- Thanksgiving 2006
- Tiếng Anh Tiếng Tôi
- Bốn Thế Hệ Thầy Trò
- Đằng Sau Sự Cân Đối
- Trôi Sông Lạc Chợ & Chuyện Tết Ất Dậu
Thanksgiving 2006
Dù không nói ra thành lời nhưng tận đáy lòng mỗi ngày trước khi vào giấc ngủ, đưa tay tắt đèn, vẫn thầm tạ ơn nhà Bác Học Edison đã đem lại ánh sáng thay thế mặt trời, thay thế đèn dầu giữa đêm đen.
Vài năm một lần phải dùng đến thuốc trụ sinh vẫn thầm tạ ơn Bác Sĩ Alexander Fleming đã giúp tìm ra "thần dược" Penicillin làm giảm nỗi đau thể xác của nhân loại.
Trong đời sống tinh thần, vẫn kính cẩn tạ ơn Thái Tử Tất Đạt Đa đã bỏ ngai vàng đi trên "đường xưa mây trắng", chỉ đường cho chúng sinh sống bình an, thân tâm an lạc, giúp rất nhiều người chế ngự "tham sân si" vẫn nằm khép nép ở một góc tâm hồn luôn tìm cách vùng dậy.
Xin được tạ ơn nước Mỹ tự do đã trở thành chỗ dung thân bình an, thoải mái cho rất nhiều sắc dân phải sống đời lưu lạc.
Nhớ đến nguồn gốc Việt Nam, vẫn thầm tạ ơn Bà Trưng Bà Triệu, Vua Quang Trung, các vị quan trung trinh tiết liệt Phan Thanh Giản, Nguyễn Trung Trực đã vì dân quên mình, các anh hùng Phạm Hồng Thái, Nguyễn Thái Học đã bỏ mình khi chưa đến tuổi 30, những anh hùng cận đại Nguyễn Khoa Nam, Lê Văn Hưng, Hồ Ngọc Cẩn….. đã "tuẫn tiết theo thành" như các vị tiền nhân.
Được thấy mình hưởng thêm một ngày sống tự do, vẫn thầm tạ ơn hàng ngàn anh hùng vô danh đã nằm xuống vì hai chữ tự do của hai mươi triêu đồng bào ở Nam Việt thuở nào.
Và nhớ thời thơ ấu, thương ngày mới lớn, vẫn thầm tạ ơn giáo sư Hà Mai Anh đã dịch "Tâm hồn cao thượng" làm bảng chỉ đường cho nhiều thế hệ học sinh, từ lúc còn thơ dại mãi cho đến bây giờ.
Xin được tạ ơn tất cả các thầy cô từ mẫu giáo ở Việt Nam đến Đại học ở Mỹ đã dạy dỗ chúng em thành người hữu ích cho xã hội, và tạo nền tảng cho mọi nghĩ suy chín chắn ngày hôm nay. Thời gian tuần tự trôi làm nhạt nhòa nhiều kiến thức lâu ngày không dùng đến, nhưng nền tảng đạo đức và căn bản kiến thức vẫn còn đủ để những học trò ngày xưa luôn khắc cốt ghi tâm câu ngạn ngữ Việt Nam "không thầy đố mầy làm nên".
Và cuối cùng, rất riêng, như người Mỹ vẫn nói "The last but not least" xin được kính tạ ơn Ba đã dạy dỗ chúng con, đã có một đời sống rất lành mạnh, đạo đức làm gương cho chúng con, đã chịu bao nhục nhằn, đày ải cả một thập niên trong các trại "tập trung cải tạo" dọc theo chiều dài đất nước để chúng con được nước Mỹ mở vòng tay đón nhận khi mới chân ướt chân ráo đến trại tỵ nạn ngày nào, để chúng con được sống thênh thang dọc theo chiều ngang của Tổ Quốc thứ hai.
Xin đươc kính tạ ơn Mẹ, "Kỳ quan đẹp nhất thế giới" của chúng con, đã có một thời sống nhọc nhằn sau năm 1975, gần như một ấn bản thứ hai của bà Tú Xương.
"Quanh năm buôn bán ở non sông
Nuôi đủ năm con với một chồng
Lặn lội thân cò nơi quãng vắng,
Eo xèo mắt nước buổi đò đông."
Mẹ đã một đời hy sinh cho chúng con, và luôn là chỗ dựa tinh thần vững chắc nhất cho chúng con trong những lúc giông bão nhất của cuộc đời.
Cũng xin kính tạ ơn Ba mẹ của Anh, người đã đưa Anh vào đời và nuôi dạy Anh có được ngày hôm nay, mỗi điều học được từ Anh, những vui buồn chia xẻ với Anh đều có kèm theo lòng biết ơn với các đấng sinh thành ra Anh.
Xin được tạ ơn rất nhiều người bình thường trong đời sống đã góp bàn tay làm cho cuộc đời ngày càng đẹp hơn với nét rạng rỡ át hẳn nỗi u buồn.
Dù không được dịp nói ra mỗi ngày nhưng từ tận đáy lòng, vẫn xin được tạ ơn các ân nhân mỗi ngày, và xin nguyện với lòng luôn sống xứng đáng với sự hy sinh của tất cả những người đã nằm xuống cho chúng tôi có được ngày hôm nay.
Thanksgiving 2006
Tiếng Anh Tiếng Tôi
Phi trường quốc tế Los Angeles mà người ta vẫn gọi tắt là LAX vào một buổi sáng thứ bảy có đông hành khách ngồi chờ ở những hàng ghế trước các cổng lên máy bay được đánh số theo thứ tự. Mặc dù California là thành phố đa số người Mỹ gốc châu Á chọn định cư vì có khí hậu ấm áp tương tự khí hậu Dalat của Việt Nam, nhưng tại những cổng lên máy bay ở các phi trường, người Mỹ gốc châu Âu vẫn chiếm đa số vì họ rất chịu khó chi tiền cho những chuyến vacation ngắn ngày, giá khá cao khi mùa hè bắt đầu.
Đủ thứ ngôn ngữ được nghe tại đây từ tiếng Pháp thanh tao được chọn làm ngôn ngữ để nói với người yêu, tiếng Đức nặng nề như một con chim gần đất xa trời, vẫn còn thích hót líu lo. Và dĩ nhiên, ở ngay đất nước Mỹ, tiếng Mỹ vẫn là ngôn ngữ chính. Ở cổng chờ số một 12A, hai hàng ghế chỗ gần như không còn chỗ trống, có người ngủ gà ngủ gật vì mắc bệnh kinh niên thiếu ngủ của đại đa số người Mỹ, có người chơi game trên laptop của mình.
Giữa đám đông hành khách có một gia đình người Nhật gồm bốn người chuyện trò với nhau rôm rả bằng tiếng Nhật nghe như tiếng máy của một chiếc Honda Accord đã chạy vài trăm ngàn miles, sắp bị overheat. Họ tưởng là không có ai hiểu tiếng Nhật giữa đất nước hợp chủng quốc nên tha hồ đưa ra ý kiến và phê bình người Mỹ bản xứ.
Chàng thanh niên người Nhật mở lời trước:
- Thức ăn trên máy bay của Mỹ dở ơi là dở, không bằng một phần Shushi của mình, cái Sandwich lại bỏ đầy mustard vừa hôi vừa nhạt nhẽo, con nuốt không vô, nên bây giờ đói bụng kinh khủng.
Cô em tiếp lời:
- Đất nước giàu mạnh nhất thế giới mà không dám dọn thức ăn hợp với khẩu vị du khách, món nào trên máy bay cũng có mùi lạ lạ, khó ngửi!
Ông bố đưa ý kiến, còn nặng nề hơn:
- Đã vậy, cái ông Mỹ mập ngồi bên cạnh ba, ăn như cọp suốt cả thời gian bay 8 tiếng, chắc tại vậy nên người có mùi hôi làm phiền người ngồi cạnh.
Bà mẹ đưa ra kết luận rất là một chiều:
- Hèn chi họ bán nhiều dầu thơm để che mùi hôi.
Một thanh niên Mỹ ngồi cạnh họ vẫn cắm cúi trên laptop suốt cuộc đối thoại, kiên nhẫn bằng một thứ tiếng Nhật thành thạo đã được đào tạo từ Linguistic của Academic Navy, anh góp chuyện:
- Ô nói về mùi, các ông bà có thấy có mùi gì lạ lạ ở hàng ghế này không"
Cả gia đình du khách người Nhật tái mặt, bẽn lẽn đứng dậy ôm những túi xách đầy hàng "Made in USA" vừa thơm phức, vừa rẻ, cun cút di chuyển ra khỏi những hàng ghế ngồi chờ.
. . .
Ngẫu nhiên, cùng thời gian đó, ở phi trường Frankfurt bên Đức, một gia đình du khách người Mỹ gốc Việt đang xếp hàng trước quầy vé. Nhìn những cái Passport màu xanh đậm của công dân Hoa Kỳ, cô tiếp viên tóc dài báo cho những người du khách biết bằng tiếng Anh, máy bay bị trễ, họ phải chờ thêm 10 tiếng nữa rồi cô bán vé người Đức tóc dài màu mặt trời, mắt xanh quay sang cô đồng nghiệp ở quầy bên cạnh, nói bằng tiếng Đức:
- Tụi Châu Á này may mắn hơn mình, được sống ở Mỹ, đất nước giàu nhất thế giới, cho tụi nó chờ máy bay bữa nay cho bỏ ghét
Cô tiếp viên tóc ngắn bên cạnh quay qua bạn, ngây thơ:
- Họ vẫn còn dư thì giờ, còn hơn một tiếng nữa chuyến bay 732 về lại Mỹ mới cất cánh mà!
