tình huống có thể xảy ra trước khi cô đi đến quyết định cuối cùng. An Chi cũng đã gặp cố vấn tâm lý ở trường, nhưng điều đó chỉ làm cô thêm can đảm khi lựa chọn quyết định của mình, mặc dù điều này sẽ làm mối liên lạc của cô với gia đình xấu đi. Vì hơn ai hết, An Chi hiểu, với truyền thống Việt Nam cổ kính bố mẹ cô sẽ không bao giờ chấp nhận tình trạng "tiền trảm hậu tấu" (hay nói theo kiểu nói nhà binh của bố "làm trước báo cáo sau" quan hệ nam nữ trước hôn nhân. Trong trường hợp này cô lại là con đầu, cái đầu tàu phải chi rõ đường đi đúng cho 5 đứa em, chắc chắn là bố mẹ cô không bao giờ chấp nhận một cái đầu tàu đi lệch hướng hay như kiểu nói của người Mỹ "black sheep" trong nhà.
May mắn là An Chi vẫn có job, một công việc với mức thu nhập tương đối cho một sinh viên mới ra trường làm đúng ngành nghề mình học và cô còn có George rất thương yêu cô và rất muốn xây dựng một gia đình mới với cô. An Chi lấy vacation để về thăm nhà một tuần trước khi mọi người có thể thấy được bằng mắt thường: bụng cô đang mang một mầm sống đang lớn dần. Cô khéo léo che đậy nên không ai trong gia đình, ngay cả mẹ cô biết là An Chi vốn rất ngoan hiền, nề nếp ngày xưa đang làm một "cuộc cách mạng" rất lớn.
Trở lại Los Angeles, An Chi cùng George chuyển về một apartment hai phòng. Chút gia giáo đông phương còn sót lại trong An Chi là cô cùng George đã làm hôn thú ở California trước khi hai người chính thức sống chung với nhau không kèn, không trống.
An Chi không dám hé môi với bất cứ ai trong gia đình, chỉ hy vọng sau khi sinh nở, khi "gạo đã thành cơm" bố mẹ cô vì thương con, thương cháu sẽ tha thứ kiểu sống Mỹ hóa của cô.
Bé Angel ra đời mang cái tên ghép giữa tên An Chi và George, chỉ mang được bà mẹ chồng người Mỹ của An Chi bay đi, bay về từ East Coast sang West Coast để thăm con, thăm cháu, mà không giúp gì được cho quan hệ giữa An Chi với gia đình. Bố mẹ của An Chi không những chỉ là những người Việt Nam, mà còn là loại người Việt Nam thủ cựu, không chấp nhận việc cô con gái đầu lòng thông minh, duyên dáng có con, có chồng mà không có đám cưới, một cái đám cưới linh đình như là một cách báo hiếu cho cha mẹ theo lối nghĩ cho một số người Việt Nam. Và cũng kể từ ngày đó, An Chi trở thành "black sheep" trong gia đình, theo như cách nói của mẹ An Chi "Coi như tôi không đẻ ra nó" lúc đó là giữa thập niên 80, bị gia đình từ chối, An Chi giữ được mối liên hệ với cộng đồng Việt Nam qua chúng tôi, những người bạn học thời thơ dại.
Lúc đó, ngoài Mai Linh ở Texas, Thanh mai ở Virginia và Minh Yên ở Paris hầu hết chúng tôi còn đang phải đắm chìm trong bóng tối mịt mù dưới chế độ cộng sản nghiệt ngã ở quê nhà. Và An Chi là người bạn duy nhất gởi những "món quà cho quê hương" về với chúng tôi ngày từ lúc cô đi làm cái job part time đầu tiên ở những năm cuối trung học. Kẹo chocolate MM đủ màu An Chi gởi về rất kích thích cái bao tử trống rỗng quanh năm của chúng tôi, kích thích cái sức ăn đang lớn của "tuổi mười bảy bẻ gãy sừng trâu" nhưng tất cả đều được mang bán ở chợ trời như mấy câu hát của nhạc sĩ Việt Dũng "gởi về cho em kẹo bánh thênh thang....em bán cho đời tìm đường vượt biển". Những món quà nhỏ nhưng đầy tình nghĩa đó, được chia năm xẻ bảy cho cả bọn còn kẹt ở quê nhà, không đủ để chúng tôi tìm đường trốn khỏi quê hương ảm đạm từ một ngày cuối tháng tư rất buồn của đất nước, nhưng đủ để chúng tôi kéo dài cuộc sống bên lề xã hội, đợi chờ ngày gặp lại An Chi, ngày được vào trường đại học ở một xứ sở tự do mà không bị "công an khu vực" chỉ mặt răn đe "có bố đi học tập cải tạo thì đừng trông mong gì đến chuyện vào đại học".
Nếu chúng tôi biết lúc đó, An Chi cũng chật vật với đời sống hẳn là không đứa nào dám nhận quà của An Chi. Đời sống thường có quá nhiều chữ "nếu" nên hình như không ai có một hạnh phúc toàn mỹ.
Mặc dù không có được một hạnh phúc vẹn toàn như tất cả mọi người may mắn trên quả địa cầu mặc dù bị bố mẹ từ bỏ một cách không chính thức. An Chi cũng đã có một hạnh phúc gia đình với chồng con ở thời gian đầu. Bé Angel bụ bẫm, dễ thương, tóc vàng mắt xanh nâu, giống hệt daddy, không có một nét đông phương, mỗi lần đi shopping với An Chi đều làm mọi người nghĩ là cô gái Việt Nam 22 tuổi chỉ là babysister mà không phải là mẹ. An Chi vẫn hạnh phúc, mặc dù đôi lúc cô vẫn thấy đó là một "hạnh phúc méo mó".
Những năm tháng sau đó, An Chi mới thực sự chạm mặt với "thực tế phũ phàng" khi những đứa con kế tuần tự chào đời gần như năm một, đứa trước nối tiếp đứa sau, tuần tự bước vào đời, thực sự lấy đi thời hai mươi đầy sức sống của An Chi. Sau này, cô vẫn là khôi hài với chúng tôi về "khả năng sản xuất" của chính mình:
-Tụi bây biết không" Angel là "điều ngạc nhiên ngoài sức tưởng tượng" An Sơn là "kết quả ngoài kế hoạch" Minh tâm là "accident" và Mai Ly là "lỗi lầm kỹ thuật".
-Vẫy tại sao mày không cố thêm hai lần "sơ suất" nữa để cung cấp đủ nữa tiểu đội bảo vệ quê hương thứ hai khi cần thiết"
Đến lúc đã có bốn con, An Chi vẫn giữ được tinh thần câu ca dao Việt Nam "ra đường người tưởng còn son, về nhà thiếp đã bốn con cùng chàng". Dù lạc quan đến đâu, An Chi cũng thấm được nỗi khổ "nhà nghèo đông con" bởi vì các con của cô được George và cô nuôi theo tiêu chuẩn Mỹ rất cao và rất tốn kém, chính phủ Mỹ cũng chỉ cho trừ thuế trong chi phí child care nhiều lắm là hai con. Hai lương đại học mới ra trường dưới năm năm của An Chi và George quá nhiều để xin được trợ cấp từ chính phủ và quá ít để thỏa mãn nhu cầu của bầy con bốn đứa. Cô quyết định quay trở lại trường học ở tuổi gần ba mươi để học thêm một nghề khác, có thể kiếm được nhiều tiền hơn, đáp ứng cho nhu cầu vô tận của gia đình mình.
Background về Bio-Chem đã giúp An Chi bước thẳng vào trường đại học y khoa mà không cần phải học pre-med. George đã ủng hộ An Chi hết sức mình, ngoài giờ dạy ở trường trung học anh đã là một Mr Mom rất xuất sắc, quán xuyến việc nhà, chăm sóc các con rất chu đáo. Nhưng bảy năm ở trường đại học Y khoa của An Chi dài đăng đẳng áp lực từ mọi phía, cả tinh thần lẫn vật chất, làm George mắc bệnh trầm cảm (depression) anh trở nên chán chường, nghi ngờ tất cả mọi thứ khả năng của An Chi và khả năng của chính anh. Am Chi rất cương quyết, hơn nữa "đã phóng lao thì phải theo lao" cô chỉ còn một năm cuối đến trường và một năm nội trú ở bệnh viện là xong "nợ sách đèn". Cô cắt bỏ mọi chi phí đến mức tối thiểu và dùng một phần "student loan" của mình thuê một bà giúp việc người Mễ, mỗi ngày tám tiếng giúp cô quán xuyến việc nhà. Hậu quả tất yếu sau đó là cô Út Mai Ly với hai dòng máu Mỹ Việt, biết nói tiếng Tây Ban Nha trước khi biết nói tiếng Mỹ và tiếng Việt và thích món Taco Bell, Fajita đầy đậu, hơn hẳn hamburger kiểu Mỹ, lần những hạt cơm truyền thống của Việt Nam.
Những năm tháng vất vả của hai vợ chồng An Chi cuối cùng cũng được đền bù xứng đáng. Ngày An Chi ra trường, chúng tôi có mặt đông đủ. Đang lớ ngớ tìm kiếm An Chi trong những tân khoa áo mũ giống nhau. Chúng tôi nghe tiếng Việt nổi lên từ một cô nhỏ người Mỹ:
- Mẹ ở chỗ này nè!
Mặc dù chưa bao giờ gặp con An Chi, chúng tôi cũng biết ngay đó là Angel, "điều ngạc nhiên ngoài sức tưởng tượng" của An Chi và George. Cũng ở ngày thành đạt đó của bạn, chúng tôi gặp bố mẹ An Chi , dễ hiểu hơn tại sao bạn chúng tôi không thương mẹ như chúng tôi, như bao nhiêu người bình thường khác. Bố mẹ An Chi có mặt ở ngày ra trường của cô để biểu lộ niềm tự hào "mình đã nuôi dạy được một bác sĩ Y khoa" mà không hề để ý đến George và bầy cháu ngoại rất dễ thương của mình. Dù chỉ là người ngoài cuộc, chúng tôi cũng cảm nhận được nỗi buồn cố hữu của bạn và hiểu tại sao bạn không thương mẹ. Dù "gạo đã thành cơm" "cơm đã được tiêu hóa" nổi cố chấp vẫn còn đó, chưa hề phai nhạt.
May mắn George là người Mỹ, anh không hiểu được hết văn hóa ở Việt Nam, lại càng không hiểu nỗi những thành kiến bảo thủ, không cảm nhận được thái độ lạnh nhạt của bố mẹ An Chi. Vả chăng, sau này anh còn phải đối đầu với những depression của riêng mình, đối đầu với những thành công của vợ, và thấy vai trò của mình càng ngày càng mờ nhạt trước mắt vợ và các con.
