- TẢN MẠN CUỐI NĂM
- TẢN MẠN CUỐI NĂM 1
- SÔNG NƯỚC ĐỒNG NAI
- BIÊN HÒA THỜI THƠ DẠI
- HẠNH NGỘ
- CHỮ TÂM CÒN MỘT CHÚT NẦY
Tản Mạn Cuối Năm
Mỗi dịp cuối năm dương lịch, khi người ta còn mượn ánh đèn trang hoàng mùa Giáng sinh soi sáng màn đêm giá rét ở Mỹ, tôi lại nhớ đến tiểu thuyết "White Teeth" của nhà văn trẻ người Anh Zadie Smith.
Khởi đầu từ một truyện ngắn được phổ biến trên báo của trường Đại học Cambridge ở phía Bắc Luân Đôn, một nhà xuất bản có uy tín ký contract với cô sinh viên hai dòng máu British và Jamaica. Thế là tiểu thuyết "White Teeth" thành hình và trở thành the best seller, mặc dù lúc đó Zadie Smith mới ở năm cuối của phân khoa Văn chương ở Cambridge.
Nhiều cây bút tên tuổi của các nước đã phân tích, phê bình "White Teeth", tôi không dám "múa rìu qua mắt thợ", chỉ xin phép được nói về sự liên quan của “White Teeth” với năm mới.
Tôi thích "White Teeth” vì câu chuyện mở đầu vào ngày đầu năm 1975. [Có lẽ vì Zadie Smith sinh năm 1975?] Như một "hội chứng Việt Nam", tôi thích đọc những tác phẩm có bối cảnh năm 1975. Nhân vật chính là Archie, một người đàn ông trung niên thuộc tầng lớp lao động ở ngoại ô Luân Đôn, không thể tự quyết định, mà luôn luôn tung một đồng tiền cắc lên trời để chờ hên xui may rủi quyết định đời mình. Sau tiệc New Year Eve (giao thừa dương lịch), bị lâm vào bế tắc, bà vợ gốc Ý dứt áo ra đi, Archie tung đồng tiền cắc lên để quyết định số phận của mình. Khi Archie cho hơi gas ra đầy xe để tự tử thì được một người cứu vì cái xe cũ của Archie đậu ở một vị trí khác thường vào thời khắc giao mùa của năm mới và năm cũ.
Không biết lúc viết White Teeth, Zadie Smith ở tuổi hai mươi có tin định mệnh không? Nhưng những tác phẩm của cô luôn có hình ảnh của định mệnh và sự thông cảm, bao dung.
Nói ra thì ít người tin nhưng tôi biết đến "White Teeth" trong một lần lên Google mò mẩm tìm sử liệu về tháng 4 năm 1975. Tình cờ đưa tôi "làm quen" với tác giả Zadie Smith.
Và từ đó cứ vào tuần lễ sau Giáng sinh, khi các cửa hàng đồng loạt bán các sản phẩm cho "count down party" vào thời khắc giao thừa dương lịch, các cơ quan truyền thông của Mỹ loan báo những nhân vật và sự kiện lớn nhất trong năm, tôi lại nhớ định mệnh trong "White Teeth" cứu anh chàng Archie thoát chết.
Mấy ngày nghỉ lễ cuối năm, trời mùa đông lạnh buốt dưới độ đông đá, tôi thích đóng cửa nằm nhà đọc sách để nếu có soi gương thấy mặt mày mình vẫn còn phảng phất nét học trò… già. Xem ra chỉ có mỗi một tuần lễ từ Giáng sinh đến Tết dương lịch đầu năm Tây là khoảng thời gian duy nhất mọi sinh hoạt ở Mỹ chậm lại. Đường sá vắng hẳn so với ngày thường. Hình như mọi người đều đang bận "tính sổ cuối năm".
Sổ thương mại, sổ kế toán, sổ ngân hàng...dù có phức tạp đến đâu, cũng có công thức. Nhưng sổ đời thì tính hoài vẫn không như ý.
"Tính sổ cuối năm" có đủ cộng, trừ, nhân, chia. Chỉ cần chuyển dịch "con chuột" và "mũi tên" trên monitor thì các phép tính thay đổi được theo ý muốn. Nhưng quyển sổ cuộc đời thì dù có tính kiểu nào đi nữa, dấu cộng cùa thời gian vẫn vô tình, tàn nhẫn phân phát đều đặn cho tất cả động vật và thực vật. Dấu nhân của tình cảm vẫn thầm lặng khắc ghi. Dấu trừ luôn luôn có mặt trong sức khỏe và sắc diện. Dấu chia hiện diện trong tư tưởng nên thiên tài luôn hiếm quý ở trần gian. Ước gì con người hoán đổi được vị trí của bốn phép tính tưởng như đơn giản mà phức tạp hơn cả mọi lớp toán cao cấp trên đời. Chẳng hạn nếu dấu cộng nằm trước sức khỏe và tuổi trẻ. Dấu trừ đi theo ích kỷ, và oán thù. Dấu chia hiện diện cùng ân sủng và hạnh phúc. Dấu nhân gắn bó với chia xẻ và thương yêu thì thiên đàng rất gần và có thật ở đời sống hàng ngày.
Ngày xưa học lớp 12 chuyên toán, chúng tôi giải được rất nhiều bài toán khó từ lượng giác, đạo hàm đến tích phân... Vậy mà hơn nửa cuộc đời vẫn vất vả loay hoay, đôi khi bó tay, trước những cộng trừ nhân chia đơn giản của cuộc đời.
Bài toán cuộc đời chưa và có lẽ sẽ chẳng bao giờ tìm được ẩn số hài lòng người giải nhưng cứ mỗi một năm mới đến lại đem theo hy vọng cho một dấu nhân của chia xẻ và thương yêu, một dấu trừ cho bạo lực và chiến tranh. Được như vậy thì có lẽ mùa Xuân sẽ vẫn ở quanh năm trên quyển sổ cuộc đời.
Cuối năm 2011
NGUYỄN TRẦN DIỆU HƯƠNG
Tản mạn cuối năm 1
Mấy ngày nghỉ lễ cuối năm, trời mùa đông lạnh buốt dưới độ đông đá, tôi đóng cừa nằm nhà đọc sách đề nếu có soi gương thấy mặt mày mình vẫn còn phảng phất nét học trò… già. Tôi có dịp đọc lại Tuyển tập NQ 2011 để cùng rớt nước mắt với Nguyễn Thị Hoa như Hoa đã viết rất chân tình về đặc san NQ 2006 phát hành nhân dịp họp mặt chs NQ toàn thế giới lần đầu :
“- Một ngày đẹp trời, có một quyển đặc san NQ bay nửa vòng trái đất về đến tay tôi. Mừng đến rơi nước mắt....”
Tướng là chì có mình sống đời lưu lạc, mất quê hương, mất trường xưa mới hay mau nước mắt khi nhắc đến "quê hương nếu ai không nhớ thì không lớn nổi thành người" không ngờ cô bạn ròm ngày xưa cũng giọt ngắn giọt dài như khi tìm lại được Ngô Quyền xưa trên những trang giấy.
Nước mắt chưa kịp lau bằng Kleenex, giọt cũ chưa ráo thì lại có giọt khác tiếp nối khi đọc lại bài của đàn anh Huỳnh Văn Huê về chuyện anh nâng niu, gìn giữ một viên gạch hình khối chữ nhật anh lượm được khi trường xưa bị san bằng để xây trường mới. Viên gạch mà anh Huê đã lục lạo tìm kiếm trong đống gạch vụn đổ nát ngày trường xưa về với cát bụi trước "…ánh mắt ngạc nhiên lẫn hiếu kỳ của nhiều người...."
Xin được phép "nói chuyện riêng" với anh Huê và Hoa.
“-Thưa anh Huê, không có mặt ờ trường xưa, "thánh địa" êm ái hồn nhiên thời học trò của anh em mình và của rất nhiều chs NQ, đề cùng anh Huê "đãi cát tìm vàng", nhưng đàn em hiểu cảm giác mất mát của anh. Em tin là trong một góc nhỏ của ký ức thầy trò NQ, trường xưa vẫn còn nguyên, không bao giờ bị san bằng. Ngày nào chs NQ khóa 19 trở về trước còn tồn tại trên đời, ngày đó cửa Khổng sân Trình NQ thời Trung học của mình vẫn còn nguyên. Em tin chắc như vậy. “
“- Hoa thân mến, không phài chỉ một mình mày rớt nước mắt khi đọc lại hồi ức về trường xưa. Hồi đó tụi mình cùng cười giòn giã mỗi ngày từ đường Quốc lộ 1, đến đường Trịnh Hoài Đức, rồi đường Nguyễn Hữu Cảnh. Bây giờ tụi mình cùng khóc âm thầm khi nhắc đến thời đi học, nhất là nhắc đến BC, YN, C. đi mãi không về. Điều khác biệt là ngày xưa mình cười cạnh nhau, chỉ cần giơ tay lên là có thể tay bắt mặt mừng; bây giờ mình ở xa nhau nửa vòng trái đất. Thế hệ trứơc đã cùng "khóc cười với vận nước nổi trôi”. Mình tài hèn sức mọn hơn chỉ dám cùng khóc cười với kỷ niệm thời mới lớn ở NQ yêu dấu ngày xưa phải không Hoa?