Cô tóc ngắn im lặng, có vẻ không đồng ý nhưng không trả lời. Người đàn ông Mỹ gốc Việt Nam cũng im lặng, nhưng không bỏ sót một lời đối thoại nào. Anh đã hoàn tất chương trình Cử nhân ở Tây Đức vào những năm 1973-1977 nên dĩ nhiên anh hiểu toàn bộ lời hai cô tiếp viên hàng không người Đức. Anh đang suy nghĩ sắp đặt lời nói thì một nam nhân viên phi trường khác đi đến, hỏi hai cô nhân viên:
- Mọi chuyện vẫn tốt đẹp chứ hả"
Hai cô cùng cất tiếng: "thưa vâng, trời hôm nay tốt, không có chuyến bay nào trễ !"
Ông nhân viên phi trường Frankfurt trong đồng phục màu xanh đen sắp di chuyển sang quầy vé khác thì người hành khách Mỹ gốc Việt Nam tiến lên, bằng một thứ tiếng Đức hơi cứng, nhưng rất academic, anh lịch sự:
- Xin lỗi, hình như có sự hiểu lầm ở đây, cô tiếp viên tóc dài vừa nói với chúng tôi chuyến bay số 732 bị trễ, chúng tôi phải chờ thêm 10 tiếng nữa.
Ngạc nhiên tột độ, há hốc miệng, cô tiếp viên tóc dài nhìn người hành khách trước mặt mình như người vừa về từ hành tinh khác.
Dĩ nhiên sau đó, gia đình người du khách Mỹ gốc Việt vẫn lên máy bay kịp giờ đúng thời khoá biểu. Trước khi lên máy bay, khi đưa vé cho cô tiếp viên hàng không tóc dài, anh còn hóm hỉnh:
- Cảm ơn cô đã cho tôi có cơ hội ôn lại tiếng Đức đã lâu rồi không có dịp dùng đến.
. . .
Một thời gian khác, trong khách sạn Double Tree ở St. Louis, cô gái Việt Nam dậy sớm đi từ phòng mình ở tầng thứ mười hai xuống Fitness Room ở tầng một trong khách sạn để tập thể dục như thói quen, không thể thiếu mỗi ngày, tóc cô quấn cao, và giữ lại bằng cây viết chì vì những cái cây cột tóc đủ màu đã bị bỏ quên ở nhà. Chiếc thang máy ngừng lại ở tầng thứ chin, có hai người da trắng bước vào, cửa thang máy vừa đóng lại, cô gái gốc Châu Âu nói với anh bạn bằng tiếng Pháp:
- Anh coi kìa, con nhỏ này gài cây viết chì lên đầu, nó có bất bình thường không"
Như một tia chớp lóe lên trong bán cầu não bên trái chuyên về ngôn ngữ, vốn liếng tiếng Pháp của bảy năm Trung học đã lâu không dùng đến, được dịp soi rọi, cô gái Việt Nam trả lời:
- Không tôi vẫn bình thường, tôi chỉ quên mang theo cái kẹp tóc. Là con gái cô cũng hiểu có nhiều cách để giữ tóc cao lên, đúng không" Cũng như có nhiều cách để phán xét người khác phải không"
Cô gái Pháp đỏ mặt lên, nói không ra lời, trong lúc người thanh niên bối rối xin lỗi:
- Xin lỗi, em tôi còn vụng dại, cô đừng trách nó.
. . .
Và ở ngay thung lũng hoa vàng của người Việt Nam lưu vong ở Mỹ, ở một tiệm cho thuê Video của người Việt, một cô gái Mỹ gốc Phi Châu bước vào, cắm cúi xem xét những phim Mỹ loại dành cho người lớn, anh thanh niên đứng sau quầy hàng nói với bạn qua điện thoại:
- Mày chờ tao một chút, để con nhỏ Mỹ này ra khỏi tiệm tao sẽ đóng của đến nhà mày ngay, còn sớm mà!
- …
- Tụi Mỹ đen này chắc là chỉ coi phim sex, mà loại đó tiệm tao không có nhiều, chắc là nó sẽ ra khỏi tiệm soon.
Cô gái ngước đôi mắt có hàng lông mi cong dài đẹp tự nhiên, nhưng tròng trắng nhiều hơn tròng đen của người Mỹ gốc Phi Châu, trả lời bằng tiếng Việt rất sành sỏi:
- Anh yên tâm, tôi sẽ ra khỏi tiệm ngay, tôi chỉ vào look around thôi, không có ý định mướn phim.
Một lần nữa, có một cái miệng há hốc khác hình chữ O giống như vẻ ngạc nhiên tột độ của cô tiếp viên hàng không tóc dài ở phi trường Franhfurt…
Nguyễn Trần Diệu Hương
Bốn Thế Hệ Thầy Trò
Thời nhỏ dại chúng tôi có một tủ sách rất quý, đầy đủ sách học các môn Toán, Lý, Hóa, Anh, Pháp và đầy đủ tự điển rất nhiều người ao ước, mặc dù lương sĩ quan cấp Tá QLVNCH của Ba lúc đó chỉ đủ để mẹ lo cho anh chị em chúng tôi được ăn trắng mặc trơn.
Tủ sách ngày càng nhiều và đầy đủ sách quý hiếm, chúng tôi có ngay từ lúc sách được in xong, nhờ một người học trò cũ của ông bà nội là chủ một nhà xuất bản sách giáo khoa lớn nhất ở Sài Gòn đầu thập niên bảy mươi. Hồi đó, còn ở ghế trường Tiểu học, tôi đã mơ ước lớn lên mình sẽ là cô giáo dạy Toán bởi vì tôi thấy tình nghĩa thầy trò của những người học trò cũ với bà nội, một tình nghĩa đầy sự tôn kính của đạo lý Đông Phương "nhất tự vi sư, bán tự vi sư".
Nhưng rồi cuộc đời ít khi được như mơ ước, biến cố năm 1975 xóa nhòa mọi ước mơ của tôi, nhưng không xóa nhòa được sự tôn kính dành cho những thầy cô trong rất nhiều năm học đã vun bồi kiến thức và đạo lý làm người trong tôi.
Không bao giờ được trở thành một cô giáo dạy Toán như mơ ước nhưng tôi cũng có dịp có nhiều học trò, theo một nghĩa nào đó . Trong số các em, chỉ bằng tuổi em út của tôi, chỉ có Vina liên lạc với tôi thường xuyên nhất. Vina vẫn thỉnh thoảng email cho tôi, lúc thì khoe một bài thi được A plus, lúc thì kể về những ưu tú của em trong những ngày nội trú xa nhà ở một trường đại học ở miền Đông.
Vina không giống với các em tôi đã đi dạy kèm từ hồi còn học lớp mười một, thời đó tôi phải đi dạy kèm giúp mẹ vì ba đang ở tù trong một trại cải tạo ở núi rừng heo hút, học trò tôi lúc đó học lớp 8, chỉ thua tôi hai hay ba tuổi nên tôi chỉ dám dạy học trò con gái.
Vina cũng không giống với các em bỗng dưng đồng loạt "mồ côi vì vận nước" ở trại tỵ nạn mà tôi đã có dịp dạy Anh Văn, kiểu dạy của "người chột trong thế giới người mù". Vậy mà các em quý tôi vô cùng.
Tôi dạy Vina Việt văn, đủ mọi tác giả mà tôi có dịp học thời trước năm 1975, từ những câu thơ trang nghiêm của Bà Huyện Thanh Quan, đến những câu thơ nổi loạn của Hồ Xuân Hương, những câu thơ yếm thế của Trần Tế Xương đến những lời mỉa mai đầy bóng gió của Tôn Thọ Tường, Phan Văn Trị, và dĩ nhiên tôi cũng dạy Vina cùng các bạn của em ở trường Việt Ngữ những câu thơ trong tác phẩm được gọi là tiêu biểu của văn học Việt Nam "Đoạn Trường Tân Thanh" của Nguyễn Du. Chữ nào các em không hiểu tôi phải giảng giải bằng tiếng Anh. Giờ học Chủ Nhật nào cũng có đủ tiếng Việt, tiếng Mỹ rất đề huề, đoàn kết. Vậy mà các em cũng hiểu và cũng thuộc lòng được một số câu thơ mà rất nhiều người đã học qua trung học ở Việt nam trước năm 1975 đều nhớ rõ.
Ở một ngôi trường trung học ở Mỹ, mỗi Chủ Nhật trong nhiều năm rất dài, tôi lặng lẽ chuyển kiến thức mình đã học từ các thầy cô cũ trước năm 1975 sang các em Mỹ gốc Việt Nam. May mắn là các em lúc đó đang tuổi mười bốn, mười lăm, đầu óc không bị vướng bận nhiều lo toan, nên các em ghi nhận được hầu hết những điều tôi truyền đạt, giống như tôi vẫn còn nhớ như in những điều mình đã được học từ những năm tháng đi học trước năm 1975 ở Việt Nam. Nên về sau này trong những email gởi cho người lớn, các em đã biết dùng chữ "Kính thưa" để mở đầu thay vì "Hi" hay "Hello" như phong tục người Mỹ.
Mãi đến gần đây, trong một email gởi cho tôi, Vina đã viết bằng cả hai thứ tiếng, rất ngộ nghĩnh, dễ thương.
- Cô ơi, hôm nay the first day of Autumn, it's windy, lá vàng bay lung tung giống như "thủa trời đất nổi cơn gió bụi" that you taugh us at Vietnamese School in San Jose a few years ago…
Hay có lúc Vina viết:
- I still remember what you said "Trọng thầy mới được làm thầy". I'll graduate soon. Hopefully my students will treat me the same way you have treated your teachers.
Vina đang học "Education" ở NYU, em sẽ dạy Anh văn ở trường trung học. Chỉ hình dung một cô gái Việt Nam da vàng dạy Anh văn cho các em học sinh bản xứ da trắng hay da màu đủ thấy đất nước Hoa Kỳ đã tạo ra cơ hội cho tất cả những người có ý chí.
