- Đem Theo Biên Hòa…
- Biên Hòa Thời Thơ Dại
- Sông Nước Đồng Nai
- Biên Hòa Trong Trí Tưởng
Lúc anh chị còn học Ngô Quyền, tôi chưa đi học, nhưng biết cả anh lẫn chị khá rõ vì chúng tôi cùng ở cư xá Đoàn Văn Cự ở Biên Hòa. Cái cư xá nhỏ chỉ vỏn vẹn mười nhà, nằm ở đầu đường Nguyễn Hữu Cảnh, cách công trường Sông Phố khoảng 300 mét. Nhà đầu tiên đối diện Ty Thông tin, cách doanh trại của Quân Cảnh Biên Hòa bằng con đường nhỏ Lương Văn Thượng; nhà cuối cùng cách Ty Thuế vụ Biên Hòa cũng bằng một con đường nhỏ, đối diện trại gia binh Đống Đa.
Vì là cư xá của chính phủ ở ngay trung tâm thành phố Biên Hỏa nên nhà nào cũng giống nhau, có một sân trước khoảng 15 mét vuông, và một sân sau nhỏ. Vậy mà nhà nào cũng có cây trồng ở sân trước, những loại cây đặc trưng, đã được đi vào âm nhạc, và thi ca. Chẳng hạn nhà số 12 có một bụi tre nhỏ, xanh mướt quanh năm; nhà số 22 có một cây sung to lớn, che mát cả khoảng sân nhỏ; nhà số 18 trồng bạc hà, rau thơm, tía tô ở một phần ba sân trước; nhà số 4 có một giàn hoa dâm bụt đỏ, tươi mát quanh năm; nhà số 24 có một giàn bông giấy đủ màu: đỏ, cam, trắng, hồng, tím chen nhau khoe sắc…
Cái cư xá nhỏ trong một tỉnh lỵ đầu thập niên 70 của thế kỷ 20 ở một đất nước chiến tranh, lâu lâu vẫn có tiếng "đại bác đêm dêm vọng về". 10 nhà trong xóm biết rõ nhau, và quý trọng nhau như câu ngạn ngữ "bán anh em xa mua láng giềng gần".
Anh ở nhà số 22, chung vách với nhà chúng tôi, lớn hơn chị khoảng hai lớp, họ cùng học ở Ngô Quyền, ngôi trường Trung học công lập duy nhất trong tỉnh lỵ. Họ cùng giống nhau ở chỗ là con lớn nhất trong nhà , gọi theo miền Nam anh là "anh hai", chị là “chị hai".
Có một lần thấy tôi ngồi vẽ phấn trên sân xi măng chơi ô quan một mình, anh đi học về, chạy ra chơi với tôi. Con nhỏ mừng rỡ vì đã có "phe địch" thi thố tài năng với mình, không phải chơi một mình, tự mình làm đối thủ của mình.
Chơi được một lúc, tôi đang "say men chiến thăng” vì "ăn" anh được hai ván không gỡ (anh đã là học sinh năm cuối Trung học, chuẩn bị thi tú tài, đã qua cái tuổi chơi trò con nít, trong khi tôi thì chưa đi học, mỗi ngày bày ra "thế trận" tự chơi một mình), anh móc túi lấy ra một tờ giấy học trò gấp làm 8, nhờ tôi đưa đến cho chị ở nhà số 4. Sau này nghĩ lại, anh chọn tôi làm "chim xanh" vì lúc đó tôi chưa biết đọc, nếu có tò mò cũng không đọc được thư anh viết cho chị .
Tôi vừa đi, vừa nhảy nhót, "ăn mừng chiến thắng ô quan của mình", đến nhà chị, trao tận tay chị như anh căn dặn.
Sau đó, thỉnh thoảng tôi có đối thủ chơi ô quan, Anh có "chim xanh đưa thư" an toàn, không sợ lộ bí mật, một "đổi chác" tự nguyện, cả hai bên cùng có lợi. Năm cuối Trung học, Anh chuẩn bị thi tú tài, không còn thì giờ lê la ngồi chơi ô quan với tôi trên nền sân xi măng, Anh "trả công chim xanh" bằng lúc mấy cái bánh, lúc vài cái kẹo . Thời đó, quan niệm còn nghiêm nhặt, không có chuyện hẹn hò công khai, các anh các chị dù học cùng trường, không dám nói chuyện với nhau, thường chỉ gởi thư cho nhau.
Trước cửa nhà anh có một cây sung rất xanh tươi, sai trái. Nhưng ít ai ăn sung, lâu lâu mới có một vài người ở trại gia binh bên kia đường qua xin một số sung non màu xanh , để ăn với mắm tôm, thay cho trái vả. Những trái sung vừa chín màu hồng, hay những trái chín rục màu đen rụng đầy sân.
Trái sung chỉ được ưa chuộng vào dịp cuối năm ta, Tết âm lịch. Theo niềm tin của rất nhiều người, bao giờ cũng có trái sung (được hiểu là sung túc) nằm bên cạnh trái mãng cầu, trái thơm, trái dừa, trái xoài theo lối phát âm của miền Nam "cầu vừa đủ xài, sung túc" cho năm mới.
Khoảng rằm tháng chạp, nhiều người tới nhà anh xin leo lên cây để hái những chum sung xanh, hay vừa trở màu hồng đem ra chợ bán. Anh làm một cây tre dài có những thanh nứa chẻ ra cột ở đầu để giúp những người hái sung không cần leo lên cây, vẫn có những chùm sung đẹp đem ra bán ở những phiên chợ cuối năm.