Sau ngày xong MD, cuộc sống vật chất của gia đình An Chi ngày càng khả quan, phòng mạch của cô tương đối phát đạt. Buồn thay, hạnh phúc gia đình An Chi tỷ lệ nghịch với thành công sự nghiệp. An Chi càng thành công, George càng cảm thấy mình thất bại. Hai vợ chồng đã đi gặp đủ mọi cố vấn từ therapist counselor đến marriage counseller nhưng buồn thay hai vợ chồng An Chi càng lúc càng xa nhau và thật sự chia lìa hai năm sau ngày cô mở phòng mạch riêng. Angel về ở với daddy "nỗi ngạc nhiên ngoài sức tưởng tượng" của An Chi đã mười hai tuổi, đủ tuổi để tự lo cho mình và lo được những việc lặt vặt trong nhà.
An Chi ở lại căn nhà cũ với ba con nhỏ. Mỗi cuối tuần, cô và George vẫn gặp nhau lúc đưa hay đón con về chơi, nhưng chỉ thăm hỏi qua loa như chưa hề có mười hai năm tình nghĩa.
Hai năm sau, An Chi của chúng tôi lập gia đình lần thứ hai, cũng "không kèn, không trống" không họ hàng thân thích. Nhưng lần này, An Chi có một tiệc nhỏ ở một nhà hàng Ý, yên tĩnh với món spaghetti rất là Nam Âu giữa Bắc Mỹ khách mới vỏn vẹn có chúng tôi, những đứa bạn thời thơ dại.
Bố mẹ An Chi cũng không chấp nhận anh con rể thứ hai, dù anh là người Việt Nam đàng hoàng có học, thương bầy con An Chi như con của chính mình. Dù buồn, nhưng An Chi đã quen với thái độ của hai đấng sinh thành và không có lựa chọn nào khác hơn.
Đời sống có nhiều điều rất khó hiểu, khó hiểu từ lúc chúng tôi còn dại khờ, chơi búp bê chơi đánh thể ở quê nhà. Những tưởng đến lúc lớn sẽ hiểu được nhiều điều, nhưng đã nửa đời người, chúng tôi vẫn không hiểu được thái độ của bố mẹ An Chi. Ngay cả An Chi bạn của chúng tôi cũng không hiểu được tại sao bố mẹ lại nỡ cư xử với mình như vậy" Đâu có phải mỗi lần dơ tay là chặt luôn bàn tay" Và nước mắt thì phải chảy xuống theo đúng định luật vật lý, phải không thưa bạn"
Nguyễn Trần Diệu Hương
Santa Clara, đầu mùa đông 2002. Viết riêng cho HDMT.
Chuyện Từ Trường Việt Ngữ
HỌC TRÒ
Ban đầu, tôi phản đối quyết liệt khi ba mẹ bắt tôi học tiếng Việt. Tôi đâu có dùng tiếng Việt thường xuyên! Ở nhà, tôi hiểu biết những điều ba mẹ muốn nói với chúng tôi. Với thằng Đôn, cả hai chị em đều thấy thoải mái hơn khi dùng tiếng Mỹ. Bạn bè Việt Nam ở trường thì nhiều đứa còn kém tiếng Việt hơn tôi nhiều, tụi nó đâu có bị cha mẹ bắt đi học tiếng Việt" Vậy mà ba mẹ cứ nhất định bắt tôi phải bỏ ra ba tiếng mỗi sáng Chủ Nhật để học tiếng Việt. Lúc đầu, tôi hết sức phản đối, sau đó tôi xiêu lòng vì câu nói của mẹ:
-Nếu con chịu đi học tiếng Việt, mỗi ngày trong năm của mẹ đều sẽ vui như ngày Mother's day.
Tôi thương mẹ lắm nên bằng lòng đi học tiếng Việt, mặc dù chỉ có được mỗi ngày chủ nhật được ngủ trễ, bây giờ lại phải có mặt ở trường từ chín giờ sáng, thật không vui chút nào! Nhưng nghĩ đến mẹ làm việc cực khổ cả tuần, ít có gì vui nên tôi đi học. Và cả ba cũng muốn tôi đi học tiếng Việt. Mỗi sáng chủ nhật, tôi vừa thò mặt ra khỏi phòng là thấy ba đã thay quần áo, tay cầm chìa khóa ngồi ở phòng khách chờ tôi và thằng Đôn sẵn sàng để chở chúng tôi đến trường Andrew Hills cách nhà khoảng 7 miles.
Năm nay tôi học lớp mười, sophomore của High school. Còn hơn hai năm nữa mới vào college, nhưng các thầy cô đã bắt chúng tôi đi nghe nhiều buổi hướng dẫn về ngành nghề về đời sống ở trường đại học, nơi mà chúng tôi rất muốn vào, mặc dù biết rằng học ở đó sẽ khó hơn, sẽ tốn tiền nhiều của ba mẹ hơn. Tôi không muốn ba mẹ phải tốn nhiều tiền, vì như thế ba mẹ phải đi làm overtime, không có thì giờ cho gia đình.
Tôi sống trong nhà, đôi khi rất cô đơn, vì ba mẹ đi cả ngày, thằng Đôn là con trai, chỉ kém tôi có hai tuổi, nhưng cao hơn tôi nhiều. Không những nó không hiểu gì về thế giới con gái của tôi, đôi lúc nó còn hỗn với tôi, nhưng tôi không mét lại ba mẹ vì tôi không muốn làm ba mẹ buồn.
Từ ngày tôi biết nấu những món ăn đơn giản, thằng Đôn chừng như "nể mặt" tôi hơn một chút. Bởi vì, cứ nói năng lộn xộn là tôi sẽ chỉ nấu canh rau muống với tôm khô, chiên trứng, rồi mở hũ cà muối ra cho dinner của cả nhà. Ba mẹ rất thích món này, còn thằng Đôn thì không có thịt, không có butter là nó ăn frozen food thay cho cơm. Đó là cách tôi "trừng phạt" thằng Đôn, mà cả ba mẹ lẫn nó không hề hay biết.
Hồi năm lớp chín, sau khi lấy lớp "Home Cooking" được A, tôi đâm ra thích nấu ăn. Thấy tôi cũng đã lớn, cao hơn mẹ gần nửa cái đầu, có thể nấu được một buổi dinner tàm tạm cho gia đình. Mẹ dạy tôi nấu một số món căn bản, dễ nấu và không tốn nhiều thì giờ. Vì mẹ vẫn khuyên tôi:
-Chuyện học là chuyện chính của con. Đời ba mẹ khổ nhiều vì đến Mỹ muộn màng, và ít học. Nước Việt Nam mình nghèo lắm, có muốn học nhiều cũng không có điều kiện như bên Mỹ này. Đời tụi con phải lo học, để đỡ cực thân!
Hồi đầu, tôi ghi lại recipe mẹ dạy tôi trong computer, mỗi lần nấu phải mở ra coi lại. Có lần cái PC cũ bị "crash" tôi không mở được file "home cooking" đành mở sách nấu món Mỹ, với cheese, salami và ham. Hôm đó, ba mẹ ăn mì gói, nhưng thằng Đôn thì thích lắm, một mình nó ăn gần hết dinner của bốn người. Dĩ nhiên, tôi thương ba mẹ hơn thương thằng Đôn, nên in ra những món chính, post ở tủ lạnh, để ba mẹ không còn phải ăn mì gói trừ cơm nữa!
Năm nay tôi lên lớp ba ở trường Việt ngữ.
Hồi mới vào lớp vỡ lòng, đi học Việt ngữ với tôi "boring" không thể tưởng. Lớp học thì đông, khoảng hơn 40 học sinh, mà hơn phân nửa là tụi con nít bảy tám tuổi. Cô giáo có một cây thước dài, chỉ từng chữ trên bảng dạy chúng tôi hai mươi bốn chữ cái của tiếng Việt, và dạy chúng tôi đọc những chữ dễ. Lớp học thì đông, tụi con nít thì chỉ chờ dịp cô giáo không để ý là mở miệng nói chuyện hay móc cereal ra nhai, bài học thì không có gì hứng thú, tôi chỉ mong đến chuông ra chơi và chuông ra về.
Chừng một tháng sau, tôi quen Stephanie. Nó cùng học lớp 9 như tôi, nhưng ở trường Independence. Nó cũng bị ba mẹ bắt đi học tiếng Việt như tôi. Từ khi thân với nó, cả hai đứa đều thấy sáng chủ nhật cũng có một chút "Fun" chứ không hoàn toàn "boring".
Rồi chúng tôi cũng xong lớp vỡ lòng, biết đọc những chữ dễ, nhưng chưa đọc báo Việt Nam được. Ấy vậy mà ba mẹ vui lắm, dẫn hai chị em đi "Chuck and cheese" ăn một bữa Pizza rất ngon miệng.
Rồi tôi tuần tự lên lớp một, lớp hai ở trường Việt ngữ. Cuối khóa thứ hai, tôi đã là "master" khi đọc báo tiếng Việt có điều tôi vẫn không hiểu hết ý nghĩa của những bài báo đó như khi tôi đọc báo tiếng Mỹ.
Càng lên lớp lớn, càng đỡ "boring" vì tôi hiểu hết những điều thầy, cô giáo nói và lớp học đã không còn tụi con nít hay ồn ào, lúc nào cũng đem đồ chơi đến lớp. Đặc biệt là khi lên lớp ba, cả cô giáo chính và thầy giáo phụ đều dạy rất hay, không phải cầm cây thước dài, mà lớp học lúc nào cũng có trật tự, vì chúng tôi thích nghe thầy, cô giảng bài.
Cùng học với tôi từ thời vỡ lòng hai năm trước, chỉ còn Stephanie và Long, chúng tôi thân với nhau nhiều vì dù gì cũng đã trải qua hơn hai năm ở trường Việt ngữ với nhau. Lớp học bây giờ có nhiều học sinh mới, tụi nó mới vào nhưng giỏi hơn chúng tôi nhiều, vì tụi nó đã học tiếng Việt ở Việt Nam, vào đây chỉ để "improve" thêm, chứ không phải bắt đầu từ lúc không biết gì như chúng tôi. Lớp ba còn có chị Chi, đã xong college, bắt đầu đi làm, nhưng vẫn đi học tiếng Việt vì chị chỉ muốn giỏi tiếng Việt như nhiều người Việt Nam khác. Trong lớp, sau thầy cô là đến chị, vì môn nào chị cũng hơn chúng tôi: Chính tả, tập đọc, tập làm văn, việt sử. Dĩ nhiên đã tốt nghiệp từ UC Berley, chị cũng giỏi hơn chúng tôi nhiều và đã làm ra tiền, chứ không sống bằng "allowance" mỗi tuần từ cha mẹ như chúng tôi.