Năm tới, Vina ra trường, em đi dạy, chúng tôi sẽ thiết lập được bốn đời thầy trò, trong đó có mỗi mình tôi không phải là một người thầy được đào tạo từ một trường đại học sư phạm như các thầy cô cũ của tôi, hay như Vina, một cô giáo trung học tương lai, người Mỹ gốc Việt sinh ra ở Mỹ, thế hệ thứ hai của người Việt lưu vong.
Có nhiều lý do để Vina quý tôi như một người bạn lớn, và vẫn giữ liên lạc với tôi với sự kính trọng của trò đối với thầy, vì em đã được nghe tôi kể về các thầy cô cũ của tôi và tình nghĩa thầy trò của chúng tôi.
Năm 2002 trong một dịp dự " High School Reunion" của Trung học Ngô Quyền Biên Hòa ở miền nam CA, tôi có dịp gặp lại thầy Phố, thầy giáo cũ dạy Công Dân năm tôi học lớp bảy. Tôi nhận ra thầy ngay giữa cả trăm người đến dự họp mặt hôm đó. Rời xa bục giảng một phần tư thế kỷ qua, thầy vẫn còn nguyên phong cách của một nhà mô phạm. Và ở giữa quê người, tôi được thầy kể lại chuyện "cannot" của Việt Nam ở một lề đường của tỉnh Tây Ninh đầu thập niên 80
Dạo đó, cùng với vận nước nổi trôi, thầy Phố trôi dạt về Tây Ninh thay vì cầm phấn viết bảng thầy phải cầm kim khâu giày cũ ở một lề đường nhem nhuốc đầy bụi bặm để mưu sinh giữa lúc trật tự xã hội quay một góc một trăm tám mươi độ. Một lần tình cờ một trong số những học trò cũ của thầy, thầy Thu, cũng là thầy giáo dạy Toán của tôi năm lớp bảy trong một lần đi chấm thi học sinh giỏi toán ở Tây ninh, vẫn nhận ra thầy, và đã ngồi xuống lề đường, thăm hỏi thầy, vẫn ân cần, vẫn lễ độ như dạo nào trong lớp học. Và như vậy, cả hai người thầy cũ của tôi đã dựng lại câu chuyện Đại tướng Cannot của Pháp.
Về thăm thầy cũ ở một lề đường của Tây Ninh. Cả hai thầy đã dạy cho tôi thêm một bài học về đạo làm người, về nghĩa thầy trò.
Thầy Phố đã dạy Toán Thầy Thu thời thầy Thu còn ngồi ở ghế trung học Ngô Quyền. Rồi thầy Thu đậu tú tài, đi du học ở Pháp, và về lại ngôi trường trung học cũ với tư cách mới của một nhà mô phạm. Thầy Thu dạy chúng tôi môn Tân Toán học ở những ngày cuối của nền đệ nhị Cộng hòa. Tình cờ, cả hai thầy cùng dạy tôi năm lớp bảy, nhưng dạo đó chúng tôi không được biết mình đang được học cả hai thế hệ thầy trò cùng lúc, mình đang là thế hệ thứ ba trong những năm tháng đi dạy của thầy Phố.
Mãi về sau này, bên đời lưu lạc, tôi mới biết mình được hân hạnh là thế hệ thứ ba, và đã kể lại câu chuyện ở vỉa hè Tây Ninh cho các em học trò ở trường Việt Ngữ. Các em vừa kinh ngạc, vừa thán phục tinh thần "trọng thầy mới được làm thầy" của người Việt nam. Câu chuyện "cannot" Việt Nam rất cảm động đầy nghĩa thầy trò đã động đến những trái tim Mỹ gốc Việt Nam trong lớp Việt Ngữ ngày nào và hai trong số gần hai mươi học sinh cũ của tôi đã vào trường đại học với chuyên ngành "Education".
Tôi chưa có dịp kể với các em về những buổi "High School reunion" ở Mỹ với những nghi thức vinh danh thầy cô giáo cũ từ những người học trò đã rất thành công trong sự nghiệp nhưng luôn luôn đặt thầy cô ở vị trí thứ hai sau cha mẹ. Các em cũng chưa được biết mỗi lần một thầy cô giáo cũ tuổi cao sức yếu, phải vào bệnh viện, chỉ cần một email gởi ra, dù là một ngày giữa tuần đang bận rộn với nợ áo cơm, với đủ thứ bổn phận trên đời, vẫn có ít nhất là ba mươi học sinh đến thăm thầy, cô cũ ở một bệnh viện của Orange County, nơi có đông người Việt lưu vong quần tụ nhất. Các em lại càng không thể tưởng tượng mỗi lần có một thầy cô vĩnh viễn nằm xuống, gần cả trăm học sinh không quản ngại đường xá lái xe hay bay về tiễn thầy lần cuối; chúng tôi xếp hàng tuần tự ở cổng nhà quàng, theo thứ tự từng niên khóa để chào vĩnh biệt thầy.
Tôi cũng chưa có dịp "khoe" với các em về những cái thiệp Tết tôi nhận được từ các thầy cô cũ ở rải rác từ Califorina qua tận Pennsylvania trong đó có những câu rất cảm động "cảm ơn em, cảm ơn đạo lý Đông Phương "Nhất tự vi sư, bán tự vi sư", thầy cảm động thấy mình may mắn và có những niềm vui mà không tài sản nào mua được…."
Tôi cũng chưa rảnh để chuyển cho các em những email của các thầy cô giáo cũ người Mỹ đã dạy tôi trong những năm tháng đầu tiên chân ướt chân ráo ở quê người trong các trường đại học ở Califorina. Những thầy cô giáo Mỹ rất quý trọng học sinh Việt Nam vừa chăm học, vừa lễ độ, và nhớ ơn người đã ban phát kiến thức cho mình.
Học sinh Mỹ vốn thực dụng, nghĩ là những cái paycheck định kỳ không nhỏ đã đủ để bù đắp công sức và thời gian của các thầy cô giáo; nhưng con người vốn cần nhiều thứ để được hạnh phúc ngoài vật chất và tiện nghi.
Mùa hè tới, khi đi dự năm mươi năm hội ngộ của trường trung học Ngô Quyền, tôi sẽ mời Vina đến để em thấy tận mắt tình nghĩa thầy trò của đạo lý Đông Phương qua lễ vinh danh của rất nhiều thế hệ thầy cô, để giúp em nhiều nghị lực trong những năm tháng đứng ở bục giảng sau này. Dĩ nhiên, sinh ra và lớn lên ở Mỹ, em đủ khôn ngoan để hiểu em không thể có được tình nghĩa thầy trò vẹn toàn như các thầy cô cũ của chúng tôi nhưng em sẽ tìm được nhiều niềm vui hơn trong nghề nghiệp của em không phải chỉ để đổi lấy những tấm paycheck ổn định hai lần mỗi tháng, mà còn có niềm vui của một người đưa đò lặng lẽ đưa nhiều thế hệ sang sông, đến được nơi cần phải đến. Chỉ cầu mong trong các học sinh tương lai của Vina, chỉ có một vài người sang sông quay về bến đò cũ thăm người lái đò với lòng biết ơn chân thành. Chừng đó đủ để em truyền lại cảm hứng cho thế hệ kế tiếp, để sẽ có nhiều thầy cô giáo là một nhà mô phạm đúng nghĩa, là một tấm gương cho học sinh noi theo.
Vài năm nữa, chúng tôi sẽ có được năm thế hệ thầy trò. Và truyền thống lẫn tình nghĩa thầy trò vẫn sẽ được duy trì dù chúng tôi đã ở rất xa quê nhà từ rất lâu và thời ôm cặp đến trường ngày càng xa mờ tít tắp….
Nguyễn Trần Diệu Hương
(Với lòng biết ơn chân thành với các thầy cô cũ và viết cho Hội ngộ 50 năm của cựu học sinh Ngô Quyền Biên Hòa tháng 7/06)
Đằng Sau Sự Cân Đối
Vào tháng giêng Tây của mỗi năm, khi tác dụng của những bữa "sống để ăn" vào dịp Thanksgiving, Christmas, và New Year bắt đầu thấy rõ bằng mắt thường trên cơ thể, áo quần chợt căng ra, đôi khi gài không được vì calories dư thừa giúp phát triển chiều ngang không ai muốn, thì người ta lại lũ lượt lái xe đến những Club tập thể dục. Phòng tập thể dục đông hẳn ra, gấp ba bốn số lượng thường nhật, gây ra phiền nhiễu cho những thành viên trung thành lâu năm của các gym club.
Những "chuyên viên đi gym" có mặt mỗi ngày ở club như mái nhà thứ hai của mình, quen mặt nhau, quen từng máy tập thể dục, biết rõ ràng thời khóa biểu của nhau và không bị mất thời giờ chờ đợi. Vậy mà, cứ vào ba tuần lễ đầu tiên của tháng giêng, thời gian phải chờ đợi ở mỗi máy tập thể dục dài gấp hai thời gian tập thể dục. Bởi vì rất nhiều "freshman" của việc tập luyện thân thể bắt đầu làm quen với "phương thuốc trị bá bệnh" duy nhất trên đời. Họ không quen với không khí của các fitness club, lại càng bỡ ngỡ với rất nhiều dụng cụ tập thể dục rất hiện đại và tối tân có thể cho người đang tập trên máy biết nhịp đập hiện tại của tim, năng lượng họ vừa thải ra, kể cả năng lượng dư thừa từ mỡ. Và cứ theo thông lệ "first come, first serve", ai đến sau thì phải chờ ngưỡi đến trước. Nên nếu phải chờ một người mất đến gần năm phút mới điều chỉnh được cái máy tập thể dục theo ý muốn. Rồi lâu lâu lãi ngưng lại để đọc những chữ digital chạy trên màn ảnh, hướng dẫn nhiều option, thì quả là không vui chút nào!
