- Lá Lành Đùm Lá Rách
- Chỉ Còn Là Ký Ức
- Thôi Thế Cũng Đành
- Chung Quanh Đời Sống
- Tháng Tư: Còn Đó Ngậm Ngùi
Lá Lành Đùm Lá Rách
Mất gần hai tiếng đồng hồ loay hoay với con gấu mập tròn đựng tiền để dành cả năm nay, bé An mới móc ra được những đồng bạc cắc, và những tờ giấy bạc bé đã bỏ vào từ sinh nhật năm ngoái. Mỗi năm, bé chỉ "móc ruột" con gấu đựng tiền tiết kiệm một lần vào đúng ngày sinh nhật của mình để "tổng kết tài sản". Hầu hết "tài sản đó" theo gợi ý của ba mẹ được gởi vào quỹ tiết kiệm tên bé, chỉ được phép rút ra khi nào bé đủ 18 tuổi, bắt đầu vào đại học. Số tiền lẻ bé sẽ mua kem từ ice cream truck thỉnh thoảng vẫn chạy ngang nhà. Trong ngăn frozen của tủ lạnh, vẫn có kem mẹ mua về từ chợ, nhưng đó không phải là loại kem bé thích, mà là loại kem mẹ thấy tốt cho sức khỏe của bé. Mỗi năm, một hoặc hai lần, được mua từ ice cream truck bé được tự ý chọn loại kem Nestle vanilla có phủ chocolate và almond bên ngoài.
Năm nay, còn một tuần nữa mới đến sinh nhật bé, nhưng bé móc tiền từ ruột con gấu nâu ra sớm hơn vì bé muốn gởi toàn bộ số tiền để dành cả năm, giúp đỡ cho các bạn nhỏ khoảng bằng tuổi bé ở Indonesia, nhất là các bạn mồ côi đã mất cả cha lẫn mẹ từ thiên tai Tsunami vào cuối tháng mười hai năm 2004. Tiền bé để dành được cả năm từ những đồng tiền lẻ mà bé được lì xì từ các bác, chú, các cô từ dịp Tết năm ngoái đến những đồng quaters mẹ vẫn móc ra từ túi quần của ba mỗi lần giặt quần áo. Cứ thành thông lệ mỗi thứ bảy đến ngày mẹ giặt đồ, bé bưng con gấu mập tròn của mình đến cạnh máy giặt chờ mẹ giũ các túi áo, túi quần trước khi bỏ vào máy giặt. Lần may mắn nhất bé và con gấu có được tờ giấy hai mươi đồng có hình ông Jackson, tổng thống thứ bảy của Mỹ. Lần nào kém may mắn bé cũng được một đồng nickel với mấy pennies, có lần xui nhất không có đến cả một penny, thấy mặt bé đầy thất vọng ba rút từ cái ví nhỏ của ba cho bé một đồng để "nuôi con gấu". Ba mẹ không có thông lệ cho tiền để bé tự mua đồ như các bạn cùng lớp vẫn có khoản tiền "allowance" vài đồng mỗi tuần để được tự ý mua bánh kẹo hay soda từ vendor machine của trường. Ấy vậy mà con gấu của bé cũng no bụng quanh năm và quỹ tiết kiệm của bé ở ngân hàng đều đều tăng lên mỗi năm, vì chỉ có tiền vào chứ không hề có tiền ra.
Năm nay, bé lên mười tuổi đủ để hiểu biết nhiều chuyện của người lớn, hiểu điều gì đang xảy ra quanh mình. Bé đã có dự định vẫn gởi "tiền chẵn" vào ngân hàng như hướng dẫn của ba mẹ, nhưng "tiền lẻ" sẽ để mua mấy cái kẹp tóc đủ màu như con bạn thân Leslie. Nhưng mới đây, khi ngày lễ giáng sinh vừa mới qua, cây thông Noel vẫn còn trong một góc nhà đồ ăn thừa từ bữa tiệc nửa đêm (đêm duy nhất trong năm bé được thức đến quá nửa đêm) vẫn còn chất đầy trong tủ lạnh, thì thiên tai xảy ra ở Châu Á hoàn toàn khác hẳn với thảm họa ngày 9 tháng 11 ở Mỹ do một số người xấu bụng, cuồng tín gây ra. Nhưng cũng giống nhau ở chỗ cả ngàn em bé bỗng dưng mồ côi, cả ngàn người chết đột ngột tức tưởi. Ở trường, ngày đầu năm trở lại trường sau kỳ nghỉ mùa đông, cô giáo và cả counselor đã giải nghĩa cho cả lớp hiểu tại sao có thiên tai, cái gì xảy ra sau một trận động đất lớn, cách cứu giúp những gia đình nạn nhân của Tsunami. Không chỉ từ lớp học, bé và các bạn cũng đã thấy rất nhiều hình ảnh trên báo chí, trên màn ảnh ti vi khi ba mẹ coi tin tức, bé lờ mờ hiểu ra ở đâu đó trên địa cầu không phải ai cũng hạnh phúc cũng no đủ như mình. Ở trường thứ sáu tuần sau, trường sẽ cho bán đấu giá những bức vẽ của lớp hội họa trong số đó bức dán giấy màu có tên là "Thiên thần cũng khóc" do rất nhiều học sinh dán bằng giấy màu theo nét vẽ của thầy dạy lớp hội họa. Để chia xẻ nỗi buồn với những nước bị thiên tai, bức vẽ chỉ được hình thành bằng màu trắng và những màu tối như xám, đen, xanh đậm. Cả trăm học sinh của trường đã cùng góp bàn tay hoàn thành "Thiên thần cũng khóc" có hình những đợt sóng cao vút màu xanh đậm, bãi cát phẳng lì màu trắng, tượng trưng cho sự trống vắng của mặt đất sau khi sóng cuốn trôi tất cả: nhà cửa, cây cối và cả con người ở một góc khác là những mảnh nhỏ màu xám nằm hỗn độn, tượng trưng cho sự sụp đổ sau cơn động đất 9 độ Richter, chôn vùi hàng chục ngàn người Indonesian trong lòng đất. Bức tranh đã được hoàn thành hôm đông người đến trường, tranh trong phòng triển lãm sẽ có bán đấu giá với hy vọng sẽ có thêm một ít tiền giúp nạn nhân của Tsunami.
Đó là chuyện ở trường, ở nhà sắp đến sinh nhật thứ mười của bé, ba mẹ hỏi nếu bé muốn tiền để dành cả năm từ con gấu "bùng binh" thay vì gởi vào "college Fund" của bé sẽ được donate cho các em bé mồ côi ở các nước Nam Á bị thiên tau Tsunami. Bé bằng lòng ngay với ý kiến đó của ba mẹ và còn dồn cả "tiền lẻ", đúng ra để mua cái kẹp tóc màu hồng, matching với con bạn thân Leslie, để gởi vào quỹ cứu trợ của "American Red Cross". Ba mẹ sẽ chở bé đến trụ sở hội American Red Cross để giao toàn bộ số tiền bé để dành được cả năm cho quỹ cứu trợ. Số tiền nhỏ thôi, chỉ có ba trăm lẻ bốn đồng bảy mươi lăm cents, không đủ để đem về những thứ mà các bạn nhỏ bằng tuổi bé đã có trước ngày xảy ra thiên tai, nhưng đó là món quà từ tận lòng thành của bé, để chia xẻ với những người kém may mắn, như tinh thần "lá lành đùm lá rách" của người Việt Nam và tinh thần nhân ái của người Mỹ.
Bởi vì từ nhỏ, ba mẹ đã dạy hai anh em bé rất nhiều điều về đùm bọc, thương yêu về những chia xẻ cần có mà những người may mắn được sống no đủ phải nghĩ đến người kém may mắn. Ba mẹ cũng kể là thời ba mẹ còn trẻ, ba đã từng dừng chân ở trại tỵ nạn Banthad ở Thái Lan, mẹ đã ở trại tỵ nạn Galang ở Indonesia. Hồi đó, mặc dù ba mẹ được nuôi bằng quỹ cứu trợ của UNHCR (United Nationals High Commissions for Refugees- Cao Ủy Tỵ Nạn Liên Hiệp Quốc) những người dân của hai nước này đã rất là tử tế với ba mẹ, đã cho ba mẹ và hàng chục ngàn người Việt Nam tỵ nạn ở tạm trong khi chờ được định cư ở quốc gia thứ ba. Bây giờ, giúp đỡ lại họ cũng là một cách để gián tiếp trả ơn.