Bạn học của tôi ở lớp ba trường Việt ngữ đa số là học sinh trung học, chỉ có hai đứa ở Junior High, và vài anh chị đang ở College. Những chuyện chúng tôi trao đổi trong giờ ra chơi đã rất là "Fun". Cô giáo cũng dạy rất hay và chừng như hiểu chúng tôi hơn những thầy cô cũ. Cô trẻ hơn ba mẹ nhiều và cũng tốt nghiệp từ college ở Mỹ nên chữ nào chúng tôi không hiểu cô dùng tiếng Mỹ, nhờ vậy mà chúng tôi hiểu bài nhanh hơn và thích học tiếng Việt hơn.
Có lần, nhân ngày lễ "Giỗ tổ Hùng Vương" cô cùng thầy Nam, dạy năm ngoái dẫn chúng tôi và học sinh lớp hai qua dự lễ ở cách trường khoảng nữa miles. Chúng tôi học được nhiều điều lạ, mỗi đứa còn được phát một hộp "Food togo" đứa nào cũng đói vì gần giờ lunch, nên ăn ngon vô cùng.
Tiếng Việt của tôi bây giờ đã khá hơn xưa nhiều, tôi có thể hiểu gần hết những bài đơn giản trong mấy tờ báo Việt Nam. Thật ra, nếu chịu khó suy nghĩ tôi còn có thể hiểu nhiều hơn, nhưng còn bài vở cả tuần ở trường Mỹ, và tôi còn phải làm việc nhà giúp mẹ. Ba mẹ vui lắm, vì gần đây, tôi đã viết được một lá thư dài cho bà nội và ông bà ngoại ở Việt Nam mà không sai chữ nào. Thật ra, tôi đã làm một bài tập làm văn với đề tài này trong kỳ thi Midterm của lớp ba và đã được cô giáo sửa tất cả lỗi chính tả.
Gần 3 năm ở trường Việt ngữ, ba tiếng mỗi chủ nhật đã giúp tôi nói tiếng Việt giống người Việt Nam hơn, hiểu gần hết báo Việt Nam và viết được những đoạn văn dễ mà không sai lỗi chính tả. Tôi còn hiểu hơn về nguồn gốc của người Việt Nam làm cho ba mẹ vui và cũng có thêm bạn mới ở trường Việt ngữ. Một năm nữa, vào college chắc tôi không có thì giờ đi học tiếng Việt nhưng tôi sẽ cố để không quên tiếng Việt, vì tôi không muốn niềm vui của ba mẹ mất đi, và tôi không muốn công lao ba năm của mình "Wasting for nothing".
CÔ GIÁO
Mỗi thầy, cô giáo có lý do riêng để đi dạy thiện nguyện ở trường Việt ngữ. Nhưng tất cả chúng tôi đều giống nhau ở chỗ cùng "yêu" con nít. Riêng tôi, tôi thích dạy lớp lớn hơn. Lớp lớn ở đây là lớp ba trở lên. Học sinh của những lớp này thường từ mười hai đến hai mươi lăm tuổi, nên đôi lúc tôi đối xử với các em như những người bạn nhỏ hơn là học trò. Phần khác, cũng như các bạn "cùng một lứa bên trời lận đận" tôi không hề có thời mới lớn, mà đã cùng "vận nước nổi trôi" bước thẳng từ tuổi thơ vào những lo toan của người lớn nên tôi thích dạy các em "teenager" vì qua các em tôi tìm lại được thời mới lớn, giai đoạn đẹp nhất của đời người.
Ngoài chương trình từ sách của trường, những hôm có thì giờ tôi còn mở rộng cho các em về những bài văn, thơ hay tôi còn giữ được trong đầu. Các em cũng có dịp biết về Nguyễn Du, Bà Huyện Thanh Quan, Cáo Bá Quát biết về cảm giác "Tôi đi học" của nhà văn Thanh Tịnh. Và "feelback" là những đôi mắt của các em, phản chiếu cho tôi biết đề tài nào các em thích nghe. Có lần tôi loay hoay tìm cách giảng chữ "thế hệ" cho các em hiểu, rất nhiều ví dụ đã được đưa ra, nhưng những đôi mắt ngây thơ vẫn mở tròn, đầy dấu hỏi. Tôi đành giải thích "thế hệ" là "gereration" các em hiểu ngay và rất thích lối giảng "short cut" này, mặc dù tôi hiểu đó không phải là phương pháp tối ưu ở trường Việt ngữ.
Lên đến lớp ba, thường chỉ có từ mười lăm đến hai mươi lăm học sinh trong mỗi lớp. Bởi vì ở Mỹ đa số các em chỉ học đến mức độ biết đọc, biết viết nghĩa là khoảng hết lớp một. Trình độ của các em là trung học ở Mỹ, nên mức tiếp thu rất nhau. Với những học sinh đặc biệt ở tuổi ngoài hai mươi tôi còn mượn ở thư viện những quyển sách hay để các em có dịp đọc và hiểu hơn về nguồn gốc, văn hóa của mình.
Mỗi khóa học, thường có gần một nửa học sinh trong lớp không thích học tiếng Việt. Tôi dành thì giờ cho các em này nhiều hơn. Giờ chơi, tôi không đến phòng họp có "Brunch" (bữa ăn nhẹ, nữa điểm tâm nữa ăn trưa" dành cho các thầy cô giáo mà ở lại lớp nói chuyện với các em, đặc biệt là những em có khả năng trở thành người phụ giáo cho chúng tôi sau này, hoặc những em muốn nói chuyện với cô giáo như một người bạn lớn. Các em học được tiếng Việt ở tôi. Tôi tìm lại được thời mới lớn của mình từ các em. Cả hai phía đều có lợi. Do vậy, chúng tôi rất quý nhau.
Có lần, trong giờ ra chơi, các em hỏi tôi về chuyện "dating" ở trường trung học, về cái áo cần mua cho "senior prom" sắp đến. Những đề tài này thì dù cố gắng hết sức tôi cũng không giúp được nhiều cho các em. Tôi cũng chỉ dám khuyên các em làm điều gì cũng nên nghĩ đúng hay sai, có hậu quả gì và có làm cho ba mẹ các em vui không" Điều tôi vẫn lập đi lập lại với các em hầu như mỗi tháng là trên đời không có ai thương các em bằng ba mẹ các em. Tuy vậy để làm các em hài lòng, tôi đã mời một người bạn, đến Mỹ từ năm 75 đã trải qua từ Junior High đến Grad School ở Mỹ đến nói chuyện mười lăm phút như một "Guest speaker". Mục đích của tôi là để giải đáp thắc mắc về "dating về "senior prom". Nhưng thật bất ngờ, "Guest speaker" của chúng tôi đã nói bằng những lời từ tận tấm lòng.
- Tôi hân hạnh làm khách mời của thầy cô các em và được chia xẻ với các em về thời mới lớn của tôi ở Mỹ. Tôi rất tiếc là không biết chia xẻ với các em điều gì về "senior prom" mặc dù tôi đến Mỹ lúc mới bắt đầu Junior High. Bởi vì chính tôi cũng không tham dự dạ vũ cuối năm trung học. Vì hồi đó, ba mẹ tôi còn nghèo lắm, và tôi thì chưa làm ra tiền, không có tiền để thuê tuxedo, không có tiền để đóng góp thuê Limousine với bạn học cùng lớp. Không muốn làm ba mẹ buồn, tôi đành giả bệnh ở nhà. Chỉ buồn một chút thôi, vì niềm vui còn nằm ở nhiều chỗ khác, không phải chỉ ở "senior prom".
Ngưng một chút, anh tiếp:
- Điều tôi muốn nhắn nhủ với các em, ngoài những điều thầy cô đã dạy các em. Mong các em nhớ là hồi ở Việt Nam, nếu mình làm một điều sai trái, chỉ có bản thân mình, hay nhiều lắm là cha mẹ và cả gia đình mình thì bị nguyền rủa. Nhưng ở đây, ở quê hương thứ hai, nếu các em làm điều gì sai trái thì không những bản thân các em, mà cả hơn một triệu người Mỹ gốc Việt hay đôi khi gần 80 triệu người Việt Nam ở bên kia bờ đại dương đều mang tiếng.
Rồi như sợ là các em không hiểu hết những lời khuyên bằng cả tâm hồn của một người Việt Nam có tấm lòng, anh lập lại nội dung những điều vừa nói bằng tiếng Mỹ. Khi anh dứt lời, những đôi mắt ngây thơ phía dưới đăm chiêu hơn, những cái môi mím lại và các em đã dành cho tôi một tràng pháo tay rất lớn, lớn hơn tràng pháo tay cám ơn cho những diễn giả khác trong khóa học năm đó.
Chỉ cần các em nhớ mười phần trăm điều chúng tôi dạy, đủ để cho tôi thấy công sức lái xe 40 miles mỗi tuần đi dạy được đền bù xứng đáng.
Có nhiều cách để đóng góp cho đất nước, cả quê hương chôn nhau cắt rốn, lẫn quê hương thứ hai. Đi dạy thiện nguyện tiếng Việt cũng là một trong những cách đóng góp hiệu quả. Và chúng tôi đi dạy với tấm lòng cho quê mẹ, cho thế hệ thứ hai lớn lên hiểu rõ cội nguồn của mình. Mong thay các em sẽ làm được một điều gì đó cho quê nhà khi các em lớn lên.
THẦY GIÁO
Để thế hệ thứ hai, những người Mỹ tóc đen, hiểu rõ nguồn gốc của mình không phải là công việc một sáng một chiều. Cho nên, mặc dù đời sống rất là bận rộn, có những lúc phải "meet deadline" đi làm sáu ngày trong tuần, tôi vẫn đi dạy tiếng Việt.
Tôi thích dạy lớp lớn vì tôi thích các em hiểu vị thế của mình, hiểu tại sao mình có mặt ở quê người. Có hôm tôi mang cả TV/VCR nhỏ vào lớp chiếu phim minh họa cho các em khi chúng tôi giảng một bài trích trong tác phẩm "Mùa hè đỏ lửa" của nhà văn Phan Nhật Nam. Đó là một bài giảng ngoại khóa, tùy theo chọn lựa của thầy, cô đứng lớp. Thường những bài giảng này thường được chuẩn bị rất công phu và chúng tôi dồn cả hai lớp ba A và ba B lại, như những lần chúng tôi có "guest speaker".