Mỗi sáng, nhiều người ra khoiû nhà từ lúc đường phố hãy còn ngái ngủ, để vừa đủ thời gian tập thể dục, tắm rửa và lái xe đến sở. Thời giờ được tính chính xác đến độ còn để dành thời gian cho những lúc kẹt xe trên xa lộ, hay phải chờ đèn đỏ.Vậy mà, có một nhân vật nào đó, hình như cả đời chưa bao giờ biết đến chuyện tập thể dục, chưa bao giờ thấm nghĩa đen của thành ngữ "no pain, no gain" chiếm cứ một cái treadmill hay một cái stairmaster chỉ để đọc những hướng dẫn trên máy, không chịu nghĩ đến người đang sốt ruột đứng chờ thì không công bằng chút nào.
Tất cả những khó khăn đó, may thay, chỉ xảy ra mỗi năm khoảng 3 tuần, khi một năm mới bắt đầu, khắp nơi, từ tivi, báo chí, đến những câu chuyện xã giao trong sở, người ta đều nói đến chuyện "new years, new resolution". Hơn nữa, khi mùa Đông sắp tàn, bóng dáng của mùa Xuân thấp thoáng, lúc đó không còn phải trùm áo khoác dày côm, ai mập ai ốm, ai cân đối sẽ đập vào mắt người khác rất rõ ràng. Rất am tường tâm lý quần chúng. Các fitness Club đưa ra đủ thứ promotion để chiêu dụ thêm nhiều hội viên mới, tăng doanh thu hàng tháng, những quảng cáo promotion với hình ảnh của của những supermodel- như Cindy Crawford chẳng hạn, trông rất là cân đối, hấp dẫn như một hủ mật đặt giữa rừng thu hút rất nhiều "ong" và cả "gấu" mò đến. Dĩ nhiên câu lạc bộ nhộn nhịp, đông vui hẳn ra, bãi đậu xe luôn luôn "full house", không còn một chỗ trống. Các công ty hay business kế cận phải bảo vệ bãi đậu xe dành cho khách hàng của mình, dấu hiệu "customer of XYZ only, unauthorized vehicle will be towed away" được dựng lên, những hội viên của Fitness Club vẫn chơi bài "tình lờ", cứ đậu, vì mất trung bình là nữa giờ towing truck mới đến, đủ giờ để tập thể dục rồi ra về, mà xe vẫn an toàn. Do vậy, nếu gặp một "tay mơ" mới bắt đầu làm quen với việc tập thể dục, cứ loay hoay trên rất nhiều nút của máy tập thể dục, những hội viên thường trực lâu năm rất khó chịu vì phải dài cổ chờ, vừa mất thì giờ, vừa có có khả năng xảy ra cảnh khi ra về thì mình đã bị kéo đi về bãi đậu xe công cộng, vừa tốn tiền, vừa lỡ công lỡ việc. Đôi khi vì quá bực mình, người ta quên đi những ngày đầu tiên đến gym club của mình cũng quê mùa, chậm chạp, và ngớ ngẩn không thua gì những người đang làmmìnhphải chờ đợi bây giờ.
Đó là chưa kể đến nỗi bực mình, thường thì phải nữ mơí bị, đôi khi thành cái đích (watching target) ngắm, rất công khai va øhợp pháp, của ai đó thích ngắm đường cong, đang tập trên một cái máy ngay phía sau lưng mình. Chỉ cần lên bất cứ một dụng cụ tập thể dục nào khoảng mười lăm phút vào mùa hè, nửa giờ vào mùa đông, tim đập nhanh hơn, mạch máu lưu thông tốt hơn, mặt người tập thể dục hồng lên đẹp tự nhiên và đầy sức sống.
Đối với một người bình thường, còn giữ nguyên vẽ "hương đồng gió nội" hình như lúc sáng sớm lúc họ ra khỏi gym sau khi vừa tập thể dục xong là lúc đẹp nhất trong ngày, một cái đẹp khỏe mạnh tự nhiên, trẻ hơn tuổi thật. Đàng sau vẻ đẹp tự nhiên và những đường cong cân đối là một quá trình đổ mồ hôi đếm bằng năm, vâng, đếm bằng năm, chứ không phải bằng tháng hay tuần.
Điều đó được chứng minh rõ ràng trong mùa hè, nếu bạn rời rời phòng tập thể dục bằng xe mui trần (mà người khác có thể thấy bạn rất rõ), trên đường về, bạn sẽ thấy những người lái xe chung quanh dễ thương hơn, nhường đường cho bạn, lịch sự hơn hẳn ngày thường. Tuy nhiên, để được sự ưu đãi đặc biệt đó, bạn phải đi tập thể dục đều đặn, í nhất là 4 ngày mỗi tuần liên tục ít nhất là 3 năm, để đường cong thân thể và làn da hồng hào khỏe mạnh của bạn được thấy rõ bằng mắt thường ở một chu vi có bán kính ngắn hơn hai mươi feet. "Ô kìa, đời bỗng dưng vui" cho tất cả mọi người khi người ta thấy bên cạnh mình có nuững nét "đẹp hương đồng gió nội" cà có những người hềt sức lịch sự!
Khi bạn đã kiên nhẫn tập thể dục đều đặn ít nhất là 3 năm, và chịu khó đề ý đến chế độ ăn uống của mình đúng dinh dưỡng, giả sử bạn đang bước vào tuổi " tam thập nhi lập" bạn sẽ có suy nghĩ của tuổi 30, bề ngoài của tuổi 20, và thể chất của tuổi "mười bảy bẻ gãy sừng trâu". Như người Mỹ vẫn nói "do the math", bạn cứ cộng trừ cho hợp với tuổi thật của mình.
Tiềc thay, đa số mọi người không thấy rõ cái lợi ích đó chỉ có thể đạt đưỡc sa umột thời gian khá dài từ năm này qua năm khác, (nếu bàn càng lớn tuổi, thời gian càng dài hơn, vì đồng hồ sinh học của cơ thể bạn đã ngăn cản bớt khả năng đốt năng lượng dư thừa - metabolic rate đã giảm xuống tỷ lệ nghịch với tuổi đời của bạn). Nên hầu hết những người đến gym club không được kiên nhẫn, bỏ cuộc sau một vài tháng (có người chỉ kéo dài được một tuần) tập thể dục, vì thấy mình khônt có được đường cong cân đối, hay vẻ khỏe mạnh tự nhiên như nguững hội viên lâu năm. Phải rất là kiên nhẫn ,ết quả thấy được sau thời gian ít nhất là một năm.
Gần đây, để đối phó với tình trạng "thừa ăn, thiếu vận động" của đại đa số người Mỹ, hệ thống truyền hình NBC của Mỹ đã trình chiếu " reality show" với cái tên đầy sức thuyết phục "The Biggest Loser" để tạo cảm hứng cho quần chúng Mỹ tập thể dục và để ý đến sức khỏe của mình nhiều hơn. Những nhân vật có thậ, rất là nặng cân, đã giảm khoảng một phần ba trọng lường của họ sau 6 tháng làm việc với "personal trainer" và ăn uống dưới một chế độ kiêng cử rất khắc nghiệt. Những nhân vật này là những người dân Mỹ bình thường, ở đủ mọi lứa tuổi, để tạo cảm hứng cho cả nước Mỹ trong việc rèn luyện thân thể. Ngay sau khi loạt show này chấm dứt, các phòng tập thể dục trên cả nước Mỹ rộn rịp hẳn ra, với rất nhiều người từ mức độ "hơi nặng cân" (overweight) đến thật sự nặng nề (obesity) chịu khó đến câu lạc bộ tập thể dục.
Từ chưa bao giờ vận động đến bắt đầu tập thể dục, là cả một "milestone", Những người đã không để ý đến trọng lượng của mình từ rất lâu leo lên những máy tập thể dục đã là một sự khó nhọc (vì rất nhiều dụng cụ như stairmaster"- chẳng hạn, rất cao và rất dốc). Những hội viên thường trực của câu lạc bộ đã rất là lịch sự và kiên nhẫn chờ đợi họ ở khắp các máy tập thể dục. Riêng tôi, mỗi lần nhìn họ vừa thở hào hển vừa lê bước rất nặng nề (theo cả nghĩa bong lẫn nghĩa đen), tôi vần thầm chúc họ có đủ kiên nhẫn đến phòng tập thể dục mỗi ngày đều đặn. Giữ đúng thói quen không bao giờ có ý kiến khi không được hỏi, nhiều lần tôi đẵ tự kiềm chế mình để khỏi mở miệng khi thấy chỉ sau mười phút tập thể dục, chưa đủ để đổ mồ hôi, một số người đã tự "nạp năng lượng" bằng cách ăn cả thỏi chocolate king size, việc tập thể dục của họ bỗng dưng trở thành " nước đổ lá môn". Tương tự như thế, nhiều người sau khi tập được khoảng nữa giờ, suốt ngày hôm đó nghĩ là mình đã chu toàn bổn phận đối với sức khỏe, đã vận động rất nhiều, nên ăn nhiều hơn thường ngày,hoặc ăn chất béo nhiều hơn. Hậu quả tất nhiên của cả hai trường hợp là càng đi tập thể dục, một số người không những không giảm mà còn tăng trọng lượng. Thay vì "tiển trách kỷ , hậu trách nhân", họ quay ra đổ thừa từ rất bâng quơ, là xã hội máy móc, không cho họ có giờ vận động, không có giờ nấu nướng, ăn thức ăn healthy, đến rất cụ thể, là cha mẹ mình đã truyền cho mình một loại DNA xấu với Metabolism rất thấp, vô tình hay cố ý, ai đó quên mất một câu nói rất đơn giản nhưng rất thực tế của người Mỹ "You're what you eat"! Có một dạo, một số nguời thích ăn fast food nhưng không có thì giờ hay không thích tập thể dục đã nộp đơn kiện hệ thống Mc Donald về "tội" làm cho quần chúng bị overweight, làm hại sức khỏe của người Mỹ và ảnh hưởng xấu đến.....kinh tế quốc gia (chic!). Nghe vừa buồn cười, vừa nhớ đến câu ngạn ngữ Việt Nam "Vừa đánh trống vừa la làng". Chỉ tội nghiệp cho hãng Mc Donald, chỉ bán, chứ không hề bắt ép ai ăn chất béo hàng ngày, phải vác chiếu hầu tòa, và phải đổi loại dầu với lượng chất béo thấp hơn khi chiên món "French fried" nổi tiếng rất béo và cũng rất hấp dẫn khẩu vị tất cả mọi người! Lẽ ra, những người đóng thuế của tiểu bang đến 21.7 tỷ dollars hàng năm vì sức nặng quá tải của họ đã ảnh hưởng đến năng lực làm việc, làm mất đi hiệu quả lao động cả bằng đầu óc lẫn tay chân. Nhưng chừng như sự kiện những người nặng nề luôn luôn phải vác một trọng lượng quả khổ theo mình trên mỗi bước đi, mỗi cử động đã là một sự trừng phạt nặng nể cho cá nhân họ, nên dù ai cũng biết thiệt hại xã hội và mỗi người đóng thuế phải gánh chịu, nhưng không ai nỡ kiện những người làm thiệt hại công quỹ của tiểu bang lẫn liên bang.