Cả ba lẫn mẹ điều phải đi làm, bé không có được ông bà nội hay ông bà ngoại ở bên cạnh như nhiều bạn cùng tuổi khác. Nhưng dù rất là bận rộn, ba mẹ cũng dành thì giờ ban đêm và mỗi cuối tuần để nói chuyện với anh em bé. Chừng như chưa đủ, ba mẹ còn dạy anh em bé trong lúc đang lái xe, trên đường chở bé đến trường, đến một club sinh hoạt nào đó, đến trường Việt ngữ, hoặc trong những lần cả gia đình đi chơi xa cuối tuần, ba mẹ đã kể về những ngày mới lớn đầy cơ cực của ba mẹ ở quê nhà sau tháng tư năm bảy mươi lăm, những ngày mà cả ba mẹ sống không có bố (cả ông nội lẫn ông ngoại bị đày ở những trại cải tạo ở miền Bắc Việt Nam) những ngày mà ba mẹ luôn luôn đói bụng vì không bao giờ được ăn uống đầy đủ vì tự nguyện nhường thức ăn cho các em nhỏ hơn. Cho đến bây giờ mỗi lần kể lại, mặt ba buồn hẳn đi, và mẹ thỉnh thoảng vẫn runf rưng nước mắt. Có một thời ở quê nhà, ba mẹ đã bị cả một hệ thống xã hội đẩy vào cảnh khổ, nên ba mẹ luôn luôn đóng góp cho rất nhiều tổ chức từ thiện để giúp người không may ở khắp mọi nơi trên thế giới, đặc biệt là ở Việt Nam. Bé thấy điều đó rất rõ hàng ngày từ những cái thư cảm ơn của các tổ chức từ thiện, đến các tờ Newsletter kèm theo hình ảnh và tường thuật các công trình cứu trợ gởi về nhà cho ba mẹ. Rất âm thầm lặng lẽ, ba mẹ dù không giàu có lắm, cũng đã thu xếp để giúp người không may hằng năm.
Lần này động đất và sóng thần đã chôn vùi cả trăm ngàn người và làm cả triệu người mất hết từ nhà cửa, tài sản đến cả người thân yêu. Cả nước Mỹ, từ thổng tống đến người lao động bình thường, từ người già sống ở viện dưỡng lão đến các em đều mở lòng từ tâm đóng góp giúp đỡ 11 nước ở Châu Á bị thiên tai. Có những học sinh nhỏ chỉ mới 8 tuổi như em Kyle Sinagra cùng với cô em Jessica Scheye đứng ở góc đường của thành phố Lincoln tiểu bang Nebraska để bán bánh cupcakes lấy tiền giúp trẻ em nạn nhân của Tsunami. Những cái bánh cupcakes homemade chắc là không ngon và fresh như bánh ở bakery nhưng hình ảnh hai em nhỏ đội mũ len quấn khăn quàng cổ đứng ở lề đường giữa mùa đông xám xịt lạnh giá với hai tấm bìa cứng viết nguệch ngoạc "Asia Victims Fund" và "SouthEast Asia Aids, please" đã làm mọi người xếp hàng mua bánh, chắc là không phải chỉ để mua bánh mà còn trả tiền gấp nhiều lần giá trị của những cái cupcake để giúp đỡ các em ở Châu Á và làm hạt giống nhân từ ở trong lòng các em bé Hoa Kỳ sinh sôi nẩy nở mạnh hơn.
Ở một tiểu bang khác, em bé Antonio Cabrera mới 3 tuổi đã được bố mẹ chở tới trụ sở hội American Red Cross địa phương chỉ để giao một bịch nylon, loại đựng sandwich bình thường chứa đầy loại tiền từ pennies đến những tờ giấy mười đồng có hình ông tổng thống thứ mười sáu của Mỹ, Abraham Lincoln, nhờ chuyển tới giúp các em bé mồ côi sau thảm họa Tsunami.
Tất cả những điều đó làm bé An thấy mình "pround to be an American" hơn bao giờ hết và thấy những đóng góp của mình rất nhỏ nhoi, không đáng kể. Bé muối có cái kẹp tóc màu hồng giống như con bạn Leslie nhưng không có cái kẹp, không có tiền bỏ thêm vào tài khoản "College Fund" của bé năm nay, bé vẫn sống bình an, hạnh phúc, đầy đủ với ba mẹ. Ở phía bên kia của địa cầu, mất đi vòng tay ấm áp của bố mẹ, những em bé mồ côi bất hạnh sẽ thấy ấm lòng hơn vì cả nhân loại những người may mắn hơn thuộc rất nhiều chủng tộc, nhiều màu da đã thể hiện tinh thần "lá lành đùm lá rách" đúng lúc.
Bên cạnh những giúp đỡ vật chất tình người, những người kém may mắn còn được sự quan tâm trong lời cầu nguyện của hàng triệu người trên thế giới đủ chủng tộc đủ công giáo. Sau thiên tai, cầu mong bệnh tật sẽ không tấn công những người bị nạn, để họ còn có sức vươn lên từ hoang tàn và mất mát.
Nguyễn Trần Diệu Hương
Santa Clara, một tuần sau thiên tai Tsunami ở Southern Asia
Chỉ Còn Là Ký Ức
Cái thư mới nhất gởi về từ Baghdad ở đất nước Iraq mà nhiều anh lính Mỹ còn rất trẻ chỉ quen sống trong nệm ấm chăn êm, trong cơm cha áo mẹ đã mô tả một cách cường điệu là "địa ngục của trần gian" Trung sĩ Andrew đã viết cho vợ:
- Nếu vì một lý do nào đó, anh không trở về anh muốn em được hạnh phúc. Anh yêu em, Denide, nhiều hơn anh có thể nói hay diễn tả. Hãy tự lo cho bản thân em và làm bất cứ điều gì em có thể làm được để có hạnh phúc. Anh sẽ trở về ngay khi nào anh có thể.
Như một lời trăn trối, Andrew chỉ trở về quê nhà bằng phần xác, còn phần hồn có lẽ đã rong chơi ở "hạc nội mây ngàn".
Cô gái hai mươi tuổi, khuôn mặt "baby face" còn phảng phất nét trẻ thơ rất dễ thương, đã ngất xỉu trong khu nội trú của trường đại học California ở Santa Barbara khi hai người lính Mỹ trong quân phục chỉnh tề hiện ra ở cửa phòng cô. Hai người lính chưa kịp mở miệng, Denise đã hiểu, cô té xuống với trời đất quay cuồng, tối sầm trước mắt. Mặc dù khoa học kỹ thuật ở đầu thế kỷ 21 vô cùng hiện đại với đủ phương tiện liên lạc nhưng tin báo tử của những người lính luôn luôn được mang đến thân nhân gần nhất với cách cổ điển: bằng người với "eye contact" để trực tiếp, chia xẻ nỗi đau không cùng với thân nhân của người chết trận bằng lòng thành kính và chân thành.
Tại sao không phải là ai khác" Mà là Andrew yêu dấu của cô" Tại sao đạn không bay lệch một chút để Andrew chỉ bị thương rồi được trở về với cô, dù bằng thân thể không còn lành lặn" Thượng đế ở đâu, hình như đang còn bận rộn giải quyết nhiều bất hạnh, nhọc nhằn khác của chúng sinh, hình như không nghe thấu lời cầu nguyện mỗi đêm của cô.