Khách mời diễn giả hôm đó là một cựu sĩ quan QLVNCH, một người bạn cũ của bố tôi, đã trực tiếp tham dự những trận đánh bảo vệ tự do của mùa hè 1972, và phải trả giá bằng hơn mười năm tù tội từ Bắc vào Nam. Người lính già đáng kính nói út, nhưng cũng đủ làm đồng nghiệp của tôi và hai ba em học sinh nữ trong lớp lăn dài nước mắt. Lòng tôi cũng mềm đi, nhưng đàn ông, con trai thì không được khóc, nhất là khóc trước công chúng, bố tôi đã dạy tôi như vậy. Chúng tôi đã minh họa thêm bằng những video về QLVNCH về cuộc di tản năm 1975, về những trang sử thuyền nhân. Tôi tin rằng với trình độ high school ở Mỹ, các em đã hiểu rất nhiều. Chúng tôi chỉ ước mong sau này thế hệ thứ hai trong cộng đồng người Mỹ gốc Việt sẽ hiểu rõ hơn về nguồn gốc của mình, tại sao mình phải lưu vong"
Buổi học hôm đó được mở đầu bằng bài hát "Có bao giờ em hỏi" (thơ Duyên Anh, nhạc Phạm Duy) những đôi mắt ngây thơ đã chìm trong suy tư và tôi tin các em đã hiểu, nếu không bằng những lời giảng từ trái tim của chúng tôi từ "xương máu và nhục nhằn" của "guest speaker" thì cũng bằng những lời ca cảm động "Có bao giờ em hỏi quê hương mình ở đâu""
Chiến tranh đã qua từ hơn một phần tư thế kỷ, nhưng sự thật vẫn còn đó và phải được truyền lại thế hệ thứ hai một cách trung thực. Người ta có thể quên nhiều thứ, nhưng không ai có thể quên nguồn gốc, và lịch sử của dân tộc mình! Chính bản thân tôi, dù bận rộn cũng đã mượn tài liệu từ thư viện của Mỹ đọc những quyển sách về chiến tranh Việt Nam. Và đi nghe những buổi nói chuyện về "những trận đánh không tên" từ những nhân chứng sống, những người lính tóc "muối nhiều hơn tiêu". Khi những nhân chứng sống nằm xuống, tôi muốn họ an lòng nhắm mắt với nụ cười trên môi. Vì thế hệ chúng tôi, những người chưa bước khỏi tuổi thơ khi đất nước bị nhuộm đỏ, sẽ biết giải thích với những người bản xứ và với thế hệ lưu vong thứ hai tại sao chúng tôi phải lưu lạc, tại sao đồng bào tôi rất thông minh, rất chịu khó nhưng đất nước Việt Nam vẫn là một trong những nước nghèo nàn, lạc hậu nhất vào đầu thế kỷ hai mươi mốt"
Một lần, trong một bài giảng được trích từ "Món ngon Hà Nội" của Vũ Bằng, chúng tôi đưa các em đến khu Việt nam ăn những món ăn Nam, Trung, Bắc và về nhà viết bài phân tích như là "homework". Thầy trò chất lên sáu cái xe nhỏ, loại compact nhưng chở đến sáu người. May là, có rất nhiều em trong lớp đã tự lái xe đi học, nên chúng tôi không hề bị trở ngại trong việc chở gần ba mươi học sinh "đi thực tế". Các em rất Mỹ, móc tiền ra tự trả, nhưng tôi đã trả cho cả lớp, từ phần một tiền thưởng cuối năm khi nhóm chúng tôi hoàn thành được một design mới trước thời hạn. Trên đường về, Tân một học sinh nhỏ nhất lớp ngồi ở băng sau, đã hỏi tôi:
- Khi nào thì mình học đến bài "Món ngon Saigon" thưa thầy"
Tôi bật cười, nghĩ thầm là con nít bao giờ cũng dễ bị "dụ" hơn người lớn. Các em càng không thích học Việt ngữ, chúng tôi lại càng phải nghĩ ra cách "học mà chơi, chơi mà học" gắn các em với những trung tâm Việt ngữ.
Những buổi đi dạy, với tấm lòng của đồng nghiệp, với niềm vui từ tuổi mới lớn của học trò, những căng thẳng của đời sống, những mũi tên đỏ không vui của thị trường chứng khoán không còn là một băn khoăn lớn của tôi. Sáng thứ hai, khi vào sở tôi không thấy bực mình với bộ mặt của vài "tên cơ hội" trong nhóm, với những project dang dở, chưa có đáp số.
PHỤ HUYNH HỌC SINH
Một hôm đi làm về, tôi nghe văng vẳng tiếng hát Trần Thái Hòa trong một bài hát rất hay "Có bao giờ em hỏi quê hương mình ở đâu" ngỡ là nhà tôi đã về. Nhưng không phải, con bé Kim, con gái lớn của chúng tôi đang vừa đánh keyboard của PC, vừa nghe nhạc. Chờ bài hát dứt, tôi hỏi:
-Con có hiểu hết lời ca của bài hát không"
Nó cười, một cái cười rất người lớn, mặc dù đôi mắt vẫn ngây thơ:
-Not realty, daddy, nhưng con thích bài hát bài hát này nên mượn của thầy, cô ở trường tiếng Việt đem về nghe. Tuần trước, thầy "play" bài hát này trong lớp, cô giáo khóc, some students' fallen down too. Nên con mượn về, relisten so I can known why the cried.
Tôi cười.
- Chờ đó, chờ mẹ nghe bài hát này, con sẽ thấy thêm một người chảy nước mắt.
Đó là một bài hát cả hai vợ chồng tôi đều thích, bởi vì chúng tôi cùng "chưa kịp mê tam cúc, xuân hồng đã trôi mau".
Ngày tháng trôi qua thật nhanh, đã đến lúc thế hệ thứ hai của người Việt lưu vong tìm hiểu cội nguồn. Dạo này, cả hai đứa nhất là con bé Kim đã nói tiếng Việt đỡ "cứng" hơn và nhiều hơn trước. Chúng vẫn còn chêm tiếng Mỹ rất nhiều trong giao tiếp với chúng tôi, nhưng tỷ lệ tiếng Việt đã tăng cao, và chúng không còn nói những câu rất ngộ nghĩnh như:
- Mommy, cái áo của con bị "bể" rồi!
- Cái ly bị "rách" rồi ba ơi!
Lúc chúng bắt đầu tập nói, chúng tôi ở bên St. Louis, Missouri gởi cả hai đứa ở một "day care" của Mỹ. Hai vợ chồng đi làm hơn 40 tiếng mỗi tuần. Lúc về nhà, mệt nhoài, mắt ríu lại chỉ còn đủ thời gian và sức lực để nấu ăn, dọn dẹp đâu có giờ dạy cho con tập nói. Hai đứa nhỏ chỉ nói tiếng Mỹ và hiểu chúng tôi rất khó khăn nếu chúng tôi chỉ nói tiếng Việt. Đó là lý do chính để vợ chồng, con cái chúng tôi bồng bế nhau về San Jose, California, một trong ba nơi quần tụ người Mỹ gốc Việt đông nhất. Ở đây, hai đứa nhỏ có dịp gần với nguồn gốc của mình hơn, nhưng nếu không học thì cũng không thể nào biết đọc, biết viết tiếng Việt được.
Tôi vẫn thấy có điều gì bất ổn khi một thanh thiếu niên Việt Nam vào một tiệm ăn của người Việt, biết cách thưởng thức món ngon của quê nhà, mà không thể gọi món ăn bằng tiếng Việt, phải lấy tay chỉ vào hình vẽ trên quầy hàng! Vì vậy, cả hai vợ chồng đã gần như thay phiên nhau thuyết phục, năn nỉ hai đứa nhỏ đi học tiếng Việt.
Học được chừng một năm, tụi nhỏ nói tiếng Việt "mềm" hơn, giống người"Việt" hơn. Tuy chưa gặp các thầy cô giáo dạy thiện nguyện ở trường Việt ngữ, nhưng từ thâm tâm, chúng tôi vẫn mang ơn những người có tấm lòng đã hy sinh thời gian rất là quý hiếm ở Mỹ cho thế hệ thứ hai.
Có lần đang lái xe giữa xa lộ, tiếng con bé Kim thảng thốt từ phía sau:
-Stop! Stop Please, Daddy!
Tưởng chuyện gì lớn, không ngờ con bé muốn tôi ngừng lại ở một exit để nó xuống hái một cây lau dại ở bờ tường ngăn xa lộ với một con đường nhỏ bên trong. Cây lau đó sẽ được mang vào lớp học Việt ngữ vào chủ nhật cho bài học "Cờ lau tập trận của Đinh Bộ Lĩnh". Nhà tôi hỏi nó:
- Con có biết về sau khi lên ngôi vua, Đinh Bộ Lĩnh có tên là gì không"
Con bé đáp ngay:
- Vua Đinh Tiên Hoàng.
Từ đó, chúng tôi có ý nghĩ là sẽ phải biếu thầy cô giáo ở trường Việt ngữ một món quà nào đó vì kết quả từ tụi nhỏ lớn hơn điều chúng tôi mong đợi rất nhiều. Ở Mỹ, quà cáp không phải là một niềm vui vật chất, nhưng đôi khi đó cũng là một niềm vui tinh thần không nhỏ, nhất là khi người ta thấy sự hy sinh của mình được đền bù xứng đáng.
Lần khác, từ cửa sổ phòng ngủ, nhìn ra sân sau, tôi thấy thằng Đôn tẩn mẩn nhặt từng trái cam trên sân cỏ sau nhà, bóp nát và cúi đầu suy nghĩ, giống như hình ảnh nhà bác học Newton đang quan sát trái táo rơi từ trên cây. Tôi không dám hy vọng thằng con trai bình thường của chúng tôi sẽ thành một nhà bác học, nhưng lòng tôi vẫn lâng lâng, vì tôi đoán thằng bé đã được học về bài "Phá cường địch, báo hoàng ân" của anh hùng Trần Quốc Toản. Sau đó, chúng tôi cùng lặng lẽ quan sát, và cùng rất vui khi thấy mỗi lần cãi nhau với chị, hay có điều gì bực tức thằng bé lại chạy ra sau nhà nhặt một trái cam rồi bóp nát. Giống như chúng tôi vẫn bóp những trái banh cao xu nhỏ trong sở để giải tỏa những bực tức, nhất là khi không may có một ông/ bà boss "Ỷ lớn" ăn hiếp nhân viên dưới quyền một cách rất là bất công, phi lý.