Những người xin sung vui lắm luôn miệng cảm ơn. Hình như anh còn vui hơn. Mỗi năm vào khoảng 28 Tết, anh nhờ tôi đem một chùm sung năm trái có thắt nơ đỏ thật đẹp đem biếu chị để Mẹ của chị cúng giao thừa. Dĩ nhiên anh lại trả công tôi bằng một phong bì đỏ có tờ 5 đồng mới tinh (là cả một tài sản với một con bé chưa đến 10 tuổi).
Khi nào chị viết thơ gởi lại anh, tôi cũng làm nhiệm vụ người đưa thư, và được trả công từ cả hai bên. Nếu ngày nào anh chị cũng gởi thư cho nhau, tôi sẽ "giàu" từ hồi còn nhỏ.
Rồi anh đi du học ở Nhật, tôi lớn lên đi học, có nhiều bạn bè, không còn chơi ô quan. Trước ngày anh đi, anh gọi tôi qua, cho hẳn một túi kẹo trái cây, giấy gói kẹo là hình Bạch Tuyết và bảy chú lùn, "trả công cho nhiệm vụ cuối cùng":
- Anh hai đi học xa lắm, chắc ít nhất cũng cả năm mới về, ở nhà để ý sức khỏe của chị hai, lâu lâu viết thư cho anh biết. Khi nào anh về sẽ mua nhiều bánh kẹo cho em.
Lời căn dặn nghe cứ như là anh ruột dặn em chăm sóc chị dâu. Nhưng lúc đó tôi học lớp hai, để ý đến gói kẹo hơn là để ý đến lối chơi chữ "anh hai, chị hai" của anh. Đó là món quà "hậu hỉnh" đầu tiên tôi có được từ một người hàng xóm.
Chị cũng thương tôi, "con chim xanh đưa thư" cho hai anh chị. Lúc đó tôi còn nhỏ, không hiểu mọi chuyện trên đời, không hiểu anh chị hình như đã "tình trong như đã mặt ngoài còn e".
Tết Ất Mão 1975, nhà hàng xóm vắng anh ngày Tết, các em của anh chắc cũng nhớ ông anh cả hiền hậu, chu đáo. Những người đến xin sung mang ra bán chợ Tết cũng nhớ chàng thanh niên tử tế, đã hỏi nhau :
- Sao không thấy anh hai đâu?
Ngày mùng hai Tết, chị đi cùng với Mẹ đến chúc Tết gia đình tôi, thay anh lì xì cho tôi một phong bì đỏ, vẫn tờ 5 đồng "mới cáo cạnh", tôi không dám xài, để dành bên trong quyển vở Toán.
Rồi biến cố tháng 4 năm 1975 cuốn đi mọi thứ, cái xóm bình yên của chúng tôi tan tác. Chính quyền mới đến từng nhà đọc "lệnh đuổi nhà" bắt chúng tôi dọn ra khỏi nhà để trả lại nhà cho nhân dân. Nhưng nhân dân không bao giờ được ở, sau khi chúng tôi đi, các "cán bộ" dọn vào, phá hỏng mấy giàn hoa để lấy chỗ trồng khoai mì và rau muống.
Tôi không còn gặp lại "anh hai" của nhà số 22, và "chị hai" của nhà số 10 đường Nguyễn Hữu Cảnh nữa. Lúc đó anh đang học năm cuối về điện ở Nhật.
@@@
Sau này qua hội cựu học sinh Ngô Quyền, tôi gặp lại anh, người hàng xóm ngày xưa ở San Jose, California. Mãi đến lúc đó, tôi mới biết chuyện xưa, "hình như là tình yêu" thời mới lớn của anh chị. Loại tình cảm chỉ có nhìn, và viết thư của hơn 40 năm trước.
Chưa (hay không) có duyên gặp lại chị, tôi vẫn mang trong đầu hình ảnh chị của thời 16 đẹp ngây thơ, tinh khiết như chồi non của mùa Xuân. Luôn mong chị dù ở nơi nào cũng bình yên hạnh phúc, và mang theo kỷ niệm ngọt ngào của thời mới lớn ở tỉnh lỵ nhỏ ngày xưa như anh, như tôi, như rất nhiều người Biên Hòa lưu lạc.
Nguyễn Trần Diệu Hương
California, đầu năm 2017
Sông Đồng Nai và những trái bưởi ngọt thanh là hình ảnh gắn liền với Biên Hòa trong lòng rất nhiều người, nhất là những người phài sống đời lưu lạc. Với riêng tôi, Biên Hòa gắn với hình ảnh bờ sông Đồng Nai gần Bưu điện, với những cây hoa hoàng hậu màu tím (còn có một cái tên rất thô thiển là "hoa móng bò") ở sân trường Nữ tiểu học; và trường Ngô Quyền thân yêu với những ngày leo con dốc dài trên đường Quốc lộ một đi học.
Đầu tháng mười hai âm lịch là lũ học trò chúng tôi nao nức đếm từng ngày đến Tết như một ca ca dao trong sách tập đọc lớp ba:
"Cu kêu ba tiếng cu kêu,
Cho mau đến Tết dựng nêu ăn chè"
Đến bây giờ tôi vẫn còn thuộc mặc dùvẫn không hiểu tại sao hình ảnh cây nêu ngày Tết lại có liên quan đến loài chimcu và những chén chè ngọt ngào.
Năm năm ở trường Tiểu học, dưới mườituổi, còn quá nhỏ nên chúng tôi được cô giáo lo cho mọi thứ. Đến "ngày tất niên" (ngày học cuối cùng trước khi nghỉ Tết khoảng hai tuần), bầy con gáinhỏ chỉ việc kéo nhau đến trường mà không phải ôm cặp, không phải học bài, màlại còn được tha hồ ăn mứt, kẹo trong tiệc tất niên ở từng lớp. Thường thì chìcó các loại mứt quen thuộc như mứt khoai, mứt bí, mứt gừng, mứt hộtsen... có phủ một lớp áo đường ở ngoài, và cắn hột dưa màu đỏ. Những đứa chưa mọc răng cửa vẫn nhìn bạn bè cắn hột dưa dòn tan với tất cả "vẻ ngưỡngmộ”. Mỗi đứa được cô giáo phát một chai xá xị hay nước chanh có cắm sẵn ốnghút. Ớ một góc lớp có một cây mai giả làm bằng giấy nhún màu vàng, công trìnhcủa cả lớp trong mấy giờ thủ công, nhìn từ xa cũng giông giống mai thật. Chỉ có vậy, nhưng mấy cô học trò bé tí xíu vui vẻ, rạng rỡ còn hơn người lớn dự yến tiệc. Đến cuối tiệc tất niên, chia tay nhau về, chúng tôi còn tặng cho nhau một tấmthiệp chúc Tết, thường là tự làm lấy, chỉ có nét vẽ vụng dại hoa mai vàng, pháođỏ, hay mấy phong bao lì xì màu đỏ bên cạnh mấy chữ "cung chúc tânxuân" nắn nót viết còn hơn là mấy ông đồ xưa viết câu đối Tết. Vậy mà niềm vui tuổi nhỏ kéo dài đến "ra giêng" đi học lại. Lớn lên, nghĩ lại kỷniệm xưa, dù bạn bè cùng lớp thời thơ dại đã biền biệt phương nào, dư âm của hạnh phúc tuồi thơ vẫn còn ngọt ngào êm dịu.
Kỷ niệm ngày Tết ở Ngô Quyền thì vui hơn, thơ mộng hơn, và có phảng phất "hình như là tình yêu" mà thật ra không phải là tình yêu, chỉ là dao động của tuổi dậy thì. Cũng như thời tiểu học, vào tháng chạp âm lịch là lòng chúng tôi mở hội vì gần Tết, chúng tôi lại vừa thi đệ nhất lục cá nguyệt xong, không còn phải thức khuya dậy sớm học bài, không phải lo lắng bài vở. Thời gian đó, nếu thầy cô cho làm bài kiểm tra là cảlớp cùng đoàn kết "đình công" vì chẳng có đứa nào học bài trong mấy tuần trước Tết. Đã vậy, sau khi tan học, thay vì về nhà, nhiều khi cả lớp còn"dung dăng dung dẻ" đi coi chợ hoa, đi coi các hàng bánh mứt.Và chỉ dám đứng xa mà nhìn, không dám đến gần, sợ đổ bể cái gì thì chỉ có cáchlàm công để trừ nợ vì không đứa nào có tiền.
Sau này, trưởng thành hơn, nghĩ lạimới thấy hình ảnh của học trò con gái tuổi mười ba, mười bốn cũng là một biềutượng sống cùa mùa xuân, góp phần tô điễm cho hương sắc mùa xuân bên cạnh mai,lan, cúc, trúc... khoe sắc trong chợ hoa ngày Tết.
Những con đường chính của tỉnh lỵ Biên Hòa lúc đó, dưới con mắt của học trò đệ nhất cấp, chỉ gồm có Quốc lộ một, Nguyễn Hữu Cảnh, và Trịnh Hoài Đức. Những con đường quen thuộc mà chúng tôi điqua, đi lại bằng xe đạp, xe lam, hay đi bộ mỗi ngày rất quen thuộc đến độ biếtchỗ nào có ổ gà, chỗ nào cần phải lấy hơi đạp xe lên dốc, nhất là những lúc phải chở một đứa bạn hơi... "sổ sữa" ở yên sau của xe đạp mini bánhrất nhỏ.
Đa số chúng tôi đi học bằng xe lam (một loại xe ba bánh chở nhiều nhất là mười người khách) nhưng lúc về thì đi bộ, nhất là những ngày học buổi chiều. Buổi trưa trời nắng chang chang, đihọc bằng xe lam rất thuận tiện, chỉ tốn có năm đồng. Xe ngừng trước cổng trườngNgô Quyền, thả ra từng đàn học sinh áo trắng là một hình ảnh rất đẹp mỗi sáng,mỗi trưa, như một cái đồng hồ chính xác của những người sống gần trường. Học trò tỉnh lỵ thời đó rất dễ thương, hôm nào lỡ quên đem tiền, có khi một nữ sinhNgô Quyền khác hào phóng trả giùm, có khi bác tài xế cho nợ ngày mai sẽ trả. Cả chủ nợ lẫn con nợ đều không quen biết nhau, có khi bác tài cũng chẳng nhớ mặt con nợ trong cả trăm nữ sinh áo dài trắng đồng phục giống nhau, nhưng con nợkhông bao giờ quên trả món tiền thiếu chịu. Ngày hôm sau, đi học sớm, đứng ởchỗ chờ xe lam quen thuộc hay ở cổng trường nhìn mặt từng bác lái xe lam để trả lại cho bác tài tử tế năm đồng thiếu chịu.
Chỗ chúng tôi vẫn đứng chờ xe lam làmột ngã ba, có một cái bồn phun nước, có lẽ để tiết kiệm nước, chỉ có ban đêmnước mới phun lên; ban ngày chỉ có một chút nước trong lòng hồ, nhưng được cáilà bao giờ bồn nước cũng sạch, không có rong rêu, không có rác. Mỗi lầnđứng chờ xe lam dưới bóng cây, chúng tôi vẫn mong rằng lúc nào cũng có nước phun lên chắc một góc tỉnh lỵ sẽ sinh động hơn. Một lần, không hiểu tạisao xe lam không đến khoảng năm phút một lần như thường lệ, cả một bầy học tròvừa ngơ ngác, vừa lo lắng sợ trễ học, có một chiếc xe nhà binh GMC loại lớn nhất, chắc có ít nhất là mười bánh xe, đậu lại. Trên xe không có ai, chỉ có mỗi một ông tài xế. Chắc là tội nghiệp học trò (hay là nhờ có những chị học lớpmười một, mười hai đang ở độ tuổi đẹp nhất đời người nổi bật trong đám học trò lóc nhóc lô nhô?), ông tài xế thò đầu ra từ buồng lái, hét lớn át cả tiềng động cơ xe:
- Các em đi học ở đâu? Ngô Quyền,Trần Thượng Xuyên, hay Khiết Tâm phải không? Lên xe đi, tôi chở giùm đến trường.