Họ có một mối tình đầu đẹp như mơ, thơ mộng như tiểu thuyết. Denise để ý đến Andrew năm cô học lớp tám vừa bước vào tuổi mười ba mới lớn. Đến nhà người bạn thân cùng lớp ít nhất ba lần mỗi tuần, hình ảnh Andrew, ông anh của bạn vừa bước vào tuổi mười lăm, vừa tháo vát, vừa học giỏi lại cao lớn, đẹp trai, đã in vào lòng Denise từ lúc nào không biết. Nhưng Denise không dám hé môi, ngay cả với người bạn thân, cô lặng lẽ trải lòng mình trong 6 quyển nhật ký dày cộm.
Hầu như mỗi ngày cô điều tìm thấy một điều tốt hay thú vị về Andrew để chia xẻ với nhật ký. Chừng như chưa đủ, cô có cái hộp giày không phải đựng giày mà đựng tất cả những đồ vật liên quan đến Andrew. Chẳng hạn hai viên kẹo bạc hà "Tic-tac" màu xanh bích ngọc nhỏ xíu, Andrew đã dốc từ hộp kẹo nhỏ hình khối chữ nhật ra lòng bàn tay mời Denise cô bạn thân nhất của em gái mình: Denise nhặt hai viên kẹo từ lòng bàn tay của Andrew. Đó là lần đầu tiên cô đụng tay vào bàn tay Andrew. Hai hạt kẹo bé tí chỉ lớn hơn hai hạt đậu xanh một chút, Denise không dám ăn, giữ lấy trân quý nâng niu đem về gói kỹ trong một mảnh nylon nhỏ xíu, lâu lâu nhớ Andrew cô lấy ra đưa hai viên kẹo màu xanh ngọc bích lên mũi hít hà tưởng như đang chạm vào lòng bàn tay của Andrew. Hai cái muỗng nhỏ màu hồng của tiệm bán kem nổi tiếng Baskin Robbins đã chạm vào môi Andrew ở lần anh dẫn hai cô gái mười bốn tuổi đi ăn kem bằng tiền kiếm được từ cái pay check đầu tiên trong đời. Khi cả bọn ăn xong, Denise dành phần dọn dẹp mang tất cả ly và khăn giấy bỏ ở giỏ rác trong góc tiệm, cô len lén lấy cái muỗng trong ly kem của Andrew dấu trong túi quần Jeans mang về rửa sạch và cất trong một cái chai nhỏ rồi để cái chai trong hộp shoe box. Bất cứ đồ vật gì có liên quan đến Andrew nếu có thể giữ được Denise đều lén nhặt về cất giữ cẩn thận trong cái hộp vuông như "bảo tàng viện tình yêu" của mình. Kể cả những cái nhỏ nhặt nhất như một mẫu chỉ nhỏ rớt ra từ túi quần hay gấu áo của Andrew. Bởi vì với cô Andrew là tất cả, Andrew còn là người con trai đầu tiên cầm hai bàn tay thon nhỏ, mềm mại của cô một cách trân trọng, nâng niu.
Tình yêu của Denise dành cho Andrew lớn dần với tuổi mới lớn của cô theo cấp số nhân. Mẹ cô không biết cô bạn thân nhất, em gái của Andrew cũng không biết chỉ có những quyển nhật ký biết, cái hộp shoe box thì càng ngày càng đầy ắp. Vậy mà Andrew biết, mặc dù mãi đến sau ba năm Denise yêu thầm Andrew mới nhận ra cô bạn thân của em mình với mái tóc ngắn bồng bềnh màu brunette đẹp tự nhiên rất là "hương đồng gió nội" có cái "deep crush" cho mình.
Cũng có thể mãi đến năm Denise mười sáu tuổi Andrew mới nhận ra vì lúc đó cô bắt đầu bước vào giai đoạn dậy thì đẹp hẳn ra, hai con mắt màu hạt dẻ hình như to hơn, mơ màng hơn, hàng lông mi dài thêm, cong vút mà không cần phải dùng đến mascara, khiến Andrew nhìn vào đó lâu hơn, nhiều hơn và anh chợt nhận ra tín hiệu của tình yêu.
Dĩ nhiên những ngày tháng đó chiếm đầy cả một quyển nhật ký của Denise. Cô trải lòng mình trên những trang giấy trắng, có giấc mơ của người con gái vừa bước vào tuổi dậy thì, thấp thoáng hình ảnh "chàng trẻ tuổi vốn dòng hào kiệt" tên là Andrew.
Khi họ trở thành người yêu của nhau cô em gái của Andrew, người bạn thân nhất của Denise bị "ra rìa". Những lần đi ăn kem vào mùa hè ở Baskin Robbins chỉ có Denise và Andrew. Những lần đi ice skating vào mùa đông cũng chỉ có hai người. Họ thương nhau không những chỉ vì "physical attractive" mà còn vì tính tình của họ cũng hiền hòa, cũng tốt bụng, cũng không mê tiền như hầu hết nhân loại. Họ cũng có một ước mơ nhỏ nếu sau này lấy được nhau họ sẽ có một căn nhà nhỏ, sơn màu xanh dương nhạt, trong đó căn phòng lớn nhất nhà sẽ được Andrew vẽ bầu trời mùa xuân với mây trắng lững lờ, có hoa carnation cánh trắng nhụy vàng mà cả hai người cùng thích, có cô nàng Dorothy mặc áo ô vuông xanh trắng trong chuyện thần thoại cùng cái giỏ đựng đầy trứng đang vừa đi vừa múa hát mơ mộng. Như vậy, dù bầu trời có trở nên xám ngắt vào mùa đông buốt giá, hay đầy mây trắng đục vào những ngày mùa thu se lạnh, họ vẫn có hoa lá mùa xuân trong tầm mắt.
Andrew có một năng khiếu bẩm sinh đặc biệt về hội họa. Điều đó thể hiện rất rõ ngay cả trên những cái thư anh gởi về từ mặt trận của Iraq đến trường đại học UC Santa Barbara cho Denise. Mỗi một cái phong bì là một bức tranh đầy nghệ thuật dù chỉ được vẽ bằng viết mực bình thường. Địa chỉ người nhận vẫn được viết bằng chữ thường để chắc chắn là người đưa thư có thể đọc được và thư đến tay người nhận mà không bị thất lạc. Nhưng tên của người nhận, chữ Denise được vẽ thành những hình khối 3D nằm rải rác trên mặt phong bì hết sức mỹ thuật. Mỗi một bức thư gởi về từ chiến trường đều mang theo những nốt nhạc tình yêu bên trong và một bức vẽ nghệ thuật bên ngoài.
Khỏi phải nói, Denise trân trọng những bức thư đó lắm. Ngày xưa, thời mời "thầm yêu trộm nhớ" nhiều thứ đã được tích lũy trong những hộp shoe box. Bây giờ, đã là vợ chồng, đã mang họ của Andrew, cô sinh viên Denise dành cả một góc phòng trong khu nội trú ở trường đại học trưng bày những cái phong bì gởi về từ một vùng đất xa xôi, đầy bất ổn.
Khi họ quyết định lấy nhau, cả nhà hai bên ủng hộ hoàn toàn, nhất là ba của Denise. Đời ông không dư dả nhiều vì ông bà lấy nhau sớm quá, chưa có sự nghiệp, rồi lũ con lần lượt ra đời, là một bức tường trở ngại ngăn ông bà vươn lên một cuộc sống tốt đẹp hơn, ông không muốn Denise đi vaò vết xe đổ của bà ngày trước, ông không có điều gì phàn nàn về Andrew, đó là một chàng trai hiền hòa, chịu khó biết lo toan nhưng Andrew vừa mới gia nhập quân đội, lại đúng lúc có chiến tranh ở bên Iraq rất nhiều quân nhân Hoa Kỳ được gởi qua đó. Chuyện chiến trường thì tên bay đạn lạc rủi nhiều hơn may, ông không muốn con ông phải vướng vào vòng khổ lụy khi nó còn quá trẻ. Ông đã nói ra những suy nghĩ của mình với con gái, chỉ rõ cho Denise thấy là chờ cho đến lúc cô ra trường và Andrew hoàn thành thời gian phục vụ trong quân đội lúc đó là thời điểm tốt nhất để lấy nhau. Nhưng hình như ông không lay chuyển được quyết định của cô con gái vừa bước vào tuổi hai mươi.
