- Trái Táo Cắn Dở
- Một Thời Để Nhớ
- Chương Kết Của Cuộc Đời
- Ở Một Nơi Không Phải Là Nhà
- Viết Tiếp: Còn Đó Ngậm Ngùi
TRÁI TÁO CẮN DỞ …
Cuộc đời cùa thiên tài Steve Jobs mãi mãi ngừng ở tuổi 56 để lại tiếc thương cho cả triệu người khắp thế giới. Đóng góp cùa ông cho khoa học đã tạo cảm hứng cho họa sĩ Gudjonsson vẽ hình ông cầm trái táo đứng trước cửa thiên đường, kèm theo lời chú thích : "Có ba trái táo trong lịch sử của nhân loại : trái táo của ông Adam, trái táo của ông Newton, và trái táo của ông Jobs.”
Trái táo cùa ông Adam, trong lãnh vực tôn giáo, là một hình tượng so sánh nhiều hơn là hình ảnh cùa những trái táo xanh , đỏ, vàng bán ở chợ. Trái táo của ông Newton lẫy lừng trong lịch sử khoa học, là một trái táo thật tròn trĩnh , -rớt từ trên cây xuống ngay trước mặt nhà bác học-, đẻ ra lực hút của trái đất cùng nhiều định luật vật lý đóng góp cho mọi ngành khoa học, đặc biệt là kỹ nghệ hàng không, và thám hiềm không gian. Nhưng trái táo, bị cắn mất một miếng,của ông Jobs thì rất thật và rất gần với đời sống của nhân loại cuối thế kỷ 20, đầu thế kỳ 21, là logo của Công Ty Apple, luôn nằm ở môt góc những sản phầm kỹ thuật của Công ty này.
Máy personal computer (PC) Apple 2 được giới thiệu ở thị trường tiêu thụ Mỹ cuối năm 1977, khi những người Việt Nam tỵ nạn đầu tiên vẫn còn bở ngở ở một môi trường sống mới. Những em bé Việt Nam đến trường học Mỹ cuối thập niên 70s là những người Việt Nam đầu tiên quen thuộc với hình ảnh trái táo có màu sắc cầu vòng - bị cắn lẹm mất một miếng ở bên trên - ở góc trái của cái computer Apple 2 vuông vức nằm chểm chệ trong phòng Science Lab của trường. Nhiều trong số em bé Việt Nam năm đó, về sau đã trở thành những kỹ sư computer giòi cả về cả hai mặt software và hardware, thầm lặng góp phần "behind the sence" cho các sản phẩm kỹ thuật càng ngày càng thon nhỏ, tối tân hơn.
Khi tôi xách cái túi nylon của Cao ùy Tỵ nạn Liên Hiệp Quốc đặt chân đến Mỹ, cuộc chiến kỹ thuật và thương mại giữa IBM và Macintosh (sản phẩm của Công Ty Apple) đã đến hồi quyết liệt mà phần thắng có vẻ nghiêng về IBM. Doanh số bán máy computer Macintosh kém xa mức dự đoán. Rất thực dụng kiểu Mỹ, không tình nghĩa, Ban Điều hành của Apple, Inc. đẩy ông Steve Jobs ra khỏi Công ty do chính ông (cùng một người bạn thời Trung học là Steve Wozniak) góp phần xây dựng nên vì lý do IBM hấp dẫn người mua hơn là Macintosh. Nhiều người bò xó, hoặc cho Macintosh để quay qua mua PC cùa IBM về sừ dụng. Sức bán cùa Apple 2 thua xa doanh số cùa IBM. Lúc đó là vào cuối thập niên 80s, một cái Apple 2 (tên gọi thông thường là Macintosh PC để phân biệt với IBM Computer) vào khoảng một ngàn ba trăm dollars.
Thời đó, computer labs ờ các trường Đại học có hai bên: một bên là IBM Computers, một bên là Apple Computers. Máy personal computer (PC) còn đắt tiền nên đa số sinh viên phải vô lab để làm bài tập vì không có PC ở nhà. Thường thì nếu muốn dùng computer IBM phải chờ đợi, nhưng nếu dùng Macintosh thì lúc nào cũng có máy trống. Thấy rõ điều đó, nhà trường mở rộng IBM section, và thu hẹp Apple section. Ai vào lab thường xuyên đều thấy computer của IBM thắng thế rõ rệt so với Macintosh. Đó có lẽ cũng là lý do mà sau thất bại của máy điện toán cá nhân Apple 3, Công ty Apple ngưng sản xuất computer, quay qua sản xuất các note book, và iphone.
Ba "tài sản quý giá" đầu tiên ờ Mỹ của một người tỵ nạn như tôi lúc đó là : cái xe Toyota Celica cũ đã 12 tuổi màu nâu (để làm chân đi học, đi làm) , một cái TV mới 13 inches (đề improve cách phát âm tiếng Mỹ) , và một cái PC cũ có logo trái táo với màu sắc cầu vòng nằm trong cái khung vuông vức, mà mãi về sau, tôi mới biết đó là Apple 2, một trong những công trình tim óc cùa hai thiên tài cùng mang tên Steve (Jobs và Wozniak).
Một người bạn, là một người di tản buồn từ tháng 4/75, mua một cái IBM PC mới, thấy tôi mới khời đầu vào College với hai bàn tay trắng, không có ba mẹ bên cạnh nâng đỡ ; cần làm bài tập nhiều, anh cho tôi cái computer cũ Apple 2. Khòi nói nỗi vui mừng của một người mới vào College có được một cái desktop computer làm của riêng ờ vào cuối thập niên 80. tôi quý Apple 2 ngang với cái Toyota Celica mười hai tuồi mua bằng cà tháng lương đầu tiên cùa mình.
Mãi về sau, sau này, dù đã được sử dụng và làm chủ 3 hay 4 computers cùng lúc, dù luôn luôn thích IBM hơn Macintosh, tôi không nở đem cho, hay quăng đi cái Apple 2 cũ kỹ . Không chỉ vì đó là tài sản vô giá của tôi trong những ngày đầu lưu lạc quê người, đó là món quà tình nghĩa quý báu, mà còn vì Apple 2 có hình trái táo cắn dở với màu sắc cầu vồng cho tôi niềm tin muôn màu ở quê hương thứ hai.
Khà năng thư pháp học được từ một sermester duy nhất ở Đại học cùa Steve Jobs và khả năng tiềm ẩn về hội họa cùa ông đã làm Apple 2 thành một công cụ không thề thiếu trong công việc của những người làm việc trong lãnh vực graphic design, vẽ kỹ thuật.
Nhưng những người dùng computer trong thương mại hay như một cái kho lưu trữ tư liệu cần thiết thì mê IBM hơn. Do vậy không ngạc nhiên khi Apple không thề nào sánh được với IBM trong doanh số tiêu thụ. Thất bại này như “một viên gạch mà cuộc đời liệng thẳng vào mặt” Steve Jobs như ông tự thú trong trong diễn văn nói chuyện với các sinh viên trường Đại học tư Stanford ở thành phố Palo Alto, quê nhà của ông. Có lẽ đó cũng là lý do mà Macintosh computers chỉ có Apple 1, Apple 2, mãi mãi dừng lại ở Apple 3 non trẻ chết sớm , mà không bao giờ có Apple 4 tiếp nối.
Apple 1 được tạo nên bởi Jobs và Steve Wozniak, một người bạn lớn hơn từ thời Trung học, cùng có đam mê phát minh máy móc như Steve Jobs. Hai ông Steve, cách nhau 5 tuổi, người nhỏ chững chạc hơn, người lớn hồn nhiên hơn số tuổi của mình, cùng đam mê sáng tạo khoa học, nên trờ thành một teamwork bình đẳng rất hữu hiệu. Hai chàng trẻ tuổi thông minh, cùng bỏ học ở năm đầu Đại học, cần cù làm việc vì đam mê ngay trong phòng của ông Jobs (lúc đó vẫn còn ở chung với cha mẹ nuôi) . Những linh kiện điện tử (single circuit board. microprocessor) -được mua từ tiền bán chiếc xe Walkswagon Van cũ của Jobs, và cái máy tính điện tử scientific calculator HP 65 của Wozniak- , càng ngày càng nhiều đầy căn chung cư một phòng của ông Wozniak ở San Jose , đầy phòng của ông Jobs ờ Los Altos , California , rồi lấn chiếm cả garage của cha mẹ ông Jobs. Chiếc máy điện toán cá nhân được hoàn thành, ông Steve lớn (Wozniak) là người thiết kế, viết thảo chương điện toán , và trực tiếp ráp nối với sự góp ý và giúp sức của ông Steve nhỏ (Jobs), được đặt tên là Apple 1. Nhưng việc bán chiếc máy ra thị trường và lập nên Công ty Điện toán Apple năm 1976 là ý của ông Steve nhỏ. Ông Wozniak có đầu óc của một nhà phát minh, sự thông minh của một nhà toán học, nhưng người nhìn xa hơn và mang tham vọng đem kỹ thuật nâng cao đời sống nhân loại, nói theo cách của người Mỹ là "think outside the box", là ông Jobs, người có tham vọng tạo thay đổi, tạo tiến bộ trong đời sồng con người.
Họ cùng là sáng lập viên của Công ty kỹ thuật Apple, cái tên đến từ thói quen thích ăn táo, và từng một thời đi giúp người ta hái táo từ một trang trại ở địa phương của ông Steve nhỏ. Steve Jobs thích tên "Apple"(trong 4 cái tên cả hai ông Steve nghĩ là sẽ dùng làm tên gọi cho Công ty mới thành lập của mình) vì Apple là tên một loại trái cây, đơn giàn, dễ nhớ, và sẽ được xếp trong mẫu tự A đầu tiên trong danh bạ điện thoại.
Công ty có tên là Apple thì logo phải là một trái táo, nhưng hình vẽ trái táo được thu nhỏ lại hơi giống hình trái cà chua hay trái cherry. Táo phải là táo, rõ ràng và chính xác, không thể lẫn lộn với cà chua hay cherry được. Thế là logo mang hình trái táo bị cắn mất một miếng rất sắc gọn, để chắc chắn là không ai có thể lầm lẫn đó là trái cà chua. Hầu hết mọi thứ đếu là ý kiến của ông Jobs. Ông Wozniak chì tập trung vào kỹ thuật và các thảo chương điện toán.
Dĩ nhiên ông Jobs cũng phải làm luôn công việc marketing trong những ngày Apple, Inc. còn là một em bé sơ sinh, chưa ai biết đến. Ông đem sản phẩm đầu tay - máy computer cá nhân Apple 1 hãy còn thô sơ- ra tiếp cận người tiêu thụ bằng cách mở cửa garage nhà cha mẹ nuôi, mời vợ chồng nhà hàng xóm bên kia đường qua giới thiệu. Cũng trạc tuổi cha mẹ nuôi của Steve Jos, ông bà cụ hàng xóm không biết Steve là :
" Chàng tuổi trẻ vốn dòng....nổi loạn,
xếp bút nghiên theo việc..... phiêu lưu”
ở nhà đối diện đã past được test dành cho các học sinh lớp 10 từ hồi còn là một cậu bé ờ lớp 4. Họ lại càng không biết thiên tài còn "chiêu mộ" được một thiên tài khác (the other Steve- Wozniak)cùng chế tạo ra một cái máy điện toán cá nhân đầu tiên, nên không chịu phí thì giờ bước qua bên kia đường.
Steve Jobs không phải là người chịu thất bại dễ dàng. Ông ngồi xuống bên cạnh hai ngưới hàng xóm, khôn ngoan đánh đòn tâm lý vào cả ông lẫn bà :
- Cái máy có thể giúp bác gái, cùng những người thích nấu ăn, giữ được tất cả recipes nấu ăn mà không cần phải dùng đến những tờ giấy viết tay sắp trong mấy cái hộp giấy. Vừa tiện lợi, vừa ngăn nắp, khi cần tìm là có ngay.
- Cái máy có thể giúp bác trai theo dõi kết quả các trận đấu thể thao dễ dàng hơn và có thể giữ đầy đủ số liệu và sự nghiệp cùa từng cầu thủ hay từng đội mà bác yêu thích từ năm này qua năm khác mà không bao giờ bị lẫn lộn.
- Cái máy được đặt tên là Apple Computer.
Hai người hàng xóm trạc tuổi cha mẹ Steve nghe xuôi tai, mềm lòng cất bước sang garage nhà hàng xóm nghe hai ông Steve thay phiên nhau thuyết trình về cấu trúc của Apple 1 như đang thuyết trình trước các kỹ sư điện tử. Hai nhà phát minh trẻ hào hứng nói về công trình của mình và những ích lợi Apple 1 cung cấp cho đời sống hàng ngày. Ông bà hàng xóm nghe như là "vịt nghe sấm". Nhưng mặt mày bà hớn hở vì tưởng tượng việc bếp núc của mình sẽ dễ dàng hơn, không phải dùng kính lúp săm soi tìm từng cái recipe chữ nhỏ lấm lem dầu mỡ. Ánh mắt ông rạng rỡ niềm vui khi hình dung ra cảnh sẽ "nói có sách mách có chứng" về các kết quả thi đấu thể thao mà không phải gân cổ lên to tiếng với các cổ động viên của đội tuyển đối phương.