Có nhiều động cơ đưa một người thành hội viên thường trực của gym club. Đa số những người đến với phòng tập thể dục sau khi đã ngưng phát triển "bề dọc" một thời gian dài, bao nhiêu năng lượng nạp vào cơ thể chỉ dồn vào "bề ngang", đường cong hai bên hông biến từ lõm thành lồi, trông hơi mất thẩm mỹ. Một ngày đẹp trời nào đó rãnh rỗi soi gương kỹ hơn, cứ tưởng là ai đó trong gương chứ không phải là mình. Nuối tiếc :thời oanh liệt nay còn đâu", tỉnh ngộ kịp thời, họ trở thành hội viên của một câu lạc bộ thể dục. Nếu bạn có kiên nhẫn cũng chưa đủ, còn phải tập đúng cách, ăn đúùng dinh dưỡng mới cân đối được. nguyên tắc cần nhớ là calories nạp vào (từ đồ ăn thức uống) nhiều hơn calories xuất ra (từ vận động, tập thể dục) thì trọng lượng sẽ đi lên âm thầm nhưng vững chắc, góp phần bào mòn sức khỏe của con người.
Con đường đưa tôi trở thành một hội viên trung thành của Fitness 24 Club bắt đầu từ một Fitness facility của sở làm. Dạo đó, có sẵn fitness equipment rất thuận tiện ở tầng thứ nhất của nơi làm việc, luôn luôn để nhạc soft rock music với những tiếng hát lừng danh Barry Manilow, Leton John, Celine Dion , Stevie Wonder&.rất êm tai, tôi mon men đến để nghe nhạc và "release stress" sau tám tiếng trả nợ cơm áo mỗi ngày. Lâu dần, thể dục thành một phần của đời sống, tôi đâm "ghiền" chạy trên treadmill hay nâng "weightlifting" lúc nào không rõ! mấy năm sau, chuyển sang sở làm khác, không còn Fitness facility, tôi nhớ tập thể dục như kiểu nhớ trong ca dao Việt Nam "Nhớ ai như nhớ thuốc lào, đã chôn điếu xuống lại đào điếu lên". Bèn mua treadmill về chạy ở nhà. Sau một năm, một cái treadmill và một cái bent bicycle bị gãy, hóa đơn tiền điện tăng như gia tốc của phi thuyền vừa rời bệ phóng, cao hơn cả những tháng giá buốt mùa đông phải mở máy sưởi cả ngày, hay những ngày hiếm hoi nóng trên 100độ Farenheit của ven biển miền Tây nước Mỹ phải mở máy lạnh 24/24, tôi quyết định đến một gym club ở gần nhà, và từ bữa đó câu lạc bộ thể dục trở thành một nơi không thể thiếu trong đời sống hàng ngày của tôi.
Sau một tuần tập thể dục đều đặn, bạn sẽ ngủ ngon hơn, giấc ngủ sâu không có ác mộng. Sau một tháng, bạn sẽ thấy mình gọn hơn, đỡ "nhão" hơn (vì mỡ đã tan bớt). Sau ba tháng, bạn sẽ thấy yêu đời hơn, ăn ngon hơn (nhưng nhớ là đừng bao giờ nghe theo "tiếng gọi của bao tử"). Sau sáu tháng, đuờnc ong lồi nếu chưa thành đường con lõm thì cũng đã trở thành đường thẳng. Và sau ít nhất một năm, mới có đuợc một cái bụng tuơng đối bằng phẳng như thời mới lớn. Đó là trong trường hợp bạn chú ý đến hàm lượng calories và chất béo trong thức ăn của bạn, chịu khó đọc những nutrition facts ở ngoài bao bì mỗi thứ bạn ăn, điều mà trên trái đất chỉ có mỗi một mình Hoa kỳ bắt buộc các hãng sãn xuất thức ăn ghi rõ trên bao bì. Ở các nước khác, thức ăn quá đắt đỏ, không dư thừa như ở Mỹ, nguy cơ mập phệ không có nên không có một nước nào bắt buộc phải có "nutrition facts" trên bao bì của thức ăn như ở Mỹ.
Sau một năm, trong khá cân đối, bạn đừng vội "ngủ quên trên chiến thắng" mà quên giữ đúng thời khóa biểu tập thể dục đều đặn, công lao của bạn trong một năm sẽ biến thành công cốc trong vòng một tháng! Đời đang vui bỗng thành buồn khi bạn soi gương và chợt thấy "thời oanh liệt" thắt đáy lưng ong cho đàn bà con gái hay bắp thịt cứng cáp cho phái nam đã lặng lẽ bỏ bạn ra đi từ lúc nào mà không một lời từ biệt!
Trong thực tế, không một người nào có một thân hình cân đối mà không phải chịu đựng cái đau của việc tập thể dục ở một lúc nào đó trong quá trình rèn luyện thân thể. Có người đau gót chân, có người đau mắt cá, có nguời đau bắp chân,có nguời đau ở đùi, tệ hơn thế, có nguời đau cả hai tay lẫn hai chân hay ê ẩm cả toàn thân. "No pain no gain". Tất cả những hội viên thường trực của gym club, một lúc nào đó trong đời đều đã phải uốn "Aleeve" hay " Motrin" để đỡ đau và có sức để tập thể dục đều đặn, trong xe luôn luôn có cream "Bengay" loại màu đỏ mạnh nhất để xoa vào những chỗ lâu lâu hay trở chứng đau nhức. Điều này chỉ xảy ra trong năm đầu tiên tập thể dục, sau đó, cơ thể bạn quen dần, và bạn biết loại fitness equipment nào thích hợp nhất với thể chất của mình, thì tình trạng đau nhức chỉ xảy ra khi bạn tập quá sức chịu đựng của cơ thể.
Nếu bạn có con nhỏ, Fitness 24 hours sẽ có phòng trông coi con bạn với nhân viên có license về "Child care" với đủ đồ chơi cho con nít từ 3 tháng đến 10 tuổi.Do vậy có con nhỏ không phải là một cái "good excuse" cho việc lười tập thể dục.
Ở mỗi trung tâm Fitness 24 đều có "Child Care center" để giữ con nít từ một tháng đến mười tuổi trong lúc cha mẹ các em đang tập thể dục các em được chơi trong một phòng rộng có đồ chơi rất đẹp, có sách và phim hoạt họa cho con nít. Có lần tôi tập thể dục quá đô, bị đau chân, phải ngồi nghĩ "ké" trong "child care", nhìn các em chơi đùa với đủ thứ đồ chơi, đủ thứ phương tiện, chợt nghĩ đến những em bé Việt Nam, và những em bé ở Ấn Độ, Phi Châu&.. mà thấy quả là cuộc đời chưa bao giờ có sự công bằng tương đối. Có những em mê chơi game trên PC trong "child care center" đến nỗi khi bố mẹ tập thể dục xong, gọi các em về, em vẫn không rời mắt khỏi màn ảnh computer, vào những cái máy chơi game nhỏ, còn khuyến khích bố mẹ:
- Bố mẹ ra tập thể dục thêm nữa đi, tập càng nhiều càng tốt.
Gần đây, khi mobile camera phone rất là phổ biến, Fitness Club phải ra nội quy tuyệt đối cấm sử dụng cellular phone trong locker room (phòng tắm và thay đồ). Hình như những người có thói quen chỉ thay quần áo ở cửa locker chứ không chịu mặc áo quần trong phòng tắm cá nhân riêng biệt, đã không còn cảm thấy an toàn khi chung quanh có người đang nói chuyện trên cellular phone, vì biết đâu chừng camera đang được mở ra, và đôi khi hình mình đang bị post lên một website nào đó cho bàn dân thiên hạ thưởng thức ....free!
Để bảo vệ sự riêng tư cho hội viên, Fitness Club đã cấm tuyệt đối tất cả các loại Cellular phone mở ra trong khu vực locker room. Dù vậy, cách tốt nhất để tự bảo vệ mình vẫn là nên mặc quần áo đàng hoàng trước khi ra khỏi phòng tắm cá nhân, bởi vì dù có locker nam và nữ riêng biệt nhưng cứ nên tự bảo vệ mình trước vẫn hơn.
Một ngày đẹp trời nào đó, thấy một người gọn gàng cân đối, rắn chắc đâu đó trên đường phố, xin hãy tin rằng đàng sau sự khỏe mạnh, cân đối đó là thời gian được tính bằng năm, là mồ hôi đổ xuống mỗi tuần ít nhất bốn lần, là sự kiên nhẫn, là kỷ luật rất cao tự đặt ra cho chính bản thân mình. Cái đẹp của khuôn mặt không thể thay đổi bằng ý chí và sự kiên nhẫn, nhưng cái đẹp của vóc dáng, sự cân đối mọi người đều thích nhìn, ai cũng có thể làm được với sự kiên trì và ý chí của mình. Sau vài năm tập thể dục đều đặn, thảng hoặc nếu nghe có ai đó đề cập đến câu ca dao dân gian:
"Béo chê béo trục béo tròn,
Gầy chê xương sống, xương sườn đưa ra."
Bạn có thể yên trí là người ta ám chỉ... ai đó, chứ không phải chính mình.
Nguyễn Trần Diệu Huơng.
Santa Clara, hè 2005
Trôi Sông Lạc Chợ & Chuyện Tết Ất Dậu
Sống ở Mỹ gần hai mươi năm, chúng tôi chú trọng đến Tết dương lịch nhiều hơn là Tết âm lịch và không nhớ nỗi tên gọi của mỗi cái Tết, mặc dù vẫn còn nhớ được đủ mười hai con vật biểu tượng của năm âm lịch. Còn tệ hơn thế, mỗi lần ai hỏi tôi tuổi con gì, tôi phải mở lại bộ nhớ của những dữ kiện không thường xuyên dùng đến hoặc giở cả mười ngón tay để bắt đầu đếm "Tí, sửu, dần, mẹo..." "Giáp, ất, bính, đinh..." Để nhớ tuổi ta của mình. Vậy mà năm nay, năm Ất Dậu, chắc chắn là tôi không quên vì đó là danh từ riêng tôi đã nhớ và sẽ nhớ suốt đời.
Hai chữ "Ất Dậu" với đồng bào tôi, đặc biệt là những người lớn tuổi gắn liền với những ký ức kinh hoàng, buồn thảm. Năm Ất dậu 1945, mẹ tôi vừa mới ra đời được vài năm, dĩ nhiên là chưa có tôi hiện hữu trên đời, những cụm từ "nạn đói Ất Dậu" đã in hẳn vào ký ức tôi từ thời thơ ấu, qua lời kể của ba thế hệ trong gia đình.
Hồi nhỏ, mỗi lần có một đứa nào trong chúng tôi ăn hơi nhanh, đều bị ba mẹ nhắc nhở, quở trách:
- Ăn uống phải khoan thai, chậm rãi, ăn nhanh cứ như sống trong năm đói Ất Dậu.
Hay khi ăn xong, cái chén còn vương vãi vài hạt cơm hay thức ăn vét không sạch đều bị bà nội hay bà ngoại dặn dò:
- Phải vét cho sạch, hạt cơm là hạt ngọc của trời. Trận đói Ất Dậu người ta phải bới từng đóng rác, kiếm bất cứ thứ gì có thể ăn được.
Chừng đó thôi nhưng đủ làm sống lại một hồi ức gắn liền với một giai đoạn lịch sử buồn bã của dân tộc, về những ngày quân đội Nhật bắt dân ta nhổ luau trồng đay, đem đến hậu quả hai triệu người Việt Nam chết đói! Lúc đó, Liên hiệp quốc chưa hình thành (mấy tháng sau trận đói Ất Dậu, United Nations mới được thành lập) phương tiện thông tin còn lạc hậu, nên ít ai biết đến những thân xác còm cõi của người Việt Nam nằm lây lất dọc đường vì đói.
Những lời kể của bà cố đặc từ miền Bắc vẫn còn văng vẳng bên tai tôi:
- Đận ấy, không có từ ngữ nào diễn tả được sự tàn ác của quân đội Nhật, và sự bất hạnh của người Việt Nam. Những đồng lúa trĩu nặng đến ngày giáp hạt, chờ ngày gặt hái, bị quân đội Nhật phá nát, lấy đất trồng đay. Nông dân, người trồng lúa là những người bị đói đầu tiên. Câu ngạn ngữ "Nhất sĩ nhì nông, hết gạo chạy rông, nhất nông nhì sĩ" không đúng tý nào trong năm đói Ất Dậu.
Đay để phục vụ cho quyền lợi của nước Nhật, đâu có làm no bụng những người dân quê Việt Nam chân chất. Người ta bỏ làng ra đi, hy vọng tìm một nghề để kiếm sống, tìm bất cứ công việc gì có thể nuôi thân qua ngày. Nhưng ai cũng đói, rất ít người thừa cơm gạo để trả công hay chia xẻ với người khác. Hậu quả là nhiều xác người chỉ còn xương bọc da, mỏi mệt, đói khát nằm chết dọc đường. Thoạt đầu, người ta còn chôn cất đàng hoàng. Về sau, càng ngày càng nhiều xác chết khắp nơi chính quyền địa phương lúc đó phải lấy xe bò đi dọc đường nhặt xác người. Những xác chết nằm chất chồng trên xe bò được rắc vôi bột trắng (phương tiện thô sơ của sáu mươi năm trước) để khử trùng. Những người đánh xe bò đi nhặt xác chết, lúc đầu còn nhỏ nước mắt, khóc người bất hạnh, chết dọc đường, không cần thân bằng quyến thuộc. Lâu dần quen đi niềm xúc cảm biến mất họ đi thu lượm xác người như đi nhặt lá vàng mùa thu! Có những người đói lả, chưa chết, bị bỏ lên xe bò chở xác chết nhưng không còn sức để nói ra tiếng.
Bao giờ cũng vậy, kể đến đó những giọt nước mắt lăn dài trên khuôn mặt da mồi ở tuổi ngoài tám mươi, lúc đó của bà cố.
Bà nội thì lại kể cho chúng tôi nghe cái bi thảm của những người "đói đến vàng mắt" quơ cào trong những đống rác để tìm thấy bất cứ cái gì có thể bỏ vào miệng, làm dịu đi cái bao tử trống rỗng đã nhiều ngày. Rồi không biết có phải vì đói quá, sức cùng lực tận, thị giác mờ đi, có người cho vào miệng cả một chiếc giày cũ. Cũng từ dạo ấy, người ta nhận ra rằng, khi cho một người đói lâu ngày ăn, chỉ nên cho họ nước cháo trắng, giúp họ lại sức từ từ. Sau này, tôi vẫn tự hỏi không phải từ "đói vàng mắt" có mặt trong ngôn ngữ Việt Nam từ năm Ất Dậu 1945.
Từ trận đói Ất Dậu lấy đi hai triệu mạng người Việt Nam, mỗi một người dân của đất nước tôi, nhất là người miền Bắc, nạn nhân trực tiếp của trận đói 1945, đều hết sức trân quý "hạt ngọc của trời". Triều đình nhà Nguyễn cáo chung chấm dứt chế độ quân chủ, cha truyền con nối, nối tiếp nhau làm vua không ai thương tiếc, vì làm vua mà không mang lại được cơm no áo ấm cho dân thì soi gương cũng phải hổ thẹn với chính mình. Thời đó, không chỉ vận nước đầy nhiễu nhưỡng mà tình hình thế giới cũng đang lâm vào loạn lạc. Việt Nam tuy không tham dự vào thế chiến thứ hai 1939-1945 nhưng cũng đã mất đi cả triệu mạng người vô tội vì nạn đói. Và rồi, cũng vào năm 1945 ngày 5 tháng 8 hai thành phố Hiroshima và Nagasaki của Nhật biến thành hai cột khói trắng vĩ đại hình nấm sau khi bị Mỹ thả hai trái bom nguyên tử, cả triệu người Nhật chết không kịp nhắm mắt, phe trục "Đức-Ý-Nhật" xếp súng quy hàng liên quân đồng minh, chấm dút thế chiến thứ hai (cầu mong đó cũng là thế chiến cuối cùng của nhân loại).
Hồi đó, lần đầu tiên nghe được chuyện này trong giờ học sử thế giới tôi đã tha thứ cho người Nhật về tội bắt dân ta nhổ lúa trồng đay, gây ra trận đói Ất Dậu.
Cho đến bây giờ, mỗi lần hồi tưởng lại những mẩu chuyện được nghe thời thơ dại về nạn đói năm 1945, tôi vẫn tự hỏi phải chăng đó là 'cộâng nghiệp" của dân tộc mình. Dù lòng có từ bi đến đâu, dù đã tha thứ cho người Nhật sau khi biết chuyện hai thành phố lớn của Nhật bị tàn phá bởi hai trái bom nguyên tử, tôi vẫn không sai nhìn những người Nhật, hậu duệ của những người trực tiếp gây ra thảm họa đói khát của đồng bào tôi, với con mắt trong sáng đầy thiện cảm như nhìn những người dân ở các nước khác. Trong trí tưởng của tôi hai cột khói xám xịt hình nấm khổng lồ ở Hiroshima và Nagasaki đã che khất nhiều thứ, nhưng không che được hình ảnh những người Việt Nam đói lả người, chỉ còn xương bọc da, chết vất vưởng hai bên đường trong nạn đói Ất Dậu 1945. Bởi vì vết thương dù đã lành từ nữa thế kỷ trước nhưng vết sẹo vẫn còn đó, mãi mãi hằn sâu!
Tưởng đã trả xong "công nghiệp" ngờ đâu chỉ chín năm sau, tháng bảy năm 1954 một lần nữa gần một triệu người miền Bắc Việt Nam phải trả thêm một "công nghiệp" khác; cuộc di cư vĩ đại từ Bắc vào Nam, bỏ lại sau lưng của cải mồ hôi nước mắt, nơi chôn nhau cắt roan, mồ mả ông bà để làm một cuộc di cư vĩ đại vào miền Nam.
Nhiều người trong số họ ngay cả chính ông bà nội của tôi hai nhà giáo kỳ cựu, cứ nghĩ là chia đôi đất nước đến vĩ tuyến 17 chỉ một hoặc hai năm sau là thống nhất đất nước trở lại vào Nam như một cuộc lánh nạn tạm thời. Ngờ đâu, cuộc lánh nạn tạm thời năm đó, kéo dài đến 21 năm sau và nhiều người cho đến chết chẳng bao giờ có dịp nhìn lại quê hương hay người thân yêu của mình ở phía Bắc của vĩ tuyến 17. Cuộc di cư vĩ đại đó vượt qua dự trù của tất cả mọi phía liên hệ, được các nước Mỹ, Anh, Pháp, Ba Lan và Trung Hoa cung cấp phương tiện vận chuyển bằng cả đường hàng không và đường thủy. Máy bay, tàu thủy hết chuyến này đến chuyến khác lần lượt đưa hơn tám trăm ngàn người Bắc vào Nam, chưa kể gần một trăm ngàn người, bất chấp mọi thủ đoạn dụ dỗ ngăn chận tinh vi của chính quyền miền Bắc, vận tự tìm phương tiện, vượt sông Bến Hải vào Nam để lại sau lưng tất cả mọi thứ chỉ vì "Tự Do" chỉ vì "chúng tôi muốn sống".
Mỗi lần đến Tết, hay dịp tảo mộ vào "Thanh minh trong tiết tháng ba" như cụ Nguyễn Du đã viết trong truyện Kiều, rất nhiều người Bắc di cư đã dấu nỗi ngậm ngùi, bởi vì làm sao có thể giữ được mỹ tục tốt đẹp đó, nhớ đến tổ tiên, khi mồ mả ông bà và cả quê hương nơi chôn nhau cắt rốn đã mịt mù ở bên kia vĩ tuyến 17. Cách duy nhất để vọng tưởng tổ tiên là kể cho con cháu nghe về miền Bắc, về rất nhiều điều đã bỏ lại sau "cuộc bỏ phiếu bằng chân" của gần một triệu người Bắc di cư vào Nam. Nhờ vậy, thế hệ của chúng tôi những người chào đời vào đầu đệ nhị cộng hòa ở miền Nam trù phú vẫn có một ký ức đẹp đẽ về quê hương chưa được một lần nhìn thấy.
Quê nội, với tôi mờ ảo trong sương mù của tưởng tượng là Hà Đông với "Nắng Saigon anh đi mà chợt mát, bởi vì em mặc áo lụa Hà Đông" trong thơ của thi sĩ Nguyên Sa.
Tiếc là khi tôi lớn lên, đến tuổi mặc áo dài thì đất nước lại chìm vào một thời kỳ đen tối khác (cộâng nghiệp thứ ba). Học sinh trung học thập niên tám mươi không được và không có áo dài để mặc. Với tôi, sau này ở Mỹ, quê hương thứ hai cả áo lụa Hà Đông lẫn nắng Saigon đều chỉ có trong trí tưởng tượng. Lâu lâu, có dịp vào một tiệm bán hàng tơ lụa, tơ vẫn hỏi người bán hàng về lụa Hà Đông, nhưng chừng như những người Việt nam bán hàng ở Mỹ, cũng mù mờ như tôi không biết gì về áo lụa Hà Đông. May mắn nắng Saigon thì tôi còn nhớ rõ không giống nắng của California, lại càng không giống cái nắng ô nhiễm vì khói dầu cặn, khói xăng pha tạp chất, và khói thuốc lá của Saigon đầu thế kỷ 21. Ký ức ấu thời của tôi có những lời kể về miền Bắc của bà cố, rồi sau này là bà nội, thấp thoáng hình ảnh của áo lụa Hà Đông trong trí tưởng tượng. Ký ức thiếu thời được ghi lại bằng bộ nhớ của chính tôi, với vị ngọt đằm thắm của bưởi Biên Hoà với dòng chảy êm đềm của sông Đồng Nai đã đi vào văn học dân gian "Nhà Bè nước chảy chia hai, ai về Gia Định, Đồng Nai thì về". Tất cả những thứ đó cùng với thời nhỏ dại của tôi được sưởi ấm bằng nắng Saigon, bằng miền Nam mưa nắng hai mùa. Những tưởng đời sống sẽ êm đềm như dòng chảy của sông Đồng Nai, như màu nắng vàng óng quấn quýt bên bờ sông đã được một cựu học sinh Ngô Quyền-Biên Hòa, thi sĩ Nguyễn Tất Nhiên đưa vào thi ca.
Nắng bờ sông làm mờ trang vỡ cũ
Thuở học trò em làm khổ ai chưa"
Chúng tôi lớn lên, bắt đầu vào Trung học, chưa có dịp làm điệu với áo lụa Hà Đông, chưa có dịp "làm khổ" một nam sinh nào trong trường, ngược lại đã bị cả một hệ thống xã hội làm khổ, khủng bố tinh thần bằng rất nhiều hình thức từ sơ đẳng đến tinh vi. Thời đó những anh chàng mới lớn cùng trang lứa với chúng tôi, có cái khổ khác lớn hơn nhiều, cái khổ "cùng một lứa bên trời lận đận" sinh ra không đúng thời, cái khổ bố bị tù đày vì thấy mình bất lực trước khốn khó của gia đình, trước tương lai mịt mù, không có cả một tia hy vọng mong manh, trước vận nước đảo điên, không còn tâm trí để bị học trò con gái "làm khổ".
Hơn ai hết, chúng tôi từ lúc chưa khỏi tuổi thơ đã hiểu thế nào là "còn cha gót đỏ như son, mất cha lăn lóc như lon sữa bò". Anh chị em chúng tôi và những người bạn ở cùng cư xá sĩ quan, đã mất đi bóng mát của tình phụ tử, đã lớn lên chỉ có mẹ mà không có ba, mặc dù ba chúng tôi vẫn còn sống, đang bị đày ải trong lao tù cải tạo ở núi rừng âm u đầy chướng khí của miền Bắc. Tất cả những cái đó đây chúng tôi "lăn" qua bên kia bờ đại dương, một mình, từ lúc chưa bước vào tuổi hai mươi.
Quê ngoại, với tôi cũng mù mờ không kém (quê nội Hà Đông), nghĩa là tôi cũng chưa được một lần nào về thăm quê ngoại, chỉ được nghe kể về "cầu Trường Tiền sáu vài mười hai nhịp" về những cơn mưa dai dẳng trên những hàng cây sầu đông buồn thiu vào mùa đông của xứ Huế qua ông bà ngoại.
Bà ngoại và cả mẹ như đa số đàn bà con gái Huế, vốn là những người nấu ăn rất khéo nên dù chưa hề được đặt chân ra Huế tôi vẫn phân biệt được bánh bột lọc của Huế và bánh bột lọc của Saigon, bún bò, cơm hến của quê ngoại với bún bò, cơm hến của những nơi khác.
Còn nhớ cuối năm tiểu học, một lần cô giáo cho viết một bài luận văn "tả quê ngoại của em" lúc đó ở Biên Hòa còn ngây thơ tưởng là đâu cũng giống nhau, tôi đã mô tả cầu Trường Tiền trên sông Hương với hình ảnh cầu Gành trên sông Đồng Nai, rồi chợ Đông Ba được mô tả bằng hình ảnh chợ Biên Hòa. Đó là bài luận duy nhất trong những năm đi học tôi bị điểm thấp với lời phê rất dí dỏm của cô giáo "văn mạch lạc nhưng em đã trôi từ sông này sang sông khác, lạc từ chợ này sang chợ khác".
Từ đó, bạn bè và những người thân yêu đều gọi tôi là "đồ trôi sông lạc chợ". Kể cũng không oan chút nào, vì tôi là một trong số rất ít người chưa có may mắn thấy được quê hương mình. Tưởng là chỉ trôi nổi từ sông miền Trung đến sông miền nam, từ chợ Đông Ba đến chợ Biên Hòa, cái "nick name" ngày xưa vẫn định mệnh của riêng tôi và của hơn hai triệu người Việt Nam lưu vong, trôi từ sông ra biển, lạc từ quốc gia này qua quốc gia khác, đến một lục địa khác, chung sống hòa bình, hạnh phúc với những người khác ngôn ngữ, khác màu da.
Những năm sau này tương đối ổn định ở quê người, thật sự đã rất gần gũi hơn quê hương chôn nhau cắt rốn, đôi lúc tôi có ý định đi một vòng về miền Bắc thăm quê nội, về miền Trung thăm quê ngoại, thăm Quy Nhơn nơi tôi chào đời nhưng chỉ ở đó vỏn vẹn một tuần rồi theo ba mẹ vào sống ở miền Nam. Nhưng rồi cuối cùng, tôi bỏ ý định không muốn về vì tôi sợ trí tưởng tốt đẹp về quê hương của mình bị xóa nhòa. Hơn nữa, một người bạn thân, từ bé đã may mắn sống đầy đủ lớn lên ở Mỹ và chưa hề nếm mùi "xã hội chủ nghĩa" theo bố mẹ về thăm Hà Nội, quê nội của anh, khi qua lại Mỹ đã khuyên tôi chỉ nên nghĩ về kinh thành Thăng Long xưa cũ bằng "món ngon Hà Nội" của Vũ Bằng, bằng "Hà Nội ba mươi sáu phố phường" trong sách vở, trong câu hát nổi tiếng "Tôi xa Hà Nội năm lên mười tám khi vừa biết yêu"à anh cũng nói tiếp với đôi mắt xa xăm và nụ cười chưa kịp mở đã tắt:
- Tưởng là về thăm lại quê hương thì sợi dây gắn bó giữa mình với quê cha đất tổ được thắt chặt hơn, nhưng ngược lại sợi dây đó vốn đã lỏng lẻo lại càng lỏng hơn, chừng như sắp đứt, khi mắt thấy tai nghe nhiều điều đáng buồn xảy ra hàng ngày trên quê hương thứ nhất của mình. Hà Nội bây giờ hình như hoàn toàn khác biệt với Hà Nội trong văn chương và âm nhạc, trong tưởng tượng của anh! Sao đất nước mình khổ đến vậy hả em"
Một phần bị ám ảnh bởi lời khuyên của anh, một phần vì không có thì giờ để dọc theo chiều quê hương hình chữ S, mặt khác vì sợ phải chứng kiến "những điều trông thấy mà đau noun lòng' cho đến nay và có lẽ còn lâu, lâu lắm tôi mới có dịp về thăm Huế, Nam Định, Quảng Bình, Quy Nhơn, Biên Hòa. Tuy vậy, dù là đồ "trôi sông lạc chợ". Hằng năm vào mỗi dịp Tết âm lịch, tôi vẫn hướng lòng về với quê nhà, với những cái Tết thời thơ dại, trước năm 1975, vẫn dễ thương trong trí tưởng.
Ngược lại, không có ai kể cho tôi nghe về quê hương thứ hai, nơi mà tôi đã ra đi từ quê nhà với 57 người không hề quen biết trên một con thuyền dài khoảng mười lăm mét. Lúc đó, chúng tôi không có khái niệm gì về quê hương thứ hai, chị biết là mình đã bị dồn vào đường cùng, như vua An Dương Vương và Mỵ Châu bị giặc đuổi đến đường cùng phải nhảy xuống nước trầm mình, như Hai Bà Trưng bị quân thù đuổi đến Hát Giang, sau lưng là quân Tàu, trước mặt là dòng sông, hai bà nhảy xuống sông tuẫn tiết. Chúng tôi cũng bị đẩy đến ngõ cụt, không còn cách nào khác hơn phải đưa chính mạng sống của mình ra đánh cuộc với định mệnh, với đại dương, đầy hiểm nguy, bão táp. Đi mà không biết mình sẽ đến đâu và cũng chưa biết mình có đến được bờ bến mới hay không, mà vẫn cứ đi thì thực sự đã bị dồn đến đường cùng, không lối thoát.
Gần một tuần lênh đênh trên đại dương, ở hải phận quốc tế chỉ có trời và nước, không có cả một cánh chim, không có một người thân yêu nào bên cạnh "thân gái dặm trường' không biết có ngày nào gặp lại ba mẹ, tôi vẫn hài lòng với chọn lựa của mình, như gần một triệu người Việt Nam đã đến bến bờ tự do với tư cách tỵ nạn chính trị của thuyền nhân, mà Cao Ủy Tỵ Nạn Liên Hiệp Quốc, UNHCR vẫn gọi là "boat people". Tưởng là mình đã rất liều khi dám rời vòng tay của gia đình vượt biển một mình ở tuổi còn rất trẻ, nhưng khi đến trại tỵ nạn Paula Bidong ở Mã Lai, gặp các em ở "khu vực cô nhi" (minor refugee residential Section, nơi cư trú dành cho các em dưới mười sáu tuổi đến trại tỵ nạn một mình) tôi thấy các em cam đảm hơn tôi nhiều, và những gia đình bị cả một hệ thống xã hội dồn vào đường cùng không phải là ít.
Cái Tết đầu tiên xa nhà của tôi, một mình ở trại tỵ nạn Paula Bidong đúng vào giờ giao thừa, có tiếng gõ vào mái tôn thay cho tiếng pháo Tết, có mùi hương trầm quen thuộc mang hình bóng quê nhà, tôi nhớ nhà, nhớ ba mẹ quay quắt, cái nhớ sâu đậm có lẫn chút xót xa như hai câu thơ của Bà Huyện Thanh Quan:
Nhớ nước đau lòng con quốc quốc
Thương nhà mỏi miệng cái gia gia
Sáng mùng một, thay cho phong bì đỏ mừng tuổi (tôi không có tiền ở trại tỵ nạn) tôi đã mang một số thức ăn (nhân viên Cao Ủy Tỵ Nạn LHQ mua tặng riêng tôi để cám ơn tôi đã giúp họ trong công việc thiện nguyện thông dịch ở các cuộc phỏng vấn thuyền nhân) tặng lại cho Hạnh, cậu bé thuyền nhân chỉ vừa mười một tuổi cũng vượt đại dương một mình như tôi, cũng có bố đang bị tù đày ở miền Bắc như ba tôi. Ngoài Hạnh, trong giờ dạy anh văn thiện nguyện cho các em ở trường Trung học của trại tỵ nạn do sister Carol người Úc điều hành, tôi cũng biết thêm Nga, Thanh, Trúc những em nhỏ chưa đến mười lăm nhưng đã trưởng thành và khôn ngoan từ những khốn khó của gia đình và đất nước sau năm 1975, cũng như tôi các em không hề có thời mới lớn, mà đã bước từ thời thơ ấu vào tuổi trưởng thành một cách rất đột ngột như vận nước. Hồi đó, tôi đã dạy cho các em chữ "dignity" và đã khuyên các em luôn nhớ "We lost everything, but never lose our dignity" khi viết câu đó lên bảng đen, tự dưng nước mắt tôi lăn dài, các em ở tuổi mười bốn, mười lăm cũng khóc theo. Những giọt nước mắt đó vẫn còn đọng trong tâm khan tôi trong những ngày lưu lạc quê người, cũng có niềm tin ở một thế hệ trẻ Việt Nam lưu vong có đủ cả đầu óc và trái tim. Tôi tin các em, những con chim non bị rời tổ ấm quá sớm phải bay bằng đôi cánh non dại, chưa phát triển đầy đủ, phải bôn ba xứ lạ quê người một mình, dẫu sẽ gặp nhiều khó khăn, nhưng ít nhất Hạnh, Thanh, Trúc và Nga của tôi sẽ đứng vững như kỳ vọng của ba mẹ các em khi phải dứt ruột gởi con ra biển một mình.
Trong gần 15 năm dài từ năm 1975 đến năm 1990 cả trăm ngàn thuyền nhân đã may mắn đến bến bờ tự do, đến các first asylum ở Thái Lan, Mã Lai, Singapore, Indonesia, Hong Kong, Phi Luật Tân. Nhưng không may hàng ngàn thuyền nhân đã mãi mãi gởi thân vào lòng đại dương. Hình trình đơn độc, nhỏ nhoi tội nghiệp trên biển Đông của những chiếc ghe tỵ nạn mong manh đã đánh động lương tâm của những người yêu dân chủ tự do, được rất nhiều quốc gia giúp đỡ, từ những thuyền đánh cá nhỏ bé của những ngư dân người Thái, Mã, Phi đến những thương thuyền to lớn của các nước Mỹ, Nhật, úc Tây Đức, Na Uy, Hòa Lan và Đan Mạch cứu giúp. Thế giới tự do bị đánh động lương tâm trước những thuyền nhân Việt nam lênh đênh trên đại dương. Họ dang tay cứu giúp, mở đầu cho một kỷ nguyên cả triệu người Việt Nam lưu vong khắp thế giới sau gần một trăm ngàn người di tản đầu tiên tháng 4/1975 khi Việt Nam Cộng Hòa mới sụp đổ.
Sau nhiều tháng dài ở các trại tỵ nạn từ Mã lai sang Phi Luật Tân dừng chân ở Nhật vài ngày tôi được định cư ở một thành phố phía Bác California, có cái tên rất dễ thương "Mountain View" tôi vẫn diễn dịch bằng tiếng Việt là "tầm nhìn của núi". Thành phố có những hàng cây có nhiều bóng mát che chở, bảo bọc chúng tôi từ thuở chân ướt chân ráo, còn đầy mùi nắng gió ở trại tỵ nạn, đến Mỹ rất nhẹ nhàng với vài bộ đồ và một túi xách đựng hồ sơ, giấy tờ do Cao Ủy Tỵ Nạn Liên Hiệp Quốc cấp phát. Một điều rất khôi hài là chúng tôi chỉ biết về quê cha đất tổ bằng lời kể của người lớn trong gia đình, bằng sách vở, mà chưa hề được nhìn thấy quê hương, nhưng chúng tôi rành từ lịch sử đến từng vết nứt trên đường trong thành phố "tầm nhìn của núi" đó là "home town" của chúng tôi ở quê hương thứ hai. Ở đây, vào cuối Đông, đầu Xuân tình cờ đúng vào dịp Tết âm lịch, những hàng cây đào mọc giữa lòng đường, chia đôi hai chiều lưu thông của xe cộ, nở đầy hoa đào hồng nhạt, mang về được một nửa vế trong hai câu thơ nói tiếng của nhà thơ Vũ Đình Liên:
Mỗi năm hoa đào nở
Lại thấy ông đồ già
Bày mực tàu giấy đỏ,
Bên phố đông người qua...
Và chúng tôi, những người Việt lưu vong có hoa đào trong tầm mắt, tầm tay, lại cứ phải tưởng tượng đến ông đồ già mặc áo dài khăn đóng Việt Nam, với mục kính trễ xuống sống mũi như những bức vẽ của họa sĩ Vi Vi trên báo Tuổi Hoa thời trước năm 1975.
Nếu có ai hỏi tôi quê hương của tôi ở đâu, tôi sẽ trả lời ở "tầm nhìn của núi" rồi để mặc người hỏi muốn suy diễn cách nào cũng được. Vì ở đâu cũng có núi, ở đâu cũng có biển, có sông, ở đâu cũng có không khí. Nơi nào bảo bọc, chở che cho chúng ta có cơ hội học hành thành người, nơi đó là quê hương. Vả chăng, chúng tôi đã sống ở đây với một số năm tháng dài gần bằng nửa số tuổi của mình, nữa thời gian kia được chia đều cho trước và sau năm 75 ở quê nhà, cùng với 3 trại tỵ nạn ở Châu Á. Xin đừng trách chúng tôi là đồ "trôi sông lạc chợ" khi chúng tôi sống thoải mái bình an ở quê hương thứ hai và luôn có cảm giác của "Từ Thức" mỗi lần về thăm quê nhà.
Và dù có là đồ "trôi sông lạc chợ" mỗi độ Xuân về, vẫn xin được có một lời cầu nguyện chân thành cho một tương lai tươi sáng hơn của quê nhà, xin được thắp một nén hương lòng thành kính để tưởng nhớ những người đã nằm xuống cho chúng tôi có được ngày hôm nay.
Nguyễn Trần Diệu Hương
(viết bằng ký ức và lời kể của bà cố, bà nội, ông bà ngoại và từ những lời giảng của thầy Phố, cô Minh Tâm-Trung học Ngô Quyền Biên Hòa ngày xưa)