Thật ra, Denise chỉ có quyết định làm đám cưới với Andrew khi cô được biết Andrew sẽ được đưa qua Iraq vào cuối tháng hai, 2004. Họ bắt đầu từ năm Denise đang học lớp mười và Andrew ở lớp mười hai với tình yêu học trò nhẹ nhàng, thơ mộng. Tốt nghiệp trung học, Andrew tình nguyện gia nhập quân đội và trải qua những ngày quân trường ở Fort Hood, Texas. Không giống như rất nhiều người khác vẫn bị cảnh "cách mặt xa lòng" tình yêu của họ ngày càng mãnh liệt.
Dạo đó, từ cuối lớp mười một cho đến khi tốt nghiệp trung học, phòng riêng của Denise thường đóng kín cửa sau giờ đi học và mỗi cuối tuần cô không còn cái thú đi shopping hay đi movie với bạn học mà cô dành thời gian trên đường dây điện thoại đường dài giữa California và Texas. Anh lính trẻ Andrew không về thăm người yêu được đã dồn hết thương nhớ vào những lá thư qua cả đường bưu điện email. Andrew cũng nhờ tiệm hoa gần nhà đem hoa đến cho Denise đều đặn mỗi dịp valentine, sinh nhật hay những ngày đặc biệt với riêng hai người.
Đời sống quân ngũ không cho phép hai người gặp nhau đều đặn như ngày Andrew còn là một học sinh trung học nhưng mỗi kỳ phép ngắn ngủi của một người lính còn đang trong thời gian huấn luyện ở quân trường đều được dành trọn cho Denise và tình yêu đầu đời của hai người trên những con đường có nhiều bóng mát ở miền Bắc California.
Họ biết mình còn rất trẻ và chưa hề nghĩ đến chuyện lấy nhau cho đến khi Andrew cho Denise biết anh sẽ được tăng cường cho liên quân Mỹ-Anh cùng nhiều nước khác ở Iraq. Andrew muốn Denise sẽ gắn bó với mình ở một mức độ sâu đậm hơn, anh ngỏ lời cầu hôn với cô "Will you marry me"" trong một lần gặp gỡ hiếm hoi gần đây giữa hai người ở thành phố quê hương của họ, nơi họ sinh ra, lớn lên và có một tình yêu đầu đời thanh khiết và nồng nàn.
Không một chút đắn đo, ngại ngùng. Denise nhận lời cầu hôn trả lời bằng chữ "Yes" nhẹ nhàng nhưng đầy cương quyết. Cô muốn cho Andrew có thêm một lý do quan trọng hơn để giữ gìn mạng sống của mình ở chiến trường, với rất nhiều đạn bom, khói lửa, hiểm nguy như bất cứ một cuộc chiến tranh nào dành cho một người lính.
Như trong một bài hát phổ từ thơ của thi sĩ Hữu Loan đám cưới của một người lính sắp ra trận rất đơn giản, gấp rút nhưng tình yêu thì đầy ắp, ngút ngàn. Họ chỉ có năm ngày để làm hôn thú, để chuẩn bị đám cưới so với ít nhất là ba tháng với đủ thứ "things to do checked list" cho một đám cưới bình thường ở Mỹ. Giống hệt một lực sĩ điền kinh chạy nước rút, mọi thứ đều nhanh ngoài sức tưởng tượng. Denise chọn ngay cái áo cô thử đầu tiên là áo cô dâu trong ngày cưới, cái áo trắng đơn giản và tinh khiết như tình yêu đầu đời của cô. Họ chạy ngược chạy xuôi ở thành phố quê nhà và nhiều thành phố lân cận để tìm một nhà hàng cho một tiệc cưới đơn giản, nhưng với thời gian năm ngày và một ngân khoản rất eo hẹp, cả hai không tìm được một nơi nào nhận tổ chức tiệc cưới cho mình. Cuối cùng hàng xóm của Andrew biết "Bên ấy có người ngày mai ra trận" thương anh lính trẻ đã gác ước mơ vào trường mỹ thuật để "lo việc đao cung" thương cô sinh viên năm thứ nhất sắp gởi lòng và gói tình yêu vào tuyến đầu ở một đất nước xa xôi, bằng lòng cho họ tổ chức đám cưới với hình thức "garden wedding" ở sân sau nhà mình.
Không hài lòng lắm nhưng thương con, bố mẹ cùng gia đình hai bên tụ tập lại với đủ nghi thức tối thiểu của một đám cưới. Đó là một ngày đầu xuân, hoa lá bắt đầu nãy mầm trên những cành cây khô cằn. Đám cưới của họ có hoa anh đào hồng nhạt của mùa xuân rụng xuống phủ lên chiếc Volvo cũ kỹ của Denise, không đài các như những chiếc Limousine được kết hoa tươi, trang trí như của đa số đám cưới khác nhưng với họ hạnh phúc vượt trội, quý hơn tất cả mọi thứ trên đời. Denise đi lấy chồng khác hẳn những người con gái khác, không có cảnh "chăn đơn gối lẽ gởi lại giường xưa" mà tất cả những thứ đó: chăn mền, gối và cả cái giường nhỏ với tấm nệm size twin được chở về từ khu nội trú ở UC Santa Barbara. Cô chưa cần giường đôi vì thời gian trong quân ngũ của Andrew còn kéo dài gần 4 năm nữa.
Mọi thứ nhanh và hoàn hảo như ước mơ giản dị cũa họ. Cả hai có một đêm tân hôn nồng nàn hạnh phúc ở một khách sạn lớn nợi vị cựu lãnh đạo số một của Hoa Kỳ đã "ngủ đô" qua đêm trong một chuyến đi "thăm dân cho biết sự tình". Sáng hôm sau, Andrew lái xe đưa Denise về lại trường đại học California ở Santa Barbara sau tuần Spring Break của cô. Một ngày ở đó anh lính trẻ chuẩn bị lại chỗ ở cho vợ tươm tất hơn. Bàn tay tháo vát và nghệ sĩ của Andrew dựng nên những kệ sách treo tường rất mỹ thuật, nơi đó không những là chỗ để những quyển text book dày cộm mà còn là chỗ để trưng bày những bức thư, bức vẽ của Andrew gởi về từ chiến trận. Anh lính trẻ chỉ có một ngày để lo cho nơi ăn chốn ở của vợ. Ngay ngày hôm sau, anh bay về lại đơn vị ở Texas và có mặt ở Baghdad chỉ hai tuần sau ngày đám cưới.
Hành trang ra trận của Andrew bây giờ không chỉ có súng đạn và đồ dùng cá nhân của một người lính ở tuyến đầu mà còn có một tấm hình đám cưới của hai người, có đôi mắt màu hạt dẽ của Denise, đôi mắt long lanh, buồn vời vợi tiễn chân anh vào một sáng trời mù sương ở ven biển Santa Barbara.
Những ngày sau đó, với Denise là những ngày chờ thư chồng, từ những dòng Email ngắn gọn, những cái E card đến những cái thư đầy yêu thương được trình bày mỹ thuật như những bức họa nhỏ được gởi qua bưu điện. Dù bận rộn với bài vở, Denise không quên cầu nguyện mỗi ngày và cô cũng theo dõi tin tức chiến trường, nhất là từ thủ đô Baghdag của nước Iraq, nơi có Andrew yêu dấu của cô đang "xếp bút nghiên theo việc đeo cung".
