- Sự Hoàn Hảo Và Mặc Cảm
- Nhớ Bóng Mai Xưa
- Cây Bút Của Ba Tôi
- Con Tôm
- Tết Chỉ Một Ngày
SỰ HOÀN HẢO VÀ MẶC CẢM
Thiền sư Ajahn Brahm
Hai viên gạch xấu
Sau khi mua đất để xây tu viện vào năm 1983, chúng tôi hết sạch tiền. Chúng tôi lâm vào hoàn cảnh nợ nần. Miếng đất trống trơn, chẳng có nhà cửa gì cả, một túp lều cũng không. Những tuần sau đó chúng tôi không có giường để nằm mà phải ngủ trên những tấm cửa cũ mua rẻ từ một vựa phế liệu và chúng tôi kê gạch bên dưới các góc để nâng nó lên cao một chút. (Dĩ nhiên là không có nệm vì chúng tôi là những tu sĩ trong rừng.)
Vị viện chủ được dành cho tấm cửa đẹp nhất, một tấm cửa phẳng phiu. Còn tấm cửa của tôi thì có một lỗ trống ở giữa do trước kia đó là chỗ tra bộ khóa. Tôi nói đùa rằng khi ngủ dậy tôi không cần bước xuống giường để đi vệ sinh. Thật ra thì buổi tối rất lạnh vì gió luồn qua lỗ trống đó thổi lên khiến tôi ngủ không yên.
Chúng tôi là những tu sĩ nghèo cần cất nhà nhưng không đủ tiền để thuê thợ xây – đối với chúng tôi tiền mua vật liệu xây dựng cũng hầu như vượt quá khả năng rồi. Vì thế chúng tôi phải học cách xây: nào là đào móng, trộn hồ, đặt gạch, nào là cất mái, lắp ống nước – nói chung là tất cả mọi công việc. Hồi chưa xuất gia tôi học vật lý và là một giáo viên trung học, chưa biết lao động chân tay. Thế nhưng sau vài năm sống ở đây tôi đã trở thành thợ khéo và thậm chí gọi nhóm xây dựng của chúng tôi là BBC (Buddhist Building Company – Công ty Xây dựng Phật giáo). Nhưng nhớ lại khi mới bắt đầu thật là khó khăn.
Mới thoạt nhìn thì việc xây tường đâu có gì khó: chỉ lót một lớp hồ mỏng bên dưới, một chút ở hai bên, một lớp ở trên. Thế nhưng khi bắt tay đặt viên gạch lên thì công việc hóa ra không dễ : tôi gõ nhẹ ở một đầu cho bằng thì đầu kia nhô lên. Tôi gõ đầu kia xuống thì viên gạch chệch ra, không còn thẳng hàng nữa. Sau khi gõ lại cho ngay ngắn thì ở góc nó lại hơi vênh. Bạn cứ thử làm đi thì biết.
Là thầy tu tôi có thì giờ lẫn sự kiên nhẫn cần thiết để tiến hành công việc. Thế nên tôi cẩn thận từng chút để mọi viên gạch đều ngay hàng thẳng lối dù mất thời gian bao lâu cũng được. Cuối cùng, tôi cũng xây xong bức tường đầu tiên và đứng lùi ra mấy bước để ngắm nhìn. Chỉ lúc đó tôi mới thấy – Mô Phật ! – có hai viên gạch bị lệch. Thật là xấu xí khủng khiếp. Nó làm hỏng cả bức tường. Thật là quá dở!
Nhưng lúc đó thì vữa đã đông cứng rồi không thể gỡ hai viên gạch đó ra được. Thế nên tôi xin phép thầy Viện chủ cho đập bỏ bức tường để xây lại. Tôi thật là vụng về và lấy làm xấu hổ. Nhưng thầy Viện chủ không cho.
Sau này khi dẫn khách đi xem công trình tôi tránh để khách đi ngang qua bức tường đó. Tôi không muốn người ta nhìn thấy nó. Nhưng một hôm, sau khi xây xong chừng ba bốn tháng tôi đi cùng với một vị khách đi xem và vị ấy nhìn thấy bức tường.
Ông ta khen ngợi, “ Bức tường này xây đẹp đó.”
Tôi ngạc nhiên hỏi, “ Đạo hữu có bỏ quên kính trong xe không? Hay là mắt của đạo hữu có làm sao? Đạo hữu có thấy hai viên gạch lệch kia không? Nó làm xấu cả bức tường.”
Những gì ông ta nói sau đó làm thay đổi quan niệm của tôi về bức tường, về cách tôi nhìn chính mình và cả cách nhìn đời. Ông ta nói, “ Có, tôi có thấy hai viên gạch xây lệch đó. Nhưng tôi cũng thấy 998 viên gạch xây ngay hàng thẳng lối.”
Tôi hết sức kinh ngạc. Đó là lần đầu tiên trong vòng nhiều tháng tôi nhìn thấy được những viên gạch khác ngoài hai viên bị lỗi kia. Phía trên, phía dưới, ở hai bên hai viên gạch lệch là những viên gạch tốt, được xếp ngay ngắn. Ngoài ra, những viên gạch xây tốt chiếm một số lượng nhiều hơn hai viên gạch xấu rất nhiều. Thế mà trước đây mắt tôi chỉ tập trung nhìn hai viên gạch hỏng thôi. Tôi không nhìn thấy cái gì khác. Đó là lý do khiến tôi không thích nhìn bức tường, cũng không thích mọi người nhìn thấy nó. Đó là lý do khiến tôi muốn đập bỏ nó. Bây giờ khi tôi có thể nhìn thấy những viên gạch khác thì bức tường trông cũng không tệ lắm. Mà ông khách còn khen là xây đẹp nữa đấy. Hai mươi năm sau bức tường vẫn còn đó nhưng tôi không còn nhớ hai viên gạch xấu nằm ở đâu. Tôi không còn nhìn thấy lỗi lầm.
Có bao nhiêu người đã cắt đứt mối quan hệ hay đi đến ly dị bởi vì họ nhìn thấy “hai viên gạch xấu”? Bao nhiêu người trong chúng ta đây đã từng thất vọng, thậm chí nghĩ đến việc tự tử, chỉ vì thấy trong ta “hai viên gạch xấu”? Sự thật là có nhiều viên gạch tốt, hoàn hảo, ở bên trên, bên dưới, ở khắp xung quanh viên gạch lỗi – nhưng chúng ta có lúc không nhìn thấy. Thay vào đó, mắt chúng ta chỉ tập trung nhìn vào chỗ không tốt. Chúng ta chỉ thấy lỗi lầm và chúng ta nghĩ tất cả đều xấu, thế cho nên chúng ta muốn đập bỏ. Và đôi khi, thật đáng tiếc, là chúng ta phá hủy cả “một bức tường đẹp”.
Tất cả chúng ta đều có hai viên gạch xấu, nhưng những viên gạch đẹp trong mỗi người chúng ta lại rất nhiều, nhiều hơn những viên gạch xấu. Khi chúng ta thấy được điều này thì sự việc không đến nỗi tệ. Không những chúng ta có thể làm lành với mình, với những lỗi lầm của mình, mà còn có thể làm hòa với người khác. Đây là một tin tức không tốt đối với giới luật sư, nhưng là một tin tốt lành cho tất cả các bạn.
Tôi đã kể lại câu chuyện này nhiều lần với những người xung quanh. Một hôm, có một người thợ nề bước đến gần và nói cho tôi nghe một bí mật nghề nghiệp. “Tất cả thợ nề chúng tôi đều phạm lỗi, nhưng chúng tôi nói với khách hàng là nó làm cho ngôi nhà có một “nét độc đáo” không có nhà nào khác có được. Thậm chí chúng tôi còn đòi thêm vài ngàn đô la vì nét độc đáo này!”
Vậy thì “nét độc đáo” trong ngôi nhà của bạn thoạt đầu có thể là một lỗi lầm. Tương tự như thế, bạn có thể xem các lỗi lầm của bạn, của bạn bè và của cuộc đời nói chung là những “nét độc đáo” làm phong phú cái toàn thể - một khi bạn không tập trung nhìn vào những lầm lỗi .
Trần Ngọc Bảo
Trích dịch từ cuốn “Who Ordered This Truckload of Dung?”
Thưa Thầy:
Ngày xưa em học Tân Toán học từ Thầy ờ Ngô Quyền, khoảng cách thật gần vì em ngồi ở bàn đầu, Thầy đứng trên bục giảng.
Bây giờ ờ hai phía của địa cầu em vẫn học được cách sống tốt đẹp từ Thầy qua E mail.
Em đang và sẽ cố gắng thấy 998 viên gạch ngay hàng thẳng lối và không thấy "trái tai gai mắt" vì hai viên gạch không hoàn hảo.
Xin cảm ơn Thầy
Kính
Diệu Hương
NHỚ BÓNG MAI XƯA
1.
Má tôi yêu nhất loài hoa mai. Yêu đến đổi, má biến mảnh sân nhà thành vườn mai giữa phố. Má nói, Mai được xếp bậc thứ nhất trong “ tứ hữu” Mai – Lan – Cúc – Trúc.” Bậc Thánh thơ ca Cao Bá Quát, người anh hùng chống chế độ phong kiến bạo tàn, bình sinh tâm đắc hai câu đối:
Thập tải luân giao cầu cổ kiếm,
Nhất sinh đê thủ bái mai hoa…
(Mười năm bàn đạo giao du khó như tìm gươm cổ,
Một đời chỉ biết cúi đầu trước hoa mai)
Má tôi bảo, ông này là người có lý tưởng sâu sắc, nhân cách sống cao thượng và chí khí quật cường. Cả cuộc đời, ông chỉ chịu cúi đầu khuất phục hoa mai. Chưa hết, má còn thi vị hoa mai bằng câu ca dao…
Bông mai vàng,
thuở nàng còn trẻ.
trên lối đi về,
Lắm kẻ đợi mong.
Bây giờ,
Tình đã sang sông.
Anh trèo cây khế,
Ngó mong đất trời.
Bớ em ơi!
Sao chẳng nói một lời…
Hiếm hoi lắm, má mới có chút thì giờ an nhiên như vậy. Công việc hàng ngày gần như nuốt chửng má tôi. Bốn giờ khuya, má lẳng lặng ra đi khi các con chưa thức giấc. Nửa đêm má trở về nhà, các con say ngủ mất rồi. Sống chung nhà, mà ít khi tôi… gặp má. Vì vậy hôm nào má bệnh nằm nhà, tôi lẩn quẩn bên má hỏi han đủ chuyện. Nhưng vừa gượng dậy, má lại kéo tôi ra vườn chăm bẳm mấy gốc hoa mai:
- Chỉ cần một chậu mai ngày Tết, người ta đã có cả mùa xuân rồi. Nhà mình có cả vườn mai, con thích hôn?
Má càng “say” hoa mai, tôi càng tức tối nên hay phản đối:
- Con thấy bông thọ đẹp hơn!...
Má xoa đầu tôi, cười xòa:
- Bông tên thọ, nhưng bông không sống được lâu…
Tôi tự ái trẻ con, không bày tỏ với má rằng tôi cần má. Tôi thích má quan tâm chỉ mỗi mình tôi. Tôi thèm kể kể má nghe, chuyện cô khen tôi làm luận văn giỏi. Hay chuyện thằng Tí xóm Chùa đạp xe lọc cọc đòi chở tôi về. Chà chà, bao nhiêu là chuyện con gái muốn kể má nghe. Vậy mà, má không quan tâm đến nỗi lòng con gái… Dần dà tôi đâm ra ghét hoa mai, ghét thậm tệ... Lòng ghen tị khiến xui tôi hành động điên rồ. Rình rình cả nhà đi vắng, tôi lần lượt tạt… nước sôi luộc mấy gốc mai. “Thiên bất dung gian”, thiệt hổng sai. Anh của tôi bất chợt về nhà, bắt quả tang tôi đang nghịch dại. Khỏi phải nói, tôi bị trận đòn đau quắn đít, nhưng bụng dạ tôi rất hả hê. Mùa xuân năm đó, mấy gốc mai bị tưới nước sôi… nụ đơm đầy đặc. Để sáng mùng một Tết, hoa nở vàng tươi rừng rực khắp sân nhà… Thiệt là, ông Trời hỏng chịu chiều lòng tôi tí tẹo nào.
Ông ngoại tôi nhìn tướng đoán người không sai. Ba tôi quá đỗi hào hoa, nên ngay khi má sinh con đầu lòng, ba tôi có duyên tình mới. Ba vẫn về thăm nhà, vẫn đều đặn “gửi” má thêm mầm sống. Thế nhưng mười lần như một, từ lúc cưu mang đến khi sinh nở, má tôi chỉ có một mình. Con cái cả bầy, ba tôi chỉ nhớ tên đứa đầu tiên. Số đông còn lại, nhìn khuôn mặt giống đứa con đầu, ba tôi sẽ biết đứa đó con mình.
Chiều 30 tháng Chạp hàng năm, cả nhà tôi đợi ba về cùng đón giao thừa. Sáng mùng một Tết, anh chị em tôi dậy sớm, quần áo tinh tươm… Đây là ngày duy nhất trong năm, gia đình tôi có đủ đầy quân số. Chúng tôi bắt chước ba má, nghiêm trang đốt nhang cúng bái tổ tiên. Lễ xong cả đám chen chúc xếp hàng, chờ ba phát phong bì lì xì màu đỏ, mà tối hôm qua má tôi xếp sẵn. Bữa cơm đoàn tụ năm mới qua nhanh, chúng tôi ì xèo gầy tụ đánh bài, không bị má la rầy chi hết. Má còn mang thức ăn, nước uống tiếp tế “cho mấy cha con có sức… ngồi sòng”. Má tất ba tất bật, nhưng khuôn mặt má rạng ngời khi nhìn cảnh cả nhà sum họp đông vui. Sang mùng hai Tết, khi chúng tôi còn say ngủ, thì ba tôi đã bỏ đi rồi.
Trong hoàn cảnh đó, má xoay trở đủ nghề nuôi con ăn học. Lúc con còn nhỏ, má đóng xe bán bánh mì gà ngay trước cổng. Khi chị của tôi có thể trông giữ các em, má tôi quyết định chuyển nghề buôn bán cây rừng. Lên rừng đủ thứ hiểm nguy, bệnh sốt rét rừng ai trải qua đều khiếp sợ. Kế đến, phải nộp thuế “hai đầu”: vô rừng mua cây phải “lo lót” cho VC, về thành bán cây thì “mãi lộ” kiểm lâm. Vẫn chưa hết, một phụ nữ nhan sắc như má tôi, rất vất vả đối phó với đám đàn ông xa vợ dài ngày. Má đã từng đành lòng bỏ những chuyến cây rừng quí hiếm, để giữ tròn đức hạnh của một phụ nữ Á đông. Trong giới làm ăn thuở đó, má tôi nổi tiếng khéo léo giỏi giang. Làm cái nghề mà ngay đến đàn ông còn kiêng dè, nhưng một tiểu thư “vóc hạc xương mai” như má tôi lại vô cùng thành đạt. Hồi đó tôi chưa biết ăn diện, nên vẫn là con ngoan của má. Chứ anh chị em tôi, bị má rầy hoài về tội tiêu hoang. Hàng tháng, má còn chu cấp tiền cho ba nuôi con của … vợ bé. Anh chị tôi bực tức cằn nhằn, má nhẹ nhàng giải thích:
- Người dưng má còn giúp được, huống chi tụi nó là con của… ba bây!
2.
Mười tám tuổi, tôi đến nước Mỹ. Những tưởng, tôi chỉ tạm đi lánh nạn vài tuần. Nào ngờ thời cuộc đổi thay, tôi như cánh chim lạc mất đường về. Tự dưng sống không có má, tôi chơi vơi hụt hẫng tột cùng. Ở bên nhà, tôi đi học về có cơm canh dọn sẵn. Áo quần tôi mặc, có người giúp việc giặt ủi tinh tươm. Má hay cho tiền, và tôi mua sắm thoải mái những gì tôi thích.
Sang bên Mỹ, tôi đơn độc. Nhu cầu đời sống, tôi chỉ trông cậy vào đồng lương tháng ít oi. Ngôn ngữ Mỹ chưa thông, tôi đã lao đi tìm “job”. Quanh năm suốt tháng, tôi xoay tròn trong cái vòng lẩn quẩn “jobs và bills”. Ở nước Mỹ, tìm “job” và mất “job” đều… dễ ẹc. Và ai cũng nơm nớp nỗi lo thất nghiệp, vì thất nghiệp ở Mỹ thì sống cũng như… “chết mà biết thở” vậy thôi! Tôi trở thành nô lệ của chính mình trên đất khách. Tôi không có quyền ban phát thời gian cho tôi theo ý muốn chính mình. Ở xứ này, phải “ăn tốc hành, nói tốc độ, đi tốc … váy”, khó có chỗ cho “hồn thơ lai láng” chen chân.
Họa hoằn lắm, tôi mới gửi thư về quê thăm má. Biết má không vui và cũng chẳng cần, nhưng tôi chỉ biết gửi cho má những đồng dollars như phần nào chuộc lỗi. Má tôi là là một phụ nữ rất giỏi xoay sở, có bao giờ má cam chịu lâm cảnh túng thiếu đâu mà tôi lại gửi tiền? Tôi thương má, nhớ má nhiều lắm! Nhưng thời gian ngủ nghỉ lấy sức “đi cày” tôi còn chưa đủ, làm sao tôi có thể kể lể má nghe những chuyện tôi chắc má rất đau lòng? Mà thôi, má đừng biết chi nhiều về cuộc sống tha hương của con nghe má! Má không biết đâu, nhiều lúc con thèm có một buổi sáng thong dong trong vườn mai của má.
Ở bên này, không có giống mai vàng mộc mạc má yêu thương. Những khi nhớ má, thì thật ngược đời, tôi lại khát khao được nâng niu một cánh mai vàng. Lúc ấy mà được ở bên nhà, tôi nhất định sẽ cùng má bón phân, tưới nước cho mai. Tôi sẽ lắng nghe má ngợi ca, về loài hoa từng làm đắm say tâm hồn của má. Rồi một ngày tôi nhận hung tin, má tôi qua đời sau cơn bạo bệnh. Tôi nghe chừng mặt đất sụp đổ ngay dưới chân mình. Thời gian đó, người Việt tha hương chưa được phép về lại quê hương. Tôi bật khóc tức tưởi, hệt đứa trẻ thơ uất ức đòi sữa mẹ…
Ngày cuối tuần, tôi đến chùa cầu siêu cho má. Tôi không thể tìm được một nhánh mai vàng. Quỳ bên chân Phật, tôi bồi hồi chiêm nghiệm về má, về hoa. Giờ đây tôi mới hiểu, tại sao má yêu thương loài hoa ấy. Là một phụ nữ nhân hậu, tâm hồn má đong đầy khát vọng yêu thương. Má vỗ về trái tim nhạy cảm của mình, bằng cách trải lòng nhân với mọi người. Nương tựa hồn mai, bởi tâm hồn má cô đơn quá! Một bầy con nhỏ, một gánh âu lo, một thân cò vạc… Má tôi kiên cường vượt qua số phận, không một lời trách phận than thân.
Phải đến mùa xuân thứ 28 ở Mỹ, tôi mới có được cành mai ngày Tết. Lần đầu đến xứ lạ, cánh mai gầy guộc mong manh. Bắt chước má, tôi chiết nhánh mai trồng ở sân nhà. Suốt mùa đông, mai âm thầm chịu đựng rét mướt. Để bước sang xuân, mai bất ngờ hóa thân mạnh mẽ, rực rỡ vàng tươi một cách diệu kỳ… Tôi giải thích với các con tôi: “Hoa là hiện thân của bà ngoại, một loài hoa thanh tao cao quí nhất đời…”
Má đã dạy tôi một triết lý lớn ẩn trong hồn mai nhỏ, hoa cứ lặng lẽ cho đời trọn vẹn hương sắc lẫn niềm tin…
DIỆP HOÀNG MAI
Cây Bút Của Ba Tôi
Nếu phải làm một bài luận văn với nhập đề lung khởi cho đề tài “Ba tôi”, tôi sẽ viết như sau:
“Tôi nghĩ ai cũng có thể viết một chút về “cha tôi”, ngay cả những người con chưa hề thấy mặt cha mình. Một đứa bạn thân của tôi, không biết cha mình là ai, cũng đã tự nhìn vào gương và viết những cảm nghĩ về cha của nó thật cảm động. Riêng tôi, không cần tưởng tượng, tôi cũng thấy cha tôi mỗi ngày. Khi ở Việt Nam, tôi biết ba tôi là một nhà giáo…”
Còn nếu phải nhập đề trực khởi, tôi sẽ vào đề ngay như thế này:
Đó là vào năm 2003, khi cha con tôi được bác tôi bảo lãnh qua Mỹ.
Vâng, đó là vào năm 2003.
Chỉ “bị” ở không có một tháng mà cha con tôi đã cuồng chân cuồng tay lên rồi! Sau vài đợt được nhà bác tôi đưa đi chơi vài nơi trong và ngoài tiểu bang, ba tôi nhất quyết đi tìm việc làm. Với chiếc xe Honda Accord cũ kỹ bác tôi cho, ba tôi đã đi khắp các siêu thị để xin việc. Thật không may, cha con tôi qua Mỹ đúng vào thời điểm mà theo cách nói của mọi người lúc đó là “kinh tế xuống”. Ba tôi thường trở về nhà với gương mặt uể oải. Bác tôi khuyên ba đừng vội vàng làm chi, từ từ rồi kiếm việc, bác có sức bảo bọc hai cha con. Bác nói thì nói thế, chứ hai cha con tôi cũng nhìn thấy hoàn cảnh của nhà bác, đông người, khá chật vật trong hoàn cảnh kinh tế hiện tại. Tiền điện, tiền nước, tiền chợ búa, tiền bảo hiểm… cũng làm nhức đầu lên rồi! Đến lượt tôi cũng muốn đi làm. Tôi đâu có thể ở chơi không một năm trong khi chờ chính phủ trợ cấp cho đi học. Vâng, phải đến năm tới thì tôi mới được đi học miễn phí. Cho nên tôi quyết tìm việc làm để có tiền. Cũng đơn giản là để hai cha con có thể tự lập, ra thuê nhà ở riêng, khỏi làm bận lòng bác tôi.
Và tôi cũng mang bộ mặt thất vọng về nhà sau những lần đi tìm việc. Đến đâu tôi cũng nhận được những cái lắc đầu kèm theo một nụ cười và tiếng “sorry”. Ôi! Nếu là thời gian cách nay năm mười năm thì, cũng theo lời của bác nói, cha con tôi qua là có thể xin đi làm hãng dễ dàng. “Làm hãng”, nói chung là làm tại các hãng điện tử, bây giờ cũng sa sút rồi! Cái thung lũng hoa vàng, “silicon valley” nơi chúng tôi cư ngụ, cũng như một miếng bọt biển đã no nước rồi!
Đến một ngày tôi may mắn tìm được một chân bán hàng trong tiệm McDonald’s khá xa nhà một chút, tôi hoan hỉ đáp xe bus đi làm, để ba dùng chiếc xe cũ chạy việc. Cha con tôi có chút niềm vui là công việc bán thời gian của tôi đem lại một ít “tiền còm” để xài. Đêm đêm ba lái xe đi đón tôi, hai cha con về nhà khi gia đình bác đã ngủ say. Chúng tôi rón rén vào phòng đóng cửa lại và bàn bạc về những chuyện sắp tới. Ba cứ khuyên tôi đừng buồn, hãy cố gắng. Ba không biết rằng tôi cũng mong ba đừng buồn, hãy yên tâm. Ở bên nhà, ba đi dạy, còn tôi mới bước vào đại học. Ba chọn đi theo “diện” bảo lãnh do bác tôi lo. Trước khi đi, ba cũng đã “vận động” tôi nhiều lắm. Ba nói qua Mỹ không phải là đến xứ thiên đường, mà mọi việc đều phải bắt đầu lại hết. Tôi sẽ phải gián đoạn việc học hành một ít lâu. Ba sẽ không đi dạy, không làm thầy nữa. Tôi nghe hết. Và mọi việc đều xảy ra đúng như chúng tôi tiên liệu. Do đó chúng tôi không buồn hay thất vọng, chỉ là hơi sốt ruột một chút.
**
Có một hôm, tôi thấy ba ngồi miệt mài gõ chiếc máy computer cũ bác cho cha con tôi. Ba gõ cả buổi, quên mất đêm đã khuya. Tôi mắt nhắm mắt mở nhắc chừng, ba tôi mới nghỉ tay. Hôm sau ba cho tôi xem, đó là một truyện ngắn. Tôi đọc, rồi như có một sức hấp dẫn lạ kỳ, tôi đọc ngấu nghiến. Tôi hỏi ba:
- Truyện này… của ba?
- Phải.
- Ba mới viết?
- Không, ba viết lâu rồi, hồi… xửa xừa xưa.
Tôi trợn tròn mắt:
- Thật không ba?
- Thật.
- Hay quá! Sao con không hề biết?
- Vì ba không nói.
- Sao bây giờ ba mới gõ ra?
- Ba nhớ lại, gõ ra, để… ba đăng báo.
- A! Con hiểu rồi! Vậy khi xưa ba có đăng chưa?
- Ba đăng rồi! Có nhiều người đã đọc.
Tôi vỗ tay reo lên:
- Hay quá! Ba là văn sĩ.
- Văn sĩ cái gì! Chỉ là viết cho vui.
- Không ba ơi! Con thấy hay lắm! Có ý nghĩa lắm! Vậy là ngày xưa ba viết bài đăng báo?
- Ừ.
- Ba có in sách không?
- Có.
- Vậy sao … con không nghe ba nói bao giờ?
Ba ngập ngừng:
- Vì ba đã ngưng viết trước khi con ra đời.
Tôi trố mắt không hiểu. Nhưng ba như không muốn nói nhiều. Ba lảng qua chuyện khác.
**
Tôi trở thành “thầy cò” cho ba tôi. Thật vui, bởi vì tôi vừa được đọc truyện do ba tôi nhớ lại và gõ, vừa được tin tưởng giao cho nhiệm vụ này. Chữ nào ba tôi gõ nhanh quá bị sai thì tôi sửa lại. May quá, tôi cũng khá giỏi môn chánh tả khi còn ở bậc tiểu học. Nhưng tôi lại là đứa học trò dở môn văn khi lớn lên. Nói chính xác hơn, là tôi ghét môn văn. Mà học trò thì ai cũng biết rằng hễ mình ghét môn nào tất mình sẽ trở thành người học dở môn ấy.
Ba tôi đăng báo. Mà là báo “ảo”, báo trên internet. Báo internet thì không có chút “tiền còm” nào hết. Ba nói khi “xửa xừa xưa”, ở Việt Nam ấy, cái thời chữ nghĩa còn được trân trọng ấy, tác giả có bài đăng báo sẽ nhận một số tiền gọi là “tiền nhuận bút”. Chà, chữ này đối với tôi nghe rất lạ đây! Nhưng ba giải thích với tôi tại sao ba say sưa “gõ” truyện của ba như vậy. Thứ nhất là vì ba còn đang thất nghiệp, thời gian trống chẳng để làm gì. Thứ hai là ba cảm thấy mừng khi một số người Việt ở đây muốn gầy dựng lại các nhóm văn học đã bị thất tán cùng với bài vở. Ba đồng lòng với ý hướng ấy nên ba làm. Thế thôi! Tôi thấy ba cũng có lý.
Có một điều khiến tôi chạnh lòng lắm. Số là do một hôm tôi buột miệng hỏi ba:
- Vậy má ngày xưa có biết ba đã viết văn không?
- Có.
- Má có đọc, có thưởng thức văn của ba không?
- Không. Má không thưởng thức.
Tôi hết hồn, nín khe luôn. Tôi biết ba má tôi cùng tuổi, học cùng lớp cùng trường, tức là sống cùng thời. Nhưng tôi tự an ủi ngay: “Không cùng tư tưởng, chịu thôi!”
Tôi hãnh diện có cha là một người viết tiểu thuyết. Dù là đứa học trò dở văn, ghét môn văn, tôi vẫn cảm nhận được những gì ba tôi gửi gắm trong văn. Ba nói tôi đừng gọi ba là nhà văn hay văn sĩ hoặc tiểu thuyết gia gì hết, hãy cứ gọi là “người viết” đủ rồi. Tôi “dạ” và nghĩ rằng ba thật “ngộ!”. Văn của ba tôi không cầu kỳ, không bí hiểm, không dùng sáo ngữ. Ba không viết những chuyện xa xôi trên mây trên gió. Tôi đọc và hiểu hết cái tình ba tôi gửi vào những nhân vật tiêu biểu cho thời tuổi trẻ của ba. Tôi thấy nó sống động lắm, gần gũi lắm. Tôi đã hình dung được khung cảnh xã hội của ngày đó ra sao. Tôi cũng đã hình dung ra ba tôi thời đi học, thời đi dạy, thời đi lính là như thế nào rồi!
Nhưng có một điều làm tôi chạnh lòng hơn nữa. Đó là ba đã ngưng viết đến gần ba mươi năm. Ba chỉ nói ra cái “sự kiện” đó mà không kèm lời giải thích. Tôi có hỏi “vì sao” thì ba chỉ nói:
- Sau này ba sẽ nói cho con nghe. Bây giờ, lo đi làm McDonald’s đi, năm tới đi học. Con sẽ học để bước vào “dòng chính”. À mà ba cũng sẽ đi học vào năm tới chứ! Muốn bước vào “dòng chính” thì phải đi học. Chính phủ giúp mà! Cái chuyện viết lách của ba chỉ là cho vui, đừng để tâm đến nhiều. Nó đã thuộc về quá khứ.
Tôi tạm yên tâm. Tôi thấy tôi đã hiểu được ba tôi nhiều hơn trước. Tôi, cái thằng con trai học giỏi nhưng hời hợt lắm!
**
Ba vẫn chưa có việc làm! Cái nghề nhà giáo dạy Toán của ba không dùng được. Ba muốn đi dạy lại thì năm tới ba sẽ bắt đầu đi học lại. Ngành nào cũng vậy mà! Hiện tại Ba vẫn muốn có một công việc nào đó, việc gì cũng được, để kiếm tiền. Hai cha con ước mơ có thể ra mướn nhà. Đi đâu ba cũng nghe câu “kinh tế xuống”. Ba thở dài ngao ngán.
Ba lại gõ, say sưa gõ. Không biết ở đâu mà truyện của ba tôi nhiều thế. Rồi đến một ngày ba khoe tôi một bài viết mới. Tôi reo lên:
- Ba đã viết lại!
Tôi không thể tả được niềm vui của tôi, lẫn một ngạc nhiên thật lớn. Ô, tôi, cái thằng hời hợt đến thế, vẫn cảm nhận được cái vui của người cha. Rồi nghĩ đến má tôi, tôi lại nao lòng. Ba má đã không sống với nhau từ khi tôi tròn mười tuổi. Ba đã thiếu ít nhất một người không đồng cảm.
Một ngày, có người bạn của bác tôi ghé chơi. Bác giới thiệu mọi người với nhau. Hóa ra không phải một cuộc ghé chơi tình cờ, mà là có chủ ý của ông khách. Bác tôi để cho ông bạn nói chuyện riêng với ba. Khi ông ấy về rồi, ba kể cho tôi nghe.
- Con biết không, ông ấy tình cờ đọc và biết ba “còn sống”.
- Ba “còn sống”?
- Phải. Ông ấy nói có lần người ta đồn ba đã chết. Lâu rồi!
- Hả??? Ông ấy đã quen ba sao?
- Không, chỉ biết ba qua sách báo ngày xưa thôi! Nói ngắn gọn là ông ấy đọc trên internet biết ba còn sống và đã viết lại, rồi tình cờ qua chuyện trò với bác con, ông ấy biết ba là em của bác, ông ấy đến để nhờ ba một việc.
- Việc gì ba?
- Ông ấy nói muốn giúp ba có công việc làm kiếm tiền.
- A! Vậy ba có bằng lòng không? Việc gì?
- Viết.
- Vậy thì hợp với ba quá rồi! Có tiền nhuận bút không ba?
- Có, mà lại rất nhiều nữa.
- Vậy ba viết đi! Ông ấy làm báo nào?
- Không, ông ấy không làm báo, mà ông ấy nhờ ba viết chuyện đời của ông ấy.
- Vậy lại càng hợp với ba nữa! Ba đã nói với con là các nhân vật trong truyện của ba là có thật, ít nhất cũng thật vài mươi phần trăm.
- Nhưng con à, ba có cái sự sáng tạo của riêng ba. Cuộc đời của ai đó chỉ là chất liệu cho ba viết mà thôi! Ba phải nhào nặn câu chuyện theo ý ba. Và trong mỗi câu chuyện, không chỉ hoàn toàn là chuyện của một người, mà là kết hợp nhiều cuộc đời, nhiều cảnh sống.
- Thì ba cứ nói với ông ấy là ba sẽ kết hợp…
- Ông ấy muốn ba viết và nói rõ đó là cuộc đời của chính ông ấy.
- Con không hiểu ba ơi!
- Đây này! Ông ấy nhờ ba viết một quyển hồi ký cho ông ấy, ghi tên tác giả là ông ấy, rồi ông ấy trả tiền “nhuận bút” cho ba. Nói tóm lại là… ông ấy “thuê” ba viết.
- Nghĩa là ba phải ẩn danh?
- Đúng.
Tôi thộn mặt ra. Điều này tôi chưa bao giờ nghĩ đến. Ba im lặng. Chắc ba cũng chưa bao giờ nghĩ đến. Ba nếu có nghĩ thì chắc sẽ nghĩ đến một ngày nào ba viết hồi ký cho chính ba. Sóng êm biển lặng hay giông tố bão bùng cũng vẫn chỉ là cuộc đời của ba.
Bác tôi cũng đã nghe ba kể lại cuộc nói chuyện giữa ba và ông bạn của bác. Khác với tôi, bác có ý kiến tích cực hơn. Bác nói:
- Chú mầy biết không, ở đâu cũng vậy, có những người có khả năng viết văn giỏi và họ viết hồi ký giùm cho người khác. Nào phải ai cũng viết được cho hay, cho hấp dẫn đâu! Ngay đến các cựu tổng thống hay những người nổi tiếng, dù cuộc đời và sự nghiệp của họ lẫy lừng đến đâu mà nếu viết không hay thì cũng phải nhờ người sửa câu sửa chữ cho. Điều đó đâu có gì trái. Anh nghĩ chú mầy cứ làm đi! Giúp cho người ta và ít ra mình cũng sử dụng được cái văn tài của mình. Viết bài đăng internet khơi khơi làm gì có tiền!
Ba lặng thinh suy nghĩ. Xem ra ba có vẻ xiêu lòng. Bác tôi còn nói thêm:
- Cha mẹ mình đã dạy, làm việc gì bằng công sức của mình, kiếm tiền nuôi thân, đều không xấu. Chú giúp ông ấy viết hồi ký cũng như chú đi dạy Toán, khác gì đâu! Hoặc cũng giống như anh, đầu tiên qua đây đi cắt cỏ, đi rửa xe… anh không thấy gì là buồn cả. Mà công việc này lại nhàn nữa, chỉ mỏi cái bàn tay gõ, còn hơn đi làm lao động nặng nhọc. Chú nên nhận lời.
- Vâng.
- Anh hẹn cho ông ấy nói chuyện với chú để bàn về nội dung cuốn hồi ký nhé! Kệ, tội nghiệp người ta, có cuốn hồi ký để lại cho con cháu đọc để hiểu cái thời ngày xưa ra sao… cũng là xứng đáng lắm!
**
Khuya nay đón tôi về, ba kể:
- Ông bạn của bác con hẹn ba ra tiệm phở “Âu”, ông bàn chuyện viết và hứa trả tiền cho ba rất khá, đủ để cha con mình thuê nhà nửa năm. Ông còn nói hễ sách càng dày thì tiền càng tăng.
- A! Thật vậy hả ba? Rồi sao nữa? Ba đã biết được ý chính của cuốn sách ba sắp viết chưa?
- Ông ấy kể hết cho ba nghe rồi.
- Vậy ba phải viết đúng một trăm phần trăm cuộc đời của ổng há ba?
- Không.
- Ủa, sao vậy ba? Hồi ký mà!
- Vì là hồi ký… nên ông ấy muốn ba thêu dệt càng nhiều chuyện hấp dẫn càng tốt.
- Cái gì? Sao kỳ vậy ba?
- Ông ấy kể cho ba nghe một số chi tiết có thật xảy ra trong cuộc đời của ông ấy, nói ba dựa vào đó mà viết ra cho lâm ly bi thiết, nói rằng ông ấy gặp hoạn nạn ghê gớm ra sao, rồi ông ấy chống chọi một cách anh dũng thế nào, rồi ông ấy trở nên một người hùng trong mắt mọi người… Chưa hết, chuyện tình cảm của ông cũng phải như tiểu thuyết, như phim, phải thơ mộng, phải đẫm lệ, sao cho người đọc thấy được những cuộc tình đi qua đời ông rất đẹp, rất lãng mạn. Nói chung, như là… Doctor Zhivago vậy.
- Thì như vậy… là một cuốn tiểu thuyết!
- Không, không phải tiểu thuyết. Là một quyển hồi ký, đời thật của một người.
- Như vậy là không thật! Hồi ký thì phải hoàn toàn là sự thật. Thêu dệt là có tội. Tội đánh lừa người đọc. Ủa, mà ba ơi, sao ông ấy lại phải tốn nhiều tiền để làm như vậy?
Ba thở dài, tiếng thở dài này tôi chưa từng nghe:
- Ông ấy nói ông ấy kiếm tiền đã quá mệt mỏi. Bây giờ ông ấy đã có tiền. Ông ấy không cần tiền nữa. Ông ấy cần danh.
**
Ba tôi gặp ông bạn của bác tôi ở tiệm phở “Âu”. Lại tiệm phở “Âu”! Nhưng lần này là do ba hẹn. Ba bảo tôi có rảnh thì ra chơi luôn. Nhân buổi sáng là lúc tôi không có giờ làm việc ở McDonald’s nên tôi cũng ra đó. “Ông khách” của ba tôi đến. Ông vui vẻ kéo ghế, định gọi thức ăn thì ba ngăn lại, nói rằng ba đã gọi rồi. Người bồi bàn đem ra một tô phở. Ông khách ngạc nhiên thì ba nói ngay:
- Xin mời anh. Anh cứ tự nhiên dùng. Hai cha con tôi đã ăn sáng rồi ạ!
- Nhưng tôi sẽ trả tiền hết mà!
- Dạ không sao đâu. Xin anh cứ dùng đi!
- Thôi được. Nhưng tôi rất nôn nóng muốn biết chú cần thêm chi tiết gì nữa trước khi khởi sự viết giùm tôi cuốn hồi ký.
- Dạ thưa anh, tôi sẽ không viết đâu ạ!
Đôi mắt ông khách trợn tròn, ông lắp bắp:
- Chú… chú nói sao? Tại sao?
Ba đáp:
- Thưa anh, tôi thấy tôi không hợp với việc này ạ! Xin anh tìm người khác.
- Nhưng chú phải nói cho tôi biết lý do tại sao… Chú chê tiền à?
Ba lắc đầu, thản nhiên nói trong khi đứng dậy:
- Xin lỗi anh, tôi không giải thích được thêm gì nữa đâu!
- Tôi không hiểu…
- Vâng, anh sẽ không hiểu ạ!
- Tôi… tôi…
- Xin anh tự nhiên dùng. Tô này tôi đã trả tiền. Họ sẽ trừ vào tiền lương của tôi. Xin phép anh, tôi đi làm việc.
Ba quay đi và nhận cái “tạp-dề” từ tay người quản lý tiệm phở, đeo vào. Ba nhìn tôi, nhoẻn miệng cười:
- Thế con có muốn ăn phở không? Ba sẽ bưng cho con một tô…
Tôi cười theo:
- Dạ con muốn. Ba sẽ trừ vào tiền lương của ba chứ?
- Đương nhiên.
Thật tình là tôi muốn reo lên như người hâm mộ reo mừng chiến thắng của đội banh mà mình yêu mến. Tôi nén xúc động, ngồi đường hoàng nơi bàn như một thực khách chờ thức ăn. Và ba tôi kìa! Ba đang mang ra cho tôi một tô phở. Bước chân ba hơi khập khiểng một chút. Nhưng đó là những bước chân vững chắc nhất có thể dìu dắt tôi trong suốt cuộc đời này. Bước chân của một người đã gửi lại trong đất một phần thân thể. Người đó không muốn phản bội lại những gì mình đã hoài mộ. Tôi hiểu ra tại sao ba đã không viết trong một thời gian khá lâu, gần ba mươi năm. Bởi vì ba có một cây bút không thể bẻ cong. Ngày xưa cũng vậy, bây giờ cũng vậy. Người thầy giáo của tôi! Người lính của tôi! Ba yêu quý của tôi!
Cam Li Nguyễn Thị Mỹ Thanh
2011
Nguồn: vietbao.com
1. Ý nghĩ của bố
Có một cái gì là lạ trong bữa cơm hôm nay? – Bố đoán thế vì các con, khi đến ăn cơm, đã nhìn đăm đăm vào giữa mâm. À, phải rồi! Con tôm! Một con tôm khá to nằm kiêu kỳ trong đĩa, giữa mấy lát thịt mỡ nổi trên nước kho màu nâu vàng. Bố lấy làm lạ. Chẳng là me thằng Ti vừa mới than với bố hết tiền rồi mà! Bố nghe, bố ầm ừ lấy lệ chứ bố suy nghĩ lung lắm. Thật ra bố chẳng biết làm cách nào để kiếm được tiền nhiều hơn, mặc dầu bố cũng muốn có dư dả để me và các con được đầy đủ. Xóm này thiếu chi người làm ăn “lớn”: anh Tư ba bánh, chú Mười hớt tóc, bác Năm thợ mộc… đã bỏ nghề để chạy “áp phe, áp…” gì đó, cả đến cậu Lộc làm thư ký đàng hoàng thế kia mà bỗng dưng cũng đi làm việc khác rồi. Chẳng mấy tháng mà họ kiếm được nhiều tiền, sống thảnh thơi ghê lắm. Còn bố, bố bị họ cho là “gàn”, bởi bố vẫn cứ làm cái nghề xưa nay của bố. Chiếc xích lô đạp già nua, đã hơn bốn năm rồi còn gì - là người bạn thân của bố, của mẹ và của các con. Mỗi ngày bố làm việc từ sáng sớm đến tối mịt, bố chỉ về buổi trưa một tí để ăn cơm và ngủ năm phút. Buổi tối bố về, bố nghe thằng Ti và con Cốn học bài, đố nhau toán, đố nhau tựa bài tập đọc, bố vui lắm. Bố nghe me thằng Ti hát ngâm nga mấy điệu ca miền bắc mà thuở bố còn nhỏ, bố đã mê đi xem đến nỗi quên cả về nấu cơm cho bà nội. Ngần ấy thôi, cũng đủ làm bố quên bẵng đi cơn mệt nhọc từng buổi trưa nắng gắt gò lưng đạp nặng nề. Nhiều lúc bố tự hỏi: tại sao bố nghèo? Ông bà nội hồi ở ngoài bắc đã nghèo, bố ngày nay còn nghèo hơn. Rồi bố tự trả lời – câu trả lời giống như mọi người gán cho bố - rằng: tại bố “gàn”!!! Nhưng bố vẫn nuôi hy vọng – và bố nghĩ rằng sẽ hài lòng – vì bố đã cho thằng Ti và con Cốn đi học đàng hoàng. Thằng Ti tháng nào cũng đứng đầu lớp, còn con Cốn thì không bao giờ dưới trung bình, và lại được khen hạnh kiểm tốt nữa. Bố nghĩ các con của bố sau này sẽ nên người và giàu có hơn bố bây giờ. Con của bố thông minh, ham học, bố me còn mong gì hơn? Bố bằng lòng với hoàn cảnh của bố, không đòi hỏi gì nữa.
Tháng này thình lình con Cốn bệnh, đi bác sĩ cả tuần mới khỏi. Bố cố gắng kiếm thêm tiền để lo cho con mà cũng không xuể. Vì thế bố không lấy làm lạ khi me bảo hết tiền. Nhưng bố lại ngạc nhiên khi thấy trong mâm hôm nay có con tôm. Ngày nào cha mẹ con cái cũng ăn cơm với rau cùng nước mắm, sang lắm thì cũng chỉ cá cơm kho hay thịt mỡ kho là cùng. Bây giờ me lại cho ăn tôm kho giữa lúc đang túng quẫn. Con tôm thật to đối với các con, và làm bố thắc mắc. Nhưng sao lại chỉ có độc một con thôi? Me thì bận giặt giũ sau nhà – ngày nào cũng vậy, me cũng ăn sau mấy bố con – nên bố không tiện hỏi. Bố nghĩ chắc có bà hàng xóm nào cho, và me dọn cho mấy bố con ăn, chứ không lẽ me mua, mà lại mua có một con!
Bố đưa mắt nhìn các con. Bố muốn xem cử chỉ của các con thế nào. Thằng Ti, mắt thì ngó đăm đăm vào con tôm, nhưng không có vẻ gì thèm muốn cả. Hình như nó đang suy nghĩ chuyện gì ở lớp. Đôi mày nó hơi cau lại. Vầng trán cao, sáng sủa, trông con của bố thông minh chi lạ. Thằng Ti hầu như quên ăn, cứ chống đôi đũa xuống bàn, lặng yên. Bố cất tiếng hỏi:
- Ti! Con không ăn cơm hả?
Nó giật mình suýt rơi đũa. Bố giục thêm, nó mới nâng chén lên ăn. Nó nhìn con tôm, vẫn còn nguyên vẹn, rồi nhìn bố. Rồi nó lừa lừa mấy miếng thịt mỡ gắp bỏ vào chén. Bố để ý thấy nó cho miếng thịt mỡ lướt nhanh trên mình con tôm. Bố bỗng thấy thương thằng con của bố lạ lùng.
Bố nhìn sang con Cốn. Gương mặt của Cốn vẫn còn xanh xao sau cơn bệnh. Nhưng bố thấy nó có vẻ ăn được lắm. Hình như nó ăn gần xong hai chén rồi, mà chỉ độc với nước mắm. Lâu lâu nó lại e dè nhìn bố. Bố hiểu ý các con lắm. Con nít đứa nào lại chẳng thích ăn ngon. Nhưng con của bố ít khi nào được ăn ngon. Con tôm đó, như một cái gì khiêu khích các con, làm các con lấm lét, ngại ngùng trước mặt bố.
Bố không muốn các con phải nhường cho bố. Bố và nhanh miếng cơm cuối cùng, và bố buông đũa. Các con hẳn sẽ tự nhiên mà chia nhau con tôm.
2. Ý nghĩ của Ti
Con tôm! Con tôm ngon quá! Đã lâu rồi nhà mình không có ăn tôm, nhất là thứ tôm khá to thế này thì lại càng hiếm. Ngày nào cũng phải ăn rau muống, hoặc rau lang luộc, lấy nước làm canh. Mấy bữa em Cốn đau, lạt miệng, me mua phở cho em ăn. Em ăn vẫn chê dở, nhưng tôi đứng nhìn mà thèm ghê lắm. Tuy thế tôi không ao ước được ăn tô phở của em, mà tôi chỉ cầu khẩn cho em đừng bệnh nữa để ăn ngon miệng. Em tôi bệnh cả tuần, chẳng có ai để tôi đố toán, đố tựa bài tập đọc và nhờ dò bài dùm nữa. Nên tôi muốn nhường tất cả cho em. Bây giờ em đã khỏi, em ăn “trả bữa” ngon trông thấy. Giá bữa cơm có cá hay thịt nhỉ! Hôm nay me lại kho thịt mỡ với tôm. Đáng lẽ có nhiều tôm, tôi sẽ gắp bỏ cho em hai, ba con một lúc, em sẽ ăn được nhiều. Nhưng chỉ có một con, tôi làm sao đây? Bố cũng phải ăn chứ! Tôi chẳng thấy bố ăn ngon bao giờ. Thứ gì bố - và me –cũng đều dành cho anh em tôi. Ngay đến những lúc có khá tiền, me nấu bánh canh, hay làm chả giò… bố và me cũng chỉ ăn lấy lệ, để cho anh em tôi ăn nhiều. Bố với me làm quần quật cả ngày, tôi thương bố, thương me tôi quá! Nhất là những ngày em Cốn bệnh, bố và me lo lắng đến như già thêm đi.
À, sáng nay cô giáo Việt văn giảng về ông Tản Đà, ông sành ăn lắm, bạn cho đĩa tiết canh mà thiếu rau húng, ông không ăn, sau lại đến cạy nền nhà bạn lên để trồng cây rau húng xuống. Mấy đứa bạn xuýt xoa: “Món đó ngon lắm!”, chúng nó hỏi tôi có thích ăn không, tôi đáp là không. Không ngờ trong số đó có một đứa ở cùng xóm tôi, việc gì của nhà tôi nó cũng biết, nên nó tiết lộ: “Nhà thằng Dũng nghèo lắm, làm gì có thức ăn ngon mà ăn, nó nói hách đấy!” Tôi không giận thằng bạn tí nào cả. Nhưng tôi thấy thoáng buồn. Từ lúc ấy đến bây giờ, ngồi ăn cơm, đầu óc tôi không rời bỏ cái ám ảnh nhà mình nghèo. Vì thế tôi ngưng ăn lúc nào không hay. Tôi suy nghĩ nhiều lắm, về ngày mai của anh em tôi. Chúng tôi phải làm sao bù đắp cho bố mẹ chúng tôi và giúp đỡ cho những kẻ khốn khó như chúng tôi hiện giờ. Mãi đến khi bố gọi, tôi mới vội vàng ăn cơm tiếp. Tôi gắp một lát thịt mỡ, nhưng cố tình chạm vào con tôm. Chà! cưng cứng! Con tôm này chắc là phải thơm lắm đấy! Tôi nhai miếng thịt mỡ nhưng tôi tưởng tượng đến mùi vị của con tôm. Tôi chợt thấy vẻ âu yếm trên đôi mắt bố. Bố đang nhìn anh em tôi. Hình như bữa nay bố ăn ít hơn mọi ngày. Khi bố buông đũa đứng dậy, tôi nhìn thấy những sợi gân to nổi lên, căng phồng trên hai bắp chân bố thật rõ. Tôi thương bố quá. Ngoài những vị anh hùng dân tộc mà tôi được học, còn có bố và me là “thần tượng” của tôi. Bố tôi kiêu hùng quá, khi ngồi trên yên xe xích lô, đạp chạy nhanh trên đường thênh thang. Còn me nữa! Me thật nhẫn nhục và trìu mến. Mỗi buổi trưa đi học về tôi muốn dừng lại ở dưới bếp thật lâu để đếm những giọt mồ hôi trên trán me. Hơi lửa thật nóng, khói củi thật nồng và đôi mắt me đỏ. Bữa cơm nào me cũng ăn sau ba bố con. Me lo giặt giũ lau chùi ở sau bếp. Có hôm me ăn không đủ cơm vì các con ăn lanh quá. Có hôm không còn thức ăn, me lại vui vẻ ăn cơm với nước mắm. Lúc em Cốn bệnh, me không ăn uống chi được, thật tội cho me!
Ấy thế mà hôm nay me dọn tôm cho ăn. Tôi đoán có lẽ me vay tiền hàng xóm để mua tôm cho em Cốn ăn “trả bữa” mấy ngày bệnh . Nhưng tôi thấy vô lý quá vì không lẽ me chỉ mua một con?
Còn có hai anh em ngồi ăn cơm. Bố đã uống nước xong, ra nằm nghỉ trên ghế bố. Me vẫn chưa lên. Tôi nhìn sang, thấy em Cốn đang quậy tròn đôi đũa trong chén, mắt em vẫn không rời con tôm. Nhưng sao em không gắp nó bỏ vào chén? Hay em không dám? A, tại còn me, còn tôi. Tôi đã ăn hết chén cơm. Em Cốn đưa mắt nhìn tôi. Tôi giả vờ vươn vai kêu “no quá!” rồi tôi đứng lên. Chỉ còn em ngồi ăn một mình.
3. Ý nghĩ của Cốn
Sáng nay me đi chợ về - gọi là đi chợ chứ em chẳng thấy gì ngoài bó rau muống to tướng. A không, còn nữa chứ, còn gói thịt mỡ bé bằng cái bàn tay của em. Em xuống bếp phụ me lặt rau. Nằm trên giường cả tuần không đi học cũng không làm gì cả em chán lắm. Trong lúc lặt rau, em thấy me lấy gói thịt mỡ ra để thái, trong đó lại có một con tôm nữa. Em mừng ghê, hôm nay được me cho ăn tôm. Nhưng em cụt hứng ngay, vì chỉ có một con hà. Em đoán bà bán thịt đã thêm cho me con tôm đó. Vô lý, ai lại thêm gì kỳ vậy? Cũng chẳng lẽ me mua? Em chịu, đoán không nổi. Hỏi me, me không đáp, em nghĩ chắc me mệt, nên thôi. Me chỉ bảo là em nhớ ăn con tôm này cho khỏi lạt miệng. Em nôn nao lắm, cứ ngửi thấy mùi tôm kho là thèm ngay. Mà đến khi dọn cơm lên, lại càng thấy ngon nữa. Trông cái màu vàng đậm của gạch tôm đến thích. Em tưởng tượng trong cái thân tròn trịa của con tôm đó hẳn là phải có nhiều “chất bổ” lắm nhỉ! Mà em ốm cả tuần, chắc em mất “chất bổ” nhiều chăng? Lúc em ốm, em ăn phở, ăn “xí muội” mà chẳng thấy ngon tí nào. Vậy nhưng bây giờ em lại thèm ăn kinh khủng, đến nước mắm em cũng thích nữa huống chi là cái… con tôm này!
Em với đũa định gắp con tôm, nhưng… trong đầu em bỗng nhiên nhớ đến bài tập đọc hôm trước anh Ti giảng cho em. Ờ… bài tập đọc như thế này: một cậu học trò được đứng hạng cao trong lớp, mẹ cậu mới thưởng cho một trái cam. Cậu biết em cậu thích ăn cam, nên cho em trái cam đó. Cha chúng nó đi làm về mệt mỏi, đứa em bèn dâng trái cam cho cha. Người cha thấy người mẹ đứng nấu ăn trong bếp nóng nực nên đem trái cam cho người mẹ. Người mẹ ngợi khen các con và cám ơn chồng, sau đó cắt cam ra cho cả nhà cùng ăn. Nghĩ đến đấy em không gắp con tôm nữa. Em đợi bố hay anh Ti ăn con tôm ấy đi. Nhưng chẳng có ai ăn cả. Chén nước mắm và đĩa rau càng lúc càng vơi, nhưng con tôm thì vẫn nằm giữa bầy thịt mỡ, trông kiêu ngạo ghê là! Em cố tưởng tượng nó “hách” như cái mặt của con bé Thu hàng xóm để khỏi thèm, để khỏi thấy thịt mỡ và rau muống lạt lẽo vô duyên.
Bố đã ăn xong. Anh Ti cũng đã ăn vừa xong. Chẳng có ai ăn con tôm hết. Ai cũng có vẻ lơ con tôm đi để nhường cho em. Tự nhiên em thấy giống như bài tập đọc “trái cam chạy quanh” đó ghê! Và em phải giống những người ấy, nên em nhất định không ăn con tôm đâu. Để tí me làm việc xong, me lên ăn cơm có con tôm cho ngon miệng. Me làm việc không ngơi tay, vậy me cần phải ăn ngon. Me cũng như bố đã khổ vì em nhiều lắm.
Em sẽ không ăn con tôm này đâu. Chừng nào bố có tiền bố lại cho ăn thứ khác đâu có kém gì! Với lại… em cũng đã nghe mình no bụng rồi!
4. Ý nghĩ của me
Khi me ngồi lại mâm cơm thì bố và các con đã ăn xong cả rồi. Bố ngủ, thằng Ti học bài và con Cốn đọc sách. Me chợt lạ lùng, con tôm sao vẫn còn nguyên đây? Bố không ăn, thằng Ti, con Cốn không ăn? Chẳng lẽ bố và các con không thích? Mới hôm kia bố nhắc tới tôm nướng, tôm kho bằng vẻ thú vị. Còn anh em thằng Ti lý nào thấy tôm mà không thèm? Me thắc mắc và ngạc nhiên hơn bao giờ hết.
Con tôm! Cái con tôm khá to đập vào mắt me sáng nay. Me xách giỏ chợ - vỏn vẹn một bó rau muống và gói thịt mỡ - chen lấn đám đông để về cho mau. Người đàn bà sang trọng đi trước mặt me xách hai tay hai giỏ đầy thức ăn. Me liếc thấy có gói tôm to tướng. Lớp giấy gói không kỹ bị banh ra, mấy con tôm nằm men ra ngoài. Me không muốn nhìn lâu, vì me nghĩ đến bữa ăn của gia đình mình. Mẹ tội nghiệp cho bố đạp xích lô cả ngày, thương thằng Ti đi học xa xôi, thương con Cốn bệnh cả tuần mới dậy mà chẳng ăn được bữa cơm ngon như người ta. Me toan rẽ ra ngõ khác, nhưng chưa kịp, me thấy một con tôm rơi xuống đất vì lỗ giỏ lớn quá. Người đàn bà vẫn đi thật nhanh và mất dạng trong đám đông. Me đứng yên nhìn con tôm. Nó nằm trên đất, dưới bước chân của người đi. Me ngần ngừ. Giá bữa cơm nhà mình có con tôm nhỉ! Giá con tôm này nằm trong đĩa thịt mỡ nhỉ! Bố hẳn sẽ vui lắm. Thằng Ti hẳn sẽ thích lắm. Và con Cốn hẳn sẽ mừng nhiều nhất. Me phân vân. Me nhìn chung quanh. Mọi người như không biết tới me, vẫn mua bán, qua lại thản nhiên. Cũng không ai biết đến con tôm bị rơi.
Me không suy nghĩ gì thêm nữa. Me cúi xuống, nhặt con tôm lên rất nhanh trước khi bàn chân của người đàng sau giẫm lên đó.
Khi con tôm đã được kho chung với thịt mỡ rồi, tự nhiên me thấy vui vô cùng. Me tưởng tượng gương mặt của bố, gương mặt thằng Ti, gương mặt con Cốn. Me nghĩ me không ăn con tôm này, me nhường cả cho ba bố con đấy. Lúc me giặt giũ ở nhà sau, me nghĩ chắc bố đang xắn con tôm làm ba, hoặc là bố sẽ không ăn, bố cho thằng Ti với con Cốn ăn. Me nghĩ đến mỗi phần con tôm sẽ nằm trong bụng mỗi bố con, và me tủm tỉm cười một mình.
Nhưng bây giờ, bố và các con đã ăn xong, sao con tôm vẫn còn đây? Mẹ chợt nghĩ đến những bài tập đọc các con hay đọc cho nhau nghe, và me cho đó là câu trả lời. Bất chợt me thấy nghèn nghẹn nơi cổ. Me thương cho cảnh nghèo nhà mình quá! Me thương cho bố con thằng Ti quá! Con tôm hình như nhòe đi trước mắt me, màu gạch đậm biến đâu mất.
Me sẽ không ăn con tôm này đâu. Chiều nay, trong bữa cơm, me sẽ tự tay chia con tôm làm ba phần cho ba bố con. Nhất là con Cốn, nó cần phải ăn nhiều nhất.
Cam Li Nguyễn Thị Mỹ Thanh
(Bán nguyệt san Tuổi Hoa )
Nguồn: tuoihoa.hatnang.com
Tết Chỉ Một Ngày
Căn cứ trên ca dao Việt Nam, ngày xưa "tháng Giêng là tháng ăn chơi, tháng hai cờ bạc, tháng ba rượu chè" người ta ăn tết, chơi tết đến ba tháng, mất đúng một phần tư của năm. Ăn Tết mà đến mức vậy quả có hơi khác thường. Thời trước năm 1975, khi chúng tôi sắp rời Việt Nam, còn nhớ ở trường học chúng tôi được nghỉ một tuần cho dịp Tết Nguyên Đán.
Ở Mỹ, người Việt Nam chỉ ăn Tết một hoặc hai ngày cuối tuần, thường là sớm hoặc muộn hơn ngày mùng một âm lịch, giống như vua Quang Trung cho quân sĩ ăn Tết Kỷ Dậu sớm để làm nên chiến thắng Đống Đa hào hùng, đuổi Tôn Sĩ Nghị và quân Tàu xâm lược chạy dài. Bởi vậy, chúng tôi vẫn gọi Tết âm lịch là Tết Quang Trung mỗi khi Tết không dùng vào ngày cuối tuần.
Lâu lâu, mùng một tháng giêng âm lịch rơi đúng vào ngày thứ bảy hay chủ nhật, người Việt lưu vong ăn Tết lớn hơn vì thấy mình gần với thời khắc giao mùa của quê nhà, gần với quê cha đất tổ hơn. Nhưng thật ra, không khí Tết chỉ tìm thấy trong nhà hay ở những nơi có nhiều người Việt quẫn tụ. Mở cửa ra khỏi nhà, hay lái xe ra khỏi khu vực hội Tết Việt Nam một chút vẫn là "một ngày như mọi ngày" trời đất vẫn chìm trong màu trắng xám của mùa đông ở các tiểu bang miền Đông hay Trung Tây Hoa Kỳ, đôi khi tuyết vẫn rơi, đường vẫn đóng băng nên ở một khía cạnh cụ thể nào đó, không hề có cảnh "Trời đang Tết hay lòng người đang Tết".
Vì vậy kể từ những ngày đầu lưu lạc, Tết năm 1976 cho đến bây giờ gần 30 cái tết trôi qua, đủ để một thế hệ con nít bước qua tuổi "tam thập nhi lập" đủ để một số người trung niên của những ngày đầu lưu vong về với "hạc hội mây ngàn" giữ đúng phong tục ở Việt Nam, các anh, chị tôi tiếp nối truyền thống của ba mẹ vẫn làm đủ mọi cách để giữ được không khí Tết Việt Nam, ít nhất là trong nhà với đầy đủ không khí gia đình, có hương trầm thơm ngất trên bàn thờ tổ tiên, có mai vàng rực rỡ ở một góc phòng khách, có bánh chưng xanh trên bàn thờ tổ tiên. Các chị tôi đã bỏ rất nhiều công sức lái xe cả trăm mile vào tận trong các nông trại để tìm ra được một cây mai vàng thật để đem mùa xuân, đem không khí Việt Nam về với gia đình. Dù mất nhiều công sức đi tìm mai vàng nhưng ít khi mai nở đúng ngày mùng một tết như thời còn ở quê nhà. Nhưng dù sao, có còn hơn không, cây mai vàng ngày tết đã mang về cho ba mẹ và chúng tôi một góc quê nhà đã bỏ lại sau lưng từ một ngày cuối tháng tư rất buồn của người Việt Nam.
Cây mai lá xanh hoa vàng đứng đó, sừng sững ở một góc phòng là tâm điểm của hình ảnh ngày Tết, nhắc nhỡ lũ cháu của tôi, thế hệ lưu vong thứ hai sinh ra ở Mỹ, hiểu rõ nguồn gốc của mình với nền tảng giáo dục của đại gia đình Việt Nam.
Thật ra, mai không nở đúng ngày cũng chẳng sao, vì ba mươi cái Tết trôi qua ở Mỹ, số lần Tết rơi vào cuối tuần đếm chưa đầy một bàn tay. Trên những nhánh nhỏ của cây mai từ chiều 30 tết, giống như thời còn ở quê nhà, ba mẹ tôi đã treo nhiều phong bì đỏ để mừng tuổi các con, các cháu. Số phong bì đỏ bằng đúng với số con cháu, dâu, rể trong nhà đều đều tăng lên mỗi năm, lúc các anh chị tôi bắt đầu có gia đình riêng tách ra khỏi tổ ấm lớn của ba mẹ, một tổ ấm vững chắc với "strong foundation". Ba mẹ đã dày công sức xây dựng từ lúc ba còn trẻ, gặp mẹ ở Huế giống như câu ca dao: “Học trò trong Quảng ra thi / Thấy cô gái Huế chân đi không đành”
Ba không phải là người Quảng, cũng chẳng phải là người Huế chính gốc, ba chỉ lớn lên ở Huế nhưng thâm trầm cổ kính hơn cả người Huế. Mẹ thì vốn là người Huế được nuôi dưỡng từ nhỏ với đầy đủ lễ nghi phong cách của đất thần kinh, nên đến đời chúng tôi kể cả những đứa nhỏ nhất không nói được tiếng Huế dù đã xa Huế một nữa vòng trái đất, cách cả một đại dương, vẫn còn giữ được đủ truyền thống Việt Nam ngày Tết. Mỗi sáng mùng một, các chị tôi về thăm nhà, biết ý mẹ, đậu xe từ xa, luôn luôn cử con trai hay chồng vào nhà trước. Không chắc là quan niệm "ra ngõ gặp gái" thì xui, có đúng không nhưng theo các chị tôi đặc biệt là chị cả, mới vừa lên chức "bà nội" năm nay, thì 'có kiêng có lành" vả chăng lâu lâu sau chồng và con trai cũng chẳng thiệt thòi gì!
Từ cuối tuần trước Tết, món ngon đã được chấm giải nhất của Hoàng tử Tiết Liêu ngày xưa bánh tét, bánh chưng đã là món ăn điểm tâm mỗi sáng của ba mẹ. Với chúng tôi các loại bánh truyền thống làm bằng nếp này chỉ mang về được một chút hình ảnh ngày Tết trong quá khứ của tuổi thơ êm đềm ở Huế, nhưng với ba mẹ hình như đó là sông Hương, núi Ngự là cả một "trời Việt Nam". Bánh chưng được cắt bằng một sợi chỉ lớn được bean lại bằng nhiều sợi nhỏ. Nếu chúng tôi cắt bằng dao hay bằng nĩa là y như rằng sẽ bị la là không đúng phương pháp, miếng bánh không được vuông vức.
Tết Việt Nam được "warm up" cả tuần trước ngày đầu năm âm lịch, vậy mà vẫn không có được một không khí náo nức như những ngày trước Tết ngày chúng tôi còn nhỏ ở quê nhà được đi chợ hoa, được đón giao thừa, đì đùng tiếng pháo, trên TV có nhật lệnh chúc tết đồng bào và chiến sĩ của vị nguyên thủ quốc gia VNCH. Điều giống nhau giữa lũ cháu của tôi bây giờ và chúng tôi ngày còn nhỏ là những cái bao mừng tuổi màu đỏ được treo trên cây mai có tên của từng đứa trong bầy con cháu của ba mẹ. Số tiền đó lớn hay nhỏ còn tùy vào nhiều yếu tố, trong đó có cả yếu tố "hạnh kiểm trong năm" của chúng tôi. Mỗi sáng mùng một, chúng tôi tề tựu thấp hương ở bàn thờ ông bà tổ tiên rồi lần lượt chúc tết ba mẹ theo thứ tự từ nhỏ đến lớn vì lý do đó ba mẹ muốn chúng tôi chúc tết thuần nhất bằng tiếng Việt và không lập lại ý với người đã chúc trước. Dĩ nhiên, thế hệ thứ hai sinh ra ở Mỹ lũ cháu tôi với vốn liếng tiếng Việt hạn hẹp, chúc được một câu đầy đủ ý nghĩa và không pha tiếng Mỹ đã là một cố gắng lớn. Nên trình tự chúc Tết nhỏ trước lớn sau được thiết lập để dễ dàng hơn cho lũ cháu trong nhà. Cả tuần trước Tết, các anh chị tôi đã phải huấn luyện cho bài "speech" chúc tết ông bà vào dịp tết nguyên đán bằng tiếng Việt hoàn toàn, trơn tru không vấp váp. Đứa cháu duy nhất sinh ở Việt Nam chưa đầy tháng khi đến Mỹ thì tương đối ăn nói gãy gọn, trơn tru đầy đủ ý tứ trên dưới trước sau. Những đứa cháu sinh ra ở Mỹ, nhất là những cháu còn dưới tuổi teenagers rất là cố gắng để làm tròn bổn phận mỗi năm một lần: chúc tết ông bà bằng tiếng Việt hoàn toàn.
Chúc tết xong, chúng tôi được hái lộc, ở đây là những bao đỏ mừng tuổi có đề tên từng người ba mẹ đã treo lên cây từ hai hôm trước. Các anh chị tôi vẫn gợi lại cho chúng tôi hình ảnh rất mờ nhạt (và mỗi năm càng mờ nhạt hơn) về những nhánh cây được gọi là lộc hái từ Chùa từ những năm còn ở Việt Nam. Cuối ngày mùng một tết, ba mẹ thường kiểm điểm lại những phong bì màu đỏ treo trên cây để "điểm danh" đứa nào chưa làm xong bổn phận ngày tết Việt Nam. Vì có năm Tết không đúng vào thứ bảy hay chủ nhật, đa số chúng tôi vẫn phải đi làm đi học vẫn phải làm những điều "một ngày như mọi ngày" nên không tề tựu đông đủ chúc tết ba mẹ cùng lúc.
Như tất cả những người Việt Nam có tuổi sống đời lưu lạc, ba mẹ tôi làm đủ mọi cách để giữ trọn vẹn truyền thống Việt Nam trong mỗi chúng tôi. Truyền thống đó không chỉ là bánh mứt, dưa hành, bánh chưng xanh, hoa mai vàng những phong vì mừng tuổi màu đỏ….mà còn là một biểu hiện truyền thống gia đình, cội nguồn dân tộc và tinh thần "uống nước nhớ nguồn". Những năm đầu lưu vong, trẻ hơn chị cả của tôi bây giờ, mẹ còn tự làm tôm chua, củ kiệu, dưa hành để ăn tết lưu vong. Dạo đó các chị tôi mới lấy chồng, ở riêng hai cô em út còn nhỏ, thấy mẹ vất vả một mình đôi khi học bài xong, tôi cũng vào bếp không phải là "muốn ăn thì lăn vào bếp" mà để giúp mẹ đỡ vất vả. Và sau vài năm tôi đã biết cách làm một số món căn bản của ngày Tết (cô bạn rất thân đã lắc đầu chào thua khi thấy tôi biết làm tôm chua, biết cách cột bánh chưng vuông vắn mà không cần phải có khuôn như ngày còn ở quê nhà). Từ thập niên 90 đến nay, cộng đồng Việt Nam lớn mạnh, ở Little Saigon không thiếu một thức ăn nào của ngày Tết, mẹ cũng lớn tuổi không còn khỏe như xưa không còn gói bánh chưng làm tré ngày tết, tôi cũng bận rộn hơn với công việc, không còn dịp giúp mẹ, nhưng anh chị em chúng tôi vẫn làm mọi cách để đem về cho ba mẹ không khí Việt Nam vào ngày tết.
Năm nay, chúng tôi ăn cái tết đầu tiên trong đời không có ba, chúng tôi thương mẹ hơn. Hẳn là anh cả từ miền đông sẽ đưa gia đình về California sớm hơn để cố gắng điền vào vị trí chỉ huy của ba, trợ giúp tinh thần cho mẹ, để mẹ tin là dù có phải lưu vong đời này qua đời khác, chúng tôi vẫn giữ nguyên những phong tục tốt đẹp của dân tộc và gia đình như ba mẹ hằng mong ước.
Năm nay, mỗi chúng tôi sẽ thắp hương ở bàn thờ tổ tiên lâu hơn, không chỉ khan với tổ tiên, ông bà, mà còn khan nguyện với ba trợ lực cho chúng tôi luôn sống đúng như ước nguyện của ba mẹ. Và với riêng mẹ tôi sẽ có một lời xin lỗi đặc biệt nếu có một điều gì mẹ không được hài lòng về tôi hay những thắc mắc tôi không có lời giải đáp cho mẹ. Chúng tôi luôn cố gắng hết sức để đi đúng con đường ba mẹ đã vẽ từ ngày chúng tôi còn nhỏ dại.
Ngày đầu năm ở Mỹ chỉ có vậy và cũng chỉ duy nhất một ngày, không cò còn "mùng một tết Cha, mùng hai tết Mẹ, mùng ba tết Thầy" như quan niệm xưa của Việt Nam. Những háo hức như trẻ thơ mong Tết cũng không còn. Một ngày không nhiều nhưng cũng đem chúng tôi về rất gần với quê nhà, tưởng như mình vẫn còn đủ vị ngọt ngào của kẹo cau ở Huế, như "xôi nếp ngọt, như đường mía lau" và chưa hề sống đời lưu vong.
Nguyễn Đại Toàn