"Được lời như cởi tấm lòng", cả nhóm học trò chừng hơn ba chục người giúp nhau leo lên xe vì cáixe rất cao, học trò con gái thì áo dài thướt tha, có nhiều chị lại còn mang guốc cao. Trong lòng một cái xe GMC của lính, bầy học trò tự nhiên thấy mình bé nhỏ lại cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng ngồi lọt thỏm trong một góc xe.
Dọc đường, rất nhiều người nhìn lên xe với dấu chấm hỏi trong đầu khi thấy một chiếc GMC đầy bụi đường, thường chở những người lính từng "nằm gai nếm mật" với súng ống đạn dược, lạichở một nhóm học trò áo trắng trong trẻo, ngây thơ với cặp sách tinh khôi. Đó là lần đầu tiên và có lẽ cũng là lần duy nhất trong đời, học trò chúng tôi được đi trên một chiếc xe GMC to lớn phảng phất mùi vị của chiến tranh. Bỗng dưng thấy mình lớn hơn, cao hơn tất cả người và xe đang xuôi ngược trên đường, và được dịp "nhìn xuống cuộc đời" từ mắt nai của học trò.
Đến trước cổng trường, người lính dừng xe lại, chị lớn nhất nhóm leo xuống trước, hỏi ông ta:
- Chú ơi cho tụi cháu trả tiền xe.
Người lính cười thành tiếng, khoe hàm răng trắng nổi bật trên khuôn mặt sạm nắng:
- Cho các cô các cậu thiếu chịu. Lần sau trả luôn.
Lúc đó là tháng giêng năm 1975, gần đến Tết Ất Mão, nên chẳng bao giờ có một lần sau như lời người lính tốt bụng đãchở giùm một nhóm học trò trung học đến trường. Với riêng tôi, đó cũng là một món nợ nhỏ suốt đời không trả được. Sau này mới biết hôm đó là ngày đình công của nghiệp đoàn những người lái xe lam, học trò con nít không theo dõi tin tức nên không biết, vẫn đứng chờ xe lam đến như thông lệ.
Buổi chiều tan học, trời đẹp, đi bộ vui hơn, lâu lâu còn ghé tiệm cho thuê sách Nam Tạo ở gần Ty Cảnh Sát và rạp Biên Hùng để mướn truyện về đọc. Còn nhỏ, chưa phải nấu ăn, chưa phải phụ việc nhà nhiều, không cần phải về gấp, nên trên đường về, chúng tôi còn đủng đỉnh ghé vô tiệm sách Huỳnh Hiệp trên đường Trịnh Hoài Đức "đọc cọp" cácloại sách truyện bày bán trên giá. Có khi ba bốn đứa còn chia nhau, mỗiđứa đọc một chương của một quyển sách nào đó có cái bìa rất đẹp, hoặc "ngheđồn" đó là một truyện rất hay. Chỉ hai hay ba ngày liên tiếp như vậy, cảlớp đã được biết toàn bộ nội dung câu chuyện. Xin gởi lời cảm ơn muộn màng đếnnhà sách Huỳnh Hiệp đã không nỡ đuổi những cô học trò nhỏ chuyên "đọccọp" vì không có tiền mua sách.
Thật ra trình độ học trò lớp bảy lúc đó, còn ngây thơ, quanh đi quẩn lại chỉ đọc các tác phẩm của Tự lực văn đoàn trong chương trình Quốc văn ở trường, và các tác phẩm cúa tủ sách Tuổi hoa màcà người đọc lẫn người viết vẫn còn trong thời kỳ cắp sách. Chúng tôi đi hang ngang trên đường phố, lúc đó vẫn còn nguyên vẻ bình yên của tỉnh lỵ, luân phiên kể chuyện theo thứ tự từng chương sách. Chắc thấy học trò con gái ngoan ngoãn dễ thương, không có ai phàn nàn với kiểu đi chiếm hết lề đường của chúng tôi.
Hồi đó vì chiến tranh, không được đốt pháo vào ngày Tết, nghe nói lệnh cấm chỉ có từ sau Tết Mậu Thân 1968. Nên với thế hệ chúng tôi, ngày Tết không có tiếng pháo, không có ông đồ già tócvà râu đều trắng màu sương khói ngồi ở một góc phố viết những câu đối Tết màuđỏ chữ đen; nhưng ngày Tết vẫn có ý nghĩa thiêng liêng với mùi trầm hương ngào ngạt trên bàn thờ tổ tiên, vói bộ quần áo mới mỗi năm chỉ có một lần, và những phong bì màu đỏ bên trong có tờ tiền thẳng nếp còn thơm mùi giấy mực.
Bao nhiêu năm trôi qua, không còn được ăn Tết Việt Nam đúng nghĩa, mỗi độ Tết Nguyên đán , tôi vẫn ăn Tết bằng ký ức. Trong một khoảnh khắc sống bằng trí tưởng, ngày Tết vẫn còn nguyên vị ngọt ngào của bánh mứt, vẻ êm đềm của thời thơ dại.