Andrew kể cho vợ nghe những điều bình thường ở chiến trường, giúp đỡ đồng đội bị thương hay những giọt nước mắt được nén vào lòng khi nhìn một đồng đội khác vĩnh biệt cõi đời một cách đột ngột ở tuổi hai mươi đầy sức sống vì một viên đạn bay lạc hướng. Anh viết thư cho vợ bất cứ lúc nào có thể viết được, trước giờ đi ngủ hay ngay cả trong giờ trực chiến bên cạnh chiếc Humvee mà bàn viết là cái mũ helmet của một đồng đội vừa mới được tản thương về hậu cứ. Cũng như Andrew, Denise cũng gởi nhớ thương vào những cái thư với địa chỉ là hộp thư quân bưu ra chiến trường. Cô kể cho chồng nghe về những ngày đầu tiên của cô ở trường đại học, về nỗi nhớ ngút ngàn của một người vợ trẻ về ước mơ của hai người có căn nhà với bức tường màu xanh nhạt. cuối thơ, cô luôn khuyên anh cẩn thận giữ gìn mạng sống, không chỉ cho anh mà còn cho cô, cho hạnh phúc trước mắt của hai người. Andrew trả lời qua thư:
"Em đã nói nếu anh không ra mặt trận ở Iraq em sẽ chưa làm đám cưới với anh vì ba em muốn tương lai mình vững vàng hơn, nhưng mình đã có một đám cưới nhanh và đẹp như một giấc mơ. Cảm ơn em, sweetie hôn nhân của mình và tình yêu của em là tất cả những điều anh cần để sống vững vàng với lòng tự hào của một người lính ở tuyến đầu nhiều bất trắc. Hết hạn phục vụ trong quân đội anh sẽ học về mỹ thuật, lúc đó chắc em đã học xong và là một cố vấn về hôn nhân và gia đình dịu dàng dễ thương nhất phải không vợ yêu dấu của anh" Mình sẽ có tiền nhưng không cần nhiều lắm chỉ đủ để sống, bởi vì với chúng ta tình yêu của mình là một món quà lớn nhất thượng đế dành cho mình mà không một tài sản nào, dù lớn đến đâu, có thể mua được."
Hai ngày trước khi Andrew vĩnh viễn rời bỏ đời sống cả hai nói chuyện được mười lăm phút qua điện thoại, anh cho cô biết anh vừa viết cho cô ba thư liên tiếp trong ba ngày và gởi qua đường bưu điện. Cô đang chờ những cái thư mà cô biết sẽ chuyên chở tình yêu và nâng cao ý chỉ của cô.
Vậy mà, bây giờ anh đã bỏ cô, bỏ đời sống nhiều hệ lụy, nhiều lo toan để về với "hạc nội mây ngàn". Một người bạn chở cô từ trường về với gia đình để đón hình hài của Andrew về với cô vài ngày trước khi về với lòng đất, vả chăng cô cũng cần sự nâng đỡ của ba mẹ cô của cả hai gia đình để cô có thể đứng vững trước nỗi đau, có lẽ là lớn nhất đời người.
Rồi cô sẽ về lại trường để hoàn thành việc học để cố đi hết đường đời chắc chắn sẽ dài và buồn lắm khi không còn Andrew hiện hữu trên đời. Rồi "Life is still going on" Denise sẽ phải thích nghi với đời sống không có Andrew bên cạnh nhưng cô biết những bức thư của Andrew ước mơ của hai người sẽ có một góc trang trọng trong ký ức của cô và sẽ theo cô đến cuối cuộc đời.
Nguyễn Trần Diệu Hương
Để tưởng nhớ tất cả những người đã nằm xuống vì hai chữ tự do.
Thôi Thế Cũng Đành
Chuyên là một trong số rất nhỏ của những người lập gia đình lần đầu ở tuổi ngoài ba mươi, sắp đến giai đoạn “down of the hill”. Lập gia đình muộn dĩ nhiên có nhiều bất lợi, nhưng cũng có rất nhiều thuận tiện. Vì “gừng càng già càng cay” lập gia đình càng muộn, càng có nhiều kinh nghiệm về đủ mọi mặt. Từ cách tổ chức đám cưới đông, vui mà không hao, không bị ai phàn nàn, đến cách chuẩn bị bước vào đời sống “đi thưa về trình”. Lần này thì không phải thưa mẹ, trình cha, mà thưa trình với “người dưng khác họ”.
Nhìn tới nhìn lui trong danh sách bạn bè cùng lứa, hay những người lớn hơn, hình như không ai “quality” trong việc trở thành cố vấn đáng tin cậy của Chuyên. Thật ra không phải là Chuyên đặt tiêu chuẩn cao cho “cố vấn hôn nhân và gia đình” nhưng trong những người bạn thân của Chuyên, hình như không ai đủ tiêu chuẩn làm ‘cố vấn hôn nhân” cho Chuyên. Hồi còn ở Việt Nam thì Chuyên còn nhỏ xíu, chưa được biết nhiều người. Ở Mỹ thì đời sống rất khép kín và đầy tất bật, Chuyên không có dịp quen biết nhiều người, ngoài “mối thâm giao” với tụi bạn từ thời còn chơi cò cò, chơi búp bê ở quê nhà và một hai người bạn thân từ thời còn đầy mùi nắng gió ở trại tỵ nạn. Nhưng người bạn này rất may mắn thành công trong sự nghiệp “hoạn lộ thênh thang” nhưng hạnh phúc gia đình thì luôn luôn ở trong ngõ cụt bế tắc!
Như Trinh chẳng hạn, dù đã lập gia đình, cứ tối thứ bảy đến chơi nhà bạn ở đến gần nửa đêm, nếu không bị “đuổi” thì nhất định không về. Hay Trung, cứ việân đủ cớ -từ khó ngủ đến chuyện phải làm việc nhiều cho kịp “dealine”- để ngủ trong phòng làm việc cạnh cái masterbedroom của hai vợ chồng. Đến Mai, thì mức độ tinh vi còn cao hơn, cứ mỗi khóa học, Mai lại lấy một lớp ở trường đại học mặc dù Mai đã có cử nhân từ hơn mười năm trước để mỗi cuối tuần ôm sách ra thư viện với một cái “good excuse” với chồng "Em phải học từ grade B trở lên mới được hãng bồi hoàn học phí."Khi ông chồng “ngây thơ” và cả tin bảo vợ "Em học lấy “C” đủ pass là được rồi. Hãng không bồi hoàn học phí thì anh bồi hoàn cho em." Thì Mai lại có cớ khác "Tình hình công việc ngày càng người khôn, của khó em phải lấy cao học để bảo đảm nếu mất việc này thì còn tìm được việc khác, mà với major của em thì phải từ điểm B trở lên mới đủ sức thuyết phục."
Thật ra có lần Mai thú thật với chúng tôi:
- Có lẽ tao sẽ học đến già “keep busy” để càng có ít thời gian với chồng càng tốt. Nói thẳng ra thì tội nghiệp, bỏ thì thương mà vương thì tội, nên đi học là “thượng sách” vừa mở mang kiến thức vừa đỡ bực mình vì thấy mình đã sai lầm trong quyết định lớn nhất đời người.
Không giống như người Mỹ bản xứ, vui thì sống với nhau, không hợp nhau thì đường ai nấy đi, nghèo thì dễ dàng hơn, chỉ lấy áo quần rồi lái xe đi sau đó gởi giấy ly dị về nhà cũ để lấy chữ ký của chồng/vợ cũ, giàu thì phức tạp hơn phải đến văn phòng luật sư chia của, đôi khi buồn hơn chia cả con. Khi hai bên cùng chán nhau và chán đời nên không để ý là mình còn phải chia cho luật sư gần 30% tài sản chung, mặc dù ông ta chưa bao giờ đóng góp một penny nào vào tài sản mà hai vợ chồng đã chắt chiu từ nhiều năm qua. Người Việt dù sống ở Mỹ dù đã vào thế kỷ 21 vẫn rất khó khăn khi đi đến chuyện “anh đi đường anh, tôi đường tôi”. Nhiều người bạn của Chuyên nhìn từ phía ngoài thì rất êm êm hạnh phúc, “đồng vợ đồng chồng tát biển đông cũng cạn” nhưng bên trong thì luôn có sóng gió hoặc có tình trạng “vung không đúng số với nồi”. Về chuyện này, mặc dù không gặp may về đời sống gia đình Trinh vẫn giữ được tính khôi hài từ hồi còn đi học:
- Lúc đầu thì đúng là “nồi nào vung nấy” nhưng về sau không biết từ lúc nào, hình như “cái vung bị rớt xuống đất” nên bị méo mó, không còn tròn trịa như trước, thế là có cảnh “vung không đúng số với nồi”.