Và như thế, Apple 1 "ra mắt" người tiêu dùng không kèn, không trống , không ai biết ngoài hai người phát minh trong độ tuổi 20, và hai người hàng xóm đứng tuổi trong một cái garare cũ ở vùng Los Altos, miền Bắc California vào April Fools' Day, tháng 4 năm 1976. Rất đơn giản nhưng không phải là chuyện "đang giỡn" cùa ngày April Fool's Day - "cá tháng tư" - mà là ngày khai sinh của đại công ty Apple lẫy lừng khắp thế giới sau này.
Mặc dù không bán được Apple 1 cho ông bà hàng xóm ờ nhà đối diện. Jobs học được bài học marketing thực tế và đã cùng Woz (tên gọi ông Steve lớn) bán được vài trăm computer Apple 1 cho các tiệm bán hàng quanh Mountain View, Los Altos, và Palo Alto bằng cách cổ điển, như các em hướng đạo gõ cửa từng nhà bán bánh kẹo gây quỹ. Phát minh đầu tiên hãy còn thô sơ và nhiều khuyết điểm nhưng điều vui nhất, và khá thành công là không có cái Apple 1 nào bị trả lại.
Phài đến lúc computer Apple 2 ra đời vào năm 1977 thì logo trái táo mới trở thànnh một biểu tượng chính thức luôn luôn xuất hiện trên các sản phẩm cúa Công ty. Logo đầu tiên là một trái táo với 6 màu sắc khác nhau , phản ảnh Apple 2 là máy điện toán cá nhân đầu tiên có thể in ra giấy với 6 màu sắc rõ nét.
Về sau, sau này, Apple 2, Lisa, Mac… hay các sản phẩm điện thoại càng ngày càng nhỏ và có đủ chức năng của máy chụp hình, computer, nối kết với Internet do Apple , Inc. sản xuất , logo vẫn là trái táo cắn dở nhưng nhỏ hơn và thường là màu đen hay màu bạc. Hình như , trái táo cắn dở vẫn có hình thù như ngày đầu tiên nhưng màu sắc khác nhau, và không còn rực rỡ màu sắc cầu vòng của thủa ban đầu vì "cha đẻ ra trái táo kỹ thuật" đã bắt đầu đi vào giai đoạn thứ ba trong chu kỳ "sinh. lão, bệnh, tử" của đời người vào đầu thế kỷ 21.
Cũng vì bệnh ung thư, không còn sức khỏe để làm việc, ông Jobs phải nghỉ dài hạn. Thời gian đó, khi chưa phải là "thường trú nhân" của bệnh viện, ông có thì giờ thực hiện thú tiêu khiển của mình -đi bộ- quanh thành phố Palo Alto, nơi ông ở. Ông thường lái xe đến trường Stanford , lúc nào cũng "đóng bộ" trong cái quần Jeans Levi’s bạc phếch và cái áo thun cổ cao màu đen, đi quanh quẩn trong campus cùa ngôi trường tư đẹp nổi tiếng cả thế giới. Lúc nào mệt, ông ngồi nghỉ trên những băng đá, có khi ngồi bệt dưới một bóng cây, đôi khi mắt nhắm lại tập trung thiền định trong thế giới tĩnh lặng của riêng ông. Sinh viên qua lại, thảng hoặc quan sát người đàn ông gầy yếu, xanh xao. Tuyệt nhiên không ai nhìn ra đó là Steve Jobs.
Những lúc đó, ông nghĩ về cuộc đời, tự hỏi nếu ông được nuôi dưỡng trong một gia đình giàu có , dư dả để đóng học phí rất cao cho trường Đại học tư Reed College ở Oregon, thì chắc là ông sẽ trở thành một nhà Toán học. Ông cũng nghĩ, nếu khỏi bệnh, ông sẽ rút ngắn bớt giờ làm việc, thu xếp đi học lại, mặc dù có thể phải đi học dưới một cái tên khác để tránh bị chú ý và mất thì giờ không cần thiết, như Steve Wozniak đã làm ở UC Berkley hơn 20 năm trước.
Những tháng cuối đời, lúc đời sống chỉ còn tính bằng tuần trên mười đầu ngón tay, thân thể mất dần sinh lực, mong manh như một chiếc lá khô sắp lìa cành, thỉnh thoảng ông Jobs vẫn tự lái chiếc xe Mercedes thể thao hai cửa đi làm, đậu ở khu vực sát cửa vào cho người tàn tật mặc dù không có giấy phép. Ông đi xe Mercedes không phải vì muốn chứng tỏ mình thành công, giàu có, mà vì ông rất ngưỡng mộ nhà bác học người Đức Albert Einstein , và mê luôn các loại xe do nước Đức sản xuất. Lúc đó, ông Jobs không còn sức khỏe để đi bộ những khoảng cách dài. Mà cũng có thể thiên tài cho là quy luật dành cho người bình thường không thể áp dụng với mình. Cái xe của ông không hề có bảng số xe từ cả chục năm nay. Vì ông vốn thích sống khép kín, để không ai có thể nhận ra mình. Dĩ nhiên ông thừa thông minh (và dư tiền) cứ sáu tháng đồi xe một lần để có thể lái xe không có bảng số như luật định cho phép. Cẩn thận như thế, thêm vào đó, bệnh ung thư ở giai đoạn cuối tàn phá cơ thể thiên tài. Bề ngoài của ông Jobs suy sụp nhanh chóng. Ít người nhận ra đó là một khuôn mặt lớn, quen thuộc, một vài lần xuất hiện trên trang bìa các tạp chí khoa học, và cả trên bìa trước của tuần báo Time (thường chỉ in hình các lãnh tụ và các danh nhân trên thế giới).
Thế nên có lần khi ông vừa ra khỏi cửa văn phòng, đúng lúc một gia đình du khách đến chụp hình bên cạnh logo trái táo bị cắn mất một miếng ở cổng chính của trụ sờ Công ty Apple ở Cupertino, miến Bắc California. Người cha trong gia đình thấy ông đi ngang qua, chìa cái iphone của mình ra, lịch sự yêu cầu :
- Ông có thể vui lòng giúp chúng tôi chụp một cái hình cho cả gia đình không?
Rõ ràng là họ không nhận ra người đàn ông cao gầy, râu ria tua tủa, mắt trũng sâu, trong cái áo thun cổ cao màu đen, và chiếc quần jeans bạc màu, có một vài lỗ rách, là Steve Jobs.
Ông Jobs gật đầu, cầm cái iphone, điều chỉnh màn ành, lùi ra xa vài bước, ngắm nghía cẩn thận như một người thợ chụp hình dạo, và bấm ngón tay cái khô khốc, thiếu sinh lực cùa mình lên màn ảnh, mỉm cười trao trả cái iphone có logo quả táo cho chủ nhân. rồi lên xe rời Công tỵ Đó cũng là một trong những lần cuối ông Jobs đến Apple , Inc. và có dịp nhìn thấy một trong những đứa con tinh thần của mình đã góp phần làm thay đổi đời sống của con người.
Cả gia đình người du khách cùng hướng mắt vào tấm hình nhỏ trên iphone, trầm trồ khen người chụp hình chụp rất đẹp, và rất rành cách xừ dụng iphone, không biết là họ vừa có cơ may hiếm có, được Giám đốc Apple, Inc,- người góp phần lớn trong việc sáng tạo tất cả các sản phẩm của Apple, kể cả cái iphone của họ- chụp cho họ một tấm hình, có thể là đẹp nhất trong đời.
Năm 2005, Steve Jobs được mời nói chuyện với cả ngàn sinh viên tốt nghiệp ờ sân trường Stanford. Khác với những diễn giả khác ở các lễ ra trường luôn tô hồng cuộc đời trong con mắt vốn dĩ chỉ toàn màu hồng lạc quan và màu xanh hy vọng của các tân khoa, ông Jobs với kinh nghiệm cá nhân, với những điều học được từ giáo lý đạo Phật đã nói rất thằng và rất thật:
- Bây giờ các bạn còn trẻ, và là sức sống mới của xã hội. Nhưng một ngày nào đó, không xa, các bạn sẽ già và sẽ bị đào thải. Xin lỗi, nhận xét đó có vẽ bi quan, nhưng đó là sự thật Đời sống có giới hạn , đừng phí thời gian. Hãy làm những gì mình thích.
Lời nhắn nhủ khác thường đó như một loại thuốc đắng giả tật đã giúp rất nhiều sinh viên ra trường năm đó nhận ra mình muốn gì, can đảm bỏ con đường thảm đỏ bằng phẳng , thênh thang đã được cha mẹ trài sẵn để bước vào con đường riêng gập ghềnh, khúc khuỷu cùa mình. Có người vấp ngã, có người thành công, nhưng tất cả đều hạnh phúc với lựa chọn của mình. Như hình ành chàng thanh niên Steve Jobs chưa đến 20 năm xưa, bỏ trường Đại học, cùng một người bạn thân hăm hở vác ba lô đi vòng quanh Ấn Độ (quê hương của Đức Phật Thích Ca) tìm ra chữ "lặng" trong tâm, đóng góp rất nhiều trong các phát minh khoa học kỹ thuật cuối thế kỷ 20, đầu thế kỷ 21.
Thiên tài có một bộ óc xuất chúng, một tầm nhìn xa về kỹ thuật nhưng ông vẫn là một con người nên cũng có nhiều điểm yếu. Chẳng hạn, khi trở bệnh nặng, phài nằm ở Intensive Care Unit cùa bệnh viện Stanford, ông Jobs nổi tiếng khó chịu. Bệnh nhân Steve chỉ nghe lời và cộng tác với 3 người y tá trong mấy chục y tá giỏi nhất của bệnh viện. Ông yếu dần, phài đi bằng cái walker, và phải cố gắng bằng tất cả sức lực và ý chí còn lại của mình. Những bước chân chập chững đầu đời ông được nâng đỡ bằng bàn tay của mẹ nuôi (bà Clara Jobs) ờ sân sau ngôi nhà thời ấu thơ. Cuối đời ông lại tập đi với sự trợ lực của cái khung nhôm walker và sự khuyến khích của vợ (bà Laurene Powell) trong khu ICU của bệnh viện Stanford. Đó là lúc ông sắp đi hết vòng tròn sinh tử của đời người.
Thời trẻ có lần ông Jobs nghĩ đến chuyện xuất gia, đi tu và thành một nhà sư trong một ngôi chùa Phật giáo ở Nhật. Nhưng một vị thiền sư người Nhật, mà ông hết lòng ngưỡng mộ, đã khuyên ông đi theo con đường kỹ thuật có hiệu quả hơn là con đường tu hành. Cũng chính thiền sư Kobun Chino Otogowa (1938-2002), cố vấn tinh thần của ông Steve, là người tổ chức lễ cưới cho ông Steve và cô Laurene trong một buổi lễ nhỏ giữa núi rừng gần công viên quốc gia Yosemite năm 1991. Lễ cưới của một nhà tỳ phú trẻ, một thiên tài điện toán, không có khách mời, không có áo quần xênh xang, không có hoa lá muôn màu. Chỉ có cô dâu chú rễ đứng nghiêm trang nghe những lời giảng về "duyên và nợ" của một thiền sư Phật giáo người Mỹ gốc Nhật hòa vào tiếng chim hót , tiếng suối reo của đất trời thiên nhiên.
Hình như Steve Jobs sinh ra để chỉ hòa hợp với công việc và các sáng tạo kỹ thuật, ông không hòa hợp với con người. Rất nhiều kỹ sư giỏi, có tài, từ chối làm việc với ông, vì họ không thể chịu được lối làm việc tuyệt đối hoàn hảo, và lối nói thẳng chói tai, làm mất lòng người nghe của sáng lập viên công ty Apple.
Khi ông Jobs qua đời, có một vài người bạn trẻ ở độ tuồi ngoài 20, đã ngồi trong hàng ngũ sinh viên ở Stanford năm 2005, say mê nghe ông nói chuyện năm xưa, đặt những ngọn nến hình trái táo bên cạnh di ảnh của thiên tài, thầm cảm ơn ông giúp họ đủ tự tin đi trên con đường mình chọn.
Là một thiên tài về khoa học điện toán; là một thần tượng của cả triệu người mê các sàn phẩm IPhone, IPod, IPac, ITunes (chữ I viết tắt cho chữ Internet), các notebook Mac (do chữ Macintosh viết ngắn lại); là một thần tượng cúa cà triệu em bé và cả rất nhiều, nhiều người lớn mê bộ phim hoạt họa "Toys Story" được thực hiện bằng graphic design trên computer Mac, ông Steve Jobs cũng có nhiều khuyết điểm như bất cứ ai khác. Dù vậy hình ành cùa trái táo đủ màu bị cắn mất một miếng trên các sản phẩm điện tử của thời các máy computers Apple , hay trái táo màu đen nhạt hoặc màu bạc trên các loại IPhone , các máy nghe nhạc IPod nối kết được với Interner mãi mãi là một trong những đóng góp lớn nhất của khoa học cuối thế kỷ 20, đầu thế kỷ 21. Muốn hái hoa hồng nhiều khi người ta phải chịu rướm máu vì những cái gai nhọn trên cành. Mọi người có cơ hội làm việc trực tiếp với ông Jobs đều nhận ra điều đó.
Có rất nhiều điều chẳng bao giờ một người bình thường như chúng tôi có thể bắt chước ông Jobs, hoặc có những chọn lựa như ông. Nhưng chắc chắn là chúng tôi sẽ theo gương ông, sẽ làm được "Simplicity and Focus" ,- sống đơn giản và tập trung-, như thiên tài đã làm và đã yêu cầu tất cả cộng sự viên của mình làm theo.
Mỗi một lần lướt ngón tay trỏ trên màn ảnh Iphone, tìm số phone hay một dữ liệu nào đó về một người thân quen, tôi vẫn nghĩ đến ông Steve thông minh với một đời sống không dài, nhưng đủ để cho ông tạo được một chỗ đứng rất lớn trong lịch sử khoa học điện toán đương thời.
Mỗi một lần chọn mua những trái táo ngọt ngọt chua chua, đủ màu, tôi cũng sẽ nhớ đến Steve Jobs và trái táo cắn dở của ông. Có đến gần cả chục loại táo đủ màu bán trong các chợ, nhưng không hiểu tại sao loại táo xanh được trồng từ một tiểu bang Tây Bắc nước Mỹ có dán nhãn hiệu Washington , với riêng tôi, vẫn gần với trái táo cùa Công ty Apple nhất . Có thể vì trái táo xanh gắn liền với màu xanh tươi tốt, hy vọng của rừng thông bạt ngàn ở tiểu bang Oregon nơi ông Jobs đã học và mang thư pháp vào các máy computer của Apple tạo cho chúng ta nhiều kiểu chữ vừa đẹp, vừa rõ ràng. Có lẽ một người đạo Phật, ăn chay từ nhỏ như ông Steve rất thích ăn táo và các thực vật màu xanh. Món ăn ông Jobs thích nhất, ngoài táo, là cà rốt sống. Ông nhai cà rốt mà không cần đến một thứ nước chấm dressing nào như loài thỏ thưởng thức loại thực vật giòn tan màu vàng cam. Chuyện khó tin nhưng có thật là ở giữa một đất nước thừa mứa thức ăn như Mỹ, trong một thời gian rất dài, ông Jobs chỉ ăn táo và một vài loại rau quả, mà không đụng đến thịt và các loại thực phẩm khác. Nên cho đến bây giờ chi có mỗi một trái cây duy nhất là trái táo được đi vào lịch sử khoa học kỹ thuật. Sau khi ông Steve qua đời, hẳn là nhiều "tín đồ" cùa những dụng cụ điện tử cá nhân sẽ thích ăn táo hơn.
Ngày được tin ông mất, tôi làm một bài thơ ngắn gởi đến rememberingsteve@apple.com để góp phần tưởng nhớ nhà phát minh ngắn số :
One of the brightest stars of the world just felt.
But everything you did will be with us forever.
Your life doesn't last long enough as expectation
But your achievement will be lifetime motivation for youngsters.
Every time I work on my Laptop, I'll think of you.
Heaven will be opened for someone like you.
Surely you will be happy in a better place
Where there is no war, no killing, and illness.
RIP at somewhere that is always calm and peaceful.
Million thanks for leaving behind a technical legacy.
Mong vô cùng một ngày nào đó , chúng ta sẽ có một David, Ted, Anthony, William... Nguyễn, Phạm, Lê, Huỳnh… ở Mỹ; hay một Pierre , Daniel, Francois, Jean… Trần, Ngô, Đặng, Lý… ở Pháp, hay một Tuấn, Sơn, Minh, Nam.. Bùi, Đoàn, Phan, Trương ở Việt Nam...đi tiếp được con đường ông Steve Jobs đã đi. Lúc đó chắc là bưởi Biên Hòa, chôm chôm Long Khánh, măng cụt Lái Thiêu , hay nhãn lồng ở Huế sẽ có chỗ đứng trang trọng cạnh bên trái táo cắn dở mà ông Steve Jobs đã vĩnh viễn bỏ lại sau lưng...
In Memory of Steve Jobs -Santa Clara, tháng 10/2011
Nguyễn Trần Diệu Hương
(Viết cho H4, H5 - Kính tặng các Thầy Cô dạy Toán thời Trung học của em)
Một Thời Để Nhớ
Bây giờ, và có lẽ mãi mãi về sau khi nhìn lại quãng đường đi qua mà chị em chúng tôi vẫn gọi là "một thời gian nan" khi mới đến Mỹ chúng tôi vẫn không thể tưởng tượng là mình đã đi qua một cách bình yên, tốt đẹp, mà lúc đó chúng tôi không hề biết là mình đã sống dưới mức sống trung bình của người Mỹ rất nhiều.
Ngược lại, thời đó chúng tôi cảm thấy rất hạnh phúc, và đầy đủ sau mười năm sống chịu đựng dưới chế độ Cộng sản, thiếu ăn, thiếu mặc, và không được học lên cao, cái giới hạn cao nhất dành cho những đứa con có bố " học tập cải tạo" ở núi rừng Việt Bắc, "có nợ máu với nhân dân" (không hiểu cái nghĩa "nhân dân: được diễn dịch theo ý nào") là tốt nghiệp Trung học.
Mẹ cắn răng dạy từng đứa một trong lũ con ra biển Đông, chỉ để mong chúng tôi được học hành thành người, và được sống trong tự do. Có những lúc Mẹ phải "thăm nuôi tù" từ Bắc vào Nam, thăm ba ở Nam Hà, Ba Sao; thăm một trong các con ở Mỹ Tho.
Do vậy, chúng tôi đến Mỹ, từng đứa một từ nhiều trại tỵ nạn khác nhau, từ Galang ở Nam Dương, từ Pulau Bidong ở Mã Lai, hay từ Banthad ở Thái Lan trong nhiều khoảng thời gian khác nhau, nhưng đều giống nhau ở chỗ là đặt chân đến Mỹ chỉ có cái túi xách nylon của Cao Ủy Liên Hiệp Quốc đựng giấy tờ, và mấy bộ quần áo được phát từ trại tỵ nạn, không một đồng dính túi. Dĩ nhiên, đứa đến sau được đứa đến trước hướng dẫn về thủ tục, cộng với kiến thức được trang bị trong các lớp "culture orientation" ở trại chuyển tiếp Bataan, Philippines, và số vốn liếng Anh ngữ hạn hẹp có được từ những năm Trung học, và từ những ngày làm thiện nguyện trong trại tỵ nạn, chúng tôi mang tuổi hai mươi đầy sức sống lao vào "đất nước của tự do và cơ hội".
Con đường của chúng tôi bắt đầu từ trường Community College của Mỹ. Thi xếp lớp và ghi danh đi học. Chương trình ở hai năm đầu sau Trung hoc tương đối dễ dàng, tất cả chúng tôi đều đi học và đi làm full time cùng lúc. Đời sống lúc đó với chị em chúng tôi chỉ là một hình Tam giác mà ba đỉnh là Trường học, Sở làm, và Thư viện. Chúng tôi chỉ có mặt ở nhà, thực ra đó chỉ là một phòng lớn (master bedroom) với phòng tắm nằm ngay trong phòng, để ngủ, và tắm. Mọi sinh hoạt khác đều diễn ra ở những nơi khác, chẳng hạn như làm bài trong Computer Lab của trường, ăn trong Cafeteria của trường, đôi khi "ăn lén" trong thư viện, hay ăn trong xe khi ngừng xe vì đèn đỏ, hay vì kẹt xe trên xa lộ.
Xin được mở ngoặc nói về từ "ăn lén": nghĩa là phải ăn không có âm thanh, và không có mùi. Nguyên tắc là không được ăn trong thư viện, nhưng ở trường Đại học, hình như hầu hết sinh viên đều ăn trong những "quiet study area", trong những "ngăn học cá nhân" bằng gỗ cao khoảng hơn một mét, khi ngồi trong "ngăn học cá nhân" đó, khoảng trời thu nhỏ, chỉ có sách vở, và những vách gỗ bao quanh, rất dễ tập trung để học, người ngồi "ngăn bên cạnh" không hề thấy bạn nếu bạn không dứng lên. Mặt bàn học khá rộng, đủ chỗ để bày hai quyển sách lớn mở rộng, và đủ chỗ để bày cả...thức ăn, nước uống. Do vậy hầu hết sinh viên "ăn lén" trong "ngăn học cá nhân". Trong không khí tuyệt đối im lặng đó, thường nằm ở tầng cao nhất của Thư viện, nếu may mắn chọn được chỗ ngồi đối diện với cửa sổ, bạn có thể tha hồ thả hồn theo những đám mây trắng bay lững lờ trong những ngày mùa Hè, mùa Xuân; hoặc ngắm nhìn màu xám không bi quan chút nào của bầu trời mùa Đông. Nếu bạn nhai potatoes chips, hay lột vỏ một trái cam, bạn đã "lạy ông tôi ở bụi này", tự tố cáo mình đang "ăn lén". Sinh viên vẫn ăn trong thư viện, với điều kiện không có mùi thức ăn, và không có tiếng động, chỉ cần sau khi ăn xong, hoặc trước khi rời chỗ ngồi phải dọn dẹp sạch sẽ, không để lại "vết tích".
Chúng tôi vẫn ăn trong thư viện để tiết kiệm thì giờ, có thể vừa ăn, vừa học. Mỗi phút đều có giá trị, nhất là sắp đến kỳ thi giữa khóa (midterm test) hay kỳ thi cuối khóa (final test). Khắp thư viện đều có những tấm bảng nhỏ "No Food, No Beverage" những sinh viên vẫn phớt lờ, coi như...mình không biết đọc!
Đến Mỹ muộn màng, hơn mười năm sau ngày miền Nam sụp đổ, biết thân mình là "trâu chậm uống nước đục", chúng tôi lao vào học, không dám để mất thêm một giờ nào. Hơn nữa, hình ảnh ba với đầu tóc bạc trắng ở tuổi gần năm mươi trong các trại tập trung đầy nhục hình cho những người lính thất trận; và hình ảnh mẹ với đôi mắt vời vợi buồn mênh mang, cùng những giọt nước mắt long lanh trong những ngày chuẩn bị cho chúng tôi vượt biên là nguồn năng lực không bao giờ cạn, tiếp sức cho chúng tôi trong những ngày chân ướt chân ráo ở Mỹ.
Hai năm đầu ở Community College, trường đào tạo kiến thức hai năm đầu của bậc Đại học, chương trình còn dễ, tất cả chúng tôi đều đi làm full time, và đi học nhiều hơn full time, nghĩa là lấy được càng nhiều lớp càng tốt trong khả năng của chúng tôi.
Hai năm cuối Đại học ở University, bài vở nhiều hơn, nhất là cho Engineering Major, các em tôi chỉ làm part time để đủ tiền trang trải mọi chi phí. Hơn nữa, khi chuyển trường, phải đi học ở những thành phố xa, tìm một việc làm cho sinh viên không dễ như ở những thành phố lớn. Dĩ nhiên, tất cả chúng tôi đều có một thời làm Work Study, một phần trong chương trình giúp đỡ tài chính cho học sinh nghèo. Công việc ở trường nhàn hạ, có thể vừa làm vừa học, có điều không thể làm nhiều giờ, vì trường muốn sinh viên tập trung vào học hơn là làm để kiếm tiền.
Vào những dịp hè, hay nghỉ Đông, trong lúc mọi người nghỉ ngơi mua sắm, hay đi du lịch, chúng tôi lại lao vào làm việc nhiều hơn, giống như những con kiến cần cù trong truyện ngụ ngôn của La Fontaine, phải làm việc vất vả trong mùa hè, mùa xuân để dành thực phẩm cho mùa Đông. Nhất là dịp nghỉ Đông, lễ Giáng sinh, và Tết tây là dịp để sinh viên kiếm tiền. Các cưa hàng mở nhiều giờ hơn, có nơi mở đến 18 tiếng mỗi ngày, và thuê mướn rất nhiều nhân viên làm trong dịp lễ, đa số là sinh viên, dĩ nhiên là sinh viên nhà nghèo, hay một vài sinh viên con nhà giàu, nhưng bố mẹ họ muốn họ đi làm để biết giá trị đồng tiền.
Làm ở các cửa tiệm của Mỹ trong mùa lễ, mệt nhưng vui, được nghe nhạc, được tha hồ ngắm hàng hóa, ngắm thiên hạ đi mua sắm. Cũng có lúc gặp phải những khách hàng kho tính, phải làm nhiều việc hơn, nhưng may mắn là con số đó không nhiều. Và mỗi một lần phải va chạm với những khách hàng như vậy, quyết tâm của tôi "ra trường càng sớm càng tốt" lại được nâng cao.
Một lần đứng ở quầy tính tiền cho một cửa tiệm trong mùa he, tôi đã gặp lại được cô giáo cũ năm đầu Trung học ở Việt Nam. Dĩ nhiên là thầy trò đều rất vui mừng. Cô không còn trẻ như thời mới ra trường Đại học Sư phạm đứng trên bục giảng ngày xưa, và tôi cũng không còn ngây thơ với đôi mắt bi ve trong sáng, hồn nhiên vô tư của những ngày mới lớn. Nhưng chúng tôi vẫn nhận ra nhau vì ánh mắt ngày xưa vẫn còn, mặc dù đã già đi nhiều theo năm tháng chất chồng, và thầy trò chúng tôi tìm lại được nhau từ một nửa kia của bán cầu. Từ đó, tôi càng tin hơn là quả đất tròn, rất tròn.
Để tự nuôi thân, và đôi khi "yểm trợ" cho ba mẹ, hay một vài thân nhân khác ở Việt Nam, chúng tôi đã làm đủ mọi nghề lương thiện để tự tồn tại một cách độc lập.
Là con gái, tôi không thể chịu được sức nặng của những chồng báo mỗi sáng như các em tôi vẫn làm, do vậy tôi chỉ đứng bán trong các Department Stores của Mỹ, với mức lương gần như là tối thiểu, những công việc tương đối nhàn hạ nhất trong những entry level jobs (công việc bắt đầu, không cần nhiều kỹ năng, hay kinh nghiệm, kiến thức). Bù lại, tất cả nhân viên ở Department Stores được hưởng giá hạ (discount) từ 10 đến 20 phần trăm cho bất kỳ món hàng nào mình muốn mua. Mỗi năm lại được thêm hai hoặc ba lần mua hàng với nửa giá (50% discount). Điều duy nhất phải phàn nan la phai dung ca ngay, những lúc được nghỉ giữa giờ, chúng tôi chi ngoi. Bạn có khi nào hiểu được cái hạnh phúc "dược ngồi" không" Nếu bạn đã từng làm cho bất cứ một cửa hàng nào, bạn sẽ hiểu được cái hạnh phúc giản dị, nhưng to lớn đó.
Khác với tôi, thời đó, công việc giao báo mỗi sáng tạo cho các em tôi một hạnh phúc khác, hạnh phúc được ngủ bù. Mỗi kỳ lễ Giáng sinh, người Mỹ có tục lệ tặng quà hay tiền cho những người đã phục vụ họ quanh năm. Ở hộp thư của họ một sáng nào đó gắn lễ Giáng sinh, sẽ có những "money holder" đựng check bên trong cho người phát thư (mail carrier) va người đua báo (paper boy), đó là một cách để tỏ lòng biết ơn . Là một paper boy, em tôi cũng được một số tiền nhỏ vào dịp lễ Giáng sinh. Số tiền đó với thời kỳ còn "cơ hàn" quý vô cùng. Mãi về sau này, khi đã có được nhà ngay trên khu phố ngày xưa phải đi đưa báo mỗi sáng, nhiều ông bà cụ già người Mỹ vẫn gọi em tôi là Paper Boy, và đôi khi vẫn hào phóng tặng em một cái check nhỏ vào lễ Giáng sinh.
Thời đó, trong thư gởi về cho ba mẹ, chúng tôi không hề dám đề cặp đến những vất vả, gian nan, đến những lúc cậu con út cưng của ba mẹ phải dậy sớm từ lúc ba giờ sáng, đi bỏ báo với cặp mắt đỏ ngầu vì thiếu ngủ , rất là vất vả nhất là vào mùa Đông, có lúc lạnh dưới 20 độ F; hay những tối thứ sáu tôi phải nấu ăn đến gần 10 giờ đêm để dành ăn dần cho cả tuần sau. Vã chăng những khó nhọc thời đó vẫn không có ý nghĩa gì so với những năm chúng tôi còn ở Việt Nam, khi ba còn trong trại cải tạo ở núi rừng Việt Bắc, và mẹ vừa làm bố, vừa làm mẹ, bảo vệ đàn con trong những giông bão của đời sống.
Chúng tôi chỉ kể cho ba mẹ nghe những thành đạt trong việc học, nhưng học bỗng đất được, dù khiêm nhường về vật chất, nhưng là một an ủi tinh thần lớn lao cho mấy chị em lưu lạc quê người, chỉ đến Mỹ bằng mấy bộ quần áo cũ, và với hai bàn tay trắng.
Hồi đó, những lúc được scholarship (học bổng), được thiệp mời cho gia đình, tôi không biết phải mời ai, các em lúc đó phải đi học ở xa, hoặc đi thực tập ở Tiểu bang khác, chỉ có một cô giáo người Mỹ, cùng chồng đến dự lễ thay mặt ba mẹ chúng tôi. Hoặc đôi khi cô bận, thầy giáo dạy năm trước đến dự cùng tôi. Trong khi những học sinh Mỹ ăn mặc rat đẹp, tôi vẫn mặc cái áo rẻ tiền, mua với giá discount 50% từ một cửa tiệm tôi vẫn đi làm mỗi mùa hè. Điều làm tôi được an ủi là các thầy cô giáo vẫn khích lệ tôi, và vẫn cho tôi những lời khuyên cần thiết khi tôi hỏi ý kiến.
Rồi chúng tôi cũng quen, quen dần với nỗi buồn của những tiệc tùng, hay lễ phát học bỗng mà cái thiệp mời dành cho ba mẹ để trống, hay các thầy cô giáo Mỹ đi thay nếu hôm đó họ không có giờ dạy, hay không bận chấm bài. Duy chỉ có một lần, tôi đã quay đi âm thầm chùi nước mắt là ngày ra trường, trong khi các học sinh Mỹ, hay cả một số học sinh Việt Nam ra trường với điểm thấp hơn mình vẫn được người thân tặng hoa, tặng quà, bong bóng; thậm chí có học sinh Mỹ may mắn có bố mẹ giàu được tặng cả xe hơi mới, chúng tôi ra trường lặng lẽ, đôi khi chỉ có một mình, và tự khen mình bằng câu "I did that" (tôi đã làm được điều đó) .
Lễ ra trường ở Mỹ, cũng như mọi dịp kỷ niệm khác : đám cưới, sinh nhật, đám ma, thường đươc tổ chức vào sáng thứ bảy cuối tháng năm, hay đầu tháng sáu hàng năm để tiện cho mọi người tham dự. Có cả những học sinh may mắn được cả gia đình, hay cả những người thân bay đến từ tiểu bang khác dự lễ ra trường của họ. Sau lễ ra trường, thường là tiệc tùng mừng "tân khoa" ở nhà, hay nhà hàng. Sinh viên mới ra trường có cả một ngày thứ bảy đầy hoa, quà, và niềm vui sau ít nhất là bốn năm vật lộn với sách vở. Trước lễ ra trường khoảng ba tuần, văn phòng trường gởi danh sách của từng "tân khoa" đến Book Store (tiệm sách) của trường. Áo và mũ đều giống nhau, thường là màu đen, nhung tassel (giải dây ngắn đính vào mũ có đính hai số cuối của năm ra trường) sẽ nói lên phân khoa của sinh viên. Những sinh viên ra trường loại giỏi có thêm một tassel trắng, hay vàng, ngoài tassel thường của phân khoa mình. Sinh viên tốt nghiệp danh dự có thêm một giải băng đeo trước cổ. Thông thường người ngoài ít biết chi tiết, nhưng sinh viên trong trường biết khả năng, và ngành học của nhau qua y phục ra trường. Book Store cũng bán nhẫn ra trường, và nhiều thứ khác như một kỷ niệm của một năm đáng nhớ trong đời.
Ngày tôi ra trường không có ai đến dự ngoài cậu em út đến rất trễ vì phải bận thi cuối khóa từ một trường Đại học khác ở cách trường tới gần 50 dặm. Các bạn cùng lớp chụp hình cho tôi. Và ngay sau lễ ra trường, tôi đã phải chạy ngay ra xe, để đến kịp cho giờ làm buổi chiều ở một cửa tiệm. Hôm đó, cái kính đen trong mắt tôi không chỉ để che bớt cái nắng chói chang đầu mùa hè, mà còn để che cặp mắt đỏ vì lâu lâu có những giọt nước mắt rớt ra. Tôi cũng không hiểu chính xác minh khóc vì lý do gì, có điều tôi chỉ buồn là không có ba mẹ ở đây để thấy tận mắt thành quả của mình.
Là phái nam, các em tôi không ủy mị như tôi, cậu em kế không dự lễ ra trường của chính mình. Cậu em út may mắn hơn, có đầy đủ các anh chị trong ngày lễ ra trường.
Cuộc sống trở nên an nhàn hơn rất nhiều sau khi chúng tôi xong Đại học. Điểm ra trường, và giá trị của trường tốt nghiệp chỉ chiếm ưu thế nếu sinh viên mới tốt nghiệp không có kinh nghiệm, và chỉ ở công việc chuyên môn đầu tiên. Về sau này, trên resume, kinh nghiệm và khả năng ăn nói trong các kỳ phỏng vấn là yếu tố quyết định .
Ở năm cuối Đại học, tôi có rất nhiều bạn học cùng lớp đến từ đủ các nước khác. Và bạn có biết không, bằng Đại học, hoặc sau Đại học của Mỹ (Master Degree, Ph. D. Degree) rất có giá trị ở các nước khác, ngay cả những nước châu Âu có nền văn minh lâu đời như Anh, hay Pháp. Họ đến đây, phải trả một giá rất cao để được học ở Mỹ, và rất nhiều người trong số họ tìm đủ mọi cách để được ở lại làm việc, sinh sống ở Mỹ. Tuy vậy, bất cứ một người nào có đầy đủ kỹ năng mà nước Mỹ đang cần, thì không những riêng bản thân họ, mà ngay cả tất cả những người thân trực hệ của họ cũng được vào Mỹ một cách dễ dàng. Nhờ chính sách đó, nước Mỹ đã trở thành một nước giàu mạnh nhất thế giới chỉ trong vòng hơn hai trăm năm lập quốc.
Cũng ở năm cuối đại học, tôi đã học được rất nhiều điều "behind the scene", những điều không hề được đề cập trước đại đa số quần chúng. Hồi đó tôi may mắn có một ông thầy dạy philosophy (triết học) rất yêu nghề, và thích nói thật, nên tôi càng hiểu rõ hơn về cơ cấu trúc của xã hội Mỹ.
Sau này, đời sống được nâng cao, và có nhiều dịp tiếp xúc với các bạn đồng nghiệp Mỹ ở sở, hay tại nhà riêng của họ, tôi vẫn cố học những điều tốt của người Mỹ như tính đúng giờ, và tinh thần trách nhiệm, và rất nhiều, nhiều điều khác. Nhưng tôi cũng nhớ lời ba mẹ để giữ gìn truyền thống, và những điều tốt đẹp của phương Đông.
Mỗi ngày tám giờ ở một góc phòng làm việc, tôi đã rất là Mỹ, trong giao tiếp, trong ăn uống, và trong cả cách ăn mặc. Nhưng trong đời sống riêng ở nhà, tôi vẫn là một người Việt Nam, rất thuần túy Việt Nam. Bởi vì, quê hương đã mất hơn hai mươi năm qua, tôi không thể đánh mất chính mình. Tôi còn có ba mẹ, và có một quê hương thân yêu ở bên kia bờ đại dương.
Bài học lớn nhất tôi đã học được từ người Mỹ "No pain, no gain". Không có một thành công nào không phải trả giá. Thành công càng lớn, cái giá càng cao. Và nước Mỹ là một nước cơ hội cho tất cả mọi người. Tất cả mọi người đều có thể đạt được mơ ước bình thường, mà người Mỹ thường gọi là "American Dream": đời sống trung lưu, có nhà, có một công việc nhàn hạ thích hợp với khả năng của mình.
Ngày xưa, tôi cứ phải nhìn đồng hồ để mong đến giờ break, ngồi nghỉ chân cho đỡ mỏi. Và rất nhiều người có thể sai tôi làm những việc họ không muốn làm. Bây giờ, bạn biết không, tôi đang viết lại chuyện này trong giờ làm việc, tai có headphone nghe nhạc Việt Nam, và có được E mail update về mọi tin tức từ những hệ thông tin tức lớn của Mỹ như hệ thống ABC, NBC, CNN; tôi còn có thể sai lại nhiều người bản xứ những việc tôi không muốn làm. Tôi không dám tự hào về điều đó, chỉ cảm nhận được rằng mình đã may mắn có ông bà ba mẹ truyền cho hạt giống tốt, trong đó có cả đức tính kiên nhẫn, chịu khó của người VN, và sự quyết tâm đạt được mục đích của mình.
Tôi nghĩ bất cứ ai cũng có thể đạt được giấc mơ của mình ở xã hội Mỹ. Chúng tôi đã làm được điều đó, không quá dễ dàng, nhưng cũng không đến nỗi gian nan. Bạn cũng có thể làm được, hãy tin như thế.
Nguyễn Trần Diệu Hương
Xin được tặng "Phạm Kim", những người chứng minh được "Hạt giống tốt gặp đất tốt sẽ nảy mầm, và cho hoa thơm trái ngọt".
Chương Kết Của Cuộc Đời
Di dân qua Mỹ từ Hòa Lan khi vừa bước vào tuổi hai mươi, Patrick nhanh chóng hội nhập vào đời sống, chàng thanh niên Patrick lập gia đình với cô Denise gốc Đan Mạch. Họ đi lên dễ dàng với màu da trắng, và vóc dáng cao đẹp của người Tây phương.
Thế hệ con của họ chỉ thỉnh thoảng mới nhớ đến nguồn gốc Châu Âu của mình. Họ sống riêng từ năm xong Trung học, chỉ tạt về thăm cha mẹ vào những ngày lễ lớn, hay khi gặp bất an trong cuộc sống. Cái phao bám cuối cùng giữa dòng đời giông bão luôn luôn là cha mẹ.
Nhũng ngày cuối đời vật lộn với bệnh ung thư gan, cụ Patrick có một căn phòng yên tĩnh nhìn ra khu vườn nhỏ được xây dựng bằng hơn 3 năm lao động chân tay, và hơn 40 năm lao động trí óc của cả hai vợ chồng. Cụ còn có cô Denise bây giờ không còn tuổi trẻ như ngày xưa, nhưng tấm lòng dành cho người bạn đời vẫn nguyên vẹn, chỉ biến đổi từ "tình thành nghĩa"- kiên nhẫn ngồi chia xẻ, và lắng nghe mọi ước vọng cuối đời của chồng.
Lúc đó, cư bà dù vẫn còn đi dạy ở trường, vẫn thu xếp cho chồng những món ăn cụ thích nhất, từ soup Hòa Lan, đến thit bò steak kiểu Đan Mạch. Không có gì để cụ Patrick phải phàn nàn, trừ căn bệnh ung thư ngặt nghèo mà y học đương thời cũng đành phải khoanh tay.
Cu Patrick xuôi tay, nhắm mắt, thanh thản ra đi, để lại hai con đã có gia đình riêng, hai cháu nội, ngoại; và cụ bà đã có một nơi nương tựa vững chắc là can nhà hai cụ đã pay off, và một "saving account" hai cụ đã góp nhặt từ lúc bước vào tuổi bốn mươi.
Chi phí ma chay và mọi nghi lễ cũng đã được cụ lựa chọn, và cắt đặt sẵn khi cụ còn tỉnh táo. Cu ra đi bình yên như những vòng hoa Lilly trắng lũ học trò chúng tôi đặt trên nắp quan tài.
Ở một góc khác cùng thành phố, cụ Phước của chúng ta ra đi với cả một "nỗi niềm mang theo" mà hơn ai hết, tuy chỉ là một người ngoại cuộc, tôi thấy rất rõ tại sao cụ không nhắm mắt khi đi vào hành trình miên viễn của cuộc đời.
Qua bao nam tháng chờ đợi, cụ Phước cùng với cụ bà đến Mỹ ở tuổi "thất thập cổ lai hy".
Ra đón cụ ở phi trường là cô con gái lớn, cùng chồng đã qua Mỹ từ năm 1975, va cô con út ở Mỹ cũng đã hơn 15 năm. Trong ánh đèn lóe lên từ máy chụp hình, cụ nghĩ là đời mình đã bắt đầu bước qua một ngả rẽ mới. Xa rồi những ngày u ám, ảm đạm ở quê hương, nơi mà hơn 70 triệu đồng bào của cụ vẫn còn mỏi mòn dưới chế độ Cộng sản nghiệt ngã.
Nhu lề thói VN cổ xưa, cụ nghĩ là hai vợ chồng già sẽ sống với gia đình cậu con trai lớn đã ổn dịnh ở Mỹ hơn 20 năm. Các con của cụ sống gần nhau, chỉ mất không quá nửa giò lái xe từ nhà cậu này đến nhà cô khác. Cụ hài lòng vì xem ra sự0 hy sinh, tằn tiện của hai cụ để gởi các con ra biển tìm tự do đã được đền bù xứng đáng. Các con cụ đều có gia đình riêng với nhà cửa ổn định.
Qua một vài lần khám bệnh tổng quát, niềm vui chưa trọn, cụ được biết "cơn bệnh già" cụ vẫn tưởng ngày còn ở VN chính là bệnh ung thư gan. Nhưng niềm đau thể xác đó không lớn bằng niềm đau tinh thần, đã được diễn tả đầy đủ qua câu tục ngữ "Cha mẹ nuôi được mười con, mười con không nuôi được cha mẹ".
Sau vài ngày tá túc ở nhà người con gái lớn với nhiều tiệc tùng quy tụ sáu con với nhiều dâu, rể, và hơn ba mươi cháu, chắt, hai cụ lưu lạc từ nhà cô này đến nhà cậu khác. Nhà người con trai lớn, mà cụ tưởng sẽ nương thân trong những ngày cuối đời, đã bị cô con dâu đóng rầm cánh cửa ngay từ lúc cụ đến thăm lần đầu, với lý do nhà cô quá chật, không đủ phòng cho hai cụ.
Người con gái lớn có người chồng rộng lòng hơn nhưng chính bà ta là người từ chối bao bọc cha mẹ, nhà ông bà có một cơ ngơi rộng rãi với nhiều phòng bỏ trống khi các con của họ đi học Đai học ở xa, chỉ chứa chấp hai cụ được đúng một tuần, với lý do hai vợ chồng đều làm nghề địa ốc, vắng nhà thường xuyên, giờ giấc thất thường, không thể chăm sóc hai cụ chu đáo.
Cụ bà nghễnh ngãng tai, không nghe được những lời thì thầm của họ, nhưng đôi tai cụ ông còn rất tinh tường. Xuyên qua bức vách, cụ nghe rõ mồn một hai vợ chồng người con gái lớn không muốn cụ ở trong nhà vì họ sắp có dâu, rể là bác sĩ, thông gia của họ cũng là những người giầu có, tai mắt trong cộng đồng người Việt ở đây, họ sẽ có tiệc tùng hàng tuần, và không muốn mọi người biết họ có bố mẹ già quê mùa, bệnh hoạn.
Các cháu của cụ hình như rành tiếng Mỹ hơn tiếng Việt, chào hỏi cụ xa lạ, dửng dưng như chào hỏi một người gặp ngoài đường. Hai đứa chắt của cụ thì hoàn toàn không biết tiếng Việt, và nhìn ông bà cố của mình như nhìn người từ hành tinh khác.
Theo sự sắp xếp của các con, hai cụ lưu lạc đến nhà cô con gái út, người được nuông chiều nhất, không lo học hành, đi từ sự bao bọc của cha mẹ sang sự bao bọc của chồng. Ở tuổi ngoài ba mươi, cô chưa bao giờ tự kiếm ra tiền, nhưng hơn hẳn các anh chị ở chỗ cô rất thương bố mẹ. Mọi di chuyển của hai cụ từ lúc mới qua Mỹ, đi làm giấy tờ, đi khám Bác sĩ, hay đi mua thêm áo quần mùa đông, đều do cô đảm nhận. Điều may mắn là chồng cô cũng rộng lòng, kính trọng hai cụ như bố mẹ của chính anh ta.
Ngôi nhà nhỏ của cô không sang trọng và yên tĩnh như nhà các anh chị của cô, lại quá đông người, vì cô phải cho thuê phòng để lấy tiền trả mortgate, hai vợ chồng cùng hai con phải sống trong garare, nhưng hai cụ hài lòng vì xem ra hai vợ chồng cô thương yêu bố mẹ, và cố bỏ ra rất nhiều thì giờ lo cho cụ mọi thứ.
Căn bệnh ung thư cuối thời kỳ thứ nhất tàn phá cụ nhanh chóng. Cụ không còn tự lo cho mình được mọi việc, cụ bà lại yếu, không còn nâng đỡ cụ được. Những tưởng sẽ được nương tựa thân tàn ở nhà cô út, nhưng, chữ "nhưng" cuối đời đưa cụ vào Viện Dưỡng lão.
Sau vài năm sống ở Mỹ, cụ xin được trợ cấp cho người già nua, bệnh hoạn. Các con của cụ không tiếc tiền cho những loại xe đắt tiền như BMW, Mercedes, Lexus, không tiếc tiền cho những kỳ vacation ở năm châu, bốn biển, nhưng không mở lòng được cho chính bố mẹ ruột của mình. Anh con trai lớn có lòng, nhưng người nắm quyền quyết dịnh trong gia đình là vợ anh. Chi chỉ ném tiền qua những cuộc mua sắm ở các shopping, qua những lần giải phẫu thẩm mỹ, nhưng chi li từng xu trong việc trả hiếu cho bố mẹ chồng, và ngay cả bố mẹ ruột của chị. Chị biện luận người già có chính phủ nuôi, chị không phải bận lòng!
Người con gái út có tấm lòng, lo cho hai cụ trong vài năm, đến khi cụ được lãnh tiền trợ cấp cho người già thì các anh chị cô họp gia đình, và cả hai người con lớn cùng dành quyền được phụng dưỡng bố mẹ. Họ nghĩ là với số tiền trợ cấp hơn một ngàn năm trăm dồng mỗi tháng của hai cụ, họ có thể thuê người đến giúp hai cụ, và vẫn còn tiền dư ra, lại được dịp nêu một gương sáng cho con cái của họ: "bố mẹ phụng dưỡng cho ông bà bây giờ, ngày sau các con cũng nên phụng dưỡng bố mẹ"! Dĩ nhiên với truyền thống "quyền huynh thế phụ", cô con gái út không thể giữ bố mẹ với mình.
Và như một trái banh lăn trên sân cỏ khi chưa có tiếng còi chấm dứt của trọng tài, hai cụ lại quay về nhà cô con gái lớn. Cô được lợi thế hơn người em trai kế mình, vì "các cháu ngoại là Bác sĩ lo cho ông bà tuổi già bệnh hoạn thuận tiện hơn".
Lúc này cụ Phước đã yếu lắm. Cụ phải ngồi trên xe lăn, và không thể tự lo được vệ sinh cá nhân; người được mướn đến lo cho cụ cũng là một người đồng hương, nhưng ông ta lo cho cụ vì cái pay check hàng tuần được cô con gái lớn trích trả từ "tiền già" của cụ, chứ không phải vì trái tim thương yêu như cô út đã làm. Thế là một thời gian sau, do không được chăm sóc đúng lúc, từ căn phòng của hai cụ tỏa ra một mùi khó chịu.
Đến lúc này, các con cụ lại họp nhau vào một ngày thứ bảy, và quyết định cuối cùng làm đau lòng hai cụ, nhưng thỏa mãn tất cả các con cháu, trừ cô con gái út. Cô xin được đem hai cụ về nhà cô như trước, nhưng các anh chị cô ra "phán quyết": "Bây giờ bố mẹ đã có tiền, bố lại bệnh hoạn, đưa bố vào Nursing Home để bố được chăm sóc kỹ lưỡng hơn, còn mẹ thì vẫn để ở nhà chị cả, mỗi tuần chị sẽ chở vào thăm bố".
Đêm đó, trong giấc ngủ chập chờn, bệnh hoạn của tuổi già, cụ thấy mình bị bao quanh bởi những đôi mắt xanh, nâu vô hồn của những người da trắng, và đôi tay cụ quờ quạng cố gắng diễn tả ý nghĩ của mình bằng cử chỉ.
Và cơn ác mộng biến thành sự thật. Đêm cuối cùng còn được ở cùng phòng với cụ bà ở nhà cô con gái lớn, nước mắt thấm ướt áo của hai vợ chồng già.
Rồi cụ cũng quen dần với đời sống của Viện Dưỡng Lão. Cụ quen với tiếng chuông báo hiệu thời khóa biểu mỗi ngày, quen với những món spaghetti phủ cà chua kiểu Ý, món soup đầy dâu của Mễ, hay Hamburger có mustard của Mỹ và quen với những người bạn già người bản xứ cùng phòng mặc dù cụ không biết lấy một tiếng Mỹ. Nhưng có hề gì điều dó, vì phòng của cụ là phòng của những người bệnh nặng, họ không thể nói, hay không còn sức để nhếch miệng nói lên một diều gì, dù chỉ là để than thân trách phận khi phải ở trong một nhà dưỡng lão dành cho những người không có tiền, hay có mức thu nhập tối thiểu. Những nhân viên làm việc ở đây, công việc nặng nề, vất vả, lương lại thấp, họ không còn kiên nhẫn để đối xử với bệnh nhân nhã nhặn như đồng nghiệp của họ làm trong những "Luxury Nursing Home".