Nguyễn Trần Diệu Hương
California, ngày đầu mùa đông 2010
nguon: www vietbao com
Những chiếc cầu bắc ngang sông nước luôn luôn mang tôi về rất gần với quê nhà..Nghe nói miền Tây Nam Việt có nhiều cầu khỉ bắc qua những con rạch nhỏ, đôi khi chỉ là một thanh tre già bắc ngang hai bờ đất, không có tay cầm. Người qua cầu phài giang hai tay ra lấy thăng bang như một nghệ sĩ của đoàn xiếc.
Ai ở Biên Hòa cũng biết Cầu Gành, bắc qua sông nước Đồng Nai, nối thành phố Biên Hòa với Cù Lao Phố . là một trong những chiếc cầu đẹp và chắc chắn của quê nhà. Cầu có một lối chính giữa cho xe lừa, xe hơi, và xe gắn máy thay phiên nhau chạy qua. Hai bên là hai lối nhỏ cho người đi xe đạp, hoặc đi bộ . Trên hai lối nhỏ này, chúng tôi có rất nhiều kỷ niệm êm đềm thời thơ dại.
Đó là thời mà bộ truyện của nhà văn Duyên Anh dành cho con nít (Con Thúy, thằng Vũ, Dzũng Đakao, Bồn lưa..) gắn liền với học trò lớp 6, lớp 7. Vì mê tiểu thuyết của Duyên Anh mà chúng tôi đặt cho bạn học cùng lớp những cái tên gắn liền với địa danh nơi bạn ở. Chẳng hạn trong lớp có 3 cô bạn cùng tên Kim Chi (mặc dù cả ba đều không ăn được món "Kim chi" của Đại hàn vì...cay quá). Đặng Kim Chi nhà ở Tân Vạn, quý Thầy Cô vẫn gọi là Chi Đặng, với chúng tôi thì đó là "Chi Tân Vạn". Nguyễn Kim Chi nhà ở Cù Lao, có tên là Chi Nguyễn với các giáo sư trong lớp, chúng tôi gọi là "Chi Cù lao" Đến Lê Kim Chi thì đặc biệt hơn , vừa là một quốc gia: Chi Lê (Chile), vừa là “Chi Bửu Long” của cả lớp.
Hồi đó, học lớp 6 ở trường Ngô Quyền, lâu lâu chúng tôi hay theo “Chi Cù lao“ về Cù lao Phố chơi. Nếu là một ngày thường, hôm nào được nghỉ hai giờ cuối. Chúng tôi coi đó thật là hai tiếng vàng ngọc. Không đứa nào chịu về nhà, mà chở nhau theo Chi về nhà chơi . Muốn đến cù lao, chúng tôi phải đạp xe qua cầu Gành. Lúc đầu chúng tôi đạp xe rất dè dặt và cẩn thận. Sau này quen hơn, chúng tôi còn dám "đua xe đạp" trên lối đi nhỏ hai bên của cầu Gành. "Hội đồng giám khảo" cử hai đứa qua trước ở đầu cầu bên kia. Hai "vận động viên xe đạp" , mỗi đứa đạp xe ở lối đi bên phải, một đứa đạp xe ở lối đi bên trái của cầu Gành. "Cổ động viên” đứng ở đầu cầu bên này vỗ tay ủng hộ tinh thần "gà nhà" . Hào hứng cứ như là một cuộc đua xe đạp chính thức của người lớn. Vận động viên thường là những đứa ờ Cù Lao hay Chợ Đồn, thường xuyên đạp xe mỗi ngày hai lượt qua cầu đi học và về nhà nên rất thành thạo.
Vậy mà có lần chú lính gác cầu Gành chận cả bọn lại, mắt vẫn nhìn sông nước nhưng miệng thì "thuyết giảng" chúng tôi không được nghịch ngợm(?!) trên cầu Gành, dễ bị té xuống sông......
Hồi đó, còn dại khờ, sau khi nghe "moral" , vào đến nhà Chi Cù Lao, vừa ngồi nhai ổi, nhai bười dưới bóng cây trong vườn nhà bạn, chúng tôi vừa "lên án" người lính gác cầu . Cả chục cái miệng con gái trờ thành cả chục vị quan tòa khắc nghiệt với người lính có nhiệm vụ bảo vệ cầu:
- Ông lính đó ỷ lớn ăn hiếp con nít !
- Ông ta không muốn cho mình đua xe trên cầu nên "hù" mình coi chừng bị té xuống sông . Tao đạp xe qua lại cầu mỗi ngày chưa bao giờ bị gì.
- Hai bên cầu có chấn song dày và cao hơn tụi mình làm sao mà lọt xuống sông được.
- Mà sao ông lính đó khinh người quá há?Ổng nói mà không thèm nhìn mặt tụi mình !
Dù vậy, theo đúng tinh thần của những bài Công dân giáo dục được học từ thời lớp ba, chúng tôi vẫn nghe lời người lính, từ bỏ trò đua xe đạp trên Cầu Gành. Thay vào đó, cà bọn dựng xe sát thành cầu, ngồi ờ một bên lối đi dành cho người đi bộ , nhìn nước sông hiền hòa trôi qua bên dưới gầm cầu. Thời đó, tỉnh lỵ Biên Hòa không đông dân như bây giờ, nên không ai cằn nhằn cả một bầy học trò con gái mười hai, mười ba tuổi ngồi ngó trời ngó nước trên lối đi của cầu Gành.
Một lần, đang ngồi nhìn lên trời xanh dương, ngó xuống sông xanh lục, chúng tôi giật thót mình khi nghe tiếng súng bắn từ hướng đồn lính gác đầu cầu Gành , phía bên cù lao Phố. Đám lục bình trôi xa xa, cách chân cầu cả trăm thước bỗng dưng tan tác.
Hết cơn giật mình, bầy học trò con gái "vô công rỗi nghề" như chúng tôi lại bình luận :
- Chắc ông lính gác cầu này buồn ngủ nên bắn lục bình để tự đánh thức mình.
- Ông ta lớn mà còn giỡn kiểu đó mà không cho mình đua xe đạp trên cầu !
Mãi về sau, anh của "Chi cù lao" là một người lính , nghe chúng tôi bình....loạn về ông lính gác cầu , đã giải thích cho chúng tôi là một trong những nhiệm vụ của người lính gác cầu là phải bảo vệ cầu. Nên những đám lục bình lớn mà mấy ông VC có thể núp phía dưới hay gài mìn để phá cầu Gành đều bị bắn từ xa để đề phòng cầu bị phá.
Biết chuyện, chúng tôi có tạt ngang đồn lính bảo vệ cầu xin lỗi ông lính gác cầu về chuyện đã hồ đồ kết luận ông ta khinh người , nói chuyện mà không chịu nhìn mặt người đối diện. Ông ta cười hiền hòa :
- Không sao, các em nhỏ quá nên không biết gì về chiến tranh, về nhiệm vụ cùa ngưòi lính gác cầu. Tôi mà không chịu nhìn và bắn lục bình từ xa thì có ngày Biên Hòa không còn cầu Gành để các em ôm cặp đứng trên cầu ngó trời ngó nước.
Tuy vậy chúng tôi vẫn thấy có lỗi, nên đã tạ lỗi theo kiểu con nít. Tết năm đó, cô Ngô Bích Liên dạy nữ công ra đề thi đệ nhất lục cá nguyệt cho chúng tôi : rua khăn, và thêu góc khăn để tặng cho các chiến sĩ ở tiền tuyến. Thường thì chúng tôi thêu một nhánh mai vàng ở góc khăn. Có đứa lười biếng thêu mấy cánh chim én nhỏ xíu và một trái dưa hấu màu xanh cho nhanh. "Chi Tân Vạn" là đứa nổi tiếng “công dung ngôn hạnh” , thêu đẹp và nhanh nhất lớp, được cả lớp đề cử thêu thêm một chiếc khăn đặc biệt để tặng cho người lính gác cầu Gành như một lời tạ lỗi chân thành, như một lời cảm ơn ông ta đã cho chúng tôi ngồi trên lối đi nhỏ của cầu cả tiếng để ngó sông nước Đồng Nai và mơ mộng đủ thứ trên đời .
"Chi cù lao" vì đi qua cầu mỗi ngày hai lần nên được giao nhiệm vụ nhìn bảng tên ông lính gác cầu tốt bụng với chúng tôi. "Chi cù lao" hoàn thành nhiệm vụ nhanh chóng. Và "Chi Tân Vạn" đã thêu tên "Thăng" màu xanh ô liu bên cạnh một nhịp cầu (do Đinh Hương vẽ) thêu bằng chỉ đen lên một góc khăn rất đẹp. Cái khăn "ngoài kế hoạch" hoàn thành rất đẹp, được giặt ủi cẩn thận, sắp đem biếu người lính gác cầu thì "Chi cù lao" tìm ra tin tức mới :
- Ông lính gác cầu Gành tên Thắng chứ không phải Thăng. Mình phải thêu thêm dấu sắc.
"Chi Tân vạn" nhăn mặt nhưng may vá thêu thùa là "nghề của nàng" nên chỉ mười phút sau đã có thêm dấu sắc trên chữ "Thăng".
Chiều hai mươi ba Tết Ất Mão, năm 1975, cả nửa lớp kéo nhau qua cầu Gành . Lần này không phài qua cù lao Phố đến nhà "Chi cù lao" ăn ổi, ăn bười, ăn xoài xanh chấm muối ớt , mà ghé lại đồn gác cầu gởi tặng ông lính tên Thắng cái khăn tay rua bốn góc có hình một nhịp cầu Gành và tên "Thắng" ở một góc khăn.
Không may hôm đó không phải là phiên gác của ông Thắng. Chúng tôi gởi lại cho ngưòi lính trực hôm đó, rồi về nhà chuẩn bị đón Tết.
Ra giêng, chiến sự khốc liệt hơn. Học trò lớp sáu, lớp bảy vẫn ngây thơ, vô tư, thỉnh thoảng vẫn ngồi lê la trên lối đi dành cho người đi bộ và xe đạp, nhìn sông nước Đống Nai vẫn bình yên, hiền hòa trôi qua gầm cầu. Một điều khác biệt duy nhất là ông Thắng gác cầu không còn làm ở cầu Gành nữa . Người lính gác cầu mới, thay thế ông Thắng trẻ hơn nhưng mặt đăm chiêu hơn. Ông có chuyển lại cho chúng tôi một phong bao lì xì màu đỏ, trong đó có ba trăm đồng với một bức thư ngắn:
“-Cảm ơn cái khăn các em tặng tôi. Tôi sẽ mang theo với tôi mọi nơi. Tôi phải đổi đi đơn vị khác vì chiến trường cần tăng viện. Các em ở lại học hành chăm chỉ. Mai mốt hòa bình tôi về sẽ ghé cầu Gành thăm các em.
Tôi gới lì xì các em ba trăm đồng đề cả lớp uống nước xí muội ờ sân trường Ngô Quyền . Nói riêng cho các em biết, vài năm trước tôi cũng là học trò Ngô Quyền.”
Đó là "mối tình chung" của cả lớp với đàn anh Ngô Quyền mà chúng tôi vẫn gọi là chú Thắng gác cầu.
Gần 40 năm trôi qua không biết người lính gác cầu năm xưa đang ở nơi nào. Ít nhất là ba người bạn cùng lớp với tôi đã vĩnh viễn nằm xuống với sông nước Đống Nai.