Chưa hết, công việc hàng ngày của Chuyên là một chuyên viên dinh dưỡng cho tổ chức WIC (Women Infant Children) chuyên cấp phiếu sữa cho các bà mẹ trẻ với thu nhập ở dưới mức nghèo khổ, hầu hết chưa đến hai mươi, còn ở tuổi teenager làm Chuyên có dịp thấy và nghe “những điều trông thấy và đau đớn lòng” đàng sau những nụ cười thiên thần và những đôi mắt trong trẻo ngây thơ của các em bé được mẹ bồng theo mỗi lần phải gặp Chuyên. Điều không may là họ phải làm mẹ khi chính bản thân học chưa đủ trưởng thành và cũng cần có một bà mẹ săn sóc cho mình như người Mỹ vẫn nói “Baby has a baby”. Điều may mắn là họ ở Mỹ một đất nước giàu có tiêu chuẩn sống cao nhất quả đất, dù tiêu chuẩn bảo hiểm y tế còn nhiều điều đáng phàn nàn, nhưng tiêu chuẩn cho các em bé ở những gia đình nghèo thì gần như ở mức độ hoàn hảo. Vì những bà mẹ teenager còn quá trẻ, chưa đủ kiến thức để lo cho mình, dĩ nhiên không đủ sức và không biết cách lo cho con, nên chính phủ phải thuê những nhân viên như Chuyên, hướng dẫn những bà mẹ chưa trưởng thành cách nuôi con, cách chọn thực phẩm đủ dinh dưỡng để xã hội có một công dân khỏe mạnh về thể chất sau này.
Đó là chuyện dài về gia đình ở Mỹ, một nơi có đời sống vật chất bỏ xa tất cả các quốc gia khác và hình như cũng nhiều stress nhất thế giới. Như Trinh đã kể:
- Có những hôm ở sở gặp đủ thứ bực mình, công việc thì dồn dập người cộng sự thì làm biếng làm việc không có hiệu quả, trên đường lái xe về nhà gặp một người lái xe thích “ra dấu bằng ngón tay giữa” về nhà gặp ông chồng không hiểu vợ thì chỉ muốn lái xe đi đến chỗ nào chỉ có trời, có biển để mong gió thổi đi mọi bực mình.
Cho nên Chuyên chưa thấy chuyện lập gia đình riêng là một nhu cầu mặc dù ba mẹ như bao nhiêu người lớn tuổi khác, vẫn muốn Chuyên “yên bề gia thất” càng sớm càng tốt. Cứ nhìn những người bạn đã lập gia đình mỗi lần được đi chơi với bạn học cũ cứ hớn hở như chim vừa được thả khỏi lồng, Chuyên thấy sống một mình hình như là một hạnh phúc mà ít ai thấy.
Vậy mà, bây giờ Chuyên cũng “thôi thế cũng đành” phải lập gia đình vì thấy đã đến lúc cần người để “niềm vui nhân đôi, nỗi buồn chia hai” như lý thuyết. Dù không được hỏi ý kiến những người bạn thời thơ dại cũng đã chia xẻ với Chuyên nhiều kinh nghiệm rất thật của riêng mình.
Yên đã một lần ly dị, đang tương đối hạnh phúc ở hôn nhân lần thứ hai quả quyết:
- Đời sống gia đình thông thường nhiều “bad time” hơn là “good time” nhưng nếu mình khôn ngoan và có kinh nghiệm thì biết cách lẫn tránh những lúc “bad time”.
Mai thêm vào:
- Cách tránh “bad time” tốt nhất là đi học vừa thoải mái tinh thần, vừa có thêm kiến thức.
Mẹ khuyên Chuyên:
- Đàn bà con gái phải luôn luôn dịu dàng, dù ông chồng có ngang bướng đến đâu! Nước đổ vào đúng lúc thì có thể dập được lửa cháy, nhưng không đúng lúc thì lửa càng bùng lên cao. Phải nhớ là nếu đàn bà con gái không dịu dàng thì không còn là đàn bà, con gái nữa.
Bà Paula ở sở là một trong số rất ít những người Mỹ có một gia đình khá ấm êm, cho là:
- Nếu nghe thấy điều gì không hài lòng, thì phải giả vờ như không nghe thấy điều đó. Đôi lúc phải biết nhượng bộ lúc cần, dù là mình đúng hoàn toàn. Phải biết lùi bước bây giờ để sau đó tiến lên được ba bước.
Đó là những điều Chuyên sẽ khắc ghi khi bước vào “đời sống hai người”.
Ở Mỹ người ta có rất nhiều “brial workshop” cho những cô dâu tương lai với đầy đủ hướng dẫn từng bước một, từ việc nhỏ nhặt như chọn một bó hoa cầm tay cho “flower girl” hay cách làm những gói quà bé xíu xinh xinh như một lời cám ơn vật chất rất cụ thể đến những người khách bỏ thì giờ quý báu đến dự ngày vui nhất đời của mình, đến cách chọn lựa một căn nhà cho một gia đình mới với ngân sách riêng của mỗi người. Nhưng hình như không ai chuẩn bị tinh thần cho một người con gái bước vào một “milestone” lớn nhất đời người. Cho nên không ai ngạc nhiên khi thấy tỷ lệ ly dị ngày càng tăng cao, đã vượt qua cái mức 50% từ lúc nào! Ở California thì tỷ lệ đó càng “khủng khiếp” hơn: hai phần ba những người đã từng nói “I do” trước mục sư, linh mục hay quan tòa với lời hứa “đồng cam cộng khổ” cùng “the better half” ngày nào (nay đã trở thành “the worst nightmare”) đã nộp đơn xin trở về đời sống độc thân.
Chừng như đời sống càng bận rộng, người ta càng không có thời gian cho riêng mình, thì lấy đâu ra thời gian cho người khác" Rồi ngày tháng cứ trôi qua, đôi lúc tưởng chừng nhanh hơn vận tốc của ánh sáng, người ta càng nhiều tuổi thì càng trở nên khôn ngoan, dè dặt hơn trong tất cả mọi chuyện nhất là chuyện lập gia đình.
Người bạn thân nhất khi đến dự lễ đính hôn của Chuyên đã tặng Chuyên quyển “Men from Mars, Women from Venus” với lời nói rất chân thành:
- Tụi tao không đứa nào đủ tư cách để khuyên mày cách sống hạnh phúc đến “răng long đầu bạc” như thời ông bà, bố mẹ mình. Thôi thì giữ lấy quyển sách này để khi nào “mây đen kéo về” thì giở sách ra đọc những lời khuyên của ông tiến sĩ John Gray để còn đường trở về với hạnh phúc trong xanh.
Chuyên đã đọc qua được vài chương và thầm cầu nguyện mình đủ sức để “đem cả hai hành tinh Mars và Venus” vào trong mái nhà nhỏ của riêng mình. Sống ở hành tinh nào đi nữa thì người ta cũng cần ánh sáng của mặt trời, và phải tìm ra bí quyết để giữ mặt trời ở với mái gia đình quanh năm.
Ấy vậy mà khi Chuyên đem điều này chia xẻ với bà Paula bà cười thành tiếng:
- Well, my dear, trong trường hợp này thay vì nói “God bless America” phải đổi là “God bless you”. Nhớ là khi cơn giận nổi lên, không ai còn thấy được mặt trời hay 8 hành tinh còn lại mà chỉ thấy cái tôi vĩ đại và hành tinh của riêng mình. Bởi vậy, người ta phải tốn rất nhiều tiển để trả cho chuyên viên Psychology therapist ở đó mọi người tha hồ nói về ưu điểm của mình và lên án khuyết điểm của người khác và cuối cùng nghe được một vài lời khuyên mà nếu người ta bình tĩnh hơn thì không bị mất thì giờ, không phải trả những khoản tiền không nhỏ người ta vẫn có thể nhận ra.