Dù chưa bao giờ có dịp gặp các thầy cô giáo Việt ngữ của tụi nhỏ, nhưng tôi tin là các anh chị đó đều có cùng mong ước với chúng tôi. Mong ước thế hệ Việt Nam thứ hai ở Mỹ sẽ vững vàng, thành công ở quê hương nơi chúng được sinh ra (nơi ba mẹ chúng được bảo bọc dưới trời tự do và gây dựng sự nghiệp từ hai bàn tay trắng) nhưng không bao giờ quên nguồn gốc, quên quê cha đất tổ của mình.
Cũng như người Mỹ gốc Do Thái vẫn nhớ đến tổ tiên với ngày lễ Hanukkah mỗi tháng mười hai, hay người Mỹ gốc Ái Nhĩ Lan vẫn nhớ đến cội nguồn với ngày St. Patrick mỗi tháng ba. Một ngày nào đó, hy vọng cộng đồng Việt nam sẽ có được những trường tiểu học công lập của Mỹ, nơi mà mỗi học sinh tốt nghiệp phải đọc thông, viết thạo cả tiếng Mỹ lẫn tiếng Việt, như cộng đồng người Trung Hoa đã làm được điều đó ở "China Town" San Francisco. Nếu điều đó thực hiện được cùng với tự do, dân chủ cho quê nhà thì chúng tôi "dù ở xa có chết cũng vui mừng" như nhà văn Nguyễn Đình Toàn đã viết.
Nguyễn Trần Diệu Hương
Santa Clara, tháng 2/03
Chuyện Mùa Valentine: Hoàng Thu
Thời gian tưởng như ngừng lại với bạn. Vì gần hai mươi năm sau ngày rời trung học, bạn chúng tôi vẫn vậy. Vẫn mái tóc dài phủ kín lưng đen huyền, óng mượt. Vẫn nụ cười, lúm đồng tiền rất sâu trên hai gò má nâu hồng tự nhiên, như hai cái giếng cạn giữa những vùng đất trơ trọi, cằn khô của miền Trung Việt, nơi chúng tôi đã có một thiếu thời đầy lo toan của người lớn, cùng vận nước nổi trôi.
Tháng sáu đầu mùa hè ở ven biển Huntington Beach của CA, không phải là tháng sáu trong bài hát của Ngô Thụy Miên phổ thơ Nguyên Sa "trời không mưa, anh cũng lạy trời mưa". Lại càng không phải là tháng sáu nắng chói chang, đủ để bãi cát trắng phau của Nha Trang ngày xưa trở thành cát vàng vào giữa trưa. Nhưng Hoàng Thu đã mang theo được một góc quê nhà đến California. Chúng tôi ngồi trong nhà thủy tạ ngắm nhìn công trình của bạn, đầy đủ hình ảnh quê hương: sân sau nuôi sáu con gà (loại gà mà người Mỹ gốc Việt vẫn gọi là "gà đi bộ") ba con vịt, sân trước có vườn rau, ao cá, có hòn non bộ, có cây thủy trúc, có dây tóc tiên lá xanh thưa, hoa hồng nhạt. Chưa hết bên hông nhà có đủ tía tô, kinh giới, bạc hà, rau quế, rau thơm, ớt chỉ thiên, ổi xá lị, thay vì có cây cam, cây táo, cây hồng, cây chanh... như đa số sân nhà ở Mỹ.
Cái vườn có mùi rau thơm kích thích đủ mọi ý tưởng tùy theo tâm hồn, và cá tính của mỗi người. Cái vườn mang theo được rất nhiều hình ảnh quệ nhà được chúng tôi đặt tên là "camp Davis ở California" Mùa hè đầu thế kỷ 21, khi hội tụ được một số bạn bè thời trung học bên đời lưu lạc, từ Mỹ Châu, Âu Châu hay Úc Châu những luống rau xanh ngát đã nhận được đủ mọi lời khen ngợi và kích thích óc tưởng tượng của chúng tôi mãnh liệt.
Phía đàn ông, con trai đã ồn ào nhắc đến bánh xèo, bún thịt nướng, bún cá... có thể ăn kèm với rau cây nhà lá vườn của Hoàng Thu.
Phe đàn bà, con gái nhẹ nhàng, thơ mộng hơn (vả chăng còn phải giữ vững ý chí ăn kiêng để giữ vòng số hai thon thả như thời mới lớn) luôn hít hà hương vị đặc biệt của rau thơm, một hương vị tự nhiên ăn đứt Chanel của Pháp hay Estee Lauder của Mỹ. Trong một bài hát nào đó, một nhạc sĩ đã viết "nói ra sợ mất lòng em, hôm qua lên tỉnh một ngày, hương đồng gió nội bay đâu mất rồi!" Hoàng Thu rời quê nhà từ tuổi mười bốn, lưu lạc đến Bắc Mỹ mà vẫn giữ được đủ "hương đồng gió nội" của thời thơ ấu. Do đó, bạn xứng đáng để chúng tôi nghiêng mình cảm phục.
Đời sống đầy tốc độ của Mỹ không cho phép chúng tôi gặp nhau thường xuyên. Cho nên, mặc dù lâu lâu thấy đời đầy nổi bất an, muốn tìm về thời mới lớn, nhấc phone lên kể lể với bạn, và nghe bạn nói về những chìm, nổi của đời sống, chúng tôi có khái niệm trong đầu, mà không thể ngờ "cơ ngơi" của bạn lại nhiều màu sắc quê hương đến như vậy. Mai Trang đã mở tròn mắt ngưỡng mộ:
- Nếu tao biết mày có một "quê hương mang theo" như vậy, khi nào nhớ đến Việt Nam, chỉ cần bay về miền Nam Cali tìm đến nhà mày, vừa tiết kiệm thời gian tiền bạc vừa được thưởng thức những món ăn ngon của Little Saigon, thật là "nhất cử, lưỡng tiện".
Nhà của Hoàng Thu giống hệt hình ảnh những ngôi nhà trong bài chính tả thời tiểu học, một căn nhà ba gian, hai chái. Có điều ba gian ở đây là hai dãy nhà nhỏ nằm về một phía, ngăn cách bằng lối đo có giàn hoa giấy ở giữa, tất cả cùng nằm song song với dãy nhà lớn. Vùng đất ở giữa là hồ cá rất rộng, luôn có ít nhất là năm mươi con cá Koi cỡ lớn bơi lội trong hồ. Ở giữa hồ, chính tay anh Kha và cả Hoàng Thu đã tha về từng viên đá lượm ở nhiều bờ biển, từ Santa Cruz ở miền Bắc, Huntington Beach ở miền Nam CA đến bờ biển Mễ Tây Cơ của nước láng giềng, hay mua ở chợ trời, xây nên một hòn non bộ, nằm cạnh nhà thủy tạ rất thơ mộng, như cái "thuở ban đầu lưu luyến ấy" của hai người.
Dù là "người di tản buồn" hay là "thuyền nhân", thời gian ở quê hương thứ hai của chúng tôi đều dài hơn thời gian ở quê nhà, nên giữ đúng lối sống của Mỹ, chúng tôi chỉ trầm trồ, thán phục mà không đứa nào mở miệng hỏi về anh Kha, kiến trúc sư chính của "cây nhà lá vườn" trong sân nhà Hoàng Thu.
Vả chăng, lớp tâm lý học đã dạy chúng tôi đừng bao giờ hỏi về những điều riêng. Có những điều rất riêng, đến đúng thời điểm, tự nhiên sẽ được "chia xẻ nỗi niềm". Khi chưa phải lúc, người Mỹ vẫn gọi là "the right time" bạn chỉ được nghe một phần tư, một phần ba của sự thật. Mà theo một câu ngạn ngữ của người Nga "một nửa cái bánh mì vẫn là một nửa cái bánh mì, nhưng một nửa sự thật thì đã là một sự giả dối" tạo điều kiện cho bạn nói dối, cũng là một cái tội, cho nên không đứa nào hé môi.
Hoàng Thu là một trong những đợt thuyền nhân đầu tiên trong "bầy chim bỏ xứ" bằng những chiếc ghe mong manh, như thân phận con người giữa biển cả. Bạn chúng tôi đã học tiếp trung học ở Mỹ, rất lẻ loi. Vì lúc đó, tiếng Anh của bạn chỉ tạm đủ để đánh vật với sách vở và trò chuyện xã giao với bạn học người bản xứ, chưa đủ để chia xẻ mọi nổi niềm như thời chúng tôi ngồi xếp bằng trên bãi cát, nhìn ra biển tưởng tượng đến trời tự do. Giống như những con chim ủ rũ trong lòng, ngước mắt nhìn trời xanh.
Lúc đó, Hoàng Thu ở với anh chị cả. Anh chị quá lớn, vả chăng quá bận rộn với sinh kế lo cho bầy con đang lớn, đâu có giờ cho cô em út nhỏ nhoi, tội nghiệp. Bạn tôi lặng lẽ đến trường, lặng lẽ về nhà, lặng lẽ học hành và lặng lẽkhóc một mình vì nhớ bố mẹ và nhớ chúng tôi. Trong tình trạng đó, anh Kha xuất hiện đúng lúc như một "vị cứu tinh" vì anh Kha có đủ thứ Hoàng Thu cần. Không phải là địa vị tiền bạc, mà anh Kha đã lo cho Hoàng Thu như một ông anh lớn: dạy lái xe, đi họp PTA (họp phụ huynh học sinh) hướng dẫn Hoàng Thu chọn trường đại học, chọn ngành nghề đúng khả năng. Anh cùng ngồi ở Starbucks Coffee hàng giờ mỗi cuối tuần nghe Hoàng Thu kể về những ưu tư trong những năm đầu đại học. Hoàng Thu chỉ coi anh Kha đơn thuần như một ông anh lớn một nhà tư vấn có kinh nghiệm giúp bạn hội nhập vào đời sống Mỹ. Chẳng gì, anh Kha cũng đến Mỹ từ năm 75, vài ngày trước trận "đại hồng thủy" tràn vào Nam Việt, cuốn trôi ước mơ và hy vọng của tất cả chúng tôi. Cho đến lần Hoàng Thu bị một người say rượu lái xe lao thẳng vào xe Hoàng Thu ở trên một expressway. Chiếc Honda Civic của bạn bẹp dúm. Trời thương, bạn vẫn sống sót, toàn vẹn mặc dù đã phải nằm nhà thương gần ba tháng. Anh chị Hoàng Thu chỉ vào thăm cô em út mỗi tuần một lần. Duy có mỗi anh Kha, mặc dù vẫn bươn chải với học hành và kiếm sống vẫn đều đặn vào bệnh viện thăm Hoàng Thu mỗi ngày, không bê trễ. Trái tim của bạn bắt đầu động nay từ đó.
Khi Hoàng Thu chuyển vào UCLA, bạn trở thành roommate của anh Kha. Cuộc sống của hai người gắn bó từ đó, luôn "như chim liền cánh, như cây liền cành" gia đình Hoàng Thu bất bình về điều này, nhưng không tỏ thái độ cụ thể, vì vẫn rất thương Hoàng Thu, vả chăng anh Kha rất đàng hoàng, lễ phép, có học.
Mùa hè năm 96 tôi về Việt Nam thăm nhà, ghé thăm mẹ Hoàng Thu. Bà cụ cầm tay tôi khẩn khoản:
- Qua lại bên ấy, cháu lựa lời khuyên em nó. Dù gì cũng phải có miếng trầu là đầu câu chuyện, có miếng cau đặt lên bàn thờ tổ tiên, như truyền thống Việt Nam.
Tôi bối rối, nhìn xuống mũi giày không dám nhìn vào mắt mẹ bạn. Thế hệ của bác cách xa thế hệ chúng tôi gần nữa thế kỷ. Và trời Đông cách trời Tây cả một đại dương. Tôi không biết phải giải thích thế nào để bác hiểu là Hoàng Thu vẫn rất khôn ngoan và là một mẫu mực thành công trong cộng đồng lưu vong ở Mỹ. Mực thước đạo đức của thế kỷ 19 ở Việt Nam không thể nào mang nguyên khuôn mẫu vào thế kỷ hai mươi mốt ở Mỹ. Vả chăng, những hệ lụy về tài sản, về những ràng buộc pháp lý trói buộc con người chặt hơn những "tam tòng, tứ đức" của một thời xưa cũ. Bài học từ "gia huấn ca" chúng tôi được học năm lớp sáu, năm học sau cùng trước ngày mọi thứ đều đảo lộn theo "vận nước nổi trôi" vẫn còn đó trong ký ức của lũ học trò con gái chúng tôi. Nhưng điều đó chỉ có giá trị khuôn mẫu. Đâu có ai dùng đồ cổ trong đời sống hàng ngày. Mong sao bác hiểu được điều đó, để không trách Hoàng Thu.
Căn nhà ở ven biển Huntington Beach "Camp Davis của chúng tôi" được mua bốn năm sau ngày Hoàng Thu xong đại học. Căn nhà lúc đầu cũ kỹ, hoang tàn được anh Kha và Hoàng Thu nâng niu, chăm sóc trở thành một tổ ấm cho hai người và cho cả chúng tôi trong những lần vacation mỗi năm.
Chúng tôi cũng dành cho anh Kha nhiều thiện cảm, vì mỗi lần chúng tôi lái xe xuôi Nam về thăm Hoàng Thu. Đến nơi, cả bọn tha hồ đi ăn, đi chơi với xe của Hoàng Thu trọn hai ngày cuối tuần. Lúc trở về, xe đã được thay nhớt như vừa đem đi "minor tune up" ở tiệm. Chúng tôi thầm mừng cho bạn đã có "người đi bên đời" hiền lành, đạo đức, có học, tháo vát và thật lòng thương bạn.
Bẵng đi một dạo, như những con chuột bạch đánh đu với vòng quay nhanh của đời sống, chúng tôi lâu lâu mới liên lạc với nhau, mặc dù vẫn còn quý nhau như thời thơ dại. Lâu lâu qua email hay qua điện thoại, chúng tôi chỉ nhắc về thầy cũ, bạn xưa những năm đầu Trung học ở quê nhà. Vả chăng càng sống lâu ở Mỹ, chúng tôi càng nghiêng về lối sống Mỹ nhiều hơn, thời gian chúng tôi nói và nghe tiếng Mỹ nhiều hơn thời gian dành cho tiếng Việt, nên dĩ nhiên đời sống riêng tư lại càng được tôn trọng. Những điều rất riêng chỉ được đề cặp đến khi người trong cuộc muốn mang ra chia xẻ. Chúng tôi cũng an tâm, vì như người Mỹ quan niệm "No news is good news".
Không ngờ, mùa hè năm nay về lại Los Angeles, chúng tôi ghé thăm bạn thì bạn đang tất bật lo cho gà, vịt, cá, chó...không có thì giờ nhìn chúng tôi từ đầu tới chân, từ trái qua mặt để tìm những đổi thay, như bạn vẫn thường làm những lần gặp gỡ trước. Căn nhà "hương đồng gió nội mang theo" hình như cũng xơ xác hơn. Cỏ đã mọc lan man, vô hàng lối. Và lũ chó, mèo cùng bầy gà vịt hình như cũng tiều tụy hơn trước. Chừng như căn nhà thiếu bàn tay đàn ông, nhất là một người đàn ông rất đỗi tháo vát như anh Kha. Không nén nổi tò mò, chúng tôi buột miệng:
- Anh Kha đâu Hoàng Thu" Tại sao lại phải đến tay Thu làm việc nặng như vậy"
Bạn cười, má lúm đồng tiền vẫn sâu, mặc dù cái cười đã đẹp hơn, không còn khoe đủ cả hàm răng trắng như trước:
- Đuổi đi rồi!
Chúng tôi đưa mắt nhìn nhau, hiểu là "đại chiến" đã xảy ra, và chúng tôi nên im lặng để tránh "tên bay đạn lạc". Lần "nam du" đó chúng tôi không lang thang khắp Little Saigon như thường lệ, mà ở nhà giúp bạn lo "trùng tu Camp Davis".
Một tháng sau ngày anh Kha rời nhà, Phương Chi trở thành roommate của Hoàng Thu. Và có một thỏa thuận ngầm giữa hai người bạn thân thời trung học. Hoàng Thu lo việc bên ngoài: vườn tược, ao cá, vườn rau. Phương Chi nấu ăn, hút bụi, giặt đồ, rửa chén, chu toàn mọi việc bên trong. "Camp Davis ở CA" lại ngăn nắp, lại vén khéo, mặc dù rất rộng và không có bàn tay đàn ông. Và hai người bạn của chúng tôi đều sống bình an, hạnh phúc. Chúng tôi thầm phục sự cứng cỏi của Hoàng Thu, bạn lúc nào cũng rất bình an, nhìn mọi sự rất "sắc sắc không không" như giáo lý nhà Phật mặc dù bạn là một con chiên rất ngoan đạo, không bỏ sót một thánh lễ nào Chủ nhật.
Dù vậy, để "lấp đầy khoảng trống" cho Hoàng Thu, một trong số chúng tôi đã thử giới thiệu anh Nam cho bạn. Anh Nam ở tận trời Âu, bên Tây Đức đang bị thụt lùi từ khi bức tường Bá Linh sụp đổ, vì phải gồng gánh Đông Đức vẫn còn đang cơ cực trong thời hậu cộng sản. Anh Nam cũng có một hoàn cảnh tương tự Hoàng Thu, ngỡ là hai người sẽ giúp nhau vững vàng hơn vì "đồng bệnh tương lân". Nào ngờ "tiếng sét ái tình" nổ lại ở tuổi "nửa chừng xuân". Cả hai người thay nhau làm giàu cho các công ty điện thoại đường dài. Email thì đầy dẫy mỗi ngày trên PC. Tháng sáu đầu hè, ngày dài hơn, tình cảm của hai người cũng rất sâu hơn khi anh Nam bay qua Mỹ thăm Hoàng Thu hai tuần. Chúng tôi thấy bạn hạnh phúc, hồn nhiên lại như thời mới lớn. Hơn thế nữa, Hoàng Thu có ý muốn "thiếp theo chàng về...Đức". Những cái email được gởi chung cho cả bọn, được trả lời cho Hoàng Thu và c/c cho tất cả:
- Chắc là tao sẽ qua Đức sống luôn, "bốn biển là nhà" phải không tụi bây"
- Ừ! Cứ đi nhưng nhớ "đi Đức" chứ đừng "đi đứt".
- Khi yêu người ta sống lại thời mười lăm, mười sáu nhưng nhớ là tiếng Đức là một trong những ngôn ngữ khó nhai nhất thế giới.
- Tao ủng hộ mọi quyết định của mày, mặc dù biết là tất cả tụi mình sẽ mất hẳn căn nhà "hương đồng gió nội" ở Huntington Beach không còn "Camp Davis" để mỗi năm phe ta về nghỉ hè... Free như tổng thống thứ thiệt.
- "ừ thôi đi em" về bên Đức nhớ đem theo cả không khí Việt Nam lẫn không khí Mỹ.
- Nhớ gởi về bên nhà một mảnh tường Bá Linh, để thổi gió tự do dân chủ về bên đó!
- Mày qua Bá Linh, tụi tao rất buồn, nhưng thôi thì "Đường dài hạnh phúc cầu chúc cho người" cho cả hai người.
Nói chung, chúng tôi ủng hộ quyết định của Hoàng Thu, vì hiểu là bạn luôn trầm tĩnh và khôn ngoan trong mọi quyết định. Bạn đã cười, nửa đùa nửa thật:
- Tao đã đóng thuế đủ để trả nợ ân tình của nước Mỹ, bây giờ đến lúc qua Đức để được anh Nam nuôi, không phải sáng lái xe đi, chiều lái xe về, kiên nhẫn xếp hàng trên những xa lộ đông kín xe của Los Angeles.
Tự ái của một người đàn ông không cho phép anh Nam qua Mỹ, để phải làm lại từ đầu ở tuổi nửa đời người, quá muộn màng. Dù Mỹ là một đất nước của cơ hội, những cơ hội đến với người bắt đầu từ con số không ở tuổi ngoài ba mươi rất là hiếm hoi. Cả bạn tôi và anh Nam đều thừa hiểu điều đó. Dĩ nhiên, Hoàng Thu đủ sức lo cho cả một gia đình ở Mỹ, nhưng cả hai người đều có quan niệm chung: đàn ông phải là bread winner, một người gánh vác cả gia đình. Cho nên Hoàng Thu sẽ qua Đức, với anh Nam vào một ngày rất gần, khi mọi thứ đã thu xếp xong: nhà cửa, xe cộ, nhựng hệ lụy vật chất của đời sống. Những hệ lụy tưởng như đơn giản, nhưng không dễ dàng để chặt bỏ. Và ngày ngày, sau tám tiếng "trả nợ áo cơm" Hoàng Thu kiên nhẫn học tiếng Đức, để cho một khởi đầu mới ở quê hương thứ ba.
Chúng tôi cầu mong cho bạn có hạnh phúc, một hạnh phúc muộn màng ở tuổi nữa đời người. Một người đã ở Mỹ từ hơn hai mươi năm qua mà vẫn không đánh mất "hương đồng gió nội" trong khi hội nhập đời sống mới, thì hẳn là bạn tôi sẽ vững vàng ở quê hương thứ ba, bởi vì ở đâu có tình yêu, ở đó có hạt giống ước mơ, chắc chắn là như thế, Hoàng Thu thân mến!
Nguyễn Trần Diệu Hương.
Santa Clara. Tháng 2/03
Góp Một Bàn Tay Cho Mùa Bầu Cử Mỹ
Hằng năm, cứ vào mỗi độ cuối thu, là ngoài đường rụng nhiều và trên không có những đám mây bằng bạc (xin được phép của nhà văn Thanh Tịnh cho tác giả dùng câu này để mở đầu bài viết, cũng là dịp để nhắc nhở bài "Tôi đi học" của một thời dài hạnh phúc ở quê nhà) chúng tôi lại bắt đầu bận rộn với mùa bầu cử chính thức ở Mỹ.
Có hai lần bầu cử trong một năm ở Mỹ: Primary Election (bầu cử sơ bộ) vào ngày thứ ba đầu tiên của tháng 3 chọn ứng cử viên chính thức cho mỗi Đảng phái chính trị, và General Election (Bầu cử chính thức) vào ngày thứ ba đầu tiên của tháng 11 bầu những nhà lập pháp của Tiểu bang hay Liên bang.
Chọn ngày thứ ba là ngày bầu cử, vì đó vẫn là một ngày đầu tuần, năng lực mọi người vẫn còn đầy, sau khi được re-charge vào cuối tuần. Ngày thứ hai đầu tuần, với đa số mọi người, hình như vẫn còn là "warm up day" công việc vẫn trì trệ, do ảnh hưởng relax của hai ngày nghỉ cuối tuần, có thể con người chưa bắt được nhịp làm việc của một tuần mới. Vả chăng, nhân viên văn phòng bầu cử cần phải làm nhiều việc để chuẩn bị cho ngày bầu cử.
Tôi không phải là một nhân viên chính thức của văn phòng bầu cử, nhưng bắt đầu từ một project của lớp "Political Science" tôi trở thành một nhân viên không chính thức, tích cực tham gia vào mọi sinh hoạt rất dân chủ của quê hương thứ hai.
Ở năm thứ hai đại học vào khóa học Mùa thu, tôi cùng hai người bạn trong nhóm được thầy chỉ định đi làm campaign (văn phòng bầu cử) cho một ứng cử viên Thượng nghị sĩ Liên Bang như một project của lớp khoa học chính trị.
Sau khi nhận "assigment" của thầy, chúng tôi liên lạc với campaign manager ở địa phương bằng Email lẫn điện thoại. Trong Email, chúng tôi cũng gởi c/c cho thầy và cho chính ứng cử viên đang muốn ngồi vào một trong hai ghế Thượng Nghị Sĩ Liên Bang của tiểu bang California.
Trong vòng một tiếng đồng hồ, chúng tôi nhận được Email trả lời của người campaign manager, và nhận lời làm việc thiện nguyện 5 tiếng mỗi tuần trong vòng 3 tuần lễ trước ngày bầu cử. Vì là việc làm thiện nguyện, để lấy điểm, và viết research cho lớp học, nên chúng tôi có thể làm bất cứ giờ nào chúng tôi muốn. Công việc của chúng tôi là gọi điện thoại đến từng nhà, xin họ ủng hộ, bỏ phiếu cho ứng cử viên chúng tôi đang giúp, như người Mỹ vẫn gọi là "Phone Bank" một loại Telemarketing không phải cho một món hàng, mà là cho một chính trị gia tương lai.
Văn phòng vận động tranh cử bất cứ ứng cử viên nào cũng rực rỡ màu xanh, trắng, đỏ của cờ Hoa Kỳ, mở cửa ít nhất 18 tiếng mỗi ngày trong giai đoạn "chạy nước rút", 3 tuần trước ngày bầu cử. Có hai loại nhân viên làm việc: một loại làm việc được trả lương giờ, tương đương với mức lương của một nhân viên kinh nghiệm bán hàng ở các Department store, và một loại làm việc thiện nguyện vì quyền lợi tinh thần: lấy điểm cho một lớp học như chúng tôi, hoặc lấy kinh nghiệm cho con đường tranh cử của chính mình trong tương lai.
Tất cả chúng tôi, dù làm việc thiện nguyện hay có lãnh lương, đều như là những người khách trong căn nhà "văn phòng vận động tranh cử" mà người chủ là campaign manager. Ông (bà) ta có một văn phòng lớn cửa kính riêng biệt, trong đó chứa đủ thứ văn phòng phẩm, và một núi khẩu hiệu, flyers. Chúng tôi được đón tiếp rất nồng hậu, được phục vụ ăn uống ngay tại góc làm việc của mình.
Làm việc ở bộ phận phone bank, chúng tôi có góc làm việc chuyên nghiệp, yên tĩnh hơn nhóm kê biểu ngữ, hay in flyers. Chúng tôi ăn, uống ngay tại góc làm việc của mình, nhưng dĩ nhiên không để người đầu dây bên kia nghe tiếng nhai, nuốt, không mấy thanh tao.
Mỗi chúng tôi trong bộ phận Phone Bank được cung cấp một danh sách trích ngang có đủ mỗi chi tiết cần thiết, giúp chúng tôi nội dung tâm lý người đi bầu, chinh phục được họ và lấy về một lá phiếu cho ứng cử viên chúng tôi đang vận động. Danh sách này được mua lại từ một vài tổ chức có đầy đủ information cần thiết (như những công ty cung cấp thẻ tín dụng, cung cấp dịch vụ điện thoại, internet hoặc những ngân hàng cho vay) và dĩ nhiên chúng tôi không được quyền copy, hay mang danh sách này về nhà. Chúng tôi ký nhận danh sách này từ người campaign manager và cũng trả lại tận tay họ trước khi rời văn phòng vận động tranh cử.
Mặc dù văn phòng vận động bầu cử chỉ tồn tại trong một thời gian ngắn, không quá 6 tháng, nhưng rất là đàng hoàng, bề thế, với đầy đủ phòng ăn, phòng conference, như mỗi office bình thường khác ở Mỹ.
Được tài trợ bởi quỹ vận động tranh cử, một phần nhờ từ người đóng thuế, và phần lớn từ các buổi tiệc vận động tranh cử, nhân viên vận động tranh cử được phục vụ chu đáo từ điều kiện làm việc, đến thức ăn, nước uống, với yêu cầu duy nhất: tìm được càng nhiều sự ủng hộ từ cử tri càng tốt. Trong phòng ăn luôn luôn có cà phê, chocolate sữa, trà, soda, yogurt, bagels, donut, danish, croissant, pizza… Khoảng 11 giờ sáng, hay 6 giờ chiều có thực đơn từ những catering hay những nhà hàng lân cận đưa đến bàn làm việc của mỗi người, và chúng tôi chỉ cần viết tên mình, với món mình chọn lên trên.
Trong vòng một tiếng đồng hổ, phần ăn trong hộp giấy sẽ được bưng lên tận nơi chúng tôi ngồi.
Về phần tinh thần, lâu lâu video tape ở Conference room chiếu khuôn mặt tươi cười của ứng cử viên, kèm theo lời khích lệ và cám ơn chúng tôi đã góp phần trong việc vận động tranh cử.
Công việc Phone Bank của tôi rất là đơn giản, và đôi khi cũng có nhiều điều lý thú, xen lẫn đôi chút bực mình (Well, not thing is perfect!). Nhờ lời thầy dặn khi giao assigment làm việc 15 tiếng ở văn phòng vận động tranh cử, mỗi khi nghe những lời nói khiếm nhã, tôi cố để những lời nói đó bay từ tai này qua tai kia, về với….hư không.
Nhìn thấy họ Nguyễn của tôi, campagn manager giao cho tôi một danh sách đa số là người Việt Nam. Tôi được ông ta quý hơn hai bạn cùng nhóm vì ở văn phòng vận động tranh cử địa phương đó, tôi là người duy nhất có thể nói tiếng Việt, và dĩ nhiên là có thể nói tiếng Anh với những đồng bào không rành tiếng mẹ đẻ của mình, hoặc với những cử tri người Mỹ.
Danh sách được cung cấp rất là thuận lợi cho nhân viên Phone Bank như chúng tôi. Vì trên danh sách đó, có ghi rõ địa chỉ, số điện thoại, Đảng phái chính trị (thường thuộc hai Đảng lớn là Đảng Cộng Hòa với biểu tượng Con Voi và Đảng Dân Chủ với biểu tượng Con Lừa) và năm sinh. Một đôi khi, có những danh sách chi tiết còn có ghi rõ nghề nghiệp, trình độ học vấn, và tình trạng gia đình. Danh sách càng chi tiết, dĩ nhiên ban vận động tranh cử phải mua với một giá cao hơn, và hiệu quả cũng cao hơn, vì căn cứ vào mỗi tình trạng cá nhân, chúng tôi nói về những điều cử tri quan tâm, và mang lại lợi ích thiết thực cho chính bản thân, hay gia đình họ. Chẳng hạn khi nói chuyện với một người ở độ tuổi trung niên, đã lập gia đình, có con nhỏ, tôi nói về sự cần thiết phải mang lại phẩm chất cao hơn cho trường công, và việc giáo dục trẻ em ở trường tiểu học, hay trung học, như proposal của ứng cử viên để tăng cường chất lượng ở Day Care Center, tax deduction cho những người có con nhỏ. Ngược lại, khi nói với một người còn độc thân, và có thu nhập tương đối (căn cứ vào zipcode cử tri ở và trình độ học vấn, tôi có thể phỏng đoán gần chính xác mức độ thu nhập của đương sự) tôi nhấn mạnh về những tranh đấu để có thể có một tax deduction cao hơn cho những người độc thân, và những phần thưởng vật chất cho việc đầu tư tiền đề danh trong thị trường chứng khoán, hay địa ốc….
Tâm lý con người luôn luôn thích được nghe nói về những đường hướng nên làm cho quyền lợi của cá nhân, hay giai cấp mình, nên họ dễ nhớ lời kết luận (mục đích chính) của chúng tôi, nhân viên vận động tranh cử:
- Để mau chóng đạt được những điều đó, xin ông, bà, anh, chị vui lòng bỏ phiếu cho ứng cử viên XXX trong ngày bầu cử sắp đến. Lá phiếu của ông, bà, anh, chị là một đóng góp của campaign của chúng ta thành thực hiện. Đại diện cho ứng cử viên XXX, chúng tôi xin tri ân sự ủng hộ của ông, bà, anh, chị.
Đối với những cử tri lớn tuổi, hay những cử tri mới đi bầu lần đầu tiên, chúng tôi còn cẩn thận nhắc hồ sơ thứ tự của ứng cử viên trên phiếu bầu.