Một năm cũ sắp khép lại, thời gian trôi nhanh cuốn theo nhiều thứ và cả nhiều người thân yêu về với cát bụi.
"Tính sồ cuối năm" trong công việc có đủ cộng, trừ, nhân, chia. Chì cần chuyển dịch "con chuột" và "mũi tên" trên monitor thì các phép tính thay đồi được theo ý muốn. Nhưng quyển sổ cuộc đời thì dù có tính kiều nào đi nữa, dấu cộng cùa thời gian vẫn vô tình, tàn nhẫn phân phát đều đặn cho tất cả động vật và thực vật. Dấu nhân của tình cảm vẫn thầm lặng khắc ghi. Dấu trừ luôn luôn có mặt trong sức khỏe và sắc diện. Dấu chia hiện diện trong tư tưởng nên thiên tài luôn hiếm quý ở trần gian. Ước gì con người hoán đổi được vị trí cùa bốn phép tính tưởng như đơn giàn mà phức tạp hơn cả mọi lớp toán cao cấp trên đời. Chẳng hạn nếu dấu cộng nằm trước sức khỏe và tuồi trẻ. Dấu trừ đi theo ích kỷ, và oán thù. Dấu chia hiện diện cùng ân sủng và hạnh phúc. Dấu nhân gắn bó với chia xẻ và thương yêu thì thiên đàng rất gần và có thật ở đời sống hàng ngày.
Ngày xưa học lớp 12 chuyên toán, chúng tôi giải được rất nhiều bài toán khó từ lượng giác, đạo hàm đến tích phân... Vậy mà hơn nửa cuộc đời vẫn vất vả loay hoay , đôi khi bó tay, trước những cộng trừ nhân chia đơn giản của cuộc đời.
Và vì vậy Hoa ơi, bạn bè thân mến ơi, Huỳnh Phước Minh đã làm thơ, và Hương đã viết văn để bù lại cho tội không giải được bài toán cuộc đời. Hồi xưa còn học Ngô Quyền tụi mình cứ ngây thơ tưởng nếu giải được những bài toán khó thì giái được mọi ẩn số của cuộc đời như trẻ thơ tin ông già Noel có thật trên đời. Trong cái ngây thơ, cả tin ở đời sống, mình đã có được một hành trang kỷ niệm ngọt ngào để mang theo canh cánh bên lòng…
Nguyễn Trần Diệu Hương – Christmas 2011
viết cho chs NQ khóa 15, 16, 17, và 18
SÔNG NƯỚC ĐỒNG NAI
Những chiếc cầu bắc ngang sông nước luôn luôn mang tôi về rất gần với quê nhà..Nghe nói miền Tây Nam Việt có nhiều cầu khỉ bắc qua những con rạch nhỏ, đôi khi chỉ là một thanh tre già bắc ngang hai bờ đất, không có tay cầm. Người qua cầu phài giang hai tay ra lấy thăng bằngnhư một nghệ sĩ của đoàn xiếc.
Ai ở Biên Hòa cũng biết Cầu Gành, bắc qua sông nước Đồng Nai, nối thành phố Biên Hòa với Cù Lao Phố . là một trong những chiếc cầu đẹp và chắc chắn của quê nhà. Cầu có một lối chính giữa cho xe lừa, xe hơi, và xe gắn máy thay phiên nhau chạy qua. Hai bên là hai lối nhỏ cho người đi xe đạp, hoặc đi bộ . Trên hai lối nhỏ này, chúng tôi có rất nhiều kỷ niệm êm đềm thời thơ dại.
Đó là thời mà bộ truyện của nhà văn Duyên Anh dành cho con nít (Con Thúy, thằng Vũ, Dzũng Đakao, Bồn lưa..) gắn liền với học trò lớp 6, lớp 7. Vì mê tiểu thuyết của Duyên Anh mà chúng tôi đặt cho bạn học cùng lớp những cái tên gắn liền với địa danh nơi bạn ở. Chẳng hạn trong lớp có 3 cô bạn cùng tên Kim Chi (mặc dù cả ba đều không ăn được món "Kim chi" của Đại hàn vì...cay quá). Đặng Kim Chi nhà ở Tân Vạn, quý Thầy Cô vẫn gọi là Chi Đặng, với chúng tôi thì đó là "Chi Tân Vạn". Nguyễn Kim Chi nhà ở Cù Lao, có tên là Chi Nguyễn với các giáo sư trong lớp, chúng tôi gọi là "Chi Cù lao" Đến Lê Kim Chi thì đặc biệt hơn , vừa là một quốc gia: Chi Lê (Chile), vừa là “Chi Bửu Long” của cả lớp.
Hồi đó, học lớp 6 ở trường Ngô Quyền, lâu lâu chúng tôi hay theo “Chi Cù lao“ về Cù lao Phố chơi. Nếu là một ngày thường, hôm nào được nghỉ hai giờ cuối. Chúng tôi coi đó thật là hai tiếng vàng ngọc. Không đứa nào chịu về nhà, mà chở nhau theo Chi về nhà chơi . Muốn đến cù lao, chúng tôi phải đạp xe qua cầu Gành. Lúc đầu chúng tôi đạp xe rất dè dặt và cẩn thận. Sau này quen hơn, chúng tôi còn dám "đua xe đạp" trên lối đi nhỏ hai bên của cầu Gành. "Hội đồng giám khảo" cử hai đứa qua trước ở đầu cầu bên kia. Hai "vận động viên xe đạp" , mỗi đứa đạp xe ở lối đi bên phải, một đứa đạp xe ở lối đi bên trái của cầu Gành. "Cổ động viên” đứng ở đầu cầu bên này vỗ tay ủng hộ tinh thần "gà nhà" . Hào hứng cứ như là một cuộc đua xe đạp chính thức của người lớn. Vận động viên thường là những đứa ờ Cù Lao hay Chợ Đồn, thường xuyên đạp xe mỗi ngày hai lượt qua cầu đi học và về nhà nên rất thành thạo.
Vậy mà có lần chú lính gác cầu Gành chận cả bọn lại, mắt vẫn nhìn sông nước nhưng miệng thì "thuyết giảng" chúng tôi không được nghịch ngợm(?!) trên cầu Gành, dễ bị té xuống sông......
Hồi đó, còn dại khờ, sau khi nghe "moral" , vào đến nhà Chi Cù Lao, vừa ngồi nhai ổi, nhai bười dưới bóng cây trong vườn nhà bạn, chúng tôi vừa "lên án" người lính gác cầu . Cả chục cái miệng con gái trờ thành cả chục vị quan tòa khắc nghiệt với người lính có nhiệm vụ bảo vệ cầu:
- Ông lính đó ỷ lớn ăn hiếp con nít !
- Ông ta không muốn cho mình đua xe trên cầu nên "hù" mình coi chừng bị té xuống sông . Tao đạp xe qua lại cầu mỗi ngày chưa bao giờ bị gì.
- Hai bên cầu có chấn song dày và cao hơn tụi mình làm sao mà lọt xuống sông được.
- Mà sao ông lính đó khinh người quá há?Ổng nói mà không thèm nhìn mặt tụi mình !
Dù vậy, theo đúng tinh thần của những bài Công dân giáo dục được học từ thời lớp ba, chúng tôi vẫn nghe lời người lính, từ bỏ trò đua xe đạp trên Cầu Gành. Thay vào đó, cà bọn dựng xe sát thành cầu, ngồi ờ một bên lối đi dành cho người đi bộ , nhìn nước sông hiền hòa trôi qua bên dưới gầm cầu. Thời đó, tỉnh lỵ Biên Hòa không đông dân như bây giờ, nên không ai cằn nhằn cả một bầy học trò con gái mười hai, mười ba tuổi ngồi ngó trời ngó nước trên lối đi của cầu Gành.
Một lần, đang ngồi nhìn lên trời xanh dương, ngó xuống sông xanh lục, chúng tôi giật thót mình khi nghe tiếng súng bắn từ hướng đồn lính gác đầu cầu Gành , phía bên cù lao Phố. Đám lục bình trôi xa xa, cách chân cầu cả trăm thước bỗng dưng tan tác.
Hết cơn giật mình, bầy học trò con gái "vô công rỗi nghề" như chúng tôi lại bình luận :
- Chắc ông lính gác cầu này buồn ngủ nên bắn lục bình để tự đánh thức mình.
- Ông ta lớn mà còn giỡn kiểu đó mà không cho mình đua xe đạp trên cầu !
Mãi về sau, anh của "Chi cù lao" là một người lính , nghe chúng tôi bình....loạn về ông lính gác cầu , đã giải thích cho chúng tôi là một trong những nhiệm vụ của người lính gác cầu là phải bảo vệ cầu. Nên những đám lục bình lớn mà mấy ông VC có thể núp phía dưới hay gài mìn để phá cầu Gành đều bị bắn từ xa để đề phòng cầu bị phá.
Biết chuyện, chúng tôi có tạt ngang đồn lính bảo vệ cầu xin lỗi ông lính gác cầu về chuyện đã hồ đồ kết luận ông ta khinh người , nói chuyện mà không chịu nhìn mặt người đối diện. Ông ta cười hiền hòa :
- Không sao, các em nhỏ quá nên không biết gì về chiến tranh, về nhiệm vụ cùa ngưòi lính gác cầu. Tôi mà không chịu nhìn và bắn lục bình từ xa thì có ngày Biên Hòa không còn cầu Gành để các em ôm cặp đứng trên cầu ngó trời ngó nước.
Tuy vậy chúng tôi vẫn thấy có lỗi, nên đã tạ lỗi theo kiểu con nít. Tết năm đó, cô Ngô Bích Liên dạy nữ công ra đề thi đệ nhất lục cá nguyệt cho chúng tôi : rua khăn, và thêu góc khăn để tặng cho các chiến sĩ ở tiền tuyến. Thường thì chúng tôi thêu một nhánh mai vàng ở góc khăn. Có đứa lười biếng thêu mấy cánh chim én nhỏ xíu và một trái dưa hấu màu xanh cho nhanh. "Chi Tân Vạn" là đứa nổi tiếng “công dung ngôn hạnh” , thêu đẹp và nhanh nhất lớp, được cả lớp đề cử thêu thêm một chiếc khăn đặc biệt để tặng cho người lính gác cầu Gành như một lời tạ lỗi chân thành, như một lời cảm ơn ông ta đã cho chúng tôi ngồi trên lối đi nhỏ của cầu cả tiếng để ngó sông nước Đồng Nai và mơ mộng đủ thứ trên đời .
"Chi cù lao" vì đi qua cầu mỗi ngày hai lần nên được giao nhiệm vụ nhìn bảng tên ông lính gác cầu tốt bụng với chúng tôi. "Chi cù lao" hoàn thành nhiệm vụ nhanh chóng. Và "Chi Tân Vạn" đã thêu tên "Thăng" màu xanh ô liu bên cạnh một nhịp cầu (do Đinh Hương vẽ) thêu bằng chỉ đen lên một góc khăn rất đẹp. Cái khăn "ngoài kế hoạch" hoàn thành rất đẹp, được giặt ủi cẩn thận, sắp đem biếu người lính gác cầu thì "Chi cù lao" tìm ra tin tức mới :
- Ông lính gác cầu Gành tên Thắng chứ không phải Thăng. Mình phải thêu thêm dấu sắc.
"Chi Tân vạn" nhăn mặt nhưng may vá thêu thùa là "nghề của nàng" nên chỉ mười phút sau đã có thêm dấu sắc trên chữ "Thăng".
Chiều hai mươi ba Tết Ất Mão, năm 1975, cả nửa lớp kéo nhau qua cầu Gành . Lần này không phài qua cù lao Phố đến nhà "Chi cù lao" ăn ổi, ăn bười, ăn xoài xanh chấm muối ớt , mà ghé lại đồn gác cầu gởi tặng ông lính tên Thắng cái khăn tay rua bốn góc có hình một nhịp cầu Gành và tên "Thắng" ở một góc khăn.
Không may hôm đó không phải là phiên gác của ông Thắng. Chúng tôi gởi lại cho ngưòi lính trực hôm đó, rồi về nhà chuẩn bị đón Tết.
Ra giêng, chiến sự khốc liệt hơn. Học trò lớp sáu, lớp bảy vẫn ngây thơ, vô tư, thỉnh thoảng vẫn ngồi lê la trên lối đi dành cho người đi bộ và xe đạp, nhìn sông nước Đống Nai vẫn bình yên, hiền hòa trôi qua gầm cầu. Một điều khác biệt duy nhất là ông Thắng gác cầu không còn làm ở cầu Gành nữa . Người lính gác cầu mới, thay thế ông Thắng trẻ hơn nhưng mặt đăm chiêu hơn. Ông có chuyển lại cho chúng tôi một phong bao lì xì màu đỏ, trong đó có ba trăm đồng với một bức thư ngắn:
“-Cảm ơn cái khăn các em tặng tôi. Tôi sẽ mang theo với tôi mọi nơi. Tôi phải đổi đi đơn vị khác vì chiến trường cần tăng viện. Các em ở lại học hành chăm chỉ. Mai mốt hòa bình tôi về sẽ ghé cầu Gành thăm các em.
Tôi gới lì xì các em ba trăm đồng đề cả lớp uống nước xí muội ờ sân trường Ngô Quyền . Nói riêng cho các em biết, vài năm trước tôi cũng là học trò Ngô Quyền.”
Đó là "mối tình chung" của cà lớp với đàn anh Ngô Quyền mà chúng tôi vẫn gọi là chú Thắng gác cầu.
Gần 40 năm trôi qua không biết người lính gác cầu năm xưa đang ở nơi nào. Ít nhất là ba người bạn cùng lớp với tôi đã vĩnh viễn nằm xuống với sông nước Đống Nai.
Riêng tôi mỗi lấn qua bất cứ một cây cầu nào , dù cũ kỹ, thô sơ như cầu Bóng ớ Nha Trang, cầu Sơn ở Thị Nghè,; hay hùng vĩ, vững chắc như Golden Gate Bridge, Bay Bridge ở San Francisco, tôi vẫn nhớ quay quắt cầu Gành cùa một thời nhỏ dại hạnh phúc ở Biên Hòa.
Nguyễn Trần Diệu Hương
Santa Clara, 11/11
BIÊN HÒA THỜI THƠ DẠI
Sông Đồng Nai và những trái bưởi ngọt thanh là hình ảnh gắn liền với Biên Hòa trong lòng rất nhiều người, nhất là những người phài sống đời lưu lạc. Với riêng tôi, Biên Hòa gắn với hình ảnh bờ sông Đồng Nai gần Bưu điện, với những cây hoa hoàng hậu màu tím (còn có một cái tên rất thô thiển là "hoa móng bò") ở sân trường Nữ tiểu học; và trường Ngô Quyền thân yêu với những ngày leo con dốc dài trên đường Quốc lộ một đi học.
Đầu tháng mười hai âm lịch là lũ học trò chúng tôi nao nức đếm từng ngày đến Tết như một ca ca dao trong sách tập đọc lớp ba:
"Cu kêu ba tiếng cu kêu,
Cho mau đến Tết dựng nêu ăn chè"
Đến bây giờ tôi vẫn còn thuộc mặc dù vẫn không hiểu tại sao hình ảnh cây nêu ngày Tết lại có liên quan đến loài chim cu và những chén chè ngọt ngào.
Năm năm ở trường Tiểu học, dưới mười tuổi, còn quá nhỏ nên chúng tôi được cô giáo lo cho mọi thứ. Đến "ngày tất niên" (ngày học cuối cùng trước khi nghỉ Tết khoảng hai tuần), bầy con gái nhỏ chỉ việc kéo nhau đến trường mà không phải ôm cặp, không phải học bài, mà lại còn được tha hồ ăn mứt, kẹo trong tiệc tất niên ở từng lớp. Thường thì chì có các loại mứt quen thuộc như mứt khoai, mứt bí, mứt gừng, mứt hột sen... có phủ một lớp áo đường ở ngoài, và cắn hột dưa màu đỏ. Những đứa chưa mọc răng cửa vẫn nhìn bạn bè cắn hột dưa dòn tan với tất cả "vẻ ngưỡng mộ”. Mỗi đứa được cô giáo phát một chai xá xị hay nước chanh có cắm sẵn ống hút. Ớ một góc lớp có một cây mai giả làm bằng giấy nhún màu vàng, công trình của cả lớp trong mấy giờ thủ công, nhìn từ xa cũng giông giống mai thật. Chỉ có vậy, nhưng mấy cô học trò bé tí xíu vui vẻ, rạng rỡ còn hơn người lớn dự yến tiệc. Đến cuối tiệc tất niên, chia tay nhau về, chúng tôi còn tặng cho nhau một tấm thiệp chúc Tết, thường là tự làm lấy, chỉ có nét vẽ vụng dại hoa mai vàng, pháo đỏ, hay mấy phong bao lì xì màu đỏ bên cạnh mấy chữ "cung chúc tân xuân" nắn nót viết còn hơn là mấy ông đồ xưa viết câu đối Tết. Vậy mà niềm vui tuổi nhỏ kéo dài đến "ra giêng" đi học lại. Lớn lên, nghĩ lại kỷ niệm xưa, dù bạn bè cùng lớp thời thơ dại đã biền biệt phương nào, dư âm của hạnh phúc tuồi thơ vẫn còn ngọt ngào êm dịu.
Kỷ niệm ngày Tết ở Ngô Quyền thì vui hơn, thơ mộng hơn, và có phảng phất "hình như là tình yêu" mà thật ra không phải là tình yêu, chỉ là dao động của tuổi dậy thì. Cũng như thời tiểu học, vào tháng chạp âm lịch là lòng chúng tôi mở hội vì gần Tết, chúng tôi lại vừa thi đệ nhất lục cá nguyệt xong, không còn phải thức khuya dậy sớm học bài, không phải lo lắng bài vở. Thời gian đó, nếu thầy cô cho làm bài kiểm tra là cả lớp cùng đoàn kết "đình công" vì chẳng có đứa nào học bài trong mấy tuần trước Tết. Đã vậy, sau khi tan học, thay vì về nhà, nhiều khi cả lớp còn "dung dăng dung dẻ" đi coi chợ hoa, đi coi các hàng bánh mứt. Và chỉ dám đứng xa mà nhìn, không dám đến gần, sợ đổ bể cái gì thì chỉ có cách làm công để trừ nợ vì không đứa nào có tiền.
Sau này, trưởng thành hơn, nghĩ lại mới thấy hình ảnh của học trò con gái tuổi mười ba, mười bốn cũng là một biều tượng sống cùa mùa xuân, góp phần tô điễm cho hương sắc mùa xuân bên cạnh mai, lan, cúc, trúc... khoe sắc trong chợ hoa ngày Tết.
Những con đường chính của tỉnh lỵ Biên Hòa lúc đó, dưới con mắt của học trò đệ nhất cấp, chỉ gồm có Quốc lộ một, Nguyễn Hữu Cảnh, và Trịnh Hoài Đức. Những con đường quen thuộc mà chúng tôi đi qua, đi lại bằng xe đạp, xe lam, hay đi bộ mỗi ngày rất quen thuộc đến độ biết chỗ nào có ổ gà, chỗ nào cần phải lấy hơi đạp xe lên dốc, nhất là những lúc phải chở một đứa bạn hơi... "sổ sữa" ở yên sau của xe đạp mini bánh rất nhỏ.
Đa số chúng tôi đi học bằng xe lam (một loại xe ba bánh chở nhiều nhất là mười người khách) nhưng lúc về thì đi bộ, nhất là những ngày học buổi chiều. Buổi trưa trời nắng chang chang, đi học bằng xe lam rất thuận tiện, chỉ tốn có năm đồng. Xe ngừng trước cổng trường Ngô Quyền, thả ra từng đàn học sinh áo trắng là một hình ảnh rất đẹp mỗi sáng, mỗi trưa, như một cái đồng hồ chính xác của những người sống gần trường. Học trò tỉnh lỵ thời đó rất dễ thương, hôm nào lỡ quên đem tiền, có khi một nữ sinh Ngô Quyền khác hào phóng trả giùm, có khi bác tài xế cho nợ ngày mai sẽ trả. Cả chủ nợ lẫn con nợ đều không quen biết nhau, có khi bác tài cũng chẳng nhớ mặt con nợ trong cả trăm nữ sinh áo dài trắng đồng phục giống nhau, nhưng con nợ không bao giờ quên trả món tiền thiếu chịu. Ngày hôm sau, đi học sớm, đứng ở chỗ chờ xe lam quen thuộc hay ở cổng trường nhìn mặt từng bác lái xe lam để trả lại cho bác tài tử tế năm đồng thiếu chịu.
Chỗ chúng tôi vẫn đứng chờ xe lam là một ngã ba, có một cái bồn phun nước, có lẽ để tiết kiệm nước, chỉ có ban đêm nước mới phun lên; ban ngày chỉ có một chút nước trong lòng hồ, nhưng được cái là bao giờ bồn nước cũng sạch, không có rong rêu, không có rác. Mỗi lần đứng chờ xe lam dưới bóng cây, chúng tôi vẫn mong rằng lúc nào cũng có nước phun lên chắc một góc tỉnh lỵ sẽ sinh động hơn. Một lần, không hiểu tại sao xe lam không đến khoảng năm phút một lần như thường lệ, cả một bầy học trò vừa ngơ ngác, vừa lo lắng sợ trễ học, có một chiếc xe nhà binh GMC loại lớn nhất, chắc có ít nhất là mười bánh xe, đậu lại. Trên xe không có ai, chỉ có mỗi một ông tài xế. Chắc là tội nghiệp học trò (hay là nhờ có những chị học lớp mười một, mười hai đang ở độ tuổi đẹp nhất đời người nổi bật trong đám học trò lóc nhóc lô nhô?), ông tài xế thò đầu ra từ buồng lái, hét lớn át cả tiềng động cơ xe:
- Các em đi học ở đâu? Ngô Quyền, Trần Thượng Xuyên, hay Khiết Tâm phải không? Lên xe đi, tôi chở giùm đến trường.
"Được lời như cởi tấm lòng", cả nhóm học trò chừng hơn ba chục người giúp nhau leo lên xe vì cái xe rất cao, học trò con gái thì áo dài thướt tha, có nhiều chị lại còn mang guốc cao. Trong lòng một cái xe GMC của lính, bầy học trò tự nhiên thấy mình bé nhỏ lại cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng ngồi lọt thỏm trong một góc xe.
Dọc đường, rất nhiều người nhìn lên xe với dấu chấm hỏi trong đầu khi thấy một chiếc GMC đầy bụi đường, thường chở những người lính từng "nằm gai nếm mật" với súng ống đạn dược, lại chở một nhóm học trò áo trắng trong trẻo, ngây thơ với cặp sách tinh khôi. Đó là lần đầu tiên và có lẽ cũng là lần duy nhất trong đời, học trò chúng tôi được đi trên một chiếc xe GMC to lớn phảng phất mùi vị của chiến tranh. Bỗng dưng thấy mình lớn hơn, cao hơn tất cả người và xe đang xuôi ngược trên đường, và được dịp "nhìn xuống cuộc đời" từ mắt nai của học trò.
Đến trước cổng trường, người lính dừng xe lại, chị lớn nhất nhóm leo xuống trước, hỏi ông ta:
- Chú ơi cho tụi cháu trả tiền xe.
Người lính cười thành tiếng, khoe hàm răng trắng nổi bật trên khuôn mặt sạm nắng:
- Cho các cô các cậu thiếu chịu. Lần sau trả luôn.
Lúc đó là tháng giêng năm 1975, gần đến Tết Ất Mão, nên chẳng bao giờ có một lần sau như lời người lính tốt bụng đã chở giùm một nhóm học trò trung học đến trường. Với riêng tôi, đó cũng là một món nợ nhỏ suốt đời không trả được. Sau này mới biết hôm đó là ngày đình công của nghiệp đoàn những người lái xe lam, học trò con nít không theo dõi tin tức nên không biết, vẫn đứng chờ xe lam đến như thông lệ.
Buổi chiều tan học, trời đẹp, đi bộ vui hơn, lâu lâu còn ghé tiệm cho thuê sách Nam Tạo ở gần Ty Cảnh Sát và rạp Biên Hùng để mướn truyện về đọc. Còn nhỏ, chưa phải nấu ăn, chưa phải phụ việc nhà nhiều, không cần phải về gấp, nên trên đường về, chúng tôi còn đủng đỉnh ghé vô tiệm sách Huỳnh Hiệp trên đường Trịnh Hoài Đức "đọc cọp" các loại sách truyện bày bán trên giá. Có khi ba bốn đứa còn chia nhau, mỗi đứa đọc một chương của một quyển sách nào đó có cái bìa rất đẹp, hoặc "nghe đồn" đó là một truyện rất hay. Chỉ hai hay ba ngày liên tiếp như vậy, cả lớp đã được biết toàn bộ nội dung câu chuyện. Xin gởi lời cảm ơn muộn màng đến nhà sách Huỳnh Hiệp đã không nỡ đuổi những cô học trò nhỏ chuyên "đọc cọp" vì không có tiền mua sách.
Thật ra trình độ học trò lớp bảy lúc đó, còn ngây thơ, quanh đi quẩn lại chỉ đọc các tác phẩm của Tự lực văn đoàn trong chương trình Quốc văn ở trường, và các tác phẩm cúa tủ sách Tuổi hoa mà cà người đọc lẫn người viết vẫn còn trong thời kỳ cắp sách. Chúng tôi đi hàng ngang trên đường phố, lúc đó vẫn còn nguyên vẻ bình yên của tỉnh lỵ, luân phiên kể chuyện theo thứ tự từng chương sách. Chắc thấy học trò con gái ngoan ngoãn dễ thương, không có ai phàn nàn với kiểu đi chiếm hết lề đường của chúng tôi.
Hồi đó vì chiến tranh, không được đốt pháo vào ngày Tết, nghe nói lệnh cấm chỉ có từ sau Tết Mậu Thân 1968. Nên với thế hệ chúng tôi, ngày Tết không có tiếng pháo, không có ông đồ già tóc và râu đều trắng màu sương khói ngồi ở một góc phố viết những câu đối Tết màu đỏ chữ đen; nhưng ngày Tết vẫn có ý nghĩa thiêng liêng với mùi trầm hương ngào ngạt trên bàn thờ tổ tiên, vói bộ quần áo mới mỗi năm chỉ có một lần, và những phong bì màu đỏ bên trong có tờ tiền thẳng nếp còn thơm mùi giấy mực.
Bao nhiêu năm trôi qua, không còn được ăn Tết Việt Nam đúng nghĩa, mỗi độ Tết Nguyên đán , tôi vẫn ăn Tết bằng ký ức. Trong một khoảnh khắc sống bằng trí tưởng, ngày Tết vẫn còn nguyên vị ngọt ngào của bánh mứt, vẻ êm đềm của thời thơ dại.
Nguyễn Trần Diệu Hương
California, ngày đầu mùa đông 2010
HẠNH NGỘ
Thời khóa biểu đã được chia ra đàng hoàng khi chúng tôi có hai người khách… không mời mà đến, nhất là đến vào đầu tháng mười hai, ngày ngắn lại và giống như mọi người Mỹ khác, chúng tôi phải chạy đua nước rút với kim đồng hồ với những project cuối năm với quà cáp, ân nghĩa như người Việt Nam tất bật vào những ngày cận tết âm lịch.
Danh đến từ Massachusetts -đúng ra là đến từ Việt Nam- , và Hân đến từ Missouri. Cả hai sẽ ở nhà chúng tôi, những người bạn từ thời trung học ở quê nhà. Trước hôm hai người bạn cũ đến chúng tôi dù rất bận rộn cũng đã có một…hội nghị bàn…bầu dục ở phòng khách nhà An bàn chuyện đón tiếp, và chứng kiến cuộc hội ngộ của "Romeo-Juliette" . Romeo và Juliette của chúng tôi chỉ giống những nhân vật của Shakespeare một nửa. Đó là một mối tình đẹp như mơ, làm cả lớp thầm ao ước. Ngày đó, Danh là cầu thủ bóng chuyền của trường, cao lêu nghêu có điều không được vạm vỡ cho lắm, vì thiếu dinh dưỡng. Ngày đó, Hân có đôi mắt buồn và đẹp như đôi mắt hiền lành của nai tơ. Từ đầu năm lớp mười, hầu hết con gái trong lớp đều thầm để ý đến Danh và hầu hết con trai đều len lén ngắm Hân bất cứ lúc nào có thể được. Nhưng một cách âm thầm,” hai cái đinh” của lớp chỉ đến ý đến nhau, mà không chú ý gì đến thiên hạ. Cả hai rất kín tiếng. Chúng tôi chỉ khám phá được mối tình lặng lẽ này khi thấy cả một đoàn xe đủ loại: xe lam, xe ba gác, xe đạp, xe thổ mộ, xe bò (toàn là những loại xe nghèo nàn, lạc hậu ở Việt Nam cuối thập niên 80) làm bằng phấn viết đủ màu ở nhà Hân. Đoàn xe có được tạo thành từ bàn tay khéo léo của Danh với những viên phấn đủ màu. Bàn tay với những ngón thon dài của Danh rất nghệ sĩ, rất tài hoa, vừa đánh guitar vừa liệng những trái banh tròn vào lưới bóng rổ hay qua lưới bóng chuyền rất chính xác. Bàn tay đó cũng đóng góp được cho đội tuyển học sinh giỏi toán toàn tỉnh Khánh Hòa một điểm số toàn đội cao nhất miền Trung. Điều đáng nhớ nhất sau bao nhiêu năm tháng là cái dáng cao lêu nghêu của Danh ngồi dưới gốc cây sầu đông phía sau lớp học, đục đẻo những viên phấn màu, làm thành những chiếc xe rất đẹp, mặc dù lúc đó bạn chúng tôi chưa bao giờ qua một trường lớp nào về điêu khắc.
Chuyện tình học trò của họ đẹp như mơ, thanh khiết như tuyết trắng đang rơi. Chuyện tình làm "bể tim" nhiều người trong lớp và làm cả lớp thầm ao ước. Mỗi chiều Danh đạp cái xe cũ mèm đi ngang nhà Hân ít nhất hai lần. Từ trong khoảng sân nhỏ Hân đưa mắt nhìn ra. Bốn mắt gặp nhau với một cự ly ít nhất là hai mươi lăm thước, không hề nói được câu nào với nhau. Vậy mà họ vẫn làm chuyện đó mỗi ngày như nhu cầu ăn, uống.
Mãi về sau này chúng tôi mới được biết Hân bị gia đình cấm chơi với Danh vì ba Danh là một liệt sĩ của chế độ miền Bắc, trong khi ba Hân đang ở trong một trại "tập trung cải tạo" của Việt Cộng. Và vì lẽ đó, mãi gần mười năm sau chúng tôi mới đặt tên cho chuyện tình của bạn là chuyện tình Romeo-Juliette.
May mắn hơn hai nhân vật lừng danh của Shakespeare, hai người bạn "trai tài gái sắc" của chúng tôi không "mang xuống tuyền đài" chuyện tình thời mới lớn, mà họ được gặp lại nhau, tìm lại "một chút hương xưa" ở Mỹ. Mặc dù bây giờ "ván đã đóng thuyền" và "gạo đã thành cơm" cả hai đều đã có "một nửa còn lại" của mình.
Vì lẽ đó Mai Thi -người đạo đức bảo thủ nhất lớp- đã khuyến cáo chúng tôi không nên để "lửa gần rơm" nhất là "lửa cũ và rơm khô" thì dễ… cháy nhà thiên hạ. Nhưng bàn qua tán lại chúng tôi đều đồng ý sẽ sắp xếp để hai người bạn cũ gặp nhau. Gần hai mươi năm đã qua cả hai đều có gia đình riêng, nếu không ấm êm hạnh phúc thì cũng chưa hề có tiếng "chén bay, dĩa bay" vọng ra ngoài đến tai chúng tôi. Khi người ta bước qua tuổi "tam thập nhi lập" thì quan điểm về đời sống, về hạnh phúc so với thời mới lớn đã ít nhất quay một góc nhọn. Chắc chắn là như thế, như một với một là hai, nhất là khi bạn ở Mỹ xã hội thật sự "làm theo năng lực, hưởng theo nhu cầu". Và nhu cầu ở đất nước cơ hội này thì bất tận.
Vì thế chúng tôi sắp xếp để Hân sẽ bay qua CA nhân một seminar cuối năm sẽ gặp được Danh, bay đến từ Massachusset từ một lớp tu nghiệp chuyên ngành của trường Haward dành cho các kiến trúc sư từ các nước kém phát triển. Đó cũng là dịp để chúng tôi hội ngộ họp mặt vào mùa đông, chứ không theo truyền thống mùa hè như thường lệ.
*
Ngồi sau tay lái, xếp hàng trên đoạn đường vào khu vực "Passengers pick up" của phi trường SJC sự kiên nhẫn của tôi tăng cao, khi tôi tưởng tượng đến khuôn mặt rạng rỡ của hai người bạn học cũ. Tình cảm của họ đã chiếm một ký ức thời mới lớn của chúng tôi và chắn chắn là một hồi ức tuyệt vời trong lòng "Romeo & Juliette".
Các em teenagers ở Mỹ bây giờ nếu biết về thời mới lớn của chúng tôi ở Việt Nam chắc sẽ tưởng lầm chúng tôi lớn lên ở "thời kỳ đồ đá". Các em có đủ thừa mọi thứ, từ thức ăn, áo quần, sách vở đến phương tiện giải trí. Các em đi từ thừa mứa này qua phung phí khác, mà không biết mình đang ở trong thiên đàng của vật chất không biết quý trọng cha mẹ như thời mới lớn của chúng tôi. Khi chúng tôi bắt đầu vào trung học cả quê nhà ăn khoai sắn thay cơm. Áo quần của mọi người toàn màu tối, tối mù như tương lai, để đỡ tốn xà phòng giặt. Ở trong lớp, thỉnh thoảng lại nghe tiếng bao tử của đứa bạn ngồi cạnh sôi lên vì đói. Về nhà, buổi tối phải học bài dưới ánh đèn dầu, do vậy chúng tôi lớn lên hầu hết đều bị cận thị. Lâu lâu, nhớ lại thời mới lớn của mình chúng tôi vẫn than thân "cùng một lứa bên trời lận đận". Chỉ có mỗi Hồng Châu bao dung và rộng lượng:
- Tụi nó có thời của tụi nó, mình có thời của mình. Ông bà, Bố Mẹ mình có bao giờ đi phân bì với mình đâu, mà mình đi phân bì với tụi nhỏ. Nghĩ kỹ lại đi, chưa chắc hai đứa nhỏ dating, kissing, cầm tay, cầm chân hay còn làm nhiều chuyện gì gì đi nữa, đâu có để lại được kỷ niệm tuyệt vời như thời mới lớn của bọn mình "tình trong như đã, mặt ngoài còn e".
Mãi thả hồn về quá khứ, tôi đã đến khu vực dành để pick up hành khách đến phi trường San Jose. Giữa gần cả trăm hành khách đã cao to, trông lại càng vạm vỡ thêm với những cái áo khoác dày cộm của trời mùa đông gần thành phố sương mù, ven biển California. Tôi đã thấy Hân của chúng tôi vẫn nhỏ nhắn, vẫn tóc dài rất con gái Việt Nam, trong cái áo khoác có mũ dính liền màu tím đậm, để tôi nhận ra Hân.
Thấy nhau từ xa nhưng phải gần mười phút sau chúng tôi mới gặp nhau. Vì xe nhích lên từng thước một, tất cả mọi người đều kiên nhẫn, như đã từng kiên nhẫn ở tất cả phi trường sau ngày mười một tháng chín rất buồn của nước Mỹ. Nhân viên an ninh ở phi trường kiểm soát xe theo kiểu "random selection" nghĩa là không có một quy tắc nào hết. Cái xe xếp hàng trước tôi đang bị kiểm soát rất kỹ. Nhưng bằng sự chuyên nghiệp của nhân viên an ninh và bằng thái độ tích cực công tác của người lái xe tiến trình kiểm soát chỉ mất khoảng hai phút. Khi xe vào được khu vực pick up passengers ngay trước cửa phi trường tôi đã mở ngay "cốp" xe sau Hân liệng ngay cái carry on luggage vào và nhảy tót lên ngồi cạnh tôi, vẫn nhanh nhẹn như thời mới lớn. Bạn cười bằng cả miệng và mắt:
- Bây giờ tao không còn phải thương mày còng lưng chở tao trên cái xe đạp mi ni có hai cái bánh xe chỉ lớn hơn kích thước của bánh tràng cỡ lớn một chút!
Tôi đã "warm welcome" người bạn học thời nhỏ dại bằng một gói ổi tươi và một gói me ngào đúng như sở thích ngày xưa của bạn. Nhìn bạn thưởng thức những món ăn vặt của đàn bà con gái một cách ngon lành, tôi thấy công lao mình lặn lội xuống khu Việt Nam chạy đủ bốn vòng chu vi của khu Lion Plaza mới tìm được chỗ đậu xe để mua quà vặt được đền bù xứng đáng. Tôi vẫn không thích bon chen và vẫn tìm theo lời cụ Nguyễn Bỉnh Khiêm dạy "ta dại ta tìm nơi vắng vẻ, người khôn người đến chốn lao xao" nên mặc dù ở cách San Jose chỉ hai mươi phút lái xe tôi chỉ đến Little Saigon của miền Bắc CA khi cần phải mua những đặc sản VN, hay dẫn khách từ phương xa đến thăm "quê hương mang theo" ở San Jose.
*
Tối hôm đó, Danh được đi đón bằng xe van cùng với nhiều người bạn khác. Và dĩ nhiên đi cùng cả nhóm, bao giờ đàn ông con trai cũng là người cầm lái (mặc dù tài xế phái nữ vẫn ít bị giấy phạt hơn tài xế phái mạnh!). nhưng Tuấn đến từ Los Angeles không phải là dân địa phương nên tôi được ngồi ghế trước làm… con mắt thứ ba của Tuân. Thật ra tôi muốn ngồi trước để dễ dàng cho CD play những điều chúng tôi muốn nhắn nhủ với Danh và Hân. "Ban tham mưu" đã họp từ thứ bảy tuần trước và đã cố tình giữ một khoảng cách cần thiết một lằn ranh cần phải có giữa "Romeo và Juliette" của chúng tôi. Vì dù gì đi nữa mình cũng là người VN, vẫn chưa quên những bài học đạo đức từ thời nhỏ dại.
Có lẽ Danh từ Việt Nam chỉ qua tu nghiệp ở Mỹ trong vòng chín tháng nên còn bở ngở với phi trường quốc tế San Francisco, chúng tôi phải chạy hai vòng phi trường mới thấy cái dáng cao lêu nghêu của bạn. Không hẹn mà hầu hết chúng tôi đều đeo kính vào. Phải chăng đó là hậu quả đáng buồn của một thời mới lớn cơ cực, phải học bài dưới bóng đèn dầu tù mù, như tương lai của xã hội chủ nghĩa ở quê nhà.
Danh tay bắt mặt mừng với tất cả chúng tôi và nhìn Hân bằng một cái nhìn mang theo cả một quá khứ có mùi vị mặn của đại dương, có tiếng sóng rì rào của biển Nha Trang, có cả một thời mới lớn cay đắng nhiều hơn là ngọt bùi của chúng tôi. Dưới ánh đèn nhỏ bên trong chiếc xe, mặt Hân dường như đang đổi màu. Tôi vội bật ngay CD chạy bài "Đêm thấy ta là thác đổ" của Trịnh Công Sơn có một câu hát hình như đến nhắn nhủ riêng cho "Romeo & Juliette" của chúng tôi "…vì em đã mang lời khấn nhỏ, bỏ tôi đứng bên đời kia…." Với Hân đó không phải là lời khấn dâng mình cho đạo của một nữ tu, nhưng lời khấn với chính lòng mình với linh hồn của bố Hân khi ông bỏ mình ở một góc rừng heo hút của một trại cải tạo ở Việt Bắc".
Cuối năm lớp mười một Hân trốn khỏi quê nhà trên một chiếc thuyền mong manh như thân phận con người giữa biển cả. Sau đó, gần một phần ba lớp học lần lượt "bỏ cuộc chơi", bỏ lớp chuyên toán không phải để theo chồng hay lấy vợ mà để đi tìm một bầu trời tự do, ở đó không có ai bị khủng bố, không có trại tù cải tạo dành cho những người hoàn toàn lương thiện. Và ở đó chúng tôi được học hành nên người, đàng hoàng đủ sức để tự nuôi thân, đền đáp được ơn nghĩa sanh thành và đủ sức giúp những người già em bé bất hạnh ở VN ở Ấn Độ hay Phi Châu.
Cũng như Hân khi đến Mỹ được tiếp cận với văn minh, nhờ đó chúng tôi mới hiểu nhiều điều qua sách vở, báo chí và qua những nhân chứng sống.
Khi đọc được tác phẩm "Đại học máu" của Hà Thúc Sinh và "Đáy địa ngục" của Tạ Tỵ thì lòng thương bố được nhân lên theo cấp số nhân và Hân tự khấn với lòng mình phải quên hẳn Danh. Không ai chọn gia đình để sinh ra nhưng nhân sinh quan của mỗi người đều bắt nguồn từ nguồn gốc của gia đình mình, bắt nguồn từ cái nôi đầu đời.
Tối hôm đó dưới ánh đèn ấm cúng của phòng khách nhà An, và ngọn lửa bập bùng từ lò sưởi nhìn Danh vẫn còn ngơ ngẩn chúng tôi lại cho CD play bài "Còn tuổi nào cho em" và lại nhờ nhạc sĩ Trịnh Công Sơn nhắn nhủ Danh "…tuổi nào ngồi khóc tình đã ngàn thu…". Chắc chắn năm tháng đã lấy đi rất nhiều kiến thức lớp mười một chuyên toán ngày xưa, nhưng khả năng suy luận của chúng tôi chưa bị mai một. Nên Romeo & Juliette của chúng tôi, nhất là Danh hiểu rõ message. Mắt Danh đã buồn, chừng như càng chùng xuống khi Danh có dịp thấy tiêu chuẩn sống rất cao của An, và có dịp nhìn kỹ Hân, Thi và tôi . Nhất là Thi nhờ tâm hồn bình an, chế độ ăn kiêng gần như tuyệt đối và một tiếng thể dục mỗi ngày gần hai mươi năm sau bạn vẫn như đang là một nữ sinh lớp mười một. Chừng như đến lúc đó, Danh mới thấy không những mình lầm mà hình như thân sinh của mình cũng đi lộn đường.
Chín tháng ở trường nội trú Harvard, Danh vùi đầu vào tiếp thu kiến thức kiến trúc hiện đại, nên chưa có dịp đi đây đi đó ngoài con đường từ trường về dorm. Khi tiếp xúc với chúng tôi qua email hay điện thoại không đứa nào đề cập về điều kiện sống của mình. Do vậy khi nhìn nhà An, một trong những học sinh giỏi nhất ngày xưa, và là một người tỵ nạn tương đối thành công với phòng làm việc rất tiện nghi, phòng giải trí có cả "family theater" và phòng tập thể dục nhỏ nhưng có đủ mọi fitness equipment cần thiết, Danh ngẩn người đầy ưu tư. Chúng tôi đi ngủ sớm để cho Danh và Hân có thời gian riêng trong phòng làm việc của An. Và An thì rất tế nhị đã ngồi làm việc trước PC quay lưng về hai người bạn học cũ sau khi đã cẩn thận đặt một cái headphone lên đầu.
Dịp đó, chúng tôi chỉ gặp nhau hai ngày đủ để hội ngộ một ngày, nhắc chuyện xưa nhờ Danh tiếp tay trong việc cấp học bổng cho các em học sinh nghèo ở VN và trợ giúp thực phẩm thêm cho trại cùi ở Nha Trang. Ngày còn lại, chúng tôi chất đầy lên cái xe van đi thăm thành phố mù sương San Francisco thành phố nổi tiếng của thế giới về cảnh đẹp lẫn những quan niệm sống hết sức cấp tiến.
Đầu mùa đông, xe chạy ban ngày cũng phải bật đèn pha, trời lạnh dưới 10 độ nhưng lòng chúng tôi vẫn ấm, ấm vì sự che chở của quê hương thứ hai, ấm vì tình bằng hữu thời mới lớn. Lối đi dành riêng cho người đi bộ ở hai bên hông cầu Golden Gate chỉ có chúng tôi, với "nỗi niềm mang theo" riêng của mỗi đứa.