Riêng tôi mỗi lấn qua bất cứ một cây cầu nào , dù cũ kỹ, thô sơ như cầu Bóng ớ Nha Trang, cầu Sơn ở Thị Nghè,; hay hùng vĩ, vững chắc như Golden Gate Bridge, Bay Bridge ở San Francisco, tôi vẫn nhớ quay quắt cầu Gành cùa một thời nhỏ dại hạnh phúc ở Biên Hòa.
Nguyễn Trần Diệu Hương
Santa Clara, 11/11
Link của trang: SÔNG NƯỚC ĐỒNG NAI
Biên Hòa Trong Trí Tưởng
"Tôi xa Biên Hòa năm lên mười bốn khi vừa”.... đủ khôn để ghi nhớ những ngày hạnh phúc hồn nhiên của mình bên bờ sông Đồng Nai .
Dấu chân của chúng tôi, bầy học trò con gái, cùng tiếng cười trong trẻo đã trải dài từ đường Nguyễn Hữu Cảnh, đường Trịnh Hoài Đức, đường Quốc lộ I, đường Hàm Nghi. Những con đường quen thuộc như từng góc cạnh ở nhà.
Chúng tôi thuộc đến nỗi để ý được là những cây con trồng ở lề đường cao lên được bao nhiêu, những cây cổ thụ cho bóng mát đổ lá vào tháng mấy. Những con đường thân thuộc của Biên Hòa một thủa bình yên không chỉ là đường đi, lối về của chúng tôi, mà có khi còn cung cấp đồ chơi cho chúng tôi. Chẳng hạn như con đường Lê Văn Duyệt cho chúng tôi những "chiếc máy bay" bằng lá.Con đường được đa số chúng tôi(những người sống ít nhất là 10 năm ở Biên Hòa) đồng ý là con đường đẹp nhất ở Biên Hòa. Hai bên đường có hai hàng cây cổ thụ(không biết tên là gì)nên con đường lúc nào cũng có "bóng mát cuộc đời". Đẹp hơn nữa là con đường lại là một con dốc ngắn, đầu dốc là Tòa Án Biên Hòa, và cuối dốc là sông Đồng Nai. Sau này, ở Mỹ,một số đàn anh, đàn chị Ngô Quyền ở trên con đường đó, trong "xóm Bắc kỳ di cư", kể cho chúng tôi nghe về những trò chơi trẻ thơ với những cây cổ thụ ở hai lề đường. Thời còn ở Biên Hòa, chúng tôi còn con nít, không quen biết ai ở đường Lê Văn Duyệt, nhưng cứ mỗi lần đi học hoặc về từ trường Nữ Tiểu học, đến trước cửa Tòa Án, chúng tôi đều hướng mắt về cuối dốc thăm con đường ngắn, yên tĩnh nhưng rất thơ mộng. Vào mùa trời trở gió, chúng tôi mon men đến những gốc cây đầu dốc đường Lê Văn Duyệt lượm những trái khô rơi xuống. Trái khô bằng quả cau nhỏ ở giữa, hai bên là hai cánh lá khô, nên loại trái này khi rơi xuống bay vòng vòng như chong chóng rất đẹp. Khi lên Trung học, đậu vào lớp 6 Ngô Quyền, không còn đi học ở Nữ Tiểu học, không còn đi ngang con đường đẹp nhất Biên Hòa mỗi ngày, đến mùa lá khô rụng, chúng tôi đạp xe đến đường Lê Văn Duyệt ra sức nhặt "chong chóng lá khô", vừa nhặt vừa "lạy trời gió lên, gió nữa lên" để con lượm đủ chong chóng cho cả lớp.
Phải lượm ít nhất là 30 cái chong chóng lá khô để ngày mai đi học, cả lớp có những giờ phút hào hứng trong giờ ra chơi.Phòng học năm lóp 7 nằm ởgóc dãy lầu mới xây đối diện thư viện của trường.giờ ra chơi chúng tôi đứng cạnh nhau ở lan can, chơi trò thả “máy bay”. Lúc nào cũng có vài đứa thay phiên nhau đứng dưới đất để làm giám khảo coi máy bay nào chạm đất an toàn trước nhất. Và lượm sạch các “máy bay” chạm đất để vừa khỏi bị các thầy cô giám thị phạt tội xả rác, vừa có máy bay chơi tiếp. Trò chơi đơn giản chỉ có vậy nhưng chúng tôi đã cẩn thận viết tên mình lên lá để coi ai thắng ai thua. Thường nửa nhóm đứng cuối bảng xếp hạng phải bao nửa nhóm đứng trên một chầu “xi rô xí muội” ở góc sân trường. Giải pháp đó làm cho nhóm thua chỉ phải "bao"(trả tiền nước) cho một đứa trong nhóm thắng. Hai đứa có "máy bay" chạm đất sau cùng phải bao giám khảo và "nhân viên phi trường"(đứa lượm "máy bay" trên mặt đất). Lớp học gần phòng giáo sư, và phòng Giám học nên lâu lâu chúng tôi hào hứng quá, mấy chục cái miệng thi nhau la hét ủng hộ…“máy bay” nhà, làm một vài thầy cô ra cửa nhìn lên, lắc đầu với trò chơi trẻ con của học trò lớp 7 với mấy cái lá khô. Hạnh phúc đơn giản nhưng êm đềm, đi theo chúng tôi đến suốt cuộc đời.
Trò chơi đó đã biến mất cùng với thời gian, vì nghe nói hai hàng cây cổ thụ ở đường Lê Văn Duyệt đã bị chặt từ lâu. Và con đường cũng bị đổi tên, không còn được mang tên Đức Tả Quân Lê Văn Duyệt, mà mang tên của một ai đó, rất xa lạ với chúng tôi, chưa bao giờ nghe đến tên trong các giờ Sử. Thì thôi, con đường thơ mộng ngày xưa đã không còn thì Đức Ông Lê Văn Duyệt có lẽ cũng chẳng còn gì để lưu luyến với con đường thơ mộng nhất một thời của Biên Hòa.