Thời gian bận rộn nhất của Phone Bank là "prime time" từ 6 giờ chiều đến 9 giờ tối. Sau 9 giờ tối bộ phận Phone Bank ngưng hoạt động, vì có rất nhiều người đã đi ngủ chuẩn bị cho ngày làm việc hôm sau. Thông thường, cuộc điện đàm với mỗi cử tri kéo dài khoảng 2 phút. Cũng có những cú phone rất ngắn, ba mươi giây, vì ở đầu dây bên kia cử tri đã "made up his/her mind" có lập trường rõ ràng sẽ bầu cho ai, hoặc cử tri đang không ở vào "good mood", chúng tôi cũng không phí thời gian để sẽ chuộc lấy bực mình cho cả hai phía. Nếu answering machine trả lời, chúng tôi để lại message ngắn gọn:
- Good evening, chúng tôi gọi từ văn phòng vận động tranh cử cho ứng cử viên XXX, xin nhắc nhở ông, bà, anh, chị đi bầu vào ngày thứ ba sắp tới, và xin dành một lá phiếu cho ứng cử viên XXX, số thứ tự xxx trên phiếu bầu cử, người duy nhất có thể đem lại lợi ích thiết thực cho ông, bà, anh, chị và cộng đồng của chúng ta. Lá phiếu của ông, bà, anh, chị là một đóng góp quý giá cho sự lớn mạnh của tự do và dân chủ. Đại diện cho ứng cử viên XXX, xin chân thành cảm tạ sự ủng hộ của quý vị.
Với cử tri người Mỹ gốc Việt, message kể trên là tiếng Mỹ khi cử tri thuộc khu vực có zipcode vùng trung lưu trở lên, hoặc dưới 30 tuổi, thông tin hoàn toàn bằng tiếng Việt nếu cử tri ngoài 40.
Cũng như những vui buồn "Bên đời lưu lạc" khi làm campaign, cũng có những vui, buồn riêng. Có những cử tri Việt Nam còn rất trẻ, thuộc thế hệ thứ hai, sinh ra ở Mỹ, hay rời đất nước lúc chưa dứt sữa… mẹ, đôi lúc tôi nhận được những chất vấn:
- Tại sao chị ủng hộ Đảng XXX, mà không ủng hộ Đảng XXX"
- Oh, tụi mình sẽ nói về chuyện đó sau. Đó là một chuyện dài, và chúng ta không có thì giờ bàn luận bây giờ. Trước mắt chỉ xin một phiếu của anh chị cho ứng cử viên XXX. Xin cám ơn sự lưu tâm và thì giờ của anh, chị dành cho chúng tôi.
Hay đôi lúc có những cử tri đầy hoài nghi, nhìn đời toàn màu xám:
- Ai cũng vậy thôi, cũng chỉ hứa, mà ít khi giữ đúng lời hứa của mình sau khi đắc cử. Tại sao tôi phải bầu cho ứng cử viên XXX"
- Vâng, thưa ông, bà, anh, chị, ai cũng là người, nhưng ít nhất ứng cử viên XXX là một người có truyền thống đạo đức, và quá trình hoạt động có sức thuyết phục hơn những ứng cử viên khác. Chỉ xin ông, bà, anh, chị một lá phiếu cho ứng cử viên XXX. Xin hãy cho bà ta một cơ hội chứng tỏ khả năng phục vụ cộng đồng.
Thảng hoặc không may "phone bank" không phải là cú điện thoại người ở đầu dây bên kia mong đợi, chúng tôi bị cảnh "giận cá chém thớt".
- Tôi không có giờ nghe chuyện vớ vẩn, bye.
Nặng nề hơn, có lần chúng tôi bị nghe "slang word" hay "tiếng Đan Mạch" giữa đất nước Hoa Kỳ.
Lần đầu tiên, bị "tai nạn nghề nghiệp" tôi ức muốn rơi nước mắt, nhưng nhớ đến lời thầy dặn, tôi đánh lạc dấu để trả những loại ngôn ngữ đó về với …hư không.
Một lần khác, tôi bỗng trở thành cố vấn tâm lý bất đắc dĩ, hay trở thành nhân viên của tổng đài "Information" 411. Người ở đầu dây bên kia là một bác độ tuổi ngoài 60, đang trong tình trạng đau ốm và phải ở nhà một mình, các con đều vắng nhà. Tâm lý của người bệnh vốn dị thường yếu đuối, và nếu là một người bệnh ở đó "tuổi nào nhìn lá vàng úa chiều nay" thì tinh thần lại càng suy sụp hơn nữa. Bác rất mừng khi có người nói chuyện với bác, dù chỉ bằng điện thoại, chừng như mỗi phút trên điện thoại với tôi, đẩy lùi được phần nào nỗi cô đơn, phiền muộn của bác. Nhận biết điều đó, tôi đã dành cho bác gần hai mươi phút trên đường dây điện thoại, dài gấp mười lần một cú "phone bank" bình thường. Và dĩ nhiên, nội dung điện đàm không dính dáng gì đến ngày bầu cử, đến ứng cử viên XXX và những chính sách của bà. Tôi đã vấn an sức khỏe bác, lắng nghe những muộn phiền của một người Việt Nam lớn tuổi, phải lưu lạc nơi quê người, không nói được ngôn ngữ mới, và rất là lạc lõng, cô đơn. Khi bác than đau nhức mình mẩy, tôi đành bảo bác thử uống "Aleeve". Khi bác kể về những yếu đuối thấy rõ từng ngày của tuổi già, tôi đề nghị bác uống vitamin "One A Day" cho những người ngoài 55 tuổi. Và kiên nhẫn đánh vần bằng tiếng Việt cho bác từng tên thuốc bán tự do (over the counter) để bác ghi lại, nhờ con đi mua sau đó.
Người Campaign Manager đi ngang, không hiểu được tiếng Việt, thấy tôi chú tâm nói và nghe trên điện thoại, ông ta mang đến cho tôi một hộp sữa chocolate nhỏ, với một ngón tay cái đen đúa như một lời động viên "Good job, keep doing that!".
Tôi hơi ân hận vì mình đang say mê an ủi một đồng bào của mình, chứ không phải đang vận động tranh cử, nhưng thoáng ân hận đó bay nhanh khi tôi nghĩ là mình đang góp một bàn tay cho tự do, và cho cả tình người. Vả chăng, tôi làm cho project, và không có lương nên lâu lâu dành vài phút nâng đỡ tinh thần của những người lớn tuổi cũng không phải là chuyện trái lương tâm.
Uy tín của tôi với ban vận động tranh cử của địa phương năm đó tăng cao khi tôi thuyết phục được hai người Mỹ và ba người Việt Nam đồng ý cho nhóm tranh cử lưu động cắm một khẩu hiệu "Vote for XXX" ở bãi cỏ trước nhà họ.
Phone Bank trở thành yếu tố quan trọng nhất vào đúng ngày bầu cử. Ban vận động bầu cử cử người đến những phòng phiếu (precint) hai lần trong ngày bầu cử để lấy danh sách cử tri được niêm yết trước phòng phiếu. Căn cứ vào danh sách đó, nhân viên phone bank sẽ gọi điện thoại đến những người chưa đi bầu (tên những người đã đi bầu đã được gạch ngang) để vận động lần cuối. Điều này rất quan trọng, vì theo quy luật của bộ nhớ trong bộ não con người, những thông tin mới vào sau, sẽ rất fresh, và có tác dụng mạnh hơn những thông tin cũ. Thường thường, với những người đã có lập trường rõ rệt, khó lay chuyện được quyết định của họ, nhất là đối với những người tuyệt đối ủng hộ cho một Đảng phái nào đó. Tuy nhiên vẫn có một số lớn cử tri chưa dứt khoát lập trường, hoặc nghĩ là "ai thì cũng vậy thôi", phone bank sẽ góp phần quan trọng trong quyết định của họ.
Tháng mười một năm đó, ứng cử viên của chúng tôi đắc cử. Ở địa phương chúng tôi làm việc, tỷ lệ bầu cho bà rất cao. Dĩ nhiên cả nhóm chúng tôi được mời đến "Appreciation Party" của bà, một tiệc mừng chiến thắng có rất nhiều confetti xanh, trắng, đỏ và những cái pin cờ Mỹ hình trái tim. Chúng tôi còn được tặng một tách uống nước có dòng chữ "The best phone bank ever". Nhưng, phần thưởng lớn nhất đối với chúng tôi là "grade A plus" cho lớp khoa học chính trị. Và cũng từ đó, có một "connection" chặt chẽ giữa các ban vận động tranh cử sau đó với chúng tôi, những sinh viên lớp Political Science mùa thu năm đó.
Các bạn tôi theo truyền thống gia đình, trung thành với một Đảng, nên chỉ có "connection" từ "phe ta". Riêng tôi, dạo đó, tôi đăng ký bầu cử như một người không Đảng phái, nên "connection" đến với tôi từ cả hai Đảng Cộng Hòa và Dân Chủ. Cả hai phía đều thấy tôi là một nhân viên Phone Bank "rất được việc" và chưa ngã hẳn về bên nào, nên đều cố kéo tôi về phía họ, để phe ta ngày càng lớn mạnh.
Những năm gần đây, sau khi hiểu rõ hơn về đường lối của tất cả mọi Đảng phái chính trị ở Mỹ, và nhìn vào truyền thống hoạt động của mọi phía, sự chọn lựa của tôi đã nghiêng hẳn về một phía. Và dĩ nhiên, sau đó nếu có thì giờ làm phone bank, tôi chỉ cộng tác với "phe ta" và được trả lương như một nhân viên phone bank có kinh nghiệm. Thu nhập làm thêm đó không đáng kể so công việc chính, nhưng cũng đủ để tôi gởïi về Việt Nam giúp cho một vài gia đình vẫn còn chịu cảnh lầm than.
Vào mùa bầu cử sơ bộ 2004, tháng 3 tiểu bang CA sẽ bắt đầu dùng hệ thống computer với "touch screen" (như hệ thống của máy ATM ở Ngân hàng) để thay cho hệ thống bấm lỗ (Poll Star) hiện nay. Hệ thống "touch screen" sẽ được thử nghiệm ở một số phòng phiếu kể từ tháng 11 năm nay, để rút ưu khuyết điểm.
Quê người với tự do, dân chủ và tiêu chuẩn sống cao nhất thế giới, tương phản với quê nhà như ngày với đêm, như mặt trời với mặt trăng, nhất là trong hệ thống bầu cử. Xin được góp một bàn tay cho dân chủ ở quê hương thứ hai, nơi cưu mang và nuôi dạy chúng tôi thành người hữu dụng cho cả hai Tổ quốc.
Nguyễn Trần Diệu Hương
(Santa Clara, sinh nhật em tôi 02)