Tháng đầu, mỗi tuần còn có các con cụ thay phiên nhau vào thăm. Họ chở cụ bà vào, và mang theo một số thức ăn VN cho cụ, nhưng cụ không ăn được hết một lần. Tủ lạnh của Viện Dưỡng lão không có chỗ cho thức ăn riêng của bệnh nhân. Vả chăng, nếu có đựơc để dành đi nữa, cụ cũng không có sức để lấy ra, hâm nóng, ăn dần.
Về sau, không biết vì lý do gì, sự thăm viếng thưa dần, và cụ Phước đã không còn kiên nhẫn chong mắt nhìn ra cửa sổ, chờ bóng dáng quen thuộc của những người thân. Cụ cũng không còn nước mắt để khóc cho chính mình.
Tôi biết cụ trong những ngày làm project cho một lớp GE từ trường, truyền thống VN "kính lão đắc thọ" giúp tôi chiếm được lòng tin của cụ, và cụ đã kể cho tôi nghe toàn bộ chi tiết đời cụ, những chi tiết rời rạc trong mớ ký ức hơn 80 năm của cụ, từ khi bố mẹ cụ bị Việt Cộng đấu tố , đến lần hai cụ dắt díu các con lên "tàu há mồm" vào Nam trốn chạy chế độ bịp bợm, độc tài của Cộng sản, đến lần hai cụ chắt chiu tiền bạc đưa từng người con vượt biên trong cuối những năm 70, khi làn sóng đỏ phủ trùm lên một nửa còn lại của đất nước.
Trong những tháng sống cô đơn, bệnh hoạn trong Viện Dưỡng lão. May mắn là cụ được xếp nằm gần cửa sổ. Thú giải trí duy nhất của cụ là đếm những con sóc nhỏ đánh đu trên thân cây ngoài cửa, và những con chim nhẩy nhót trên thảm cỏ, hoặc đếm từng chiếc lá trên tàn cây đung đưa ngoài cửa.
Tôi có đọc câu chuyện về chiếc lá cuối cùng và người hoạ sĩ tài hoa, cùng bệnh nhân trên giường bệnh. Tôi tiếc là mình không đủ tài năng để vẽ một cái lá giống như thật trong câu chuyện ngày xưa, để gắn lên thân cây trước cửa phòng cụ, giúp cụ thêm niềm tin để quên đi bệnh tật, quên đi những ngày tàn cô đơn. Tôi không biết làm gì để an ủi cụ, chỉ biết bắt chước Khánh Ly hát một bài hát mới của nhà văn Nguyễn Đình Toàn, trong đó có câu cả cụ lẫn tôi đều yêu thích "xin khấn nguyện cả mười phương tám hướng, cho quê hương u mê ngày thức tỉnh, để dù xa có chết cũng vui mừng..."
Ngày cụ nhắm mắt xuôi tay giữa bốn bức tường trắng của Viện Dưỡng lão, giữa những ngưới bản xứ cùng cảnh ngộ là một ngày cuối thu. Các con cụ vào ngày hôm sau chỉ được thấy thân xác nhỏ bé tiều tụy của cụ đã đông cứng.
Họ chuẩn bị tang lễ chu đáo, có đầy đủ cáo phó, phân ưu đăng trên báo chí với đầy đủ chức vị của từng người. Cáo phó còn được đọc nhiều lần trên các Đài Phát thanh Việt ngữ.
Ngày đưa cụ từ nhà quàng ra nơi thiêu xác có rất đông quan khách, các con, cháu trang phục giống hệt như những gì ta thường thấy trên TV trong các đám tang của người Mỹ. Mũi họ đỏ lên, không biết vì lạnh hay vì khóc thương tiếc bố để tỏ lòng báo đáp "ơn nghĩa sinh thành""
Nguyễn Trần Diệu Hương
Ở Một Nơi Không Phải Là Nhà
Cái dáng cao gầy đứng lặng lẽ như trời trồng của Vladimir ở Parking Lot lãng đãng trong trí tôi cả tuần. Từ khung cửa sổ tầng hai, trong gần mười phút, tôi nhìn thấy người bạn đồng nghiệp, "đồng bệnh tương lân" của mình cúi đầu ủ rũ, cam chịu. Tôi muốn rớt nước mắt, nhưng hiểu là mình không thể giúp gì được cho Vladimir.
Đợt sa thải nhân viên đầu tiên tại công ty tôi làm có tên Vladimir, làm cho rất nhiều người bàng hoàng. Vì Vladimir là một trong những nhân viên MIS - Managerment In formation System - dễ thương nhất, không bao giờ phàn nàn khi chúng tôi gọi bất cứ giờ nào. Ngay cả những hôm chúng tôi đang ở một tiểu bang miền Đông, trong business trip, có trục trặc với Network, hay Laptop, chúng tôi thường gọi Vladimir hơn là gọi những nhân viên khác. Bất cứ giờ nào, có hôm bị dựng dậy giữa năm giờ sáng mùa đông, Vladimir vẫn vui vẻ lái xe đến sở, giúp chúng tôi trở lại network, tìm data mình muốn.
Riêng với tôi, cảm tình tôi dành cho Vladimir, ngoài tình đồng nghiệp, còn có tình cảm dành cho một người cùng cảnh ngộ.
Với cái tên Vladimir, nếu ai đã từng sống ở Việt Nam trong vòng mười năm sau ngày mất nước, đều nhớ tên những ông bà cố vấn người Nga to béo, mập mạp, nằm phơi những thân hình rất thiếu thẩm mỹ ở những bãi biển dành riêng cho các "cố vấn" hay "chuyên gia". Đó là một cái tên rất phổ biến ở Nga, như tên Tuấn của Việt Nam, hay tên John của Mỹ.
Nhưng Vladimir của chúng tôi là một thanh niên rất mảnh khảnh, cao gầy, rất là "qua cầu gió bay". Tôi không phải là một nhân viên MIS, nhưng tôi thân với Vladimir vì chúng tôi có rất nhiều điểm tương đồng, mặc dù Vladimir da trắng, mắt xanh xám, trong khi tôi da vàng, mắt đen nâu. Hình ảnh Vladimir ngày đầu bước chân vào Công Ty, giống hệt hình ảnh của tôi gần mười năm trước, khi giã từ blue clollar jop - công việc tay chân-bước vào white dollar job-công việc trí óc.
Vladimir và tôi cùng đến Mỹ ở tuổi hai mươi hai với hai bàn tay trắng, với một quyết tâm rất cao sau những ngày gian nan cùng cực ở quê nhà. Trong khi tôi đến Mỹ như một thuyền nhân, sau hơn một năm trời qua ba trại tỵ nạn ở Châu Á, Vladimir đến Mỹ bằng một thông hành được cấp trong vòng ba tháng khi Vladimir trúng được từ một cuộc sổ số của sở Di trú Hoa Kỳ.
Cả tôi và ông Howard, một đồng nghiệp người Mỹ của chúng tôi, đều bất ngờ khi được Vladimir kể là mỗi năm sở Di trú Mỹ có một "cuộc xổ số" đặc biệt, giải thưởng không phải bằng tiền, mà là bằng những thông hành vào Mỹ. Những người tham dự xổ số thường không có mặt, và chưa bao giờ có mặt, ở Mỹ. Họ chỉ phải điền đơn qua Internet, hay bằng những mẫu đơn in sẵn. Sau khi điền đơn, phải chờ một thời gian để Sở Di trú-INS xác nhận về giá trị thật của ứng viên như bằng cấp, trình độ, khả năng về khoa học kỹ thuật. Ứng viên sẽ được gởi thư phúc đáp, cho biết họ được chính thức tham dự cuộc xổ số, và ngày, giờ, địa điểm sổ số. Dĩ nhiên hầu hết ứng viên không có mặt ở cuộc sổ số, vì cho đến lúc đó, họ vẫn không thể vào nước Mỹ, nhưng sẽ có một đại diện của họ (thân nhân, bạn bè) có mặt. Ngay sau khi có kế quả, người đại diện của ứng viên sẽ bổ túc ngay lập tức toàn bộ giấy tờ cá nhân của người trúng số. Trong vòng ba tháng, người trúng số sẽ nhận được một thông hành vào Mỹ, và sẽ được hưởng quy chế thường trú nhân ngay khi đến Mỹ. Muốn được trở thành một ứng viên của sở di trú, thường là ứng viên phải có trình độ Đại học trở lên về ngành Khoa học kỹ thuật, đặc biệt là Toán, và Computer Science.
Vladimir của chúng tôi đã vào Mỹ như vậy, rất là may mắn, và rất là tình cờ. Một người anh họ của Vladimir, dĩ nhiên là một người Mỹ gốc Nga, đã lo giúp đỡ mọi điều kiện để Vladimir được vào Mỹ, chấm dứt những ngày vác mảnh bằng Kỹ sư điện lang thang từ nơi này đến nơi khác ở Nga xin việc, nhưng đến đâu cũng chỉ được trả lời "cứ chờ, khi có cơ hội chúng tôi sẽ liên lạc".
Khác với những người đến Mỹ bằng quy chế tỵ nạn, Vladimir không có được một sự trợ giúp nào của chính phủ. "You are on your own from the beginning". Sau này, khi đã thân nhau, có dịp chia sẻ về "cái thủa ban đầu…gian nan ấy", Vladimir vẫn "phân bì" với tôi:
"Ít nhất, dù không lãnh welfare, không lãnh food stamps, bạn vẫn có được $600 giúp đỡ cho người mới đến từ chính phủ, tôi không có gì hết!"
Tôi cười, "phản công" ngay:
"Bạn đến Mỹ vớ trình độ Kỹ sư điện, tôi đến Mỹ với kiến thức lớp mười hai của xã hội Chủ nghĩa, tôi nghĩ chính phủ phải giúp tôi nhiều nữa kia."
Tuy "đốp chát" như vậy, nhưng tôi và Vladimir rất thân nhau, mặc dù Vladimir chỉ đáng tuổi em út của tôi, và kiểu "enjoy" đời sống Mỹ của người Mỹ gốc Nga này rất khác với kiểu sống "old fashion" rất bảo thủ của tôi.
Hồi mới đến Mỹ, người anh họ tử tế "cưu mang" Vladimir trong vòng 6 tháng, đủ thời gian để Vladimir nâng cao trình độ Anh ngữ, và học thêm bốn lớp về Management Information System để bước vào thị trường công việc của "thung lũng điện tử" tên gọi không chính thức của vùng South Bay, miền bắc California, lúc đó rất thiếu người làm về MIS.
Vladimir không thể tiếp tục ngành Điện của mình vì trình độ Đại học của Nga thấp hơn Mỹ nhiều, và không một Công Ty nào chịu mướn một người có bằng Đại học, nhưng không có một tí kinh nghiệm nào về chuyên môn. Sau lần lấy equivalent test thất bại, với điểm rất thấp, Vladimir quyết định bước vào đời sống Mỹ bằng ngành MIS. Dĩ nhiên, MIS dễ hơn nhiều so với Điện, nên Vladimir không hề gặp trở ngại trong việc lấy bằng tương đương về MIS.
Hình như mọi người đều nhận ra rằng trong mỗi Công ty, những nhân viên người Mỹ gốc ngoại quốc làm việc cần cù, siêng năng hơn những người Mỹ bản xứ. Hình như "con nuôi" chưa bao giờ, và sẽ không bao giờ bằng "con ruột". Hình như mọi người Mỹ di dân đều làm việc cần cù, vì dù ít hay nhiều, họ đều trải qua những ngày tháng gian nan ở ngay trên quê hương chôn nhau cắt rốn của họ.
Giữa cái thiểu số bảy phần trăm trong Công ty, tôi và Vladimir là hai nhân viên có tinh thần trách nhiệm cao nhất, cần cù, và siêng năng hơn hẳn cô Uma từ Ấn độ, bà Maria từ Phi Luật Tân, bà Nancy từ Đài Loan, ông Patrick từ Ba Lan, ông Mark từ Pháp, cô Meredith từ Na Uy….
Có lẽ vì cả Vladimir và tôi đều đến Mỹ từ một nước Cộng Sản. Mặc dù khi Vladimir đang ở năm thứ hai của một trường đại học lớn ở Moscow thì tượng Lenin đã bị kéo sập đánh dấu cho chủ nghĩa Cộng Sản cáo chung ở Nga, và ở trên quả đất, trừ Tàu, Cuba, Bắc Hàn, và Việt Nam!
Cái nghèo khổ, thiếu thốn của xã hội chủ nghĩa để lại một dấu ấn không nhỏ trong ký ức chúng tôi. Cứ mỗi tháng có Birthday Cakes với đủ mọi loại bánh để chúc mừng sinh nhật cho tất cả nhân viên có ngày sinh trong tháng, Conference Room có đầy bánh với đủ mọi loại từ bánh trái cây, bánh Ice Cream, bánh cheese, bánh chocolate, bánh Dâu, bánh Chanh, bánh Vanilla… Sau khi những "Birthday Boys"/ "Birthday Girls" thổi nến và cắt bánh, tất cả mọi người lần lượt nếm thử bánh, và quẳng vào thùng rác không nương tay những mẩu bánh khá lớn mà họ không thích, hay không dám ăn vì sợ lên cân!