®®®
Ở nơi tiếp giáp hai con đường lớn của tỉnh thời trước 75, cuối đường Nguyễn Hữu Cảnh, đầu đường Hàm Nghi là một con đường nhỏ khác, một thiên đường thời thơ dại của chúng tôi.Con đường bên hông trường Nguyễn Du dẫn ra bờ sông, có Ty Bưu điện, và Ty Giáo Dục Biên Hòa là nơi chúng tôi đã thả mơ ước của mình bay cao cùng với những cánh diều. Ký ức của tôi không còn giữ được tên khúc đường ngắn thân thương, nhưng vẫn còn lưu lại những kỷ niệm tuổi thơ ở đó. Đường nằm giữa các công sở, một bên là trường Nam Tiểu học Nguyễn Du, rồi đến Ty Bưu Điện, rồi Ty Giáo dục. Bên kia (nếu trí nhớ của tôi vẫn còn tốt) là bên hông của Trường Mỹ Nghệ(?)và Tòa Hành Chánh của Tỉnh. Nên ngoài giờ làm việc, con đường hoàn toàn yên tĩnh, có những cây con còn nhỏ ở hai bên đường, chưa cho bóng mát như đường Lê Văn Duyệt nhưng là nơi tốt nhất để thả diều. Những hôm có gió, diều càng bay cao lộng gió, ước mơ của chúng tôi, con nít tỉnh nhỏ cũng bay xa, không những chỉ vượt qua bên kia sông Đồng Nai mà còn lang thang đến sông Cửu Long ở miền Tây gạo trắng nước trong.
®®®
Một con đường nhỏ khác rất êm đềm của Biên Hòa được chúng tôi gọi là đường lục bình hoa tím. Đường Công Lý hẹp hơn, là một con đường nhỏ nối đường Hàm Nghi và đường Quốc Lộ I có những ruộng lục bình hoa tím đơn sơ nhưng có vẻ đẹp hương đồng gió nội. Ban đêm tiếng ểnh ương kêu vang làm thành một bản hòa tấu mang âm hưởng của gió mát trăng thanh giữa một tỉnh lỵ an bình dù đất nước thời đó đang có chiến tranh. Đường Công Lý là nơi đua xe đạp của chúng tôi. Đường không có cây cao bóng mát nhưng nhờ màu xanh và màu tím của những ruộng lục bình, đường Công Lý có vẻ đẹp thiên nhiên đầy màu sắc:trời xanh dương, mây trắng, lá xanh lục, và hoa lục bình màu tím.
Chúng tôi lớn lên như vậy bình yên với những con đường yên ắng, mỗi con đường là một trò chơi đi theo chúng tôi mãi đến bây giờ. Lớn lên, phải nổi trôi cùng vận nước,sống đời lưu lạc ở nhiều nơi, hình như thời ở Biên Hòa là thời hạnh phúc nhất của chúng tôi.
Nhờ đi bộ mỗi ngày đi học nên chúng tôi biết được nhà nào trồng hoa ngọc lan sát cổng, hoa rụng xuống đường vào tháng mấy, để đến lượm hoa về bỏ trong cặp, trong tủ quần áo, hay trong ngăn bàn học , mùi ngọc lan thoang thoảng dịu dàng, không có một mùi nước hoa nào sánh kịp. Còn nhớ có một đứa bạn cùng lớp tên Ngọc Lan, đến ngày sinh nhật bạn, cả lớp, nhất là mấy đứa ở cù lao, ra sức lượm hoa ngọc lan vô mừng bạn. Hôm đó vô đến cửa lớp đã nghe mùi thơm nồng nàn của loại hoa màu trắng nhiều cánh. Cô Diệp là giáo sư hướng dẫn năm đó đã khen :
- Đúng là lớp con gái, hiền lành, thơm ngát. Mỗi lần ngửi mùi hoa ngọc lan, Cô sẽ nhớ đến các em.
Bao nhiêu năm trôi qua, trong trí tưởng của chúng tôi, mùi ngọc lan vẫn còn thơm ngát, và cô Diệp vẫn trẻ trung, duyên dáng, dạy Kim văn rất hay như ngày nào.
®®®
Từ ngày xa Biên Hòa, dù vẫn về Việt Nam thăm Ba Mẹ, đi ngang Biên Hòa nhiều lần, mà không dám về thăm lại Biên Hòa. Vẫn biết không có gì không thay đổi, không có ai có thề tắm hai lần trên cùng một giòng sông, tôi không bao giờ tìm lại được trường xưa, nhà cũ, và những con đường hạnh phúc của tuổi thơ. Biên Hòa bây giờ không còn một chút gì của Biên Hòa hạnh phúc ngày xưa. Và người Biên Hòa ngày nay không còn hiền lành, trung hậu như Biên Hòa thời tôi chơi những trò chơi tuổi thơ bình yên, hạnh phúc. Sông Đồng Naicũng không còn trong lành, thuần khiết như ngày xưa. Nên xin tạ lỗi cùng Biên Hòa, vì vẫn còn nguyên Biên Hòa hạnh phúc, bình yên trong trí tưởng, và không muốn mất đi hình ảnh đó, nên chúng tôi vẫn chưa nghĩ đến chuyện hạnh ngộ với Biên Hòa.
Một điều chắc chắn, Biên Hòa vẫn là một nơi chốn hạnh phúc, bình yên trong lòng của rất nhiều người Biên Hòa lưu lạc. Ở rất xa, luôn huớng lòng về Biên Hòa và mong người ở đó bây giờ cũng hạnh phúc, an lạc như chúng tôi ngày trước.
Nguyễn Trần Diệu Hương
Cuối năm 2014