- MGTT 8- Thầy Lê Quý Thể
- MGTT 9 - Tạ Ơn Thầy Cô Nhân Ngày Lễ Thanksgiving
- MGTT 10- Thầy Phan Thanh Hoài
- MGTT 11 - Gợi Giấc Mơ xưa
- MGTT 12 - Thầy Cù An Hưng - Tấm Lòng Và Tinh Thần toán học
- MGTT13 - Nửa Chữ Cũng Thầy - Nhà Văn Võ Hồng
- MGTT 14 - Các Thầy dạy Triết
MGTT 8: Thầy Lê Quý Thể
Một lần, Cô Hà Thị Nhung đang tìm sách cần mượn trong một kệ sách của một thư viện ở Orange County, Cô thấy… một đôi dép rất lạ giữa mùa Đông California. Một góc ký ức Ngô Quyền sáng lên, Cô chợt nhớ đến Thầy Lê Quý Thể, một đồng nghiệp dạy cùng môn với Cô vào cuối thập niên 70 ở trường Ngô Quyền, một người vẫn thường xuyên mang dép, (đã được Thầy Nguyễn Văn Lục kể lại trong tuyển tập NQ 2006).
Cô chạy vòng qua phía bên kia của kệ sách để xem đó có phải là một đồng nghiệp ngày xưa? Không may, Thầy Thể, một người mê thể thao, nhanh chân hơn Cô, nên Cô Nhung chưa có dịp gặp lại Thầy.
Chưa có “cơ duyên hạnh ngộ” với Thầy Lê Quý Thể ở quê người, nhưng các CHS NQ, nhất là các anh chị đã từng là vận động viên của trường Ngô Quyền luôn nhớ đến ông Thầy trẻ vừa có nhiệt tâm của một nhà giáo, vừa có tinh thần quyết thắng của một người mê thể thao cuối thập niên 60, đầu thập niên 70 của trường xưa.
Thế hệ chs NQ nhỏ hơn, không được biết mặt Thầy, nhưng rất quý Thầy, một người dành đủ bảy ngày trong tuần cho học trò. Không phụ ơn Thầy, hoc trò cố gắng chăm học, vận động viên cố gắng thi đấu, cho nên gần bốn mươi năm sau, “ký ức vàng son” một thời đã được các anh Trần Hữu Phúc và Đinh Quang Bình kể lại với niềm tự hào của tất cả chsNQ.
Thầy Lê Quý Thể
Vì chơi bóng chuyền, tôi trở thành học sinh Ngô Quyền, và được dịp biết thầy Lê Quý Thể là giáo sư phụ trách thểthao của trường Ngô Quyền (69-74). Sau chiến thắng tuyệt đối của Ngô Quyền trước trường Kiểu mẫu Thủ Đức, chiều về, ngồi uống nước ở quán chè trong trường. Thầy Thể tâm sự với tôi là Thầy rất vui vì đã phát hiện được tài năng của tôi thật đúng lúc. Thầy hy vọng và tin tưởng tôi cùng đội bóng chuyền sẽ mang lại nhiều thành tích cho trường.
Lần đi thi đấu hữu nghị giữa ba trường kết nghĩa Chu Văn An ở Sài gòn, Ngô Quyền ở Biên Hòa và Trịnh Hoài Đức ở Bình Dương, ở sân trường Trịnh Hoài Đức, các cầu thủ và cổ động viên đi trên một chiếc xe bus, riêng tôi được Thầy Thể chở bằng xe Jeep của chính Thầy. Trên đường đi, Thầy cho tôi biết về lối chơi của hai trường bạn và Thầy động viên cho tôi có thêm niềm tự tin.
Lần đó, Trịnh Hoài Đức bị loại, Ngô Quyền và Chu Văn An được vào chung kết, trận đấu rất căng thẳng và gay go. Trên sân thi đấu, thỉnh thoảng tôi nhìn ra ngoài, Thầy Thể đang đứng ngồi không yên. Thầy góp ý chỉ đạo chúng tôi cần nhắm vào điểm yếu, kẻ hở của đối phương để phát huy điều thuận lợi cho đội nhà. Tuy không phải là cầu thủ nhưng phụ trách môn thể thao, đã từng dẫn đội bóng đi thi đấu nhiều lần nên Thầy cũng tích lũy được nhiều kinh nghiệm. Sau một ngày thi đấu căng thẳng và mệt mỏi, Thầy đưa chúng tôi ra chợ Búng (Bình Dương) bồi dưỡng một bửa no nê rồi về lại Biên Hòa.
Sau trận đấu đó, Thầy Thể có ý muốn chuyển tôi từ Khiết Tâm vào Ngô Quyền (nk 72-73) cùng lúc với nhiều học sinh từ các trường Trung học công lập ở Bình Long và Quảng Trị di tản về Biên Hòa trong cuộc chiến mùa hè đỏ lửa 1972…..
Đinh Quang Bình (Texas – US )
Trưởng Khối Thể Thao BĐHHS NQ (72-73) chsNQ khóa 11
Đội bóng trường Ngô Quyền Năm 1972 Anh Đinh Quang Bình và Thầy Lê Quý Thể
Năm Đệ Nhất (nk 69-70) chúng tôi được Thầy Lê Quý Thể dạy môn Lý Hóa và là GS hướng dẫn của lớp. Môn Lý Hóa thường khó khăn và khó….nuốt. Nhưng Thầy Thể - có lẽ là con cháu hậu duệ của thần đồng Lê Quý Đôn (1726-1784)-nên giảng dạy rất dễ hiểu , mà lại còn “tâm lý”, lâu lâu lại dí dỏm khiến cả lớp phải “bụm miệng” cười.
Có lần thấy cả lớp có vẽ lơ là chuyện học, Thầy bất ngờ "triết lý" ràng nghề nào cũng quý, nhưng không muốn sau này phải thất vọng gặp lại học trò cũ .... đạp xích lô Thế là cả lớp cười tỉnh ngủ và chịu chăm học lại vì trong lòng không ai dám nỡ để sau này Thầy phải thất vọng.
Thầy tận tụy và tốt bụng đến nổi nhiều lần "xách đầu", bắt đám học trò vào lớp để dạy thêm trong dịp cuối tuần Do vậy, năm 1970, cả 3 học sinh cùng lớp Đệ Nhất B1 của Ngô Quyền cùng thi đậu vào khóa 13 Kỹ sư Công Chánh của Trường Đại học Phú Thọ mà chưa cò một lớp Đệ Nhất nào kể cả càc trường Petrus Ký, Chu Văn An đạt được thành tích vẽ vang như vây
Đặc biệt là Thầy rất mê thể thao, nhất là môn đá banh. Có lẽ Thầy... tiến bộ, nghĩ là “Một đầu óc minh mẫn chỉ có được trong một thân thể... sport). Năm đó, Thầy dẫn đội banh Ngô Quyền đi tranh hùng với đội banh trường Khiết Tâm, lúc đầu chúng tôi bị dẫn trước 0-1, mãi đến cuối hiệp một, chúng tôi mới gỡ huề được. Trong lúc nghỉ giải lao, Thầy đã “tiếp nước”, nâng cao tinh thần cho đội nhà. Loáng thoáng, chúng tôi nghe Thầy khen ngợi những câu làm “nức lòng chiến sĩ”, đại khái như:
- Đội đầu banh không thua gì cầu thủ thứ thiệt.
- Học đã giỏi mà đá banh còn giỏi hơn.
Thành ra. vào hiệp hai, cả đám như được “dopping”, hăng máu chạy bạt mạng, và cuối cùng nhờ cú “ngã bàn đèn” chọc thủng lưới, thắng 2-1. Cả tuần sau, vẫn còn thấy mặt Thầy tươi rói, mà chỉ có dân đá banh chúng tôi mới hiểu tại sao. Với tính tình phóng khoáng, xuề xòa như vậy, nên dân Đệ Nhất B (12B) “chịu” Thầy lắm…
Trần Hữu Phúc (Germany)
chsNQ khóa 8 - Đệ Nhất B1 (nk 69-70)
(trích từ kỷ Yếu 2004)
Thầy Thể và nam sinh ngồi phía sau cổng trường Thầy Lê Quý Thể và nam sinh khóa 8, tất niên năm 1970
Nguyễn Trần Diệu Hương
MGTT 9 - TẠ ƠN THẦY CÔ NHÂN NGÀY LỄ THANKSGIVING 2009
Nhân mùa Thanksgiving, Lễ Tạ Ơn ở Mỹ, xin được kết hợp hai truyền thống tốt đẹp nhất của Đông và Tây để viết lên những lời tạ ơn chân thành từ tâm hồn của những chsNQ năm xưa ở cả hai thế hệ "nghi bất hoặc" và "tri thiên mệnh" với các Thầy Cô sắp hoặc đã bước vào tuổi "cổ lai hy".
Dù năm tháng chất chồng đã làm phai mờ nhiều thứ nhưng tình nghĩa thầy trò vẫn còn nguyên, như thời xưa, thập niên 50s, 60s và 70s, nên xin kính mời càc Thầy Cô đọc những lời cảm ơn thành kính của chúng em, và để thấy dù người lái đò già đã không còn đưa những thế hệ học trò qua khúc sông Trung học, mái chèo đã gác từ lâu, bến đò xưa chỉ còn trong tâm tưởng nhưng khách qua đò vẫn nhớ mãi câu ngạn ngữ "công Cha, nghĩa Mẹ, ơn Thầy” trong bài học Công dân giáo dục năm xưa
Xin mời tất cã các chsNQ đang lưu lạc khắp nơi trên địa cầu cùng đọc một vài lời tạ ơn tiêu biễu của ba thế hệ NQ, hy vọng đáp đền được phần nào "ơn Thầy", món nợ ân tình như một đàn anh NQ đã viết:
Nợ không vay, mỉm cười xin cố trả
(Phù Ca - Nguyễn Thy Ân) - USA
“Ông lái đò ngày nay già yếu lắm…" Câu hát ngày xưa vẫn còn làm nao lòng đứa học trò, bây giờ cũng đã không còn trẻ nữa. Thời gian có thể làm phai nhạt hay xóa nhòa đi nhiều thứ, nhưng cám ơn Thượng đế đã cho tất cả những tình yêu cao quí, tuyệt vời...trên thế gian này vẫn mãi tồn tại trong mỗi chúng ta, phải không thưa Thầy?
Võ Thị Tuyết Mai – Utah -USA
Vì cô, tâm hồn tôi trở nên phong phú và tràn đầy những hình ảnh hay, những ý tưởng đẹp.Tôi thích viết văn và làm thơ từ đó
Chưa đền đáp được gì thì gia đình cô đã đi đoàn tụ ở nước ngoài. Thỉnh thoảng tôi nhận được thư cô, những tờ thư dài, đầy những lời thương yêu. Cô nói: Có xa quê hương rồi mới biết yêu quí và nhung nhớ. Có những đêm cô thức hoài không ngủ được vì thèm được đứng trên bục giảng để giảng thơ Kiều.
Tôi nhớ cô và muốn hát bài “Hạ trắng” mà cô rất thích. “Áo xưa dù nhầu cũng xin bạc đầu gọi mãi tên nhau”. Cô ơi, cô giáo của tôi ơi!
Hà Thu Thủy - Việt Nam
Thầy ơi, nhớ lại những ngày thơ dại ấy chúng em lại càng nhớ đến Thầy nhiều. Giờ đây vào những lúc vượt khó khăn khi tự kiểm soát cảm xúc của mình, chúng em mới biết những thương yêu vô bờ cúa Thầy Cô đã dành cho lũ học trò (dù biết chúng phá như quỷ)
Thầy Cô đã thương yêu chúng em nhiều biết đến bao nhiêu
Thầy ơi, em viết những dòng này với tấm lòng biết ơn người Thầy tận tụy, nhẫn nai.
Nguyễn Thanh Tùng chsNQ 62-69 - VietNam
Có lần thấy cả lớp có vẽ lơ là chuyện học, Thầy bất ngờ "triết lý" rằng nghề nào cũng quý, nhưng không muốn sau này phải thất vọng gặp lại học trò cũ...đạp xích lô. Thế là cả lớp cười tỉnh ngũ và chịu chăm học lại vì trong lòng không ai dám nỡ để sau này Thầy phải thất vọng.
Thầy tận tụy và tốt bụng đến nổi nhiều lần "xách đầu", bắt đám học trò vào lớp để dạy thêm trong dịp cuối tuần. Do vậy, năm 1970, cả 3 học sinh cùng lớp Đệ Nhất B1 của Ngô Quyền cùng thi đậu vào khóa 13 Kỹ sư Công Chánh của Trường Đại học Phú Thọ mà chưa cò một lớp Đệ Nhất nào kể cả các trường Petrus Ký, Chu Văn An đạt được thành tích vẻ vang như vây. Đến khóa 14KSCC, nữ sinh duy nhất đậu vào Phú Thọ lúc đó là chs NQ khóa 9 Nguyển Kim Loan. Đầu niên học 71-72 đả có 15 chs NQ dập dìu đụng mặt nhau trong khuôn viên Đại học Phú Thọ.
Cô dạy Pháp văn năm lớp bảy và là Mẹ của một đứa bạn cùng lớp chúng tôi, nhưng chưa bao giờ chúng tôi thấy Cô thiên vị. Có những bài thi Pháp văn, bạn của chúng tôi học bài không kỹ, vẫn bị "đội đầu" ít nhất là hai đứa trong bảng xếp hạng. Do vậy chúng tôi không chỉ học được một ngoại ngữ, mà còn học được lẽ công bằng từ Cô.
Lớn lên, dù cuộc đời nhiều lúc không công bằng, nhưng tôi luôn đối xử với mọi người rất bình đẳng vì tôi đã học được điều đó từ Cô giáo Pháp văn của ngày xưa ở Ngô Quyền
Thầy chuyên dạy Triết ở đệ nhị cấp nhưng hình như năm đó vì thiếu giáo sư, Thầy dạy chúng tôi môn Cổ văn, Thầy đã đưa vào đầu chúng tôi những triết lý cao siêu của Phật giáo, những chính kiến, chính ngữ, chinh nghiệp, chính tư duy…" mỗi cuối giờ Cỗ văn. Dĩ nhiên, ở lớp bảy, chúng tôi... không hiểu gì hết, lời Thầy nói, vô lỗ tai bên này, ra lỗ tai bên kia, rồi bay vào hư không. Ấy vậy mà những danh từ triết lý đó vẫn nằm ở một ngõ ngách nào đó trong tiềm thức chúng tôi Rất nhiều năm sau này tôi bắt đầu hiểu được những hạt giống tốt Thầy đã ra công gieo vào tâm hồn mới lớn của chúng tôi. Hạt giống năm đó, chưa đủ điều kiện, chưa thể nẩy mầm. Đến khi chúng tôi lớn lên, khôn ra, đúng thời điểm, hạt giống năm xưa nẩy mầm đơm hoa, kết trái, chúng tôi mới hiểu ra những tư tưởng tốt đẹp các Thầy Cô muốn gieo vào tâm hồn chúng tôi lúc đó
Nguyễn Trần Diệu Hương – Santa Clara, California
Trường Trung-học Ngô-Quyền năm đó có “ chàng tuổi trẻ ( không phải “vốn dòng hào kiệt” ) xếp bút nghiên khoác áo nhà binh “. Tôi rời trường ( học ) trước bạn bè cùng lớp nửa năm . Những ngày tháng “ quân-trường đỗ mồ-hôi “, tôi vẫn thường làm bài luận-văn với đầu đề “ viết thư thăm Thầy cũ “ kể về nếp sống kỷ luật khắc khe của người lính. Thầy khuyến-khích tôi cố gắng rèn-luyện thể-chất và giử vững tinh-thần để làm tròn bổn-phận người trai với đất nước. Rời khỏi quân-trường, tôi theo đơn vị đi hành-quân khắp nơi, tuy không có thời- gian để “ làm bài luận viết thư thăm Thầy cũ “ nhưng mỗi khi có dịp về được thành-phố, tôi đến thăm Thầy. Trong hơn 40 năm, từ khi không còn ngồi trong lớp học nghe bài của Thầy, cho dù có vài khoảng thời-gian gián-đoạn, tôi không hề mất lien lạc với Thầy.Tôi lặn lội các chiến trường quân khu I, quân khu II, Thầy du học ở Kent University, tiểu-bang Ohio, Hoa-Kỳ, vẫn có những cánh thư bay xa nửa vòng quả đất. Thầy về Bà-Rịa, tôi về Vũng-Tàu, lên thăm Thầy. Khi tôi bị thương, Thầy an ủi, vỗ về. Thầy dạy trường Kiểu mẫu Thủ Đức, tôi từ Cà Mau về ghé Sàigòn thăm Thầy. Trong cuộc sống bấp bênh của đời lính chiến, Thầy là chổ dựa tinh thần không thể thiếu của tôi bởi phong cách thanh thản và lạc quan trong cuộc sống. Tôi có nghe đâu đó “ xin cho được nói một lần, những điều chưa nói hết….bởi chúng ta đang trong mùa Lễ Tạ Ơn ….”
Những học trò của Thầy, ngày nay hầu hết đều đã vào tuổi “tri thiên mệnh“, không còn nhiều thời gian, hảy nói lời tạ lổi và tri ơn Thầy, chắc chắn sẽ được Thầy ưu ái bao dung. Riêng với người học trò nầy, cho đến bây giờ vẫn thường đêm , ngước nhìn lên bầu trời tìm vị trí các vì sao và bao giờ cũng ngắm về sao Bắc đẩu, và rồi như âm vang giọng nói cùng hình ảnh của Thầy .
Ơn Cha, Nghĩa Mẹ, Công Thầy cũng là tôn sư trọng đạo vậy.
Đào văn Công & Trần kim Lan – Kentucky –USA – chsNQ khóa 1
Gặp Thầy, lại nhớ đến giờ Văn học sử, khi giảng về dòng văn học lãng mạn, Thầy chuyển sang đề tài “Nghi án TTKH” khởi đầu với bài thơ “Hai sắc hoa Tigôn” khiến cả lớp xôn xao. Với lối kể chuyện sinh động và lôi cuốn, Thầy biến giờ Văn học sử vốn khô khan trở thành một buổi tranh luận về “huyền thoại” tên của tác giả ba bài thơ “Hai sắc hoa Tigôn, Bài thơ đan áo và Bài thơ cuối cùng” mà cho đến bây giờ vẫn chưa biết rõ là ai? thật hào hứng, sôi nổi khiến cả lớp say mê theo dõi. Đến lúc chuông reo, câu chuyện vẫn chưa dứt, chúng tôi đành tiu nghỉu đứng lên khi nghe Thầy hẹn đến…tuần sau sẽ tiếp. Sau buổi đó, không biết có bao nhiêu đứa bạn đã mê thơ TTKH như tôi? Nhưng tôi nhớ mình đã chạy ngay ra nhà sách Huỳnh Hiệp “bê” ngay một bộ “Việt nam Thi Nhân Tiền Chiến” gồm 3 quyển “Thượng, Trung và Hạ” về nhà để “nghiền ngẫm” và “tập tểnh”…làm thơ. Kết quả là cũng có được một vài…con cóc nhảy ra sau này. Cám ơn Thầy đã là động lực, khởi nguồn giúp cho con biết yêu thơ từ đó.
Võ Thị Ngọc Dung – Los Angeles, California
Cơn gió lạnh nào thổi ngọt qua đầu
Tiếng sét lạ nào xô con sắp ngã
Chợt nhìn lên, sao tóc Thầy trắng xóa
Hình như là bụi phấn mới bay lên
Sẽ không còn Thầy đứng trước bảng đen
Không lời giảng bài giọng cao sang sảng
Lớp phấn trắng từng bay theo lãng mạn
Sẽ rơi nhanh, không đậu trên tóc Thầy
Trần Ngọc Danh – Sacramento, California
Sau cùng, trong ánh nến lung linh cũa ngày Lễ Tạ Ơn cũng xin được thắp nén hương lòng cho những Thầy Cô đâ khuất bóng.
Thời đó, cả lớp gọi Thầy là Papa, mà cũng không hiểu tại sao ? Cứ thấy các đàn anh, đàn chị gọi thì mình cứ đi theo "đường xưa lối cũ".
Papa dạy chúng tôi cách đánh bóng hình vẽ bằng viết chì số 2. vật làm mẫu là những cây bút máy hiệu Pilọt.
Nhờ Papa, chúng tôi biết "ngắm" những bức tranh lập thể rất trừu tượng của họa sĩ lừng danh Picasso. Có lần đi thăm môt bảo tàng viện ở St. Louis Missouri, ngắm những bức tranh của Picasso, tôi nhớ Thầy vô cùng vì Thầy đã yên nghĩ ở cõi vĩnh hằng, nhưng những điều Thầy dạy sẽ theo chúng tôi suốt cuộc đời.
Một Góc Thầy Trò 10: Thầy Phan Thanh Hoài
Hầu hết CHS NQ ở hải ngoại đều biết đến Thầy Phan Thanh Hoài mặc dù Thầy chỉ dạy ở Ngô Quyền bảy năm (1957-1964), trước cả lúc nhiều CHS NQ ra đời. Nhưng dáng dấp hiền hậu, khoan thai của một nhà mô phạm luôn làm Thầy nổi bật "giữa nhân gian".
Hãy nghe Thầy Hiệu trưởng Phạm Đức Bảo và đồng nghiệp của Thầy Hoài nhận xét về Thầy mới thấy Thầy Hoài đúng là một nhà giáo mẫu mực được tất cả mọi người quý mến.
Về phía học trò, với các "anh chị cả" khóa 1 (1956-1963) thì hình ảnh Thầy Phan Thanh Hoài đúng là một vị Thầy khả kính đã tận tâm chỉ dạy cho học sinh nhiều kiến thức quý báu không chỉ giúp họ học hành đỗ đạt mà còn có thể truyền lại kiến thức cho bạn bè ở quân trường, và cả con cháu sau này.
Đặc biệt nhất là anh Đào Văn Công (CHS NQ khóa 1) sống đời lưu lạc nơi quê người, ở Kentucky (Đông Nam của Mỹ), lời Thầy dạy năm xưa vẫn còn nguyên trong anh nên “… mỗi buổi sáng khi ra cửa đi lảm, tôi ngước lên trời tìm chòm sao Đại Hùng như một thói quen hàng ngày. Và mỗi lần như vậy, tôi lại nhớ Thầy tôi, vị sư phụ đã dạy nhiều điều thực dụng, cũng như để lại trong ký ức chúng tôi nhiều kỷ niệm khó quên..."
Ngay cả những lớp CHS NQ vào trường sau này, chỉ được gặp Thầy ở Mỹ những năm gần đây cũng có nhiều ấn tượng rất tốt đẹp về Thầy và “… cứ tưởng tượng cái dáng cao cao của Thầy đi bách bộ thong dong trong trưa hè nắng chói của đường Bolsa, giữa đời sống bon chen, tất bật ở Mỹ giống như cái dáng của các tiên ông hiền từ đi dạo ở cõi trần tục trong truyện cổ tích đã đọc thời còn nhỏ…”
…….Ban Giám hiệu khi tôi bắt đầu làm Hiệu Trưởng tháng 10/61 có ông Phan Thanh Hoài làm Giám học, bà Huỳnh Tư Múi làm Tổng Giám Thị
Ông Phan Thanh Hoài một người bạn rất đôn hậu, đã dạy ở Ngô Quyền từ năm 1957. Năm 1964, ông Hoài sang Mỹ du học, và sau khi tốt nghiệo đã về dạy ở trường Trung học Kiểu mẫu Thủ Đức (thuộc trường Đại học Sư phạm Saigon)……..
Thầy Hiệu Trưởng Phạm Đức Bảo
…..Anh Hoài dáng cao lỏng khỏng, tánh tình rất hiền lành, đôn hậu, và đặc biệt là không bao giờ mặc áo chemise ngắn tay cả. Lúc nào anh Hoài cũng có dáng dấp nhà mô phạm. Mãi cho đến lúc gặp nhau tại Mỹ, lúc vận nước nổi trôi, anh vẩn còn nụ cười hiền lành như thuở xưa ….
“Ông Giám học Phan Thanh Hoài là một người hiền lành đạo đức”
….Thầy Phan Thanh Hoài hàng tuần đón xe bus, đi bộ giữa trưa hè qua đường Bolsa đến vời anh Tuấn để nhận các bài viết mới nhận được (cho Kỷ Yếu NQ 2006) về check, sửa.
Tôi luôn nhớ đến cái dáng cao cao hiền hậu của Thầy Giám học Phan Thanh Hoài….
…..Thầy đảm nhiệm các môn Lý hóa, Hiệu đoàn cho tới năm Đệ Tứ và giữ môn Anh văn cho tới lớp Đệ Nhất với quyển "La vie en Amerique" (1963).
Đỗ Trung Quân -CHS NQ Khóa 1 (56-63)
Thầy Phan Thanh Hoài dạy Anh văn và Lý hóa kiêm giáo sư hướng dẫn lớp Đệ Lục B3 (57-58) của chúng tôi. Thầy đã để ấn tượng về một “trò ảo thuật” với quả trứng và ly nước chứng minh sự tương quan giữa tỷ trọng và lực đẩy của nước,
Thầy cũng phụ trách môn “Hiệu Đoàn” là môn học kiến thức thực dụng đời sống hoặc những sinh hoạt cộng đồng xã hội. Trong một lần dạy về cách tìm phương hướng, Thầy có dạy cho chúng tôi cách coi sao trên bầu trời. Thầy đã chỉ cho chúng tôi nhận biết sao Hiệp Sĩ với những sao tượng trưng cho thắt lưng, thanh kiếm, và nhiều loại sao khác như sao Bò Cạp, sao Thiên Nga, sao Bắc đẩu, chòm sao Đại Hùng Tinh. Thầy còn cho biết có một đêm trong tuần Thầy ở tại trường, nếu đêm đó trời không mưa, chúng tôi có thể đến, Thầy sẽ chỉ dẫn tường tận hơn. Và có một đêm, chúng tôi độ mười đứa được Thầy dẫn ra ruộng, lúc đó vào đầu tháng 10 nên vào lúc đầu hôm, chòm sao Đại hùng tinh chưa hiện ra. Thầy bảo tới khuya, nếu em nào muốn thấy chòm Đại hùng tinh thì cứ đến trường. Khuya đó, có hai đứa trèo rào (vì cổng trường không mở ban đêm), và rất may trời không một gợn mây, chúng tôi đã nhìn được chòm sao Đại hùng đêm đó.
Hơn 40 năm sau, những người bạn phong trần có dịp gặp nhau, nhắc lại chuyện xưa, vừa nhớ Thầy, vừa ngậm ngùi cho quảng đời niên thiếu đã qua mau
Đào Văn Công & Trần Kim Lan -CHS NQ khóa 1 (56-63)
Thời gian Thầy Hoài bắt đầu về trường Ngô Quyền, tôi còn đang ở “một cõi đi về”, tôi chỉ được biết Thầy vào năm 2002 khi lần đầu tiên tôi đi dự họp mặt CHS NQ ở Orange County. Kỷ niệm với Thầy, với ông Giám học đầu tiên của Trường NQ, dĩ nhiên không có trong tôi. Nhưng khi đọc bài của anh Nguyễn Hữu Hạnh, tôi cứ tưởng tượng cái dáng cao cao của Thầy đi bách bộ thong dong trong trưa hè nắng chói của đường Bolsa, giữa đời sống bon chen, tất bật ở Mỹ giống như cái dáng của các tiên ông hiền từ đi dạo ở cõi trần tục trong truyện cổ tích tôi đọc thời còn nhỏ.
Mong Thầy luôn khỏe mạnh, để hè năm 2011, họp mặt của CHS NQ ở Orange County, California mừng 55 năm thành lập trường, chắc chắn tôi sẽ vừa yêu cầu, vừa năn nỉ các đàn anh, đàn chị sống ở địa phương chở tôi đến gõ cửa nhà Thầy ban đêm (sau khi đã xin phép Thầy trước) để được Thầy dạy về cách nhận ra "chàng Hiệp Sĩ" giữa muôn ngàn tinh tú trên trời, và cách nhìn chòm sao Đại hùng như Thầy đã chỉ dạy anh Đào Văn Công năm xưa. Mới biết, dù đã xa “bến đò Ngô Quyền” từ lâu, dù đã hai lần được đội mũ ra trường của Mỹ, ở một mặt nào đó, tôi vẫn mãi mãi là đứa học trò ngu ngơ, còn phải học rất nhiều điều từ những người lái đò già đáng kính ở bến sông xưa.
Nguyễn Trần Diệu Hương
MGTT 11 – GỢI GIẤC MƠ XƯA
Khi thưởng thức một bài hát hay, có khi nào bạn nghĩ đến bảy nốt nhạc Do Re Mi Fa Sol La Si, căn bản của nhạc lý, nằm trên các dòng kẻ mà bạn đã được học từ thời mới vào Trung học?
Các Thầy Cô dạy Nhạc trong suốt thời gian 1956-1975 đã kiên nhẫn hướng dẫn các cô cậu bé lớp sáu năm xưa vào thế giới âm nhạc. Trong đó có những bài hát đã theo các chs NQ suốt cuộc đời, chẳng hạn như câu hát học trò:
“Trời hồng hồng, sáng trong trong. ngàn phượng rung nắng ngoài song…”
hay những câu hát về lịch sử oai hùng của hai vị nữ anh hùng VN đầu tiên.
“Trưng Nữ Vương lau phấn son mưu thù nhà, mài gươm vang khúc toàn thắng hùng ca, thu về giang san cho lừng uy gái Nam, bầu trời Á sáng ngời ánh quang. Nợ nước phó tay người nhi nữ, tình riêng cứu nguy cho toàn dân…”
Dù là một môn phụ nhưng nếu không có các Thầy Cô dạy Nhạc khai tâm chắc có lẽ suốt đời chúng ta mãi mãi là một người mù về nhạc lý.
Có những cô cậu bé năm đầu Trung học ngày xưa đã nuôi giấc mơ thành ca sĩ. Giấc mơ dù không thành nhưng "những tiếng hát học trò" ngày xưa cũng như tất cả chs NQ vẫn ghi nhớ công ơn quý Thầy Cô dạy Nhạc.
Nhân “gợi đến giấc mơ xưa”, xin được tri ân các GS môn Nhạc đã nâng cao trình độ thưởng thức những âm điệu trầm bỗng của từng bài hát cho rất nhiều thế hệ chs NQ: Quý Thầy Nguyễn Văn A, Trần Văn Lộc,Trần Văn Nam, Lê Hoàng Long, Huỳnh Quan Phận, Cô Hoàng Minh Nguyệt.
Và cũng xin thành kính thắp nén hương lòng tưởng nhớ đến các Thầy dạy Nhạc đã về cõi vĩnh hằng: Dương Hồng Duyệt, Nguyễn Văn Tỵ, Vũ Lữ Uyển.
MGTT lần nầy xin được giới thiệu về hai GS Nhạc trong số nhiều Thầy Cô đã dạy chúng ta những kiến thức nhạc lý đầu tiên; xin được riêng tặng các tiếng hát học trò NQ ngày xưa: các chị Ngọc Phước ở Covina (CA), Vũ Hạnh ở San Jose (CA), và để tưởng nhớ giọng hát nam đã quá cố: anh Nguyễn Văn Lịnh.
Thầy Lê Hoàng Long
Thầy Long đến với âm nhạc từ cây đàn violon lúc còn là một cậu bé ngây thơ ở một tỉnh lỵ miền Bắc có chỗ đứng trong âm nhạc Việt Nam qua bài hát “Đôi mắt người Sơn Tây”. Năng khiếu âm nhạc cùng với tình yêu đầu đời thời mới lớn không thành đã giúp Thầy Long đóng góp cho âm nhạc VN nhiều bài hát hay trong đó có bài “Gợi giấc mơ xưa” đã nổi tiếng từ nhiều thập niên trước.
Cây đàn vĩ cầm gắn liền với Thầy Lê Hoàng Long cả cuộc đời, không những chỉ là thú tiêu dao mà có một thời gian sau tháng 4/75 giúp Thầy mưu sinh.
Thời đó, trong giai đoạn tranh tối, tranh sáng của bối cảnh xã hội đặc biệt, thay vì đứng trên bục giảng mỗi ngày để dạy nhạc lý cho học trò Trung học, thầy Long phải đi kéo đàn violon ở các “tụ điểm ca nhạc” mỗi đêm để mưu sinh. Thầy rất tài hoa, mặc dù cây đàn violon thân thuộc của Thầy dạo đó chỉ còn ba dây, một sợi dây đã đứt sau rất nhiều đêm ông cựu Giáo sư Trung học âm thầm kéo đàn để kiếm sống thay vì để sáng tác.
Âm thanh thoát ra từ cây violon của Thầy Long vẫn réo rắc, trầm bỗng, không ai biết một trong bốn sợi dây đàn đã đứt tự bao giờ!
Năm nay, ở tuổi tám mươi, tác giả của "Gợi giấc mơ xưa", người Thầy dạy Nhạc ngày nào vẫn khỏe, dù không còn phải kéo một cây vĩ cầm thiếu mất một sợi dây nhưng những cung đàn ngày xưa vẫn còn trong tâm tưởng Thầy. Và hình ảnh Thầy Lê Hoàng Long dạy Nhạc vẫn gắn liền với giấc mơ xưa thời mới lớn của rất nhiều chs NQ
Nguyễn Trần Diệu Hương
(Viết theo lời kể của quý Thầy Hoàng Phùng Võ và Nguyễn Văn Phố)
Cô Hoàng Minh Nguyệt
Trong buổi họp mặt truyền thống kỳ 8 của chs Ngô Quyền tại hải ngoại, được sự tham dự đông đảo của Thầy Cô và cựu học sinh. Buổi họp mặt cũng tay bắt mặt mừng, nhắc về những kỷ niệm thân quen của một thời áo trắng. Những màn trình diễn văn nghệ cây nhà lá vườn, cũng đủ ấm lòng bao kẻ hoài mong về trường cũ, thầy xưa.
Nhưng chắc hẵn không ai không bồi hồi xúc động, khi nghe người ca sĩ không chuyên gửi gấm cuộc đời mình qua những lời ca, đó là cô giáo của chúng ta: Cô Hoàng Minh Nguyệt với bản nhạc “Cô lái Đò”.
Không hạnh phúc gì hơn, khi được thưởng thức lời ca từ người Thầy, người Cô của mình. Phải chăng thiên chức của một nhà giáo gắn liền với người đưa đò? Để chúng ta cùng cảm xúc một lần qua tiếng hát của Thầy Nguyễn văn Phú, rồi đến tiếng hát của cô Hoàng Minh Nguyệt mang chút sầu lắng hay tiếc nuối vì cô dạy âm nhạc nhưng không có người học trò nào trở thành ca sĩ, để cô vẫn tiếp tục mang tiếng hát của mình trong sinh hoạt của trường Ngô Quyền tại hải ngoại.
Tôi đến với cô Hoàng Minh Nguyệt như một đứa học trò, như một đứa em, vì có một thời tôi chơi rất thân với anh Hoàng Sỹ Luân, em trai của cô và ngày nay anh không còn nữa. Khi còn ở Việt Nam, tôi gặp cô chỉ một lần trong đám cưới của anh Luân. Ngày anh mất tôi đã vào lính ở tận miền Hậu Giang, thời gian qua mau và con người cũng đi vào quên lãng.
Rất may mắn còn gặp lại cô, và cùng sinh hoạt trong đại gia đình Ngô Quyền, cũng rất vui khi được cô cho biết mỗi lần cùng sinh hoạt với Trường Ngô Quyền là cô trẻ đi 10 tuổi.
Năm nay cũng như những năm trước đây, ngày thứ bảy 6 tháng 3, 2010 này, từ Orange County, học trò vẫn kéo nhau xuống San Diego để cùng chia sẻ niềm vui trong ngày sinh nhật của cô. Cô trò sẽ cùng nhau ca hát, tiếng ca của Cô sẽ quyện theo tiếng cười vui của những đứa học trò ngày nào.
Riêng tôi vẫn hằng mong ước luôn mang đến cho cô những nụ cười, giống như nụ cười của người em trai của cô đã không còn nữa.
(Viết cho cô Hoàng Minh Nguyệt “tiếng hát vượt thời gian” của Trường Trung học Ngô Quyền.)
Nguyễn Hữu Hạnh
MGTT 12 - THẦY CÙ AN HƯNG – TẤM LÒNG VÀ TINH THẦN TOÁN HỌC
(Hình minh họa sưu tầm do Thầy Diệp Cẩm Thu, chs NQ khóa 7, học trò cũ của Thầy Cù An Hưng ở Đại học Khoa học Sài Gòn năm 1970, trích từ nguồn: thunhan.wordpress.com)
MGTT số 13 xin được giới thiệu về Thầy Cù An Hưng một giáo sư Toán tài năng được biết đến gần như ở cả nước Việt Nam với sự nghiệp giảng dạy dài cả nửa thế kỷ.
Thầy Cù An Hưng chỉ dạy ở Ngô Quyền một niên khóa duy nhất (nk 1962-1963) nhưng ảnh hưởng của Thầy đối với các học sinh đệ nhất B (lớp mười hai chuyên toán) kéo dài đến suốt cả cuộc đời của các “anh chị cả” (các chs NQ khóa 1)
Hai bài viết đặc biệt được giới thiệu lần này không phải là của học trò đã được Thầy Hưng trực tiếp giảng dạy mà là của một nhà báo chuyên nghiệp đã có nhiều năm trong nghề, -đang viết cho một tờ báo lớn ở Sài Gòn hiện nay-, và của một thành viên Ban Biên tập được các đàn anh đàn chị kể lại những kỷ nìệm đáng nhớ nhất cùa họ với vị giáo sư Toán tài năng và có cá tính mạnh mẽ.
BBT xin được cám ơn sự đóng góp của các chs NQ (khóa 1,8,11, 13 và 17) ở khắp nơi trên thế giới cho MGTT về Thầy Cù An Hưng. Đặc biệt cám ơn các anh Trương Đức Hoàng ở Úc, Phạm Kim Luân ở Hòa Lan, Ngô Càn Chiếu ở Pháp, Lâm Sĩ Đắt ở Texas (Mỹ), Đào Văn Công, và chị Trần Kim Lan ở Kentucky (Mỹ).
Ước mong trong tương lai, sẽ được thêm sự đóng góp quý báu của các chs NQ khác để chúng ta cùng có dịp nhìn lại thời mới lớn để nhận ra “công Cha nghĩa Mẹ ơn Thầy” có mặt trong mọi thành đạt của đời người.
Thầy Cù An Hưng và thầy Diệp Cẩm Thu
Nguyễn Trần Diệu Hương
Chữ C là biểu tượng hằng số C bất biến trong tích phân (minh họa nguồn: www.cyvee.com)
Lúc đứng trên bục giảng Ngô Quyền, Thầy Cù An Hưng chỉ hơn các anh chị chs NQ khóa 1 khoảng sáu hay bảy tuổi, nhưng nền giáo dục với tinh thần “nhất tự vi sư bán tự vi sư” thời đó khiến các anh chị đệ nhất B (12B) luôn luôn “trông lên ngước mắt chào” thầy Hưng. Những giờ Toán của Thầy dù khô khan nhưng rất cuốn hút học trò. Theo các “anh chị cả” kể lại, giờ Giải tích của Thầy Hưng rất sinh động vì Thầy vừa có kiến thức uyên thâm vừa có khả năng truyền đạt rất lôi cuốn. Lúc đó, dù còn rất trẻ, chưa đến ba mươi, Thầy Hưng đã có chân trong Ủy Ban Tu Thư các danh từ toán học của Bộ Giáo dục.
Rời Ngô Quyền, thuyên chuyển về Sài Gòn, Thầy Hưng là một trong những giáo sư Toán chính yếu ở trường tư Trường Sơn, được các cô cậu tú (tài) tương lai lúc đó biết đến như Trung tâm luyện thi Trường Sơn, một nơi dạy luyện thi môn Toán rất nổi tiếng.
“Duyên nợ” giữa Thầy Hưng với trường Ngô Quyền thì ngắn nhưng “duyên nợ” giữa Thầy với chs Ngô Quyền thì kéo dài mãi cho đến bây giờ. Đầu thập niên 70s, nhiều anh chị “ôm mộng” vào trường Đại học Phú Thọ hay Học viện Quốc gia Hành chánh, mùa hè, hoặc cuối tuần “khăn gói” lên Sài Gòn học thêm Toán Lý hóa ở trung tâm Trường Sơn với Thầy Hưng. Theo các chs NQ khóa 13 cho biết lớp luyện thi của Thầy Hưng bao giờ cũng đầy ắp, học sinh chen chúc nhau vì danh tiếng của thầy Hưng, và cũng vì kết quả thực tế, đa số học sinh (thường là những hs giỏi nhất ở các trường Trung học công lập) học thêm Toán Lý hóa ở Trường Sơn đều đậu vào được những trường Đại học nổi tiếng ở Saigon.
Có lần, một chị Gia Long, đến học thêm ở Trường Sơn, ngồi bàn đầu làm rớt cái khăn tay, một anh Ngô Quyền ngồi bên cạnh đang chăm chú vào những phương trình lượng giác trên bảng không để ý đến chuyện rớt khăn của người bạn kế bên. Chị Gia Long cúi xuống nhặt khăn, anh Ngô Quyền ngồi bên cạnh vẫn thả hồn theo những “cos, cos, sin, sin” dày đặc trên bảng. Điều đó lọt vào mắt thầy Hưng, Thầy ngưng nói về Toán học, chuyển qua Tâm lý học. Và nhờ ngẫu nhiên tình cờ đó, các cô cậu tú tương lai của niên học 1974-1975 hôm đó được thầy Hưng dạy về tính “galant” của phái nam đối với phái nữ. Hơn ba thập niên trôi qua, các chs NQ khóa 13 có mặt trong lớp học hôm đó đều nhớ lời thầy Hưng và rất là “galant” với đàn bà con gái: chẳng hạn như phái nam phải cúi xuống nhặt đồ đánh rơi giùm cho các bà, các cô; mở cửa xe cho phái nữ lên trước khi tự mở cửa xe cho mình; luôn luôn nhường cho phái yếu quyền ưu tiên….
Đến giữa thập niên 80s, một học sinh Ngô Quyền lên Sài Gòn ghi danh theo học lớp luyện thi Toán của Thầy Cù An Hưng ở trung tâm Trương Sơn. Không may, lớp của Thầy Hưng đã hết chỗ từ lúc nào.
Buồn bã, anh quay về Biên Hòa, kể chuyện cho Ba Mẹ nghe. Ba Mẹ của anh là chs Ngô Quyền khóa 1 và là học trò ở đệ nhất B (12B) của Thầy Hưng năm xưa. Thế là hôm sau, hai chs NQ khóa 1 đến trung tâm luyện thi Trường Sơn, kiên nhẫn ngồi ở sân trường chờ Thầy Hưng dạy xong, mục đích là xin cho “thế hệ thứ hai” của NQ được vào học lớp thầy Hưng.
Cuộc trùng phùng của ông thầy trẻ năm xưa và hai anh chị cựu hs đệ nhất B Ngô Quyền diễn ra rất cảm động ở sân trường của trung tâm luyện thi Trường Sơn. Dù hơn phần tư thế kỷ đã trôi qua, dù đã có đến cả chục ngàn học trò, nhưng những người học trò đầu tiên (cũng như tất cả mọi thứ đầu tiên khác ở trên đời) có một vị trí đặc biệt trong lòng thầy Hưng. Nhất là trong trường hợp này, cả anh chị đều là học trò thầy Hưng, Anh đã một thời lặn lội ở chiến trường chịu nhiều gian khổ để đổi lấy sự an bình cho rất nhiều người khác; Chị nối nghiệp thầy Hưng, cũng là một cô giáo dạy Toán ở trung học Đệ nhất cấp.
Thế là “hậu duệ của các chs NQ khóa 1” được vào lớp thầy Hưng dù tên của học sinh này nằm ở gần cuối cái “waiting list” dài vài trang của lớp thầy Hưng. Không phụ lòng của cả cha mẹ lẫn thầy Hưng, em học sinh được thầy Hưng đưa thêm vào lớp học đã kín chỗ của Thầy, đã đậu vào trường Đại học Kiến trúc trong kỳ thi Đại học năm đó.
Thầy Hưng là một người có cá tính rất độc đáo. Có lần, Thầy đã thẳng thắn phê bình một đồng nghiệp dạy Toán ở trường Đại học Tổng hợp khoảng cuối thập niên 70. Ông đồng nghiệp từ “ngoài Bắc vô Nam” còn say men chiến thắng 75, huênh hoang về trình độ Toán của mình (tốt nghiệp từ một học viện có âm thanh "leng keng, lốp cốp"), vô tình đã giải sai một đề thi dành cho hs giỏi Tóan toàn quốc mà không biết. Thầy Hưng thẳng thắn phê bình:
- Đã làm Thầy thì phải biết mình đúng sai chỗ nào. Và nếu sai phải biết cách sửa lại cho đúng.
Vài ngày trôi qua, sau khi được chỉ chỗ sai, người chiến thắng đã bớt huênh hoang vì thấy là “mình đã giỏi luôn luôn có người giỏi hơn mình”. Thầy Hưng không những dạy Toán cho học trò mà đôi khi còn “dạy” cho cả đồng nghiệp nhất là những người chuyển vào từ miền Bắc.
Nhưng câu chuyện cảm động nhất có lẽ là câu chuyện về Nguyễn Thanh Vũ, một cậu học trò rất thông minh của thầy Hưng. Năm đó, giữa thập niên 80s, Vũ đến học luyện thi ở Trường Sơn, được thầy Hưng đặc biệt chú ý, vì vượt lên mọi khó khăn của gia đình, Ba còn đang “học tập cải tạo” ở miền Bắc, Mẹ bệnh nặng, mất sức lao động, gánh nặng gia đình đè lên vai em, nhưng Vũ vẫn học hành rất xuất sắc và đậu thủ khoa trong kỳ thi tuyển sinh vào phân khoa Toán Đại học Sư phạm năm đó. Vì chính sách tuyển sinh đương thời dựa trên lý lịch, nguồn gốc gia đình nhiều hơn là dựa trên tài năng, Vũ mặc dù đạt điểm tuyệt đối 30/30 nhưng không được gọi nhập học. Thầy Hưng rất bất bình vì chuyện đó, và biết rõ tài năng và sự thông minh của Vũ. Trong một lần đi họp ở Hà Nội về cập nhật giáo trình Toán học cho chương trình Đại học, thầy Hưng chính thức can thiệp ở Bộ Đại học & Trung học chuyên nghiệp để Nguyễn Thanh Vũ, một người đạt điểm thi tuyệt đối được vào học ở Đại học Sư phạm Sài Gòn. Vì uy tín và những đóng góp của Thầy Cù An Hưng cho chương trình Toán ở Việt Nam, Vũ nhận được giấy báo nhập học trễ vào khoa Vật lý (thay cho khoa Toán mà em đã nộp đơn thi vào). Là một học sinh xuất sắc, dù vào học khoa Lý, Vũ vẫn vượt lên trên tất cả các sinh viên cùng khóa. Bốn năm sau, Nguyễn Thanh Vũ, một lần nữa, đậu thủ khoa trong kỳ thi tốt nghiệp khoa Toán Lý Đại học Sư phạm Sài Gòn cũng với điểm tuyệt đối như lúc thi vào. “Lịch sử” lập lại, trong trường hợp này buồn nhiều hơn vui, khi tất cả các bạn cùng khóa,- kể cả những người đậu vớt hoặc những người được cộng thêm "điểm từ trên trời rơi xuống" nhờ thành phần gia đình -, đã nhận nhiệm sở, Vũ vẫn ở nhà “ngồi chơi… xơi … không khí” vì Ba em vẫn đang còn trong trại cải tạo.
Lần này không gõ được "cửa công" ở Hà Nội, thầy Hưng gõ "cửa tư" ở Saigon. Lúc đó, vì danh tiếng cừa Thầy Hưng được những người dạy và học Toán ở trong nước biết đến, nhiều trường tư ở Sài Gòn nhiều lần mời thầy Hưng về dạy. Thầy vẫn từ chối, nhưng lần này Thầy đồng ý dạy cho một trường tư lớn ở Sài Gòn với “điều kiện ắt có và đủ” là muốn Thầy nhận lời dạy, trường phải mời Nguyễn Thanh Vũ vào dạy Vật lý. Với uy tín, và “sự bảo lãnh” của Thầy, Vũ được vào dạy Vật lý ở một trường tư lớn, trở thành đồng nghiệp của Thầy Hưng nhưng lúc nào cũng nhìn Thầy như một ông Thầy, một ân nhân lớn trong đời.
Mỗi một "cơn mưa màu xanh" chưa đủ sức làm mát dịu thời tiết nóng bức ở Saigon nhưng đã vực dậy được niềm tin cho những ai còn kỳ vọng ở một ngày mai tươi sáng hơn của một thế hệ Việt Nam lớn lên sau chiến tranh
Đó là một trong những chuyện đặc biệt trong nửa thề kỷ đi dạy của Thầy Cù An Hưng. Thầy đã dạy cho ba thế hệ học trò, mà hai trong ba thế hệ đó là chs NQ.
Ước mong những người học trò giỏi sau này của Thầy Hưng sẽ nối nghiệp được Thầy cả về trình độ chuyên môn lẫn cách ứng xử tốt đẹp với cuộc đời, với con người. Cầu mong xã hội Việt Nam luôn tôn trọng chất xám hơn những thứ khác. Vì trong công cuộc xây dựng đất nước, chất xám Việt Nam sẽ góp phần quan trọng nhất. Hy vọng sẽ có được nhiều người đưa môn Toán vào cuộc đời để đất nước có được nhiều nhà khoa học, nhiều nhà máy công nghiệp, để Việt Nam có thể trở lại thành "minh châu trời Đông".
THẦY CÙ AN HƯNG - TÌNH YÊU THI CA & NHÂN CÁCH NHÀ GIÁO
Một góc Lữ Gia - nhà thờ Hầm cách nay vài năm, thầy Cù An Hưng lúc không có giờ dạy học thường ghé sạp bán báo của tôi. Lúc đó tôi bán báo để kiếm sống, còn thầy ghé chỗ tôi để sống với tình yêu lớn của đời thầy: tình yêu thi ca.
Có lần thầy Cù An Hưng kể với chất giọng Bắc nhỏ tiếng nhưng âm vực rất vang. Và câu chuyện thầy kể cũng chỉ để kể, không nhằm tìm tới một chuyện truyền đạt kiểu ôn cố tri tân nào:
“Bọn chúng tôi lúc trước dạy ở trường Tư Thục Trường Sơn. Mà này, cậu phải biết là các thầy người Bắc di cư có công mở trường tư ở trong này. Bọn chúng tôi dạy toán, các anh Thanh Tâm Tuyền, Doãn Quốc Sĩ… dạy văn. Giờ giải lao, cùng là giáo sư, ngồi chung một phòng giáo sư, suốt chừng ấy năm chúng tôi chưa từng vô lễ bước qua bàn các anh ấy. Thường là ngồi bên này cung kính trân trọng lắng nghe từng lời các anh ấy nói về văn chương. Được nghe văn chương từ các anh ấy là ý thức mình gieo mở hạnh phúc và tìm thấy tự do”.
Sau này, thầy không kể thêm câu chuyện nào nữa về các vị văn gia lớn đó, nhưng ý nghĩa từ mẩu chuyện của thầy cho tôi một niềm tin rõ ràng rằng, các vị viết văn ngày nay không được trân trọng như đáng ra họ phải được, không được trân trọng vì lẽ, các nhà văn ngày nay không nhận thức được việc chính mình phải tự trọng trong ý thức tôn trọng văn chương hơn là mong đợi ở xã hội.
Lần khác tôi được chứng kiến sự trân trọng của thầy ở một giới quan hệ xã hội khác. Sạp báo của tôi kê bên cạnh một tiệm phở, tiệm phở này có mùi vị của hủ tiếu bò trong khi thầy là người Bắc. Trong nhiều năm đến chỗ tôi, thầy chưa bao giờ thử ăn qua phở Nam, dù quán phở này bán khá đắt khách. Sạp báo tôi chỉ có một cái ghế nhựa thấp, lần nào thầy đến, cô chủ quán phở cũng bước ra cầm theo cái ghế nhựa loại có chỗ tựa lưng để mời thầy ngồi và lần nào thầy cũng nói cám ơn cô. Tiếng cám ơn trân trọng vì chuyện mượn một cái ghế được một ông thầy dạy đại học nói với cô bán phở chưa học qua lớp năm, và được lặp đi lặp lại không một lần quên trong suốt nhiều năm. Những hôm cô bán đắt hàng không kịp nhận ra thầy mới ghé, thầy bước đến gần cô chủ quán hỏi mượn cái ghế, cô chủ quán nhiều khi chỉ gật đầu với thầy nhưng lúc nào thầy cũng nói cám ơn trước khi cầm cái ghế. Có nhiều hôm tôi thấy thầy với y phục chỉnh tề đứng thật lâu chỗ cô đang nấu phở, những hôm như vậy tôi biết là cô bán phở lu bu chưa nói tiếng dạ, hoặc chưa gật đầu với thầy về chuyện mượn cái ghế.
Tôi sẽ không nói sâu về văn chương, thi ca và những giá trị lớn của văn học… Tôi chỉ muốn nói qua những mẩu chuyện bình dị tôi nhận từ thầy và tôi có được tấm gương lớn để luôn soi cá nhân mình vào người khác bằng cả sự trân trọng. Sẽ là vu vơ khi nói về tính tự trọng của con người mà không nhìn thấy rằng cá tính cao quý đó, của bất kỳ ai, chỉ sáng rõ khi phẩm chất và những quyền cơ bản của họ được người khác và cộng đồng trân trọng.
Với thầy, thầy không đặt điều kiện ai đó lúc giao tiếp với thầy có lòng tự trọng hay không, thầy chỉ giữ chuẩn mực ứng xử trân - trọng - cám - ơn những người mà mình sống chung đụng hàng ngày giữa đời thường.
Gặp những ngày trong tiết tháng Tám (Âm Lịch), trời Sài Gòn thường mưa nhỏ rả rích vào buổi sáng. Những hôm như vậy, cây dù che sạp báo của tôi không thể phủ được để thầy khỏi ướt, tuy nhiên không vì ngày mưa mà vắng bóng các ông, các bà mà tôi không biết mặt, biết tên tấp xe gắn máy vào chỗ sạp báo, họ không phải ghé để mua báo, họ ghé vô chỉ để cúi đầu thưa thầy Cù An Hưng. Có lần thầy nói với tôi:
“Tôi trông họ già hơn cả tôi nữa đấy phải không cậu. Cậu nhìn lại tôi xem nào, có già đến thế không nào!” Lần khác thì thầy lại nói: “May đấy cậu ạ, các anh, các chị ấy mà dừng lại hỏi chuyện lâu, phát hiện tôi không nhớ được tên các anh chị ấy, thế là thất lễ!”
Lúc di cư vào Sài Gòn, thầy mới là một học sinh trung học, nhưng không lâu thầy đã bắt đầu cuộc đời dạy học. Thời đó có nhiều người học muộn, riêng thầy thì nhảy lớp ở bậc trung học nên lúc đứng trên bục giảng thầy chỉ mới hai mốt tuổi. Thầy, tự bỏ nhiều cơ hội mà thế giới trí thức dành cho, để chọn nghề dạy học, viết sách. Thầy nói, nỗi buồn lớn của thầy là phụ lòng kỳ vọng những bậc thầy truyền đạt tình yêu toán và muốn thầy theo đuổi chuyên sâu toán học. Nhưng có một nỗi buồn da diết mà tôi cảm nhận được ở thầy, đó là việc thầy không dành tuổi xuân cho tình yêu văn chương - thi ca. Với thầy, tình yêu này là thứ báu vật đồng hành với quả tim trong ngực mà thượng đế đã ban tặng.
Chọn nghề dạy học nghĩa là thầy đã đi vào trọn vẹn dòng sông lớn nhất, nơi người thầy như những con tàu chở bản năng con người vươn tới sóng gió trí thức, ánh sáng nhân cách, nơi mỗi người học trò là một thuỷ thủ, mỗi người thầy là một người thuyền trưởng, cùng chia sẻ nhiều lần cái chết bản năng trong những đại dương hoang dã để phục sinh đúng tầm vóc văn minh người.
Tôi không biết nhiều về chuẩn mực quan hệ thầy trò của các bậc trí thức được ví như kỳ lân - phượng hoàng của thế hệ trí thức lớn xưa kia, nhưng với thế hệ thầy Cù An Hưng và lớp kế cận thầy những năm trước 1975 thì tôi có biết qua. Ở sạp báo tôi ngày ấy có một người học trò của thầy Cù An Hưng, ông thỉnh thoảng đến và dừng lại với thầy lâu hơn những người khác. Ông đi một chiếc xe Honda cũ, dáng người thấp bé và tóc đã bạc trắng đầu. Dù ông không còn dạy học nữa nhưng lần nào cũng vậy, ông đến chỉ để kể về học trò của ông cho thầy Cù An Hưng nghe. Giữa đời sống đô thị trùng trùng cấu thành và trùng trùng tàn lụi này, hai vị thầy nhắc cho nhau nhớ về học trò. Với tôi, những người từng thụ hưởng sự giáo huấn của hai thầy ngày nay không biết tồn tại nơi đâu! Tôi chỉ biết là những lúc ấy hai gương mặt thầy giáo già hiện ra một vẻ đượm buồn.
Tôi không gọi cái tình trạng u ẩn buồn đó là hào quang, nhưng nỗi buồn lan toả của hai vị thầy thật sự là thứ ánh sáng của đời sống ký ức dạy học mà từng mạch cảm xúc buồn đó đang soi tìm lớp lớp học trò cũ của mình.
Trong biển mịt mùng quên lãng, không một vị thầy nào để thất lạc học trò mà chỉ có những người học trò phũ phàng thổi tắt trong lòng thầy ánh sáng hy vọng.
Trần Tiến Dũng (Sài Gòn, Việt Nam)
MGTT 13 - NỬA CHỮ CŨNG THẦY- Nhà Văn Võ Hồng
Là một nhà giáo, một vị Hiệu trưởng trước năm 1975, nhà văn Võ Hồng (1921-20XX) đã có rất nhiều tự truyện về Thầy và trò, trong đó ông gởi những lời khuyên giản dị chân thành đến người đọc. Xin được ghi lại hai trong số những lời khuyên đó:
... Cái nghiệp thầy giáo vốn thật thà, mẫu mực, nếu không tốt được nhiều thì cũng chẳng xấu bao nhiêu, xin cứ thong dong kể lại.
Một phần của câu thành ngữ Hán văn được truyền tụng từ lâu trong học đường "Nhất tự vi sư, bán tự vi sư" được ông diễn dịch qua tiếng Việt "Nửa chữ cũng Thầy" và dùng làm tựa cho một tự truyện ngắn của mình.
Thêm vào đó, gần đây được chs NQ khóa 7 Nguyễn Ngọc Xuân cho "coi ké" thư của Thầy Nguyễn Văn Phố gởi cho anh, có một câu gởi gắm cả nỗi lòng của một người Thầy:
"…Chẳng cho em được bao chữ nhưng rất hãnh diện có những người học trò cũ như em…"
Chắc là có một lúc nào đó bình tâm, mỗi người chúng ta đều tự hỏi không biết mình đã nhận được bao nhiêu chữ từ các Thầy Cô trong suốt những năm dài cắp sách. Rồi đến những năm tháng trả ơn xã hội, trả nợ áo cơm, thời gian đã lấy đi một thời son trẻ. Và mớ chữ nghĩa cũng rơi rớt dọc theo năm tháng của đời người. Dù sao đi nữa, chữ nghĩa còn lại cũng đếm được trên các đầu ngón tay. Và như vậy thì vẫn phải nhớ ơn Thầy như nhà văn Võ Hồng đã nhắc lại trong "Nửa chữ cũng Thầy”.
Ban Biên Tập
NỬA CHỮ CŨNG THẦY
Nhà văn Võ Hồng
Năm 1935, TÔI HỌC THẦY ở lớp Nhất trường Tiểu học Sông Cầu. Thuở ấy toàn tỉnh chỉ có hai trường Tiểu học, một ở Tuy Hòa, một ở Sông Cầu. Trường Tiểu học Sông Cầu là trường tỉnh lỵ mà chỉ có một lớp Năm, một lớp Tư, một lớp Ba, một lớp Nhì A (chính danh là Cours Moyen de 1ère Année), một lớp Nhì B và một lớp Nhất... Mới biết là hồi đó sự học quả thật là quí. Với một dân số 20 vạn dân cư mà hằng năm toàn tỉnh chỉ chọn khoảng một 100 đứa trẻ khá nhất để cho vào học lớp Nhì thì có khác nào sâm nhung chỉ dành cho tì vị kẻ giàu sang. Tôi học lớp Năm và lớp Tư ở trường làng Ngân Sơn. May mắn đưa đẩy, tôi được vào học lớp Ba ở trường Phủ Tuy An. Và lại cũng may mắn xô tới mà tôi được vào lớp Nhì trường Tỉnh.
Thầy năm ấy khoảng 27-28 tuổi. Dáng thầy cao, khỏe mạnh, nhanh nhẹn. Thầy thường mặc Âu phục trắng. Giày nâu, đế cao su. Mũ casque cứng lợp vải màu kaki. Ði tới lớp, tay ôm cặp da, thứ da cá sấu mềm.
Thời đó Âu phục và Nam phục song song tồn tại. Nam phục là quần trắng áo dài đen. Quần trắng bằng vải "tàu bay" hay lụa. Vải áo dài đen thông thường là vải trang đầm cho đàn bà và học sinh trung lưu. Người đàn ông thì mặc áo lương đen (miền Bắc gọi là áo the), áo xuyến (mặt láng), áo sa văn minh (một loại the mỏng, dệt có vân, có bắt hình bìm bìm) áo sa tanh (satin). Vải may Âu phục tiêu chuẩn là một loại vải dệt thật dày bằng sợi đay, màu trắng. Sau thế giới đại chiến lần thứ hai, sợi tổng hợp Polyester mới thịnh hành và vải thường màu đen hoặc màu xanh tối gần với đen. Phép xã giao thời đó đòi hỏi phải khoác áo vét-tông chứ không được chỉ mặc sơ-mi khi đi ra ngoài. Cho dẫu trời nóng 35 độ. Chỉ có thể, khi ngồi trong lớp dạy hay ngồi làm việc ở bàn giấy, cởi áo vét-tông ra máng vào thành ghế.
Ðôi giày cũng có lịch sử của nó. Cũng sau thế giới đại chiến lần thứ hai, màu giày đen mới thịnh hành. Dưới thời Pháp thuộc, màu giày sậm nhất là màu nâu, màu cà-phê rang. Lợt một chú là màu vàng thiên nhiên của da thuộc. Lợt nhất là màu trắng. Duyên dáng ăn diện là giày hai màu. Giày màu đen chỉ được dùng trong những đại lễ.
Vậy đó, cái dáng cao cao của thầy tôi, mặc Âu phục, đội mũ ôm cặp đi những bước nhanh từ góc đường phía biển, vượt qua sân quần vợt, đi vòng quanh rào trường, đi thẳng từ cổng trường oai vệ bước vô.
Vào thời chúng tôi, học trò rất sợ thầy. Chương trình học toàn tiếng Pháp nên chúng tôi càng sợ thầy hơn, bởi chưng dù học giỏi hay kém thì học thuộc được một bài toát yếu 20 dòng viết bằng tiếng Pháp không phải là chuyện dễ. Chúng tôi phải chắp chữ này nối theo chữ kia bằng trí nhớ, nhiều khi hoàn toàn bằng trí nhớ chớ không hiểu vì sao. Mà một khi quên đi một chữ thì đành cứ đứng khựng ra đó, ấp a ấp úng, tựa như rớt một cục gỗ thì cả khối gỗ chồng chất lên nhau bỗng đổ sụp. Ðố mà có thể xếp lại. Thầy giáo sốt ruột, sẵn cái thước gạch vụt luôn cho một vụt. Và các cục gỗ lăn xa hơn, tan tác.
Thầy nào cũng biết đánh học trò. Ngồi nghĩ lại thấy thương hơn trách. Người Pháp không đem sang cái roi. Tổ tiên mình vót roi để sẵn, kèm theo bản chỉ dẫn cách dùng, "yêu cho roi cho vọt". Tiếng roi vun vút của các thầy đồ còn vang vọng rất trong sáng trong tâm hồn của các thầy tôi. Các bậc phụ huynh dường như cũng chỉ an tâm khi nghe thầy giáo ban phát tiếng roi xé gió. Sống trong một không khí rèn nhân cách khắc khổ như kiểu đó, một ông thầy có lương tâm phải mượn cái thước và con roi để hỗ trợ cho lời giảng bài. Ở lớp Nhì A, tôi học thầy Huỳnh Tiến. Thầy gầy, da trắng, nói giọng Quảng. Không biết giờ này thầy có còn khỏe mạnh không. Thật là bội bạc khi hơn 50 năm trôi qua tôi không hề biên được một cái thư thăm hỏi thầy. Với nhiều thầy khác tôi cũng có niềm ân hận đó. Chớ chi mỗi thầy đều cho chúng tôi biết địa chỉ chính thức - không kể những dời đổi nhiệm sở - thì hy vọng 20-30 năm sau còn liên lạc thư tín được dẫu chỉ là muôn một cũng vẫn là hy vọng.
Năm lớp Nhì B, tôi học thầy Ngô Văn Lương. Thầy đẫm thấp, nói giọng Hà Tĩnh. Ấn tượng còn lưu lại là bộ Âu phục màu ka-ki nhạt rất nhã thầy thường mặc. Và màu da mặt trắng hồng. Thầy Trần Sĩ thì trông cao ráo linh hoạt hơn thầy Lương. Ðược phân công dạy lớp Nhất là một vinh hạnh, vì học sinh lớp Nhất, cuối năm thi bằng Rime (Primaire : Tiểu học) là được xin bổ làm hương sư dạy lớp Năm, lớp Tư ở các trường làng. Hương sư được nể hơn lý trưởng, phó tổng. Ðã vậy, thầy còn đứng tên với ông Kiểm học Nguyễn Ðình Cầm, sáng tác cuốn Ðịa dư tỉnh Phú Yên. Trước khi cuốn sách ra đời, chúng tôi học ở lóp Tư phải chép bài Ðịa dư tỉnh Phú Yên vào vở để học thuộc lòng. Ði thi Sơ học yếu lược, môn thi viết có hỏi địa dư tỉnh. Dường như học sinh nào cũng đều thuộc làu bài đọc thêm "sông Cầu và Tuy Hòa" trong đó, bằng lối văn biền ngẫu, thầy so sánh: "Sông Cầu là đất thừa lương, Tuy Hòa là nơi buôn bán, Sông Cầu là bà già lão luyện, Tuy Hòa là cô thiếu nữ xuân xanh". Thầy có một cách đặc biệt theo dõi đôn đốc sự học của học sinh mình: đó là hằng đêm vào chặng 8-9 giờ, thầy đi rảo một vòng những nhà học trò ở các con đường lân cận coi thử chúng tôi có ngồi nhà học bài hay không. Do vậy mà có những buổi sáng thầy vô lớp kêu tên một đứa bạn tôi, hỏi:
- Hồi hôm trò đi đâu lang thang ở trước tiệm Chấn Thanh? Hoặc:
- Hồi tối nhà trò sao mới 8 giờ mà đã tối thui? Trò học bài trong tối hả?
Một đêm kia thầy đi qua nhà ông cử Giáp, nơi trò Huỳnh và trò Duyên, quê ở Gò Duối đang trọ học. Thầy nghe có tiếng sát phạt "Xì Rô... Già Cơ.. Ðầm Chuồng... Bồi Bích..." Thầy lặng lẽ hé cổng bước vô, đứng sau trò Huỳnh đang say sưa cắt bài, chia bài. Cái miệng cứ tía lia, cười cười nói nói, đôi tay cứ dẻo quẹo cắt cắt chia chia, chợt thầy đằng hắng ho một tiếng ở sau lưng. Quay lại. Ngó lên. Trời ơi, chết rồi! Ríu ríu bốn tay bài lặng lẽ đứng dậy, mắt mở trao tráo như khỉ bị rắn thôi miên. Thầy cúi lượm bộ bài, lặng lẽ đi ra cửa ngõ.
Ai cũng đoán biết được hôm sau loại bão tố nào nổ ra giữa lớp. Bốn tay bài rủi ro đều là học trò lớp Nhất. Ngoài Huỳnh và Duyên, hai người kia tôi quên mất tên.
Thầy hay dùng những cách xưng hô "tụi bay... đứa nào...!" dẫu không tao nhã bằng "các em, cậu nào, cô ấy..." nhưng đầy chất thân tình. Thầy la lối giận dữ khi học sinh không thuộc bài, chúng tôi sợ mà không ghét... Như vậy hơn cách nhã nhặn mà lạnh lùng, rất văn minh của nhiều thầy cô giáo thuộc thế hệ sau này. Thật giống như đi coi hát bội. Hồi tôi còn nhỏ, kép hát ở nhà quê đóng vai nịnh hét to đến nổi gân cổ nổi lên như dây chão, trợn mắt cơ hồ toét luôn khóe mắt, vung tay vung chân như người đấu quyền trên võ đài. Năm 1974 coi hát bội trên sân khấu đặc biệt chọn lọc ở Sài Gòn. Y trang Thượng Hải rực rỡ, hệ thống ánh sáng và âm thanh tối tân, đào kép xinh đẹp thượng thặng... nhưng hát không ra hơi thậm chí múa tay cũng múa lười biếng. Ðó, đẹp thì có đẹp, có tinh tế, có quí phái... đủ mọi ưu điểm, nhưng thực chất của sự hát thì... rất dở. Như ông thầy tận tình la mắng hồi xưa và cô giáo nhã nhặn thời nay. Lớn lên, gặp thầy, nghe thầy đối đãi bằng giọng xung hô "tụi bay..." quen thuộc, chúng tôi vui, vừa thêm cảm động. Cho tới lúc tuổi hơn 50, gặp nhau, ngồi nhắc chuyện xưa, nhắc đến thầy, chúng tôi cười thích thú và thêm thương thầy.
Những khối óc lý luận hình thức thường đồng hóa cái mộc mạc thân tình với cái thô lỗ, tưởng ai cũng say mê sự trơn láng của một mái tóc chải bi-ăng-tin ép vuốt bóng nhầy. Họ nghĩ rằng một khuôn mặt xác chết phấn son chải gọt đúng qui cách hấp dẫn hơn cái ấm áp hồn nhiên của sự sống.
Cứ gần cuối niên khóa là thầy được cử đi chấm thi. Năm đó, tôi nhớ thầy đi chấm ở Nha Trang. Lúc bấy giờ đường xe lửa xuyên Ðông Dương mới làm được hai đoạn: đoạn phía Bắc dừng lại ở Tourane (Ðà Nẵng), đoạn phía Nam dừng lại ở Nha Trang. Tourane có xe thơ do hãng STACA đảm trách. Xe STACA dài, rộng và cao như xe buýt thời nay, sơn màu xám trắng trông thật lịch sự. Hành khách ngồi trên xe toàn những người sang trọng, không như hành khách ở xe hàng (ở miền Trung xe hàng là xe chở khách đi đường ngắn, trong Nam gọi là xe đò, còn xe hàng chỉ chuyên dùng để chở hàng hóa), áo quần xốc xếch. Thầy ghé đón xe ở nhà dây thép (bưu điện) trước mặt trường, cách trường 100 thước. Khi xe chạy qua trường, nhìn thấy thầy ngồi oai vệ trong xe, mặt nhìn ra trước. Thời đó khách đi xe hàng phải ngồi trên những băng gỗ kê dọc thân xe, lưng quay ra hông xe thành thử ở dưới đất nhìn lên chỉ toàn thấy những lưng người. Còn người ngồi trên hai băng thì đâu mặt vào nhau nên suốt đoạn đường trường cứ phải nhìn mặt người ngồi trước. Có trải qua cảnh khổ nhọc đó mới hiểu được sự sang quí của một tư thế ngồi nhìn ra trước xe, thong thả, rộng rãi, không như xe hàng người này giơ tay vịn trần xe cho khỏi té nghiêng, người kia nép vào nách người nọ, người khác chân bị kẹp giữa hai đùi của người thứ tư. Chiếc xe STACA hùng dũng lướt tới, bớt tốc độ, lượn qua cửa. Chúng tôi đứng ngoài giơ nón chào, và thầy tươi cười rạng rỡ chào lại. Thật là vinh quang!
Vài chục năm sau tôi cũng đi dạy học và cũng được cử đi chấm thi, đi cả bằng máy bay nữa, nhưng cái hào quang rực rỡ tôi nhận thấy nơi thầy ngày trước, tôi không có nơi tôi. Người Trung Hoa có nói "Tự kỷ văn chương, tha nhân thê thiếp" có nghĩa là vợ người thì đẹp, văn mình thì hay. Chẳng lẽ hào quang lại giống như thê thiếp hay sao?
Với cái nhìn của tôi lúc đó thì tương lai hứa hẹn nhiều triển vọng thành đạt cho thầy. Lấy ông Kiểm học Nguyễn Ðình Cầm làm tiêu chuẩn thì tôi đinh ninh chỉ vài năm nữa thầy sẽ thi đậu vào ngạch Huấn đạo là một ngạch học quan. Nhìn sự tín nhiệm của cấp trên đặt nơi thầy và cung cách làm việc tích cực của thầy thì đoán được. Mùa hè nào cũng vậy, tôi cứ nghe mấy ông hương sư tập họp về Sông Cầu để học sư phạm và họ nhắc đến thầy, một trong những người huấn luyện hướng dẫn sắc sảo mà họ tỏ ý nể sợ.
Nhà thầy ở nằm trong một khu vườn nhỏ nhìn ra biển. Tôi lưu ý đến những chùm ti-gôn nở hoa màu hồng trên lối đi. Khác với những cúc, vạn thọ, tường vi... mọc lâu đời trên vùng đất quê hương, hoa ti-gôn như mới được nhập cảng từ một lân quốc hải đảo nào dó nên chỉ mới hiện diện ở vài ngôi nhà nơi thành phố. Màu hồng rất tươi lám mát cả một khung cảnh. Ngôi nhà thầy mới cất, có gió biển thổi mát suốt ngày, có ánh sáng mặt trời dọi nắng suốt ngày, có hoa nở rực rỡ trên lối đi... đời sống của thầy thật êm đềm. Các thầy giáo khác và hầu hết các ông thông, ông phán đều phải thuê nhà ở ngay trên phố. Thầy đốc Nguyễn Viết Nguyên - mãi đến khi ông Phạm Quỳnh làm Thượng thư bộ Quốc gia Giáo dục mới đặt tên "Hiệu trưởng" - Người Thanh Hóa, mặt đẹp và phúc hậu thì thuê một căn phố của anh Nên, trước tiệm ông Bang Chín. Căn phố của thầy Huy - học trò ưa kêu là thầy Huy lùn - nằm ở phía cầu Thị Thạc thì vừa thấp vừa hẹp. Ðã vậy mà thầy còn dựng một thùng nuôi ong mật nơi mái hiên khiến trẻ con, người lớn cứ tấp nập nom dòm. Bầy ong thì bay vù vù suốt ngày. Chỉ cần 100 con mà mỗi con cứ bay lượn 100 vòng là số ong tưởng đâu tới mười vạn.
Ðậu Tiểu học xong, tôi giã từ Sông Cầu đi Qui Nhơn học Trung học. Rồi cứ thế con đường học vấn dẫn tôi đi càng xa, những cảnh mới Hà Nội, Ðà Lạt, Sài Gòn, nguy nga nhộn nhịp càng làm tôi yêu cái vắng lặng hiền hòa của Sông Cầu, như yêu người bạn gái đầu tiên ngây thơ, ít nói. Mười lăm năm sau, ngẫu nhiên tôi được điều động về dạy tại trường Trung học Lương Văn Chánh nơi thầy làm Hiệu trưởng. Rồi lại ngẫu nhiên, ba năm sau thầy đi nhậm chức Trưởng ty Giáo dục, tôi thay thầy làm hiệu trưởng trường Lương Văn Chánh. Sau hiệp định Genève lại thêm một sự ngẫu nhiên thứ ba: thầy ở Sài Gòn, tôi ở Nha Trang đều đi dạy thuê ở các trường tư thục. Năm 1983, thầy từ Sài gòn ra, có ghé thăm tôi. Tôi xúc động vì lòng ân cần của thầy, càng xúc động vì nhìn dấu vết thời gian nơi "người hùng thuở nhỏ" của tôi. Thằng học trò từng sợ thầy là tôi mà tóc đã nhiều sợi trắng rồi, huống chi bậc tôn sư của nó. Mắt thầy đã yếu. A quelque chose, malheur est bon, cái bất hạnh nhiều khi cũng có ích. Chắc thầy không còn soi gương nữa đê khỏi nhìn thấy bóng mình trong gương. Mắt tôi còn sáng, nhưng may nhờ cái gương nơi tủ áo tôi nó mờ nên bằng một thái độ quân tử cao khiết và với một lòng nhân ái vô biên, nó xóa đi những khuyết điểm nơi khuôn mặt tôi, nó chỉ phản chiếu lại bằng những nét mờ ảo. Mà phàm cái gì mờ ảo thì trông cũng đẹp. Hôm 20 tháng 11, ngày nhà giáo, là một thầy giáo niên trưởng, tôi được mời lên phát biểu. Giờ giải lao, một thầy kém tôi chừng 5-7 tuổi tiến tới bắt tay: "Xin chào lão sư". Tôi thân ái cầm hai tay người bạn, cảm ơn, vừa nói: - Tôi muốn chữ "sư" có bộ Khuyển một bên (cách viết chữ Hán. Chữ SƯ (thầy) nếu thêm bộ Khuyển ở trước thì có nghĩa là "con sư tử". "Lão sư" là con sư tử già, chớ không phải là người thầy giáo già. Thầy giáo phải có cốt cách của sư tử, không được có cốt cách của loài cáo, loài chồn.
Thầy tôi! Con sư tử của vùng rừng núi Hóc Lá! Vì thầy mà tôi yêu cái tên Hóc Lá, tên của vùng quê hương thầy. Cứ nghĩ đến thầy là tôi thấy cánh dồng Chợ Ðèo, trên đó một bóng học sinh lầm lũi cần mẫn bước, bắt đầu là những bước rụt rè, tiếp theo là những buớc mạnh dạn hơn, vững chắc hơn, kiêu hãnh hơn, những bước đi tới.
... Mẫu chuyện trên, tôi viết gởi tặng một thầy học cũ nhân sinh nhật thứ 75 của thầy. Tôi có nhắn rủ vài người bạn cùng làm. Họ "ừ" nhưng rốt cuộc không ai thực hiện. Ngẫu nhiên sau đó, một cô học trò cũ, vừa có học tôi vừa có học thầy, tới thăm. Tôi trao cho cô đọc. Ðọc vừ xong, cô phản ứng:
- Nhưng "thầy" không công bằng. Thương nể học sinh đẹp giàu. Coi thường học sinh nghèo.
Tôi cười nhẹ hàng:
- Tôi biết. Và chính tôi đây cũng từng là nạn nhân.
Cô học trò cũ mở to mắt ngạc nhiên.
Tôi nhờ trời học khá, đứng nhất nhì trong lớp. Nhưng tôi xuất thân từ nhà quê thì làm sao thầy không cưng Lê Phúc Hán con quan Án Sát, cưng Hồ Thị Yến con ông chủ Dây thép... hơn tôi? Ngày Tết cha tôi đón xe đi hơn 20 cây số, mang theo nếp tượng giã thật trắng và con gà cồ thiến để tết thầy theo tục lệ Nho học mà cha tôi chịu ảnh hưởng. Cha tôi đâu có ngờ những phụ huynh ở thành thị là con quan Tuần Vũ, quan Tham Lục lộ, thầy Phán tòa sứ, ông chủ tiệm buôn Hoa kiều, chủ hãng xe, chủ khách sạn. Họ đi tết thầy những bôm, nho, táo, xá lị... những xấp hàng Cẩm Châu, Thượng Hải để may áo dài. họ đi tới bằng xe láng bóng. Chỉ cần một thoáng mắt nhìn là cha tôi đã cảm thấy buồn. Tôi nói tôi cũng là nạn nhân là ý đó. Nhưng mà này cô Liên Vũ (tên cô học trò cũ), ta chỉ nên nhìn phía đẹp của cuộc đời. Thầy lớn tuổi rồi, sinh nhật nhận quà và lời chúc tụng là chuyện thường tình. Tôi ở xa, gợi nhớ vài "kỷ niệm đẹp" thầy thưởng thức lâu hết hơn.
Quả đó là một cách sống đạm bạc vừa tầm khả năng của nhiều người. Làm nghề dạy học, cứ gần ngày nghỉ hè là tôi bảo học sinh viết kể lại những kỷ niệm trong lớp, rất ngắn, rất gọn, chỉ cần nhắc sơ lại sự việc. Viết trên tờ giấy lớn nhỏ gì cũng được. Tôi gom những tờ giấy đó về đóng thành tập. Mười năm, hai mươi năm sau mở ra đọc lại, quên rằng tóc mình đang bạc, tưởng mình đang cầm viên phấn đứng trước bảng đen.
Quanh ta người ta than khổ, hai mươi tuổi còn than huống kẻ sáu mươi, bảy mươi. Và thường ta chỉ lo cái khổ của ta mà quên giải khổ giúp người. Tôi gợi nhớ những kỷ niệm đẹp cho thầy là nhằm tạo một niềm vui nhỏ, giải một nỗi khổ nhỏ cho thầy tôi đó. Vì ai khỏi khổ? Không có cái khổ lớn thì người ta cố tìm những cái khổ nhỏ để mà khổ.
° ° °
Ngoài ông bà, cha mẹ, anh chị và người thân trong gia đình thì thầy và cô giáo là người thương yêu ta chân tình hơn ai hết và ta cũng yêu lại, tin tưởng, chân tình. Bởi một lẽ đơn giản: đó là người ta tiếp xúc đầu tiên, tiếp xúc hàng ngày, ngay từ lớp mẫu giáo ngây thơ.
Lần đầu tiên tập đứng sắp hàng, tập giở mũ chào, tập vòng tay ngồi im, tập giơ tay xin nói. Y như mới ngày nào mẹ tập đứng tập đi.
Ðừng nặng lời đối với quan niệm Quân Sư Phụ mà ghét lây vị trí của thầy giáo. Vào cái thời mộng muội xa xưa, nông nghiệp thô sơ đó, người đàn ông có uy quyền lớn nhất là vua. Rồi tới người đàn ông có nhiều chữ nghĩa và truyền dạy chữ nghĩa, mở đường cho con cháu mình thi cử đỗ đạt, đó là ông thầy. Người cha khiêm tốn nhận địa vị thứ ba vì cha thường là nông dân ít nói, ông thợ cần cù. Mà có chi phải ganh nghét ông thầy, vì ông thầy, thầy đồ, thì luôn luôn nghèo, văn chương thương tình tặng cho hai chữ "thanh bạch", không nỡ nói trắng ra là "bần khổ". Và thời nay thì cũng đâu có khác mấy thời xưa?
Chưa dám kể rằng các bậc thông thái thời xa xưa đều đóng vai thầy chớ ít ai đóng vai tể tướng. Như Ðức Khổng Tử, vạn thế sư biểu mà không mấy ai không biết. Người thầy có sức học uyên bác, biết con vật đào ở dưới đất nước lỗ là con Phần dương chớ nhất định không phải là con chó, biết vật lạ vớt được ở sông Ðại giang nước Sở là trái bèo, bửa ra ngọt như mật, biết dị nhân ở nước Trần cầm giáo đâm mình là con cá chiêm Ðại ngư, biết con chim lớn mình đen cổ trắng, có một chân ở nước Tề là con Thượng dương, bay đến đâu là nơi đó có mưa to lụt lớn. Người thầy đó suốt đời chu du trải khắp bảy nước Lỗ, Vệ, Tống, Trịnh, Tấn, Tần, Sở. Có hồi làm tới Tướng quốc, có hồi ngồi giảng cho học trò dưới một gốc cây (quan Tư mã thấy ngứa mắt liền sai chặt gốc!), có hồi nhịn đói ba ngày mà vẫn điềm nhiên ngồi gảy đàn, đọc sách. Suốt đời chăm dạy Lễ, Nghĩa, Liêm, Sỉ, bỏ nước Lỗ ra đi vì vua Lỗ thiếu Lễ, bỏ nước Vệ ra đi vì vua Vệ thiếu Ðức.
Bậc thầy ở Á Ðông là vậy, còn ở phương Tây? Lần trang sử cũ thấy ông Socrate. Lạ thay, cũng đồng thời với Khổng Tử, nhích nhau chẳng mấy năm, khi Khổng Tử qua đời thì Socrate lên chín.
Socrate, đó là một người khiêm tốn hiền lành, mặc áo sờn vai, đi chân trần ngao du trên những con đường của thủ đô Hy Lạp, nói chuyện với mọi người về những đề mục tầm thường: thời tiết, mùa màng, chợ búa... Nhưng khi giã từ; kẻ đối thoại chợt nhìn thấy cái ông mặt mũi xấu trai đó có nói cho mình một cái gì đó khiến mình suy nghĩ và mình đang hiểu mình hơn. Nghệ thuật của thầy Socrate đó. Thầy chỉ đặt những câu hỏi và người học trò học suy nghĩ. Thầy mở mắt cho họ hiểu là họ chưa biết được bao nhiêu, chưa biết đúng và khiến họ ước muốn những hiểu biết chân chính. Thầy so sánh phương pháp giáo dục của mình với phương pháp đỡ đẻ, - mẫu thân của thầy là một bà mụ - giúp trí tuệ con người đẻ ra cái Chân lý mà nó có mang sẵn trong đó.
Ðệ tử theo Socrate càng ngày càng đông và những quan niệm mới của ông khiến ông có nhiều kẻ thù. Ngay cả nhiều bậc phụ huynh cũng không bằng lòng vì đầu óc con em họ tràn ngập những suy nghĩ mới. Và ông bị đưa ra tòa, lấy cớ là ông phỉ báng chân lý, phỉ báng thần linh và làm hư giới trẻ. Ông trả lời rất ít, không tự bào chữa. Tòa tuyên án tử hình. Ông từ chối không xin giảm án, hy vọng rằng cái chết của mình sẽ khắc sâu vào lương tâm của người công nhân Nhã Ðiển, bây giờ và cả ở thế hệ tương lai, còn hùng hồn hơn cả những lời rao giảng.
Trong ngục thất, ông uống cạn ly thuốc độc một cách bình tĩnh, các đệ tử bao quanh ông, nước mắt chảy ròng. Ðệ tử Criton vuốt mắt cho thầy.
Lý tưởng của người Thầy vĩ đại (chữ dùng của sử gia: grand Maître) được các môn sinh khai triển thành những môn phái, trong số có những môn phái tưởng như trái ngược nhau: phái Khuyển nho, phái khắc kỷ, phái Hưởng lạc... Ðệ tử sáng chói nhất của Socrate là Platon, được người đời tôn vinh là "ông vua của ngành Triết học", người được Hoàng đế Denys tiếp long trọng như tiếp một vị quân vương. Ðệ tử của Platon là Aristote, thầy học của A-Lịch-Sơn Ðại đế, nhà thông thái toàn diện mà thời Trung cổ đã tôn vinh là "Thầy của mọi khoa học". Thật là thời đại hoàng kim của sự kế tục thầy trò!
Ở ta thuở xưa, nghề dạy học đã thành cái nghiệp của người biết chữ. Nhà Nho khi còn hàn sĩ, khi thi đậu đợi bổ ra làm quan, khi hồi hưu hoặc khi phải treo ấn từ quan lui về ẩn dật... đều mở trường dạy học. Trường chỉ sơ sài một mái tranh đã đủ, khỏi thủ tục xin giấy phép kinh doanh. Học không phải nhiều môn nên khỏi cần mời nhiều thầy chuyên môn. Thỉnh thoảng lịch sử có nêu tên những bậc thầy khả kính, có kiến thức uyên thâm, có đạo đức cao khiết, có môn đệ thành đạt. Tiêu biểu là thầy Chu Văn An đời Trần, thanh liêm chính trực, dâng sớ xin chém bảy gian thần, vua không nghe liền từ quan lui về ẩn giật, mở trường dạy học, đào tạo nhiều môn sinh hiển đạt như Phạm Sư Mạnh...). Chừng như danh nhân văn hóa nào cũng từng là thầy giáo: Phan Huy Chú, Bùi Hữu Nghĩa, Ðặng Huy Trứ, Phan Văn Trị, Nguyễn Ðình Chiểu, Nguyễn Khuyến...
Thầy cô giáo hôm naykhông dám sánh với những bậc sư biểu đó. Trường sư phạm đạo tạo những thầy cô giáo dạy đúng chương trình, dạy có lương tâm, và chỉ bấy nhiêu đó thôi, học sinh và phụ huynh đã phải có bổn phận đối xử có nhân có nghĩa. Ðừng như bà phụ huynh nọ ỷ mình có sạp buôn lớn, quen thân với cấp tỉnh cấp khu, một hôm nhận được giấy cô giáo chủ nhiệm thông báo con mình vô kỷ luật liền đợi tới giờ cô, xông thẳng vô lớp, tát tai đấm đá túi bụi đứa con, chửi mắng ầm ỹ rồi hùng dũng bỏ đi ra. Khiến tôi chợt nhớ tới cuộc diện kiến giữa A-Lịch- Sơn Ðại đế với nhà hiền triết Diogène thuộc môn phái Khuyển nho.
Diogène sống với một con chó, ở trong một cái thùng gỗ, hạn chế tối đa nhu cầu đến mức một cái một cái chén để múc nước uống cũng ném đi khi thấy hai bàn tay bụm lại cũng hứng được nước. Nghe danh nhà hiền triết, một hôm Ðại đế đến đứng cạnh cái thùng lễ độ thưa:
- Tiên sinh có cần gì, quả nhân xin...
Triết gia trả lời:
- Ta cần ngươi đứng xe ra để nắng dọi được vô cửa thùng.
Tướng tùy tùng rút gươm toan chém tên vô lễ (nghề chuyên môn mà!), nhưng vua gạt đi, nói:
- Nếu ta không là A-Lịch-Sơn thì ta muốn được là Diogène.
A-Lịch-Sơn trọng Diogène như trọng thầy mình, người thầy mà nhà vua đã từng nói: "Sinh ra ta là cha ta, Hoàng đế Philippe. Dạy ta sống xứng đáng là thầy ta, Aristote".
Lên ngôi năm 20 tuổi mà đánh Ðông dẹp Bắc, xua quân từ Hy Lạp sang tận Ba Tư, Ấn Ðộ, cái thế anh hùng, nhưng nhà vua biết cúi đầu trước cái Ðức của bậc hàn sĩ. Thử đặt bà phụ huynh chủ sạp vào địa vị nhà vua, thì bà sẽ đá cho cái thùng lăn lông lốc mấy chục vòng!
"Nhất tự vi sư, bán tự vi sư", vậy mà tôi gặp trường hợp có người học trò cũ xưng hô với tôi bằng "anh". Tôi hoàn toàn không cảm thấy bị xúc phạm mà chỉ thấy thương hại cho anh ta. Rõ ràng là anh ta có tỏ ra lúng túng khi sắp phải chọn giữa hai tiếng "thầy" và "anh". Tôi muốn vỗ vai thân mật an ủi: "Sao em khổ chi vậy?" Tiếng "thầy" có gì là cao giá đâu mà em phải cân nhắc? Xung quanh ta thiên hạ dùng tiếng "thầy" khỏe ru mà: thầy thuốc, thầy cúng, thầy võ, thầy phù thủy, thầy địa!..."
Kẻ ác tâm nghĩ và người ác khẩu nói: truyền đạt kiến thức cho học sinh thì nói có công ơn gì? Chỉ là nghề sinh nhai, còn nhẹ hơn nghề đắp đường, khỏe hơn nghề bửa củi. Kiến thức thức đó của danh nhân kim cổ chớ đâu phải của chính thầy cô mà phải thán phục? Vậy là bao nhiêu cái ơn phủi đi, bấy nhiêu cái oán lãnh đủ, vì kiến thức truyền rao, học sinh phải nghe, phải học, phải thuộc, phải biết vận dụng để làm bài. Lười học, cẩu thả, làm sai, thầy cô phải la phải phạt, vậy là mang oán. Gặp phụ huynh có quyền có chức thì từ oán chuyển sang uy hiếp.
Có một lần một bà mẹ cầm tờ đơn đến trường kiện cô giáo. Tôi mời ngồi nơi phòng khách và mở lời trước:
- Tôi biết vụ này. Con bà về mét là bị cô giáo bạt tai. Cô giáo nói không. Không có ai làm nhân chứng. Nhưng mà đôi co chứng tá làm gì, chúng ta cùng giải quyết cái căn bản. Con bà được bà cưng, học lười và hỗn với cô giáo từ lớp Một. Cô giáo rầy la, cảnh cáo nhưng bà bênh con: ăn hiếp lại cô giáo. Lên lớp 2 cũng vậy, lớp 3, lớp 4 và bây giờ lớp 5 đều cũng vậy. Nội dung đang rất bi đát mà bà đâu có hiểu. Con bà không học thì sức đâu mà lên lớp? Nhưng để học lại một năm nữa thì cô giáo chịu sao nổi với nó, với bà? Vậy là nâng điểm, cho lên. Cứ liên tiếp như vậy. Rốt cuộc nay học lớp 5 mà trình độ đâu chừng tới lớp 3 rưỡi. Mà phàm học kém thì ngồi nghe giảng không hiểu, phải nghịch phá. Bà ơi, rốt cuộc cô giáo nào rủi dạy trúng con bà đều cũng phải nhẫn nại chịu đựng cho qua năm học, chịu khó ngồi tụng niệm một trăm chữ NHẪN. Nhưng còn bà, thưa bà, bà sẽ phải khổ với nó suốt cuộc đời bà.
Người đàn bà chăm chăm nhìn tôi. Cái đơn kiện đến cuộn tròn khá lớn, giờ như được xếp cho nhỏ lại.
Nhà giáo bị uy hiếp bốn bề. Là người thợ xây, nhưng tâm hồn học trò đâu có dễ uốn như cây, như gạch? Quả là có một số ít nhà giáo kém phẩm chất nhưng tại sao lại vin vào số ít nhỏ nhoi này để phủ nhận cài đa số lớn lao kia?
Riêng người học trò cũ ngồi nói chuyện với thầy, viết thư thăm thầy thì còn được hưởng thêm một niềm vui ích kỷ: đó là thấy mình vẫn còn trẻ. Bởi một khi các bậc trưởng thượng: cha, mẹ, thầy giáo đều từ trần thì mình sẽ cảm thấy cô độc lạ thường, mình như già đi trong phút chốc. Như những ngày cây cổ thụ ngã xuống, các cây nhỏ bấy lâu nép bóng chợt bị phơi trần ra chịu đựng nắng, gió, mưa.
Gắng tạo niềm cảm thông, niềm an ủi cho các thầy cô giáo để ngày ngày họ dạy dỗ con của bạn trong niềm vui. Cũng dễ hiểu thôi mà: khi có nước mát tưới đều, bụi thúy cúc nở những đóa hoa rực rỡ. Và con của bạn đang ngồi vây quanh, hưởng hương sắc của hoa.
Còn thầy cô giáo cũ thì có mong chờ gì ở bạn đâu? Vì vậy mà một lời thăm hỏi đủ đem lại niềm vui thanh khiết…
Nguyễn Trần Diệu Hương
MGTT 14 - CÁC THẦY DẠY TRIẾT
Học trò Trung học ở miền Nam trước năm 1975 chỉ được học Triết khi lên lớp 12 (Đệ Nhất). Triết ở bậc Trung học có 4 môn: Tâm Lý Học (Psychology ), Luận Lý Học (Logicality), Đạo Đức Học (Morality), và Siêu Hình Học (Metaphysics). Chỉ có Ban C- chuyên về Triết văn chương ngoại ngữ - mới học môn “Siêu Hình Học”.
Trong suốt mười hai niên khóa (từ năm 1962 đến năm 1975, Trường Ngô Quyền Biên Hoà có lớp Đệ Nhất đầu tiên từ niên khóa 62-63), môn Triết được giảng dạy ở Ngô Quyền lần lượt bởi quý Thầy: Nguyễn Xuân Hoàng, Lưu Ngọc Bích, Nguyễn Văn Lan, Vũ Khánh Thành, Nguyễn Minh Lý, Trương Hữu Chí, và Nguyễn Văn Lục.
Các anh chị lớp Đệ Nhất (từ niên khóa 69-70 trở thành lớp 12) bắt đầu tiếp cận với những tên tuổi: Plato, Socrates, Aristotle, Sigmund Freud, Karl Jaspers, Jean-Paul Sartre, Martin Heidegger, Emmanuel Kant, Jean-Jacques Rousseau…, với những khái niệm mới về "cảm xúc", "đam mê", "hư vô"... bỗng dưng “thấm” hai câu thơ (trích từ bài thơ "Học Sinh" của thi sĩ Huy Cận):
"Vậy đó bỗng dưng mà họ lớn
Tuổi hai mươi đến có ai ngờ"
Tuổi hai mươi đến cùng với những khái niệm Triết học nhập môn thật âm thầm và ra đi cũng lặng lẽ mang theo nhiều thứ, nhưng để lại cho các học sinh năm cuối Trung học ngày nào nền tảng của suy nghĩ và nhận thức về cuộc đời dưới quan điểm mới.
Chừng đó thôi cũng đủ cho hành trang vào đời, giữ cho tâm an hơn, lòng bình lặng hơn trong mỗi chông gai của cuộc sống.
Và như thế đủ để hôm nay chúng ta ngồi lại bên nhau cùng cám ơn quý Thầy dạy Triết ở trường xưa, dù muộn màng nhưng "có còn hơn không" phải không các anh, chị và các bạn thân mến?
BBT
THẦY NGUYỄN XUÂN HOÀNG
VỊ GIÁO SƯ TRIẾT ĐẦU TIÊN Ở TRƯỜNG NGÔ QUYỀN
Thầy Nguyễn Xuân Hoàng là giáo sư dạy môn Triết đầu tiên Trường Ngô-Quyền niên học 1962-1963.
Gần nửa thế-kỷ đi qua, nhưng hình-ảnh Thầy Nguyễn Xuân Hoàng với chiếc áo pardessus đi từ phòng giáo-sư băng qua sân trường đến lớp của chúng tôi vào đầu giờ của buổi học chiều là hình ảnh không bao giờ quên.
Bao nhiêu bài Luận-lý học, Đạo-đức học ngày nay chúng tôi chỉ còn nhớ duy nhất âm vang của Thầy “Bộ-tộc Bororos không biết phân-biệt, họ nói những người bororos là những con araras” hay một thí dụ về luận-lý đa giá: “Một bộ lạc nọ có lệ là bất cứ người lạ nào vào địa phận của họ cũng đều phải bị chết. Nhưng họ có một ân huệ là cho nạn nhân được nói một câu trước khi chết, nếu câu nói đúng thì sẽ bị treo cổ, nếu nói sai sẽ bị chặt đầu. Ngày nọ có một người đi lạc vào, bị bắt và phải bị giết. Trước khi đem ra hành hình, tù trưỡng cho phép nói một câu trước khi chết. Anh ta nói “Tôi sẽ chết bằng cách bị chặt đầu”. Và khi đem đi chặt đầu thì anh ta nói “ Nếu chặt đầu tôi thì tôi nói đúng, vậy phải treo cổ”. Khi sắp treo cổ thì anh ta lại nói “Tôi đã nói là tôi bị chặt đầu kia mà, nghĩa là tôi nói sai, nói đúng mới bị treo cổ chứ”. Đem chặt đầu không được, treo cổ cũng không xong, cuối cùng anh ta được thoát. Thế nên vẫn có một lý-luận đa giá.
Vật đổi sao dời thế nào chăng nữa, trong tâm-tư chúng tôi Thầy Nguyễn Xuân Hoàng đứng ở vị-trí là vị Thầy dạy Triết một cách tôn kính hơn Nhà văn Nguyễn Xuân Hoàng của công chúng.
Đào Văn Công & Trần Kim Lan
Nếu gặp được Thầy Nguyễn Xuân Hoàng, tôi sẽ cúi đầu bắt tay Thầy, giữ tay Thầy trong tay tôi để nghe được cái cảm giác chắc là lạ lùng phát ra từ bàn tay của Nhà văn nổi tiếng. Tôi sẽ mang cái cảm giác “thiên thần” ấy trao lại cho bạn bè tôi, những người không được may mắn như tôi trong họp mặt của chs NQ toàn thế giới kỷ niệm 55 năm thành lập Trường Ngô Quyền vào tháng 7 năm 2011. Chắc trong Đại hội, tôi không có thời giờ để nói với Thầy cảm xúc mình khi đã đọc các tác phẩm của Nhà Văn Nguyễn Xuân Hoàng như: Bụi và Rác, Sinh Nhật, Căn Nhà Ngói Đỏ, Sương Mù và Ý Nghĩ Trên Cỏ… hay không đủ lời để nói lên lòng cảm phục Thầy qua những gì Thầy làm lúc còn ở Phụ Bản Tiếng Việt của tờ báo Mercury News ở San Jose! Tôi không học lớp nào của Thầy, nhưng tôi thấy gần gũi Thầy qua những dòng văn…
Trần Ngọc Danh
Tôi không được học Triết ở bậc Trung học, và dĩ nhiên cũng không được học Triết với Giáo sư Nguyễn Xuân Hoàng nhưng tôi may mắn nhận được nhiều lời khuyên rất có giá trị cho việc viết văn từ Nhà Văn Nguyễn Xuân Hoàng. Chẳng hạn "một nhân vật trên trang sách đôi khi mang cá tính của hai hay ba nhân vật trong đời thường". Có ai ngờ con bé học trò đệ nhất cấp của NQ ngày nào được học một vài "kỹ thuật sáng tác" qua E mail từ ông Thầy trẻ dạy Triết năm xưa được hầu hết chs NQ khóa 1 (và rất nhiều thế hệ đàn em) ngưỡng mộ?
Nguyễn Trần Diệu Hương
THẦY LƯU NGỌC BÍCH
Chương trình môn Triết Học năm Đệ Nhất B thời chúng tôi, chs NQ khóa 7 (1962-1969), rất "dày" và "nặng", gồm có Tâm Lý Học (Psychology), Luận Lý Học (Logicality ) và Đạo Đức Học (Morality)... Ít có bạn nào thích "nhai" hoặc "nhai" hết trọn vẹn môn này, nhưng bạn nào thích thì trở thành "nghiện" môn Triết, thậm chí còn ra các tiệm sách để mua thêm sách Triết về đọc (dù là đang học ban B, môn Toán là chính), nhất là "nghiện" giờ học Triết của Thầy Lưu Ngọc Bích. Bởi vì đối với một môn học có phần trừu tượng và khó "nhai" như vậy, nhưng Thầy Bích giảng giải rất dễ hiểu, hấp dẫn, và còn chỉ cho học sinh cách tóm tắt (resume) rất dễ nhớ, để khi đi thi có thể làm bài chóng vánh và đủ ý... Mãi mãi nhớ ơn Thày Bích đã cho chúng tôi những khái niệm đầu tiên về Triết học, gây niềm đam mê và yêu mến đọc sách Triết về sau này...
Nguyễn Ngọc Xuân
Xin được thành kính thắp nén hương lòng tưởng nhớ và biết ơn cố GS Lưu Ngọc Bích đã góp phần đào tạo được một thế hệ chs NQ sống đạo đức, biết đem luận lý học vào đời sống để cuộc đời dịu dàng và đáng sống hơn.
BBT
THẦY VŨ KHÁNH THÀNH
Ngoài công việc của một nhà giáo, Thầy Vũ Khánh Thành còn là một Nghị Viên Thành Phố Biên Hòa vào đầu thập niên 70 và là Nghị Viên Thành Phố Hackney (Anh quốc) vào đầu thế kỷ 21. Thầy chuyên dạy Đạo đức học, một môn học khô như ... sa mạc nhưng nhiệt tình của thầy Thành luôn tươi mát như hoa cỏ mùa Xuân. Thầy rất tích cực trong các sinh hoạt động cộng đồng từ nhiều thập niên qua, từ lúc còn ở quê nhà trước năm 1975 đến lúc lưu lạc ở quê hương sương mù Thầy là Giám Đốc Sáng Lập và Điều Hành Hội An Việt, một tổ chức thiện nguyện chuyên bảo tồn văn hóa Việt Nam và đăng tải các tài liệu về cội nguồn, lãnh thổ của đất nước Việt Nam, một đất nước được mang theo trong trái tim của cả triệu người Việt Nam phải sống đời lưu lạc.
Bận rộn với rất nhiều hoạt động thiện nguyện và những công trình biên khảo, Thầy Thành vẫn dành thì giờ đề gặp gỡ và thăm hỏi các chs NQ, đặc biệt là học trò cũ của Thầy khi các anh chị này có dịp ghé thăm Luân Đôn. Những lúc như vậy, trong mắt Thầy Trò hình ảnh trường xưa với những dãy hành lang quen thuộc vẫn còn nguyên như hơn ba thập niên trước
Thầy cũng đã qua Mỹ dự "Họp Mặt Truyền Thống" của thầy trò Ngô Quyền tại San Jose năm 2004 . Hy vọng tháng 7 sang năm 2011, chs NQ sẽ được đón tiếp Thầy trong dịp kỷ niệm 55 thành lập trường. Dù xa trường đã rất lâu, chs NQ vẫn nghĩ về Thầy như tấm lòng cùa Thầy với triết gia Kim Định.
Nguyễn Trần Diệu Hương
THẦY NGUYỄN VĂN LỤC
Thầy Nguyễn Văn Lục dạy chúng tôi môn Triết trong niên khóa 1972-1973. Vào khoảng thời gian ấy, nếu tôi không lầm, có lẽ thầy chỉ ngoài ba mươi, nghĩa là quá… lý tưởng để cho các nữ sinh lãng mạn dệt mơ ươm mộng. Thật vậy, ngoài ba mươi, đủ trẻ để các cô cảm thấy dễ gần gũi, và đủ chững chạc trưởng thành để trở nên một thần tượng cao vời trong tầm mắt ngước lên.
Cao, khỏe, trẻ, nhanh, thầy lại được “trời cho” một khuôn mặt cương nghị đầy nam tính và nụ cười thật tươi. Đã thế, môn Triết của thầy không phải là thứ triết Luận Lý khô khan hay triết Đạo Đức cứng ngắt, hoặc triết khó nuốt “Buồn Nôn” của triết gia J. P. Sartre hay triết hóc búa kiểu“Hố thẳm của tư tưởng” của nhà văn Phạm Công Thiện. Thầy tôi dạy triết, nhưng là triết Tâm Lý cơ, với những tựa bài nghe qua đã thấy… hấp dẫn rồi, nào là “Cảm xúc”, “Đam mê”,… hèn gì mà “huyền thoại” về thầy trong giới nữ sinh, từ đàn chị đến đàn bạn và xuống tới đàn em của tôi, cứ thế mà mỗi ngày một dài.
Thú thật, tôi thuộc loại học trò cù lần, “chỉ biết học thôi chả biết gì,” nên “lời quê góp nhặt dông dài” được có bao nhiêu đây thôi. Lẽ ra cô nàng Nguyễn Trần Diệu Hương,“mẹ đẻ” của mục “Một góc thầy trò” này nên rao bảng“Viết về huyền thoại thầy Lục” như kiểu nhật báo Việt Báo mở mục “Viết về nước Mỹ”, thì chắc hẳn trang web của chúng ta sẽ có nhiều bút ký độc đáo hơn nhiều, phải không ạ?
Nguyễn Thị Minh Thủy
Năm 2006, lần đầu khi liên lạc được với Thầy Nguyễn Văn Lục để mời Thầy viết bài cho Tuyển Tập NQ, tôi đã nhắc về một “món nợ” mà tôi xem như vẫn thiếu Thầy khi còn là học trò lớp 10 ở trường NQ, Thầy đã viết trả lời tôi: “Lại kể những món nợ cũ ra, vậy thì lo mà trả nợ cũ trước khi nói truyện sắp tới nhé!”. Thầy làm tôi giật mình, nếu tính từ năm 1970 đến nay thì món nợ cũ chắc phải sinh lời đến… chóng mặt. Nhưng may là Thầy chỉ nói đùa thôi vì sau đó Thầy đã gửi bài cho Tuyển Tập NQ 2006, giữ liên lạc thường xuyên với sinh hoạt của Hội và website NQ cho đến bây giờ.
Tôi có cơ duyên được biết Thầy Nguyễn Văn Lục từ năm học lớp 10, lúc đó thầy mới về trường năm đầu tiên và phụ trách dạy môn Triết lớp 12, do một tình cờ khi than thở với người chị kết nghĩa, chị Duyên, đang là học trò của Thầy, về việc làm tập thơ của tôi và một người bạn cùng lớp chắc không thực hiện được vì không nhà in nào chịu nhận in ronéo một số lượng quá ít mà nếu in đúng theo tiêu chuẩn tối thiểu của nhà in ấn định thì sẽ lâm vào cảnh “thơ thừa” mà “tiền thiếu”… thảm thiết! Nghe vậy, chị Duyên đã bày cho tôi đến gặp Thầy Lục để xin Thầy giúp vì Thầy có tiệm in ronéo ở SàiGòn, và có hứa với học trò nếu cần in ronéo, copy bài vở gì thì Thầy sẽ sẵn sàng giúp. Thế là, Thầy đã hiện ra như một vị “mạnh thường quân” từ trên… trời rơi xuống để biến ước mơ đầu đời, to tát của hai “thi sĩ mầm non” là tôi và Ngọc Yến, trở thành hiện thực. Thầy vui vẻ nhận mang về nhà in dùm và thản nhiên bảo tôi khi tôi hỏi đến tiền ấn phí: “In chỉ 50 quyển mà lại còn đem đi để biếu không nữa thì tiền đâu mà có. Thôi tôi in dùm cho đấy.”. Ngạc nhiên, mừng rỡ, cám ơn Thầy rối rít… nhưng tôi cứ xem như mình đã mắc Thầy một món nợ rồi.
Sau đó không lâu, tên tuổi Thầy Nguyễn Văn Lục bỗng trở thành một… hiện tượng trong trường, được nhắc nhở thường xuyên với những huyền thoại đầy đủ các sắc màu rực rỡ trong các lớp nữ sinh. Theo lời “đồn đãi” thì ngoài việc có tiếng là dạy hay, giảng bài hấp dẫn với giọng miền Bắc thật ấm áp, truyền cảm, Thầy lại được các ưu điểm về sự trẻ trung, linh hoạt, đầy nam tính, và là một trong những vị Thầy của trường lái xe hơi đi dạy học (ngoài thầy Lâm Tấn Văn, thầy Nguyễn Thành Dũng và thầy Lê Quý Thể), cho nên hình ảnh Thầy Lục bấy giờ là “thần tượng” của khá nhiều nữ sinh đệ nhị cấp. Đoàn Chuẩn có bài hát “Tà áo xanh” để làm ngất ngây, thương nhớ thì các chị trường mình lại có “màu áo xanh” của Thầy Lục để ngắm những khi… mộng ngoài cửa lớp.
Có lẽ, một phần do muốn dễ “thẩm thấu” môn Triết học trừu tượng, khó nuốt, phần thì háo hức muốn biết lời “đồn đãi” của các bận đàn chị có đúng không? nên lớp 12A1 niên khóa 72-73 của chúng tôi khi thấy tên Thầy Nguyễn Văn Lục phụ trách môn Tâm Lý học trên thời khóa biểu của lớp, cả đám mặt mày hớn hở hẳn ra.
Triết là môn học chính thay cho Quốc Văn ở cấp lớp 12. Gồm Tâm Lý 2 giờ, Đạo Đức 1 giờ và Luận Lý 1 giờ cho mỗi tuần. Môn Tâm Lý khá hấp dẫn nên các giờ của Thầy Lục rất sinh động, lôi cuốn, so với giờ Luận Lý và Đạo Đức - có lẽ do các lý thuyết và nội dung chứa đựng quá lề luật, khô khan - dù Thầy Vũ Khánh Thành đã rất nhiệt tình giảng dạy. Đối với chúng tôi lúc đó, môn Triết là cả một thế giới vô cùng mới mẻ, một thế giới… siêu phàm của những “phạm trù”, “khái niệm”, “cảm nghiệm” đầy huyền bí, cao xa, nhưng qua cách giảng bài lưu loát, khoáng đạt với những cours tài liệu bổ túc bài giảng đã được Thầy biên soạn và phổ biến trong lớp, các lý thuyết về “bản chất, hiện tượng tâm lý và các mối quan hệ tâm lý v.v… và v.v…” lúc đầu như một cuộn chỉ rối mù, một cánh rừng hoang dã, mênh mông, một “đường đi không đến” đã được Thầy “khai sáng”, mở cửa và dần đưa những ý niệm về ngôn từ, tác giả, tác phẩm Triết học cao vời của Emmanuel Kant, Sigmund Freud, Jean Paul Sartre... đến với chúng tôi một cách nhẹ nhàng, tự nhiên hơn. Chúng tôi tập quen dần với những ngôn ngữ mới lạ nào là: vong thân, bản ngã, tha nhân, tha hóa, hiện hữu, nội tại, ngoại cảm... Đặc biệt bài học về các đề tài “Khuynh Hướng, Ý Thức, Vô Thức, Cảm Xúc, Đam Mê…” là những khám phá mới mẻ, đầy hấp lực đối với chúng tôi đang ở lứa tuổi thành niên, chuẩn bị hành trang để bước vào đời.
Sau năm học này, tôi rời trường đi học Văn Khoa ở SàiGòn, nhưng mỗi bận về nhà cứ nghe cô em kế của tôi đang học lớp 12A3 hí hửng khoe: “Thầy Lục không dạy Triết lớp em, nhưng tới giờ Tâm Lý của Thầy, em với mấy đứa bạn xin qua lớp Thầy để học “dự thính”, lớp thật đông, có lúc không đủ bài, vậy mà Thầy vẫn dành cours cho em đem về đọc thêm đó”.
Tôi quên không hỏi làm cách nào mà cô em tôi có thể bỏ giờ học của lớp mình để sang học lớp khác mà Giáo Sư không biết? Nhưng như vậy cho thấy là Thầy Lục của chúng tôi vẫn còn là “thần tượng” của các nữ sinh trong những năm sau này chứ không phải là đã hết.
Hiện nay, ngoài danh vị một nhà giáo đã nghĩ hưu, Thầy Nguyễn Văn Lục còn là một nhà văn, nhà biên khảo đã có tiếng ở hải ngoại với số lượng bài viết thật đáng kể. Viết bây giờ có thể nói là niềm “đam mê” mãnh liệt nhất của Thầy. Chúng ta hãnh diện được là học trò của các vị giáo sư, và cũng là những nhà văn học đã cống hiến phần tri thức của mình trong các công trình sáng tác, nghiên cứu để lưu lại cho hậu thế những món quà tinh thần vô cùng giá trị. Buổi ra mắt sách “Hai mươi năm miền nam VN 1955-1975” của Thầy trong đầu tháng Tám vừa qua tại miền Nam Cali đã thành công tốt đẹp và tạo được nhiều tiếng vang trong giới truyền thông, văn học hải ngoại, xem như là một phần thưởng quí báu dành cho "người cầm bút muộn" -theo lời Thầy- nhưng nhiều tâm huyết và lòng đam mê viết lách như Thầy. Hơn nữa, sự tham gia, ủng hộ nhiệt tình, đông đảo của Quý Thầy Cô và ChsNQ trong thời gian này đã thể hiện phần nào những tình cảm thân thương và lòng quý mến của ĐạiGiaĐìnhNQ dành cho Thầy Nguyễn Văn Lục vẫn nguyên vẹn như những ngày Thầy còn dạy môn Triết ở trường Ngô Quyền của chúng ta vậy.
Võ Thị Ngọc Dung
THẦY TRƯƠNG HỮU CHÍ
Niên khóa 73-74, chúng tôi học Cổ văn với Thầy Trương Hữu Chí. Thầy chuyên dạy Triết ở Đệ nhị cấp, nhưng có lẽ vì thiếu giáo sư, thầy dạy lớp chúng tôi. Vì vậy, dù đang ở đệ nhất cấp, chưa đủ trình độ để học Triết, lâu lâu chúng tôi vẫn được nghe những danh từ lạ tai như: thân phận hữu hạn, thách thức siêu hình, ý niệm ngoại cảm … Nhiều lúc nghe... ù cả tai cứ như là “vịt nghe sấm”! Giờ ra chơi, thỉnh thoảng chúng tôi còn lập lại những danh từ triết học đó mà tự bản thân cũng chẳng hiểu mình đang nói gì!!!
Từng chút một, Thầy đã đưa vào tâm hồn chúng tôi những triết lý cao siêu của Phật Giáo, những “chánh kiến, chánh ngữ, chánh nghiệp…” mỗi cuối giờ Cổ Văn. Dĩ nhiên ở lớp bảy, chúng tôi… không hiểu gì hết! Lời Thầy nói vào lỗ tai bên này, bay qua lỗ tai bên kia, bay vào hư không. Ấy vậy mà những danh từ triết lý đó vẫn nằm ở một ngõ ngách nào đó trong tiềm thức chúng tôi. Rất nhiều năm sau này, tôi bắt đầu hiểu được những hạt giống tốt Thầy đã ra công gieo vào tâm hồn mới lớn của chúng tôi. Hạt giống năm đó, chưa đúng điều kiện, chưa thể nẩy mầm. Đến khi chúng tôi lớn lên, khôn ra, đúng thời điểm, hạt giống tốt ngày xưa nẩy mầm, đơm hoa, kết trái. Chúng tôi mới hiểu ra những tư tưởng tốt đẹp Thầy muốn gieo vào tâm hồn trong trắng của chúng tôi năm xưa.
Nguyễn Trần Diệu Hương
Khi bài này lên... web, BBT vẫn chưa nhận được bài nào về quý Thầy Nguyễn Văn Lan và Nguyễn Minh Lý nhưng chúng tôi tin chắc chắn các anh, chị đã được "hò hẹn với tuyệt đối", đã ý thức được "thân phận hữu hạn" của con người qua các giờ Triết với quý Thầy Lan và Lý, luôn nhớ đến những ông lái đò xưa đã đưa mình qua nấc thang cuối của bến bờ Trung học.
BBT rất vui khi nhận được những bài viết về kỷ niệm của các chs NQ là học trò cũ của quý Thầy Lan, Lý; và sẽ cập nhật trên MGTT số 14 về các cựu GS Triết của NQ xưa.
Cho đến nay Hội Cựu Học sinh Ngô Quyền vẫn chưa nhận được tin tức nào về hai Thầy Nguyễn Văn Lan và Nguyễn Minh Lý.
Cầu mong dù đang ở bất cứ một phương trời nào, quý Thầy vẫn luôn bình an, hạnh phúc.
BBT