Phía có hai tổ quốc, nghĩa là chúng tôi những người VN lưu lạc ở Mỹ luôn bị những lo toan hàng ngày về công việc, sự vững chắc của công việc những "political competition" hàng ngày ở sở và cái "glass ceiling" không bao giờ thấy, nhưng cảm nhận rất rõ, lơ lửng trên đầu những người Mỹ gốc Á từ tầng lớp trung lưu trở lên. Chưa hết còn có những ưu tư khi nghe những bất hạnh triền miên của đại đa số người dân Việt ở quê nhà những bất hạnh từ mọi phía, mà khả năng trợ giúp của những người Việt lưu vong có tấm lòng thì có giới hạn.
Với Danh, nỗi ưu tư lại đến từ một phía khác. Danh không hề nói ra bằng lời nhưng bằng ánh mắt của bạn, chúng tôi hiểu được đó không phải chỉ là những vấn vương của tình đầu thời mới lớn mà còn là những mặc cảm của một người bị bỏ lại phía sau.
Chúng tôi tin là chín tháng tu nghiệp dành cho chương trình cao học ở Mỹ đã mở mắt bạn ra rất nhiều. Bạn của chúng tôi sẽ là một con én mới dù không đem lại mùa xuân, nhưng sẽ báo hiệu mùa xuân.
Ở hai phía của địa cầu, trên tất cả mọi kỳ vọng "cơm ăn áo mặc" hàng ngày, chúng tôi cùng có một ước vọng lớn, như thời trung học cùng cặm cụi bên nhau giải những đề thi cho học sinh chuyên toán. Ngày nào còn có cùng ước vọng, chúng tôi còn cảm thấy gần nhau dù đời sống đã muôn ngàn lối rẽ.
Nguyễn Trần Diệu Hương
Valentime 2004 - Viết cho 11C6 ngày xưa và riêng cho TTLH & NND
CHỮ TÂM CÒN MỘT CHÚT NẦY
Tác giả Nguyễn Trần Diệu Hương vừa từ San Jose gửi bài viết này với lời ghi chú “viết để gửi lòng về với quê hương”. Bài viết sau đây của cô có thể làm người đọc nhớ một bài viết đã phổ biến mới đây có tựa đề “Nói Với Việt Kiều”, được viết bởi tác giả Chung Mốc hiện sống trong nước và được chuyển đăng lại trên trang web Biên Hòa.
(Xin phép bắt chước cụ Nguyễn Du trong cách đặt tựa, để người đọc hiểu là bài này được viết với tâm trạng “chữ tâm còn một chút này” và với nguyên tắc “tiên trách kỷ, hậu trách nhân”).
Bà cô tôi ở Paris, vốn là một nhà giáo rất để ý chữ dùng và cách hành văn, mỗi lần nói chuyện với tôi qua điện thoại đều nhắc nhở:
- Mỗi lần viết lách thì nhớ đừng chêm tiếng Mỹ vào bài viết tiếng Việt, nghe “nửa nạc nửa mỡ” đôi khi làm người đọc khó chịu.
Tôi im lặng nhận khuyết điểm của mình và cố nhủ lòng không chêm tiếng Anh vào tiếng Việt, nhưng rồi “đâu lại vào đấy”, vẫn có bóng dáng tiếng Mỹ trong những bài viết chỉ dành cho độc giả người Việt Nam. Viết thuần tiếng Việt cũng khó, viết thuần tiếng Mỹ cũng khó. Thành thật mà nói, viết bằng tiếng Việt chêm tiếng Mỹ là dễ nhất. Như lời chị Anh Thư, một người bạn vẫn than thở:
- Chết rồi, tụi mình ngày càng hỏng, sau gần hai mươi năm sống ở Mỹ, tiếng Mỹ đến độ bảo hòa, không giỏi thêm được chút nào, mà tiếng Việt ngày càng dở.
Về chuyện nói, nhiều khi ngồi tự phân tích, thời gian chúng tôi xử dụng tiếng Mỹ mỗi ngày nhiều hơn thời gian xử dụng tiếng Việt ít nhất là hai lần. Rồi những show tivi Mỹ prime time đầy hấp dẫn cuốn hút chúng tôi, và cách dùng chữ từ academic trong những chương trình bình luận đến những “slang word” trong những show giải trí, tất cả đóng thành từng lớp cao dần, bất di bất dịch trong vốn ngôn ngữ của những người Việt lưu vong, mà thời gian sống ở quê người dài hơn thời gian sống ở quê nhà.Về chuyện viết, tôi không phải là một người viết chuyên nghiệp nên những bài viết bằng tiếng Việt thường được viết tản mạn đâu đó trong giờ chờ một cuộc họp ở sở với toàn Anh ngữ chung quanh, thời gian quá ngắn không đủ để làm xong một công việc nào hết, tôi lôi bài viết dở dang ra viết, vừa để bớt đầu óc, vừa rút ngắn thời gian hoàn thành một project tinh thần, một thú giải trí rất là “tao nhân mặc khách” của riêng mình. Thời gian cũng không có nhiều, phải ngồi để nhớ ra những từ tiếng Việt chính xác thì chắc là cả năm mới xong được bài viết. Và cảm hứng cũng đã “rong chơi cuối trời phiêu lãng” , bài viết không hề có được bóng dáng của chữ “tâm”.
Cho nên những bài viết tiếng Việt không còn thuần chủng về ngôn ngữ như cái đất nước tạp chủng đã nuôi dạy chúng tôi thành người hữu dụng cho cả hai Tổ quốc.
Trong đối thoại hàng ngày với đồng hương ở Mỹ, tỷ lệ giữa tiếng Mỹ và tiếng Việt cao hay thấp còn tùy người đối diện. Nói chuyện với bạn bè cùng lứa thì như cá bơi lội trong sông, hồ, tha hồ bơi lội đủ kiểu. Thời gian gặp nhau không nhiều, thời gian hàn huyên càng ít hơn, mà không chêm tiếng Mỹ vào thì cả hai bên đều không cảm thấy thoải mái, và tự dưng bị “cà lăm” một cách không cần thiết, vô tội vạ. Nhưng khi nói chuyện với những người cao tuổi, chúng tôi đều phải “uốn lưỡi bảy lần” để giữ được tiếng Việt hoàn toàn vừa để tỏ lòng kính trọng, vừa để khỏi bị quở trách.
Nguyên tắc này cũng được áp dụng mỗi khi về thăm quê nhà (Thật sự chỉ còn là quê nhà trong ký ức và trong nếp nghĩ) chúng tôi tự dưng ít nói và nói chậm hơn để cố giữ được tiếng Việt hoàn toàn và không có một khoảng cách giữa Việt kiều và đồng bào trong nước. Khoảng cách đó, buồn thay ngày càng lớn dần vì nhiều nguyên nhân chứ không phải chỉ vì mỗi tội “Việt kiều hay chêm ngoại ngữ vào tiếng Việt”.
Chẳng hạn khi bạn bè ở quê nhà hỏi:
- Công việc bên đó bây giờ ra sao"
Bèn trả lời rất vô thưởng, vô phạt, mục đích là để khoảng cách giữa mình và bạn càng nhỏ càng tốt:
- Vẫn thường, vẫn đi làm thuê cho người Mỹ để trả nợ cơm áo. Có điều may mắn là người đi làm thuê ở Mỹ được tôn trọng và có đầy đủ tự do.
Bạn lại hỏi:
- Học hành tới đâu rồi, đã có đủ cử nhân, tiến sĩ chưa"
Lại đáp rất khiêm nhường:
- Chỉ học đủ để khỏi bị ai ăn hiếp, để người bản xứ kính trọng mình và đủ để giải thích tại sao mình phải sống lưu vong. Ước gì được học mãi không ngừng, nhưng còn “nợ áo cơm” phải trả. Đến một tuổi nào, buồn thay “nợ áo cơm” nặng hơn “nợ sách đèn” nhiều!
Khi bạn đưa đi thăm những trại cùi, hay những viện mồ côi theo yêu cầu, chúng tôi vẫn cố giữ mình chìm vào dòng sông của quê nhà. Từ cái áo trắng đã cũ để chống lại cái nóng của miền nhiệt đới ngày càng tăng cao với môi trường đầy ô nhiễm, đến cái nón lá rộng vành vừa để bảo vệ làn da đã quen với trời lạnh từ lâu, vừa để nhớ lại thời trung học có nón lá lủng lẳng trên tay cầm của xe đạp, lại vừa để che dấu những giọt nước mắt rơi ra khi so sánh quê nhà với quê hương thứ hai của mình. Hoàn toàn không có chuyện phô trương áo quần, bởi vì bài học của anh chàng khoe đồng hồ với người bạn mù của mình từ “tâm hồn cao thượng” với bản dịch của nhà văn Hà Mai Anh vẫn còn trong tâm tưởng. Vả chăng, ngày xưa còn ở trong nước, chúng tôi cũng đã từng nhận quà của Việt Kiều nên hiểu mặc cảm của những người phải nhận ân huệ. Hạnh phúc của người cho luôn luôn lớn hơn hạnh phúc của người nhận.
Đi ngoài đường, vẫn giữ thói quen ở Mỹ, lúc nào cũng có chai nước uống nửa lít cận kề từ trên xe, trong văn phòng làm việc, trong một cuộc họp, ở thư viện, trong lúc đi mua sắm, hay ngay cả trong phòng ngủ, chai nước rất quen thuộc được mang theo khi di chuyển ở Việt Nam. Không ngờ, đó là một cách để người trong nước nhận ra là Việt Kiều. Để hòa vào đám đông, chắc là lần tới nếu có về thăm quê nhà không dám mang chai nước theo mình khi đi đường.
Nếu ai đó đã trách Việt kiều nói chung bằng hình ảnh của những anh chàng “áo gấm về làng” hưởng thụ và “trả thù dân tộc” (chic) trên thân xác của những cô gái Việt Nam mà xã hội đã đẩy họ vào cảnh “lầu xanh” (may quá những nhân vật “áo gấm về làng” không đại diện và là một tỷ lệ nhỏ trong gần hai triệu Việt kiều ở Mỹ) thì cũng xin đừng quên cả tỉ đôla Việt Kiều ở khắp nơi trên thế giới nhất là Việt kiều từ Mỹ đã gởi về để giúp đỡ quê hương, nhất là mỗi khi quê nhà chìm trong thiên tai, khốn khổ.
Mong đồng bào ở trong nước biết rằng ở Mỹ, những người có lòng, có tâm vẫn tằn tiện từng một phần tư dollar trên coupon mỗi lần đi chợ, phải tự hảm bớt lòng ham muốn của mình trước những shopping đầy ngập hàng hóa, trước những kiểu xe đời mới đầy tiện nghi hay những chuyến Âu du đầy hấp dẫn để dành tiền gởi về “bên nhà” giúp người không may. Hay có những kỹ sư Việt Nam mỗi tuần đều để ra một thời gian nhất định để tạo ra và updated những website thiện nguyện, kêu gọi lòng hảo tâm của đồng hương và của cả người bản xứ gởi tiền và gởi cả lòng về với quê hương.
Ở đâu quen đó, ông bà ngày xưa có câu “Quen việc nhà mạ, lạ việc nhà chồng” để chỉ những cô dâu mới về nhà chồng còn lóng cóng chuyện bếp núc, nội trợ. Năm tháng trôi qua, lâu lâu về thăm nhà cha mẹ ruột, người con gái ngày xưa lại bở ngở với nếp nhà thời son trẻ của mình vì bà chị dâu đã sắp đặt theo một trình tự khác. Việt kiều như cô gái của câu tục ngữ kể trên, ở càng lâu ở quê hương thứ hai càng bám rễ, nhiều cử chỉ, lời nói mặc dù cố giữ ý tứ vẫn làm đồng bào bên nhà không hài lòng. Nhưng không ai trách ai, bởi vì ai cũng hiểu là cùng là cá, nhưng cá biển và cá sông khác nhau rất nhiều.
Người Mỹ gốc Việt như người Mỹ bản xứ không có thói quen hôn lên má khi gặp nhau như người Pháp gốc Việt. Có lần một người bạn phái nam cùng trường tiểu học ngày xưa từ Pháp đến thăm, hiểu tập quán của người Pháp khi thấy xe bạn đậu ở drive way tôi chạy ra chào bạn, một tay đưa ra bắt tay bạn, tay kia đưa ra như là một lá chắn bảo vệ mình và cười nửa đùa nửa thật:
- Welcome to America. Còn nhớ “tui đây” không" “tui đây” chứ không phải “tây đui”.
Thấy bạn xưa ngẩn mặt chưa hiểu ra, sợ bạn phật lòng bèn tiếp luôn:
- “Khoan khoan ngồi đó chớ ra, chàng là nam tử, ta là nữ nhi” (xin cụ Nguyễn Đình Chiểu tha thứ cho kẻ hậu sinh) còn nhớ “Lục Vân Tiên” mình học hồi nhỏ không"
Vậy đó, không phải chỉ có đồng bào trong nước không thoải mái về phong cách của người Pháp ngay cả người Mỹ cũng thấy hình như mình đang bị “sexual harrassement” khi được chào hỏi theo cách của người Pháp. “Nhà mạ” và “nhà chồng” hồi xưa, nhiều khi chỉ cách nhau một lũy tre làng mà đã khác xa, thì phong tục của Mỹ Châu, Âu Châu và Á Châu ngăn trở bằng cả một đại dương, lại càng “nghìn trùng xa cách”. Xin hiểu điều đó và xin hiểu nhau để không ai trách ai, không ai làm ai buồn lòng.
Đời sống vốn ngắn ngủi, đời sống ở những nước kỹ nghệ như Mỹ lại càng ngắn ngủi hơn. Vậy mà người Mỹ gốc Việt vẫn dành thì giờ eo hẹp của mình để dạy thế hệ thứ hai hay như đồng bào trong nước vẫn gọi là “Việt kiều con” hiểu là đất nước cội nguồn của mình vẫn còn lạc hậu, đồng bào mình vẫn còn vất vả, khốn khó lắm các em phải biết cần kiệm. Cho nên, có những em học sinh Mỹ gốc Việt trong giờ ăn trưa ở trường em vét sạch thức ăn, cái đĩa giấy nhẵn bóng đứa bạn Mỹ bên cạnh tỏ lòng quan tâm:
- Mày còn đói hả" Có muốn ăn thêm không" Tao còn potato chip trong cặp.
Em cười ngây thơ, trả lời rất đúng bài bản ba mẹ dạy ở nhà:
- Không tao no rồi, nhưng ba mẹ tao dặn là trên thế giới ở đâu đó, ngoài nước Mỹ nhiều người còn đói lắm mình phải biết tiết kiệm thức ăn và cũng để tỏ lòng thông cảm với những người trồng làm ra thực phẩm.
Nếu may mắn người bạn bản xứ cũng tôn trọng và quý em nhỏ Việt Nam, bắt chước làm theo em, từ đó em học sinh Mỹ không hiểu có biết được nỗi vất vả “một nắng hai sương” của nhà nông không, nhưng cũng vét sạch đĩa thức ăn mỗi lần dùng bữa.
Còn hơn thế nữa, có những em bé Việt Nam sinh ra ở Mỹ, chỉ được nhìn thoáng quê hương trong hai tuần vacation ngắn ngủi của bố mẹ, vậy mà khi sang Mỹ trong một bài luận ở trường với đề tài lớn nên em sẽ chọn nghề gì" Em đã bày tỏ lòng mình với quê cha đất tổ rất dễ thương, rất mộc mạc. “Em muốn học để trở thành một kiến trúc sư để vẽ và xây nhà cho dân quê ở Việt Nam, họ không có nhà tắm có toilet đàng hoàng tiện nghi như ở Mỹ. Em thương họ và muốn giúp họ khi em lớn lên”.
Còn nhớ năm 1975 những người Hà Nội vào thăm miền Nam, tiếng Hà Nội của họ đã khác xa với tiếng Hà Nội của những người dân thủ đô ngàn năm văn vật di cư vào Nam năm 1954. và mãi cho đến bây giờ, chúng tôi vẫn còn phân biệt được tiếng Hà Nội của năm 1975, và tiếng Hà Nội của năm 1954. Chỉ hai mươi mốt năm sau, tiếng nói của những người dân sinh ra và lớn lên ở cùng một thành phố vẫn ở trong cùng một đất nước, có những âm hưởng khác nhau, thì không ai có thể mong đợi tiếng nói của những người Mỹ gốc Việt đã xa quê hương gần ba mươi năm còn nguyên âm hưởng Việt Nam không pha trộn ngoại ngữ. Xin đừng đánh giá ngôn ngữ Việt Nam lưu vong với cái nhìn của một bà mẹ chồng nghiệt ngã.
Điều quan trọng nhất là mỗi tấm lòng Mỹ gốc Việt vẫn quặn thắt, mỗi trái tim Việt Nam lưu vong vẫn nhói lên với từng bất hạnh đến từ mọi phía của quê nhà.
Xin được phép mượn lời của nhà thơ Phan Văn Trị trong bài họa với Tôn Thọ Trường ngày xưa
“Ai về nhắn với Chu Công Cẩn,
Thà mất lòng anh, đặng bụng chồng”
để trả lời với những ai vẫn còn trách cứ, những ai vẫn còn buồn lòng vì “nó sống ở ngoại quốc một thời gian bây giờ thay đổi nhiều quá”.
Và xin ai đó vẫn lưu tâm đến một ngày mai tươi sáng hơn của đất nước, chất xám Việt Nam gặp đúng môi trường đã đang và sẽ cho rất nhiều hoa thơm quá ngọt, mặc dù chưa thể quay về phục vụ cố quốc, vẫn đã gởi nhiều hương hoa về cho quê cha đất tổ.
Nguyễn Trần Diệu Hương để “gởi lòng về với quê hương”.