Từ một góc phòng, tôi vẫn lặng lẽ quan sát, và bao giờ cũng vậy, những người Mỹ gốc ngoại quốc không hề ném bánh vào thùng rác. Họ để dành trong tủ lạnh, hay mang về cho ai đó ở nhà. Hình như đời sống vật chất thấp hơn ở các nước khác đã làm cho công dân của họ trân trọng thực phẩm hơn, mặc dù đó là loại thực phẩm mình không thích ăn.
Tôi thân với Vladimir hơn những người bạn di dân khác, khi tình cờ một lần tôi nhìn thấy ánh mắt xanh xám của Vladimir buồn như muốn khóc, khi thấy cô Denise người Mỹ bản xứ quẳng vào thùng rác gần nửa cái bánh kem, chỉ vì tủ lạnh không còn chỗ trống! Cũng như tôi đang nhớ đến rất nhiều người Việt Nam thiếu chất ngọt, một thỏi đường đen đối với họ chắc hẳn là ngon lành hơn những viên Chocolate MM đủ màu ngọt lịm có đậu phụng béo ngây ở bên trong đối với mỗi người Mỹ nghèo khó ở tận đáy xã hội; hẳn là Vladimir đang nhớ lại những người Nga tóc vàng, mắt xanh ốm đói ở Nga, nhiều khi vài tháng không được ăn một miếng bánh ngọt.
Tinh thần của chúng tôi càng tăng cao khi xảy ra chuyện bà Barbara quên mang chìa khóa khi đi từ khu vực này qua khu vực khác, bà tự nhốt mình trong "atrium", một khu rộng có trần bằng kính, có đầy đủ cây, hoa được chăm sóc cẩn thận, giúp chúng tôi giảm được stress khi làm việc. Chỉ có hai tiếng phả ngồi một mình trong atrium, có cả băng đá rất là thơ mộng, rất là "ghế đá công viên", bà Barbara phải gặp chuyên viên tâm lý, và được nghỉ ba ngày có lương để "hồi phục tinh thần".
Và từ đó, cả công ty mới biết Vladimir, giống hệt như trường hợp bà Barbara, trong một ngày nghỉ, vào sở làm việc, khi đi từ building này qua building khác, quên mang theo chìa khoá, đã bị lock trong Atrium gần trọn một ngày trong một Chủ Nhật khác, mà không hề kêu ca. Trái lại, Vladimir leo lên ghế đá ngủ một giấc ngon lành trong Atrium, và không hé môi phàn nàn!
Gần hai mươi năm sống dưới chế độ Cộng sản, chuyện bị lock là "chuyện thường ngày ở những nước Cộng sản", rất là "chuyện không có gì mà làm ầm ỹ" nên người bạn Mỹ gốc Nga của chúng tôi không bị hoảng loạn tinh thần, không phải đi gặp bác sĩ tâm lý như một đồng nghiệp bản xứ.
Cả công ty ngạc nhiên về "kỳ tích" ngủ bình yên cả ngày trên "ghế đá công viên" trong Atrium ở sở của Vladimir. Họ ngạc nhiên, nhưng tôi thì hiểu rất rõ thái độ bình thản, an nhiên của Vladimir. Bởi vì những người Mỹ bản xứ chỉ biết tự do, và không hề biết đến chuyện bị đàn áp, chuyện có thể bị tống vào trại cải tạo bất cứ lúc nào ở những nước Cộng sản.
Một lần khác, chuyện cậu bé Elian người Cuba bị gởi trả về với cha đảng viên Cộng sản ở một trong những nước độc tài hiếm hoi còn lại trên quả địa cầu, làm cả tôi lẫn Vladimir chùng lòng vì thương cho một tâm hồn ngây thơ bị trả về "một nơi không thể nào tưởng tượng nổi" dưới con mắt của những người Mỹ bình thường chỉ biết đến tự do, và một đời sống văn minh, no ấm.
Giống như nhiều người di dân có tấm lòng, có trách nhiệm khác, Vladimir đã gởi về quê nhà hơn mười phần trăm tiền lương của mình để nuôi những thân nhân còn ở Nga, mặc dù đã có tự do vẫn rất chật vật trong thời gian hậu cộng sản. Cũng giống như ông Patrick không bao giờ dám đi ăn trưa ở ngoài, để dành mỗi tháng $100 cho thân nhân ở Ba Lan. Cũng giống như cô Uma chuyên mua quần áo ở Wall Mart để dành tiền cho thân nhân ở nước Ấn độ dân rất nhiều nhì, và cũng nghèo nhất nhì trên thế giới. Cũng giống như bà Maria luôn luôn có một cái ví đựng coupons khi đi chợ để dè xẻn từng đồng cho cha mẹ ở nước Phi Luật Tân đời sống hãy còn thấp. Và cũng giống như tôi, chỉ dám shopping ở Macy's khi có đợt onsale, chỉ dám đi du lịch khi có đợt bán vé máy bay rẻ đến nửa giá qua Internet, để dành tiền cho những thân nhân, đồng bào kém may mắn ở quê nhà… Bởi thế thỉnh thoảng nhiều người Mỹ đồng nghiệp vẫn xì xầm sau lưng chúng tôi "they have no life". Thật ra, mỗi người đều có đời sống, nhưng đời sống của con nhà giàu khác xa với đời sống con nhà nghèo!
Còn nhớ một nhà văn lớn của Việt Nam. Tôi không nhớ rõ là Mai Thảo, Duyên Anh, hay Nguyễn Đình Toàn đã viết "Cái nghèo đi đôi với cái buồn. Cái buồn đi đôi với âm thầm lủi thủi" Nếu được phép, tôi xin bổ túc thêm "Cái âm thầm, lủi thủi đi đôi với cái thua thiệt!" Những người Mỹ gốc ngoại quốc thường bị thua thiệt, bởi rất nhiều lý do. Một trong những lý do đó là họ nói tiếng Mỹ với accent của tiếng mẹ đẻ. Và họ thường làm việc chăm chỉ, cần cù hơn, mà vẫn lãnh lương ít hơn so với những đồng nghiệp Mỹ cùng trình độ, cùng kinh nghiệm. Còn hơn thế nữa, khi kỹ nghệ điện toán đang ở vào thời điểm hưng thịnh nhất, cả ngàn kỹ sư tốt nghiệp "the top 3%" của những học viên kỹ thuật từ Ấn Độ, được cấp Visa H1 qua làm việc ở Mỹ với mức lương đôi lúc chỉ bằng 50% những kỹ sư bản xứ cùng trình độ, nhưng đó là một hạnh phúc lớn nhất của đời họ, giúp họ thoát khỏi đời sống đói nghèo ở quê hương, giúp cả dòng họ hãnh diện. Vladimir cũng không thoát được thông lệ đó. Tiếng Mỹ đầy accent Nga là một trong những trở ngại trên con đường sự nghiệp của Vladimir, nhưng người bạn trẻ gốc Nga của tôi vẫn rất là hạnh phúc.
Tôi vẫn trực tiếp khích lệ Vladimir:
- Bạn biết không" Tiếng Mỹ là ngôn ngữ thứ hai của bạn, nhưng là ngôn ngữ thứ ba của tôi. Dĩ nhiên, tôi phải vất vả hơn bạn nhiều. Nhưng tôi đã không đầu hàng. Bạn lại có lợi thế hơn tôi, là hình dáng bên ngoài của bạn không khác biệt nhiều so với người bản xứ. Tôi tin chắc là bằng một sự cố gắng kiên trì, trong một thời gian ngắn, sẽ không ai biết ngôn ngữ thứ nhất của bạn là tiếng Nga.
Cái may mắn của cả Vladimir và tôi là chúng tôi được làm trong một Consulting Company với đa số là những ông bà Mỹ tiến sĩ nói tiếng Anh rất chuẩn, và rất lịch sự, rất biết điều, nên chúng tôi nhiều khi quên mất rằng mình đang ở một nơi "không phải là nhà".
Nhưng mà đôi lúc ở "Hotel", nhất là loại Hotel sang trọng thì hơn hẳn "nhà". Bởi thế hầu hết mọi người trên thế giới, dĩ nhiên trừ người Mỹ, đều thích được ở một nơi "không phải là nhà" như chúng tôi.
Năm ngoái, một người Latvia (thuộc Liên Bang Số Viết cũ), còn trong độ tuổi hai mươi, chuyên ăn bám hệ thống public welfare bị bệnh tâm thần, giết cả gia dình, trở thành "one of the most wanter ones on FBI list", trở thành một điều lo nghĩ, và xấu hổ cho Vladimir. Tôi cũng đã từng trải qua tâm trạng này khi một năm nào đó, mấy anh em nhà họ Nguyễn, một cái họ rất phổ biến ở Việt Nam, cướp tiệm Good Guys, làm tôi xấu hổ, và không dám shopping ở tiệm này cả năm sau đó. Do vậy, tôi đem hết khả năng tâm lý rất hạn hẹp của mình an ủi Vladimir, mặc dù hơn cả Vladimir, tôi biết rất rõ "một con sâu làm rầu nồi canh".
Với Vladimir, sau này khi Vladimir lập gia đình có con, thế hệ người Nga thứ hai sẽ không khác biệt với những người Mỹ bản xứ, bởi vì Vladimir thuộc loại Nga Âu, da trắng, mắt xanh, cao lớn. Nhưng với tôi, với cô Uma từ Ấn độ, thế hệ thứ hai, thế hệ thứ ba, hay thế hệ thứ một trăm, vẫn là da vàng, tóc đen, và vẫn thấp hơn người bản xứ ít nhất là nửa cái đầu!
Nhưng tất cả chúng tôi đều cảm ơn đất nước Hoa Kỳ đã vui lòng "nhận rất nhiều con nuôi". Và để được xem như "con ruột", đương nhiên "con nuôi" phải nỗ lực rất nhiều về tất cả mọi mặt: trình độ, kiến thức, tư cách, cách xử sự…
Bây giờ, Vladimir đứng đó, lặng lẽ như trời trồng, giữa Parking Lot, với cái check cuối cùng cầm trên tay, và với cái check bonus thứ hai gồm những ngày nghỉ chưa dùng đến được quy thành tiền, và một tháng lương phụ trội, giúp người bị laid off có đủ sức chịu đựng lao vào một cơ hội mới, biết đâu lại lớn hơn cơ hội họ vừa đánh mất.
Tôi cầu mong Vladimir có đủ nghị lực để đứng dậy đi tiếp, và học được thêm một bài học mới, "một lần vấp ngã là một lần bớt dại". Dù sao, cơ hội ở Mỹ, "ở một nơi không phải là nhà", đặc biệt là đối với những người Mỹ gốc Á, vẫn nhiều hơn gấp ngàn lần ở quê hương chôn nhau cắt rốn của mình.
Nguyễn Trần Diệu Hương
Santa Clara, CA - tháng 2/02
Viết Tiếp: Còn Đó Ngậm Ngùi
Mỗi lần nói chuyện với ông Đạt, dù bằng phone hay trước mặt ông, tôi vẫn phải nói lớn hơn bình thường rất nhiều. Vì tai bên trái của ông gần như hoàn toàn bị điếc, do thương tật ông phải chịu từ thời mới hơn ba mươi tuổi từ chiến trường U minh, Cà Mâu. Lúc nào tôi cũng chọn chỗ ngồi từ bên phải của ông để ông có thể nghe dễ dàng hơn.
Tôi quý ông vô cùng vì rất nhiều lý do; ông đã hy sinh cả một thời tuổi trẻ của mình để bảo vệ cho miền Nam tự do, dù chỉ được hơn hai mươi năm; hơn thế nữa, qua ông, tôi còn thấy thấp thoáng hình ảnh Ba tôi, một người cùng thời, cũng mặc áo lính như ông.
Căn nhà nhỏ 3 phòng của ông ở San José nhìn từ bên ngoài cũng dung dị như mọi căn nhà bình thường khác, cũng có cái hàng rào nhỏ, để ngăn những con chó nhỏ giẫm lên cỏ xanh hơn là để ngăn người lạ bước vào nhà. Trước nhà cũng có mấy bụi hoa hồng, dù không nở rộ, hoa nhiều hơn lá, như những cụm hoa được chăm sóc kỹ mỗi ngày, nhưng vẫn tươm tất gọn gàng cho thấy có sự chú ý của chủ nhà. Ít ai biết những cụm hoa hồng đó được chính tay bà trồng từ hơn ba mươi năm trước, hồi hai ông bà mới mua căn nhà với ba phòng ngủ.
Về việc mua nhà này, ông kể lại chuyện những ngày đầu di tản:
- Chúng tôi có ba con gái, một con trai, đúng ra phải mua nhà 5 phòng, nhưng lúc đó, không đủ khả năng mua nhà lớn, chúng tôi đành phải để các cháu gái ở chung một phòng. Ấy vậy mà các cháu vui lắm vì vẫn hơn cái thời phải đi hái dâu ở San Diego cả ngày, tối về mấy mẹ con nằm dài trong phòng khách ờ cái apartment nhỏ, trông rất tội, nhưng lúc đó, khả năng của chúng tôi ở những ngày đầu lưu vong chỉ đến thế! Thương vợ, thương con mà không làm gì được, cũng đành bất lực như ngày nào nhìn nước mất, mà phải khoanh tay trong nỗi ngậm ngùi.
Ông Đạt chia xẻ với chúng tôi nhiều điều về những ngày đầu chân ướt chân ráo ở quê người, đó là những ngày cuối năm 1975. Hình ảnh in đậm nhất trong óc tôi là hình ảnh người con gái lớn của ông, khoảng mười lăm tuổi lúc đó, đứng chơ vơ cùng mẹ giữa tiếng trực thăng bay gần sát mặt đất, tạo ra sự chuyển động của không khí, mạnh hơn tốc độ của một cơn gió lớn. Cơn gió lớn tạo ra từ cánh quạt của trực thăng, vốn dĩ rất gần gũi với ông cả một thời trong quân đội miền Nam. Cũng trực thăng bay ở độ cao rất thấp, cũng tiếng động của cánh quạt quay tít những tiếng trực thăng tản thương năm xưa của QLVNCH với ông Đạt chỉ làm âm vang thêm nỗi đau thể xác vì thương tật ở chiến trường. Tiếng trực thăng của Sở Di trú Mỹ quần dọc theo biên giới (xua đuổi những người Mễ Tây Cơ di dân lậu vượt qua làn ranh ngăn đôi hai quốc gia, lao động chân tay vẫn kiếm được nhiều tiền hơn ở ngay trên quê hương mình) trên những cánh đồng dâu bạt ngàn ở biên giới Mỹ-Mễ đã làm lòng cả hai ông bà nhói lên nỗi đau tinh thần, nỗi đau của những người dân mất nước phải sống đời lưu lạc. Trên những cánh đồng dâu bạt ngàn (Strawberries Fields) ở San Diego, mỗi một lần trực thăng của Sở di trú Mỹ bay ngang, những người Mễ nhập cư lậu trốn hết, chỉ có mỗi bà Đạt và cô con gái lớn, những người tỵ nạn Việt Nam nhập cư chính thức đứng lẻ loi, bị khuất trong mầu đỏ của trái dâu chín và mầu xanh của lá dâu non, vừa chơ vơ, vừa đầy sức chịu đựng.
Người con gái lớn của ông bà lúc đó, đang học những năm cuối ở trường Trung học, đã hiểu được mọi chuyện như một người lớn, hiểu tại sao cả gia đình phải lưu vong, bắt đầu mọi thứ với hai bàn tay trắng ở quê người, hiểu nỗi đau của Bố, hiểu sự hy sinh của Mẹ, cô ra sức học hành dù trình độ tiếng Anh còn hạn chế. Ngày cô tốt nghiệp Trung học, một tờ báo ở địa phương đã đăng một bài nhỏ, với cái tựa gợi sự chú ý, " Valedictorian with little English /Thủ khoa Trung học mặc dù chưa thông thạo tiếng Mỹ", kèm theo hình cô gái Việt Nam mảnh mai với đôi mắt to thông minh, cương quyết. Nếu tờ báo chịu theo dõi bước chân của cô nhỏ tỵ nạn ngày nào, chắc là sẽ có thêm một bài viết khác về sự thành công của cô ba mươi năm sau ở một công ty kỹ thuật lớn ở Silicon Valley.
Buồn thì buồn rất nhiều, nhưng trách nhiệm của người chủ gia đình vẫn phải lo, giữa một đất nước giầu có bình yên, những kiến thức trường lớp và cả thực tế của ông về chiến trận dĩ nhiên thành "đồ cổ", không sử dụng được, ông Đạt cắp sách miệt mài đi học những lớp cần phải có cho một bằng trung cấp hai năm về điện tử. Ngày xưa ở chiến trận giữa rừng già hoang vu, khổ về vật chất, bây giờ ở nhà riêng giữa nước Mỹ giầu có, khổ về tinh thần nhiều hơn, nhưng lúc nào ông cũng có bà bên cạnh, người bạn đời trung thành, không hề than trách, không hề kêu ca, mà luôn lặng lẽ hỗ trợ cho chồng như từ thủa nào, từ những ngày hai người còn rất trẻ, mới lấy nhau, ông trôi nổi từ mặt trận này đến chiến trường khác, từ rừng U Minh Cà mau đầy muỗi đến vùng đất "chó ăn đá, gà ăn cát" Quảng Trị khô cằn ở cực Bắc của Việt Nam Cộng Hòa.
Lấy được mảnh bằng hai năm về điện, ông đưa cả gia đình về miền Bắc California, nơi được mệnh danh là thung lũng điện tử của cả thế giới. Không dám bỏ việc đang làm, nhưng ông kiên nhẫn đi xin việc. Cứ tưởng là phải mất một thời gian dài để tìm được việc làm mới, nhưng không ngờ, chiếc nhẫn ông đeo từ ngày học khóa đào tạo Sĩ quan Thủy quân Lục Chiến ở Mỹ từ cuối thập niên 50 đã giúp một người Mỹ cùng học trường Marine cùng thời nhận ra ông, người bạn học cùng trường quân sự năm xưa, từ thủa hai người chưa đến tuổi ba mươi, mặc dù bây giờ cả hai đều tóc đã điểm sương, và nặng nề, chậm chạp hơn thời còn khoác áo chiến trận rất nhiều. Thế là ông được thu nhận vào làm với mức lương của một người có kinh nghiệm về điện mặc dù ông chỉ có kinh nghiệm về chiến trường, và lý thuyết về điện tử vừa mới học được hãy còn hạn chế.
Chiếc nhẫn ông đeo từ lúc mới học xong khóa quân sự thủy quân lục chiến vẫn được đeo cùng với chiếc nhẫn cưới là hai vật theo ông cả cuộc đời, tưởng là đeo để cho vui, vậy mà lại giúp được ông trong lúc cần thiết nhất, tìm được một việc làm tương đối để vợ con đỡ vất vả hơn.
Cuộc sống bình lặng trôi qua, dù tất bất nhưng ít nhất mỗi tối ông còn được về với vợ con, không trôi nổi từ chiến trường này đến trận địa khác, bỏ bà ở nhà một mình dậy con, và nuôi mẹ thay ông. Ông dự định đến lúc các con học hành thành tài, ông đưa bà đi du lịch ở nhiều nơi để bù lại thời còn trẻ và thời trung niên không có được cuộc sống bình an, hạnh phúc vẹn toàn như mơ ước. Trời không thương, khi người con út sắp xong Đại học, bà trở bệnh, không là bệnh thường, mà là Alzheimer, một loại bệnh nan y , y học vẫn bó tay dù đã vào đầu thế kỷ 21. Trí nhớ bà nhạt nhòa, mất dần rồi hư hẳn. Ông chăm sóc bà kỹ càng và tận tình, bằng cả tình nghĩa vợ chồng, bằng cả lòng biết ơn với một người bạn đời đã đảm đương gánh nặng gia đình một mình suốt cả một thời ông mải mê trên các chiến trận.
Lúc đầu, bà chỉ quên trước quên sau, short memory bị hỏng, nhưng giác quan còn lại vẫn tốt. Nhưng như nguyên tắc bình thông nhau trong Vật lý, tất cả những bộ phận của cơ thể đều nối kết với nhau, dù trực tiếp hay gián tiếp, bà yếu dần và ngày càng không kiểm soát được chính mình. Đến lúc bà cần sự trợ giúp từ người khác như một em bé chưa biết đi thì ông bỏ hẳn mọi việc ở nhà chăm sóc bà.
Lần đầu tiên chúng tôi gặp ông bà ở căn nhà nhỏ 3 phòng, trước nhà có mấy bụi hồng và một bụi tường vi chính tay bà trồng từ lúc mới mua nhà, ở những năm đầu di tản, thấy bà ngồi trước cái TV nhỏ trong bộ đồ lụa mầu hồng là mầu bà yêu thích, đôi mắt lạc thần, chúng tôi thắc mắc không biết bà có hiểu gì không" Ông giải thích:
- Ngày còn khỏe mạnh, nhà tôi vẫn thích xem đài FOX, tôi vẫn để nhà tôi ngồi mỗi ngày trước TV với đài FOX vài tiếng mỗi ngày, không biết là có hiểu gì không, nhưng tôi muốn giữ mọi điều bình thường như ngày trước.
Lần thứ hai trở lại thăm ông bà, tôi đưa theo hai người bạn thân, một người là Bác sĩ, và một người là chuyên viên về dinh dưỡng (Nutritionist), vừa để hai người bạn thấy được tình nghĩa vợ chồng quý hiếm của hai ông bà, vừa để cả hai góp ý về chuyên môn để ông đỡ vất vả hơn trong việc chăm sóc bà. Cả hai người bạn đều có ấn tượng tốt về kiến thức chuyên môn ông học được về bệnh Alzheimer, về căn nhà nhỏ rất sạch sẽ, tinh tươm mặc dù chỉ có hai người đứng tuổi sống trong nhà mà bà là một bệnh nhân đặc biệt mà mỗi nhu cầu căn bản đều phải thực hiện tại giường bệnh.
Lần này, thì bà yếu hơn lần trước rất nhiều, chỉ còn nằm trên giường, và gầy hẳn đi như một cái lá khô, nhưng vẫn còn được da dẻ hồng hào của một người ăn uống đúng dinh dưỡng. Ông đưa chúng tôi vào tận giường bệnh, có lẽ nhận ra người lạ, dù không nói năng được gì, bà ứa nước mắt, ông cầm tay bà ôn tồn:
- Có khách đến thăm vợ chồng mình. Người quen cả, đừng sợ.
Để giữ mọi điều bình thường, ông đã hy sinh rất nhiều, như bà đã hy sinh từ những ngày chưa mất nước. Hơn ba mươi năm nay, ông chưa bao giờ ra khỏi California, vì những ngày đầu di tản vất vả, gian nan, và vì sau này phải chăm sóc người vợ đã chìm vào cõi vô minh từ cả thập niên trước. Một người đã có dấu chân ở khắp các chiến trường khốc liệt từ Quảng Trị đến Cà Mâu để bảo vệ miền Nam tự do, đã dự các lớp học về chiến tranh từ Hoa kỳ đến Panama, vậy mà bây giờ chỉ quanh quẩn ở một góc nhà. Chắc hẳn nếu một nhạc sĩ nào đó biết được ông bà, sẽ có bài hát "Ơn Anh&" để đối lại với bài" Ơn Em .." .
Trên vách tường phòng khách nhà ông, có nhiều hình ảnh của ông bà từ lúc mới lấy nhau, nụ cười tươi tắn, rạng rỡ hạnh phúc ở tuổi ngoài hai mươi. Rồi hình ảnh ông oai nghiêm trong quân phục, từ lúc mang một mai vàng đến lúc lên ba mai bạc, và hình ảnh bà với bốn đứa con, rất mảnh mai, nhưng dẻo dai như cây trúc. Tôi tin chắc mỗi bức hình mang ông về với một quá khứ ấm êm, hạnh phúc, đủ để ông có nghị lực chăm sóc cho bà trong một khoảng thời gian dài, đủ để một thế hệ con nít lớn lên, thành người, cảm nhận được tình nghĩa cao quý, cùng sự hy sinh vô bờ của những người đi trước.
Hai tuần một lần, người con gái thứ ba của ông bà lái xe hơn hai tiếng mỗi lượt đi, hoặc về, về thăm bố mẹ, quét dọn, mua sắm thức ăn, đồ dùng cho ông bà, nhưng gắnh nặng chăm sóc bà thì vẫn đè trên vai ông mỗi sáng, mỗi chiều và cả mỗi đêm.
Hình như dù không còn nhận biết được điều gì, bà vẫn còn nhận ra được ông, nhận ra được ông đang đền đáp lại ân tình từ thời son trẻ.
Là người ngoại cuộc, chúng tôi nhận ra được rất rõ ý nghĩa hai chữ "duyên nợ" và "tình nghĩa" giữa ông bà Đạt. Ở một góc nhỏ của thành phố lớn thứ mười của nước Mỹ, có một căn nhà tĩnh lặng không tiếng nói, nhưng ở đó, mỗi một bụi cây, góc nhà đều đã chứng kiến được một ân tình quý hiếm, ở đó con đường dài hy sinh được chia đều hai đoạn: đoạn đầu bà đã đi trọn vẹn, ở đoạn sau, chắc chắn ông cũng hoàn thành như đã chu toàn tốt đẹp bổn phận của một thanh niên thời chinh chiến...
Nguyễn Trần Diệu Hương