Theo phong tục người Mỹ, Chuyên cũng đến hai department store quen thuộc để thực hiện “Brial register” một ở Bloomingdale với những đồ dùng bằng crystal mà Chuyên rất thích, một ở Target để hợp với túi tiền của những người bạn cùng làm việc rất có lòng nhưng ngân sách eo hẹp. Không giống như người Việt Nam, người Mỹ thường mừng đám cưới cho cô dâu bằng một tiệc nhỏ gọi là “brial shower” thường được tổ chức trước ngày đám cưới khoảng một hay hai tuần ở phòng ăn trưa confeerence room trong sở. Ngày đó cũng có weeding cake, chú rể tương lai cũng được mời đến, những chai apple cider được mở ra cũng sủi bọt vàng óng ánh như champagn thứ thiệt. Ngày hôm đó mọi người bạn trong sở mang đến một món ăn như hình thức pot luck, nhóm cùng làm việc với cô dâu lo phần trang trí và quà được mang đến đúng với loại hàng, màu sắc và kích thước mà cô dâu tương lai đã register ở department store. Tất cả những đồ dùng cô dâu muốn đều đã đăng ký ở tiệm hay có thể đọc thấy trên website với giá bán lẻ. Nếu là một món hàng đắt tiền nhiều người có thể góp tiền lại để cùng mừng cô dâu. Đó là một cách tính toán rất thực dụng của người Mỹ vừa mừng món quà đúng ý cô dâu vừa đỡ tốn tiền vừa tránh cho cặp vợ chồng mới cưới cảnh có một đống quà mừng ngoài ý muốn không biết để chỗ nào, “bỏ thương thương mà vương thì tội”.
Chưa hết cả cô dâu và chú rể tương lai lại phải bỏ ra ít nhất là một ngày đi khám sức khỏe tổng quát đủ thứ từ máu, nước tiểu đến HIV. Điều này để bảo đảm thế hệ tương lai tránh khỏi những bệnh tật bẩm sinh hay bệnh nan y, bảo đảm xã hội sẽ chỉ có những công dân khỏe mạnh bình thường. Ngồi ở phòng lab với đủ thứ bệnh nhân, với đủ thứ hình ảnh của “lão, bệnh và tử” Chuyên gọi người bạn thân để được nâng đỡ tinh thần. Qua đường dây điện thoại tiếng bạn trong trẻo vang lên:
- Chịu khó một chút. Đã đem nửa đời còn lại cho người khác thì tiếc gì một ngày, kiên nhẫn thêm một chút và cũng để biết cảm giác “đoạn trường ai có qua cầu mới hay”.
Chuyên tự an ủi dù sao mình cũng tránh được cảnh “chưa lấy nhau mà đã tính đến chuyện bỏ nhau” bằng cách ký “pre-nuptial agreement” như một thỏa thuận về tài sản của mỗi bên đã có trước ngày lấy nhau là của riêng mỗi người. Sau này chẳng may không thể chịu đựng nhau nữa có lôi nhau ra tòa ly dị thì vẫn có lằn ranh cố định khi phân chia tài sản. Chuyên không nghĩ đến và không muốn làm chuyện này vì nếu đã mất nhau thì tài sản có mất thêm cũng không làm đau lòng thêm nữa. Ấy vậy mà hầu hết người Mỹ và nhiều người Việt Nam đã làm điều này như một bảo đảm để không may “nửa bên kia” có ra khỏi đời mình thì tài sản, công trình mồ hôi nước mắt của mình vẫn còn ở lại. Thường thì bên nào giàu hơn bên đó hăng hái thuyết phục người kia ra tòa ký “pre-nuptial agreement” trước cho... chắc ăn! Để sau này nếu tình có đội nón ra đi thì vẫn còn tiền để lại.
Với Chuyên điều này chưa bao giờ ở trên “checked list” chuẩn bị đám cưới bởi vì Chuyên hiểu cả mình lẫn “nửa bên kia” đều có quan niệm “tri túc tiện túc đại túc hà thời túc” của cụ Nguyễn Công Trứ. Và khi hai bên tương đương về mọi mặt, như người Mỹ vẫn gọi là “compatible” thì thôi cho qua chuyện “pre-nuptial agreement”.
Sắp bỏ lại thời con gái sau lưng điều duy nhất làm Chuyên bùi ngùi là “mối tình mang theo” thời mới lớn. Đó là thời mắt sáng môi tươi ăn chưa no lo chưa tới, không hề tính toán nhưng tình yêu rất thơ mộng và thần thánh. Tình đầu nhẹ như mây trời, thanh khiết như áo trắng học trò chỉ có nắm tay nhau một lần rồi thôi, vậy mà sẽ ở mãi với Chuyên suốt đời. Dù đời sống ở Mỹ có tất bật đến đâu một lúc nào đó tâm hồn bình an, nghĩ về quá khứ chắc hẳn là không ai quên được tình đầu.
Chỉ mong đời sống gia đình của Chuyên cũng được ấm êm như ba mẹ, mặc dù Chuyên hiểu không có mặt biển bình yên nào không có sóng ngầm ở bên dưới. Và để đạt được điều đó hẳn là phải đòi hỏi lòng vị tha từ cả hai phía. Chữ “nhẫn” phải chăng là nền tảng cho sự kết hợp giữa hai người dưng khác họ (và đôi khi khác cả chủng tộc, màu da) dưới cùng một mái nhà"
Nguyễn Trần Diệu Hương
Viết để “đường dài hạnh phúc cầu chúc cho người” và mừng ngày 07/31/04 của KL&MT
Chung Quanh Đời Sống
Hãy để tự do ngân vang và chia xẻ niềm cảm hứng với tất cả mọi người.
Hãy giữ lấy giấc mơ và chuyển cho thế hệ sau.
Barry Manilow
Composer & singer
Cái cầu thang máy ở phía Đông, cạnh building C từ basement parking lên mặt bằng thường dở chứng. Có lúc không mở cửa được. Có lúc cửa nhất định không chịu đóng. Lúc đầu, những người trực tiếp dùng thang máy phía đông đều lên tiếng. Người bận rộn thì viết e mail cho những thành viên của hội đồng quản trị complex phàn nàn về cái phòng thang máy hay dở dở ương ương. Người rãnh hơn thì đến dự cuộc họp hàng tháng của "HOA" Home Owners Association để nói lên những trở ngại khi thang máy bị hư. Nhưng coi bộ mọi biện pháp đều không đạt hiệu quả cao. Vì cầu thang có được sửa, nhưng hư lại chỉ trong vòng một tuần. Lâu dần không ai thèm để ý đến cái cầu thang "nắng không ưa, mưa không chịu" đó nữa.
Có khó gì đâu, thang máy này hư thì ta dùng thang máy khác, ở building phía Tây hay chịu khó đi bằng cầu thang thường, chỉ có mười tám bậc thôi, cũng không vất vả lắm lại đốt được ít nhất là mười tám calories mỗi lần lên, xuống. Mười tám calories thì chỉ bằng khoảng 15% của một cây "cà rem diet" loại "low fat, low carb" nhưng dù sao 'có còn hơn không". Cả ngày ngồi trong office rộng rãi, khang trang hay trong góc cubicle vuông vắn, chỉ thấy được bầu trời qua khung cửa sổ, không những không đốt được calorie nào mà lại đưa vào cơ thể một năng lượng quá sức thăng dư, từ chocolate khoai tây chiên, bánh kẹo và đủ thứ "junk food" trong phòng ăn ở sở làm, những thức ăn mà người ta mua ở chợ khi đang đói, khi "mắt to hơn bụng" lúc về nhà thấy ân hận và sợ "cầm lòng không đậu" trước những thứ thực phẩm đầy sức kích thích với khẩu vị nhưng là kẻ thù của sức khỏe nên đem vào để ở phòng ăn trong só gọi là "free food" (hay đồ cho không, biếu không)…. Và những thành phần thặng dư đó định cư vĩnh viễn ở bụng hay eo hay thậm chí ở cằm, đồng minh với thời gian trong việc tàn phá cơ thể.
Do vậy, người ta không ồn ào phản đối, và không hoài công "take further action" vì xem ra đời sống không bị phiền nhiều lắm vì cái cầu thang dở chứng ở phía đông. Không những thế, lại còn tiết kiệm được tiền bạc nhất là những người có "bệnh" cứ vào các tiệm trong Mall hay chợ là mua sắm thấy hay hay thì mua, mua mà không tự hỏi mình có thật sự cần đến món hàng hay cứ mua về để đó, chất đồng đầy nhà. Khi nào hết chỗ trong closet, storage hay garage thì bỏ ra một ngày cuối tuần đem đến "goodwill" hay "thrity" cho bớt, vừa lấy được biên lai trừ thuế, vừa làm việc thiện, lại vừa có chỗ để chứa đồ mới. Những đồ vật thăng dư đó đa số là áo quần, có những cái còn nguyên nhãn hiệu chưa hề đụng đến, bảng giá vẫn còn nguyên thẳng hoặc nếu có thấy "guilty" thì lại tự biện hộ, nhờ vậy, kinh tế dễ tăng trưởng hơn, tạo ra công ăn việc làm cho nhiều người, mà những người mắc "bệnh shopping" thì trực tiếp góp phần đẩy chỉ số 'consumer index" lên cao, gián tiếp góp phần đưa mũi tên xanh lá cây về với thị trường chứng khoán.
Phải công nhận, ai cũng ngại ngùng khi phải vác những túi xách shopping leo hai cái cầu thang, dù mỗi cái chưa đến hai mươi bậc. Một cái từ basement parking lên mặt đất, một cái từ mặt đất lên đến nhà ở tầng hai. Lúc nào thang máy hoạt động bình thường, chỉ cần đưa tay bấm nút là đồ đạc sẽ ở gần như trước cửa nhà, giống như chỉ việc mang đồ vào bếp, sau khi xe đã an vị trong garage. Chính bản thân Linh cũng ngại mặc dù Linh không thuộc loại mắc "bệnh Shopping". Có lần đi chợ lúc xếp hàng ở quầy tính tiền nhìn lại cái shopping cart của mình nghĩ đến cái thang máy ở phía đông đang bị dở chứng, Linh vội bỏ lại rất nhiều thứ, chỉ giữ lại những thứ thật cần thiết cho tủ lạnh trong tuần tới. Theo nguyên tắc rơi tự do trong vật lý, đi xuống cầu thang bao giờ cũng dễ dàng hơn đi lên rất nhiều. Khi đi lên chỉ vác thân mình không với cái áo choàng dày cộm của mùa đông cộng thêm những túi xách shopping thì thôi thà đừng mua, khỏi mang, vác, khỏi tốn tiền. Lại nữa trong nhà không có "junk food" khỏi ăn, đỡ nỗi ám ảnh tăng trọng lượng, mất đường cong.
Mỗi năm chỉ có lần đi họp Home Owner Association (HOA) để bỏ phiếu về việc bầu ban quản trị mới và bỏ phiếu quyết định những Fitness Equiqment mới mà HOA sẽ trang bị cho phòng tập thể dục, bàn ghế sẽ mua cho guest house hay loại hoa sẽ được trồng trong mùa xuân sắp tới là được hầu hết chủ nhà tham gia đông đủ. Những phiên họp quanh năm của HOA vắng hoe, chỉ có ban quản trị phải đến vì đó là công việc của họ. Trong phiên họp quan trọng nhất trong năm thường là thứ tư đầu tiên của năm dương lịch, mọi người đi họp đông đủ đưa ý kiến về nhiều thứ. Thời gian giới hạn cho mỗi chủ nhà trên diễn đàn là ba phút, ai cũng có vấn đề cần giải quyết tùy theo vị trí nhà của mình, nên không ai có đủ thì giờ cho cái cầu thang hay dở chứng ở phía đông. Thật là "cha chung không ai khóc" chính bản thân Linh cũng dùng ba phút trên diễn đàn của mình để "campaign" cho việc trồng loại hoa mười giờ hồng tím ở bồn hoa trước cửa nhà mình và trồng hoa giấy ở cổng sau. Hai loại hoa đó tuy không sắc, không hương nhưng có "vẻ đẹp tập thể" rất rực rỡ của từng nhóm, từng chùm "Low maintenance" không đòi hỏi chăm sóc nhiều và quan trọng hơn ai hết, với riêng Linh là hình ảnh hạnh phúc của thời thơ ấu ở quê nhà, trước năm 1975.
Cũng như Linh ai cũng có "campaign" riêng của mình bảo vệ điều mình thích, nên không có giờ cho cái cầu thang máy nay ốm mai đau ở phía đông.
Những trục trặc khác trong khu complex như cổng vào hay cổng ra nằm ì ra không nhúc nhích, chỉ cần nhấc điện thoại nhắn vài lời hay gõ mấy chữ trên keyboard của PC vào buổi sáng, chiều đi làm về đâu đã vào đấy, hai cái cổng nặng nề, mỗi cái được kéo bởi một động cơ tương đương sức kéo của mười con ngựa đua, lại ngoan ngoãn, làm việc không mệt mỏi.
Chỉ có mỗi cái cầu thang ở phía đông, cứ như là một bệnh nhân hay nhõng nhẽo nhức đầu nghẹt mũi quanh năm, suốt tháng.
*
Người hay dùng phòng thang máy phía đông nhất là bà Ashley. Bà chỉ trạc tuổi trên dưới sáu mươi, cái tuổi chưa già đối với thế kỷ 21, chưa được phép hưởng những quyền lợi hữu trí dành cho "senior citizen" nhưng hình như bà bị một căn bệnh kinh niên nào đó, nên bả đi rất chậm như một em bé mới vừa tập đi những bước chập chững đầu tiên trong đời. Dĩ nhiên bà không thể xách hay mang nặng được. Mọi nhu cầu mua bán, dọn dẹp nhà cửa hàng ngày của bà đều có người lo toan. Thức ăn, nước uống nhu cầu chợ búa của bà đã có hệ thống chợ Albertsons hay Safeway đem đến tận nhà. Lâu lâu bà muốn thức ăn từ những nhà hàng nổi tiếng mà bà không muốn lái xe đi xa thì cũng có dịch vụ "home delivery" thực phẩm vẫn nóng và "fresh" như vừa bưng từ bếp ra.
Dĩ nhiên, bà Ashley cũng không phải dọn dẹp nhà cửa, giặt ủi áo quần, mặc dù máy giặt, máy sấy được thiết kế tại mỗi nhà rất tiện lợi đã có dịch vụ "maid services" lo cho bà, mỗi tuần hai hay ba lần tùy theo yêu cầu của bà. Ấy vậy mà bà Ashley vẫn phải dùng cầu thang, vì chân bà yếu và còn vì con chó cưng của bà, loài vật mà người Mỹ vẫn gọi là "men's best friend". Con chó giống berger của Đức được bà đặt tên là Spot, to cao và rất khôn ngoan. Có điều nó sống với người chủ cao tuổi sức yếu đã lâu, lúc nào cũng đi rất chậm, nên nét nhanh nhẹn như đồng loại cũng từ từ biến mất.
Cái phòng thang máy ở phía đông giúp bà Ashley rất nhiều trong việc di chuyển, đi dạo tập thể dục mỗi ngày cùng con chó quý lông trắng, điểm những khoanh vàng, xám nhạt. Khi thang máy phía đông bị hư bà cùng con Spot dùng thang máy phía Tây. Vì nếu phải dùng những bậc thang thường bà phải lên hay xuống cầu thang từng bước một trông rất vất vả, con Spot kiên nhẫn theo gót chủ, con mắt bi ve quắc lên mỗi lần thấy một người lạ lảng vảng quanh bà Ashley. Mỗi ngày bà đi dạo ít nhất là hai vòng quanh khu complex. Chúng tôi vẫn gọi đùa và là "unofficial daily security".
Thật vậy, không có chuyện gì xảy ra trong vòng rào của khu complex mà bà Ashley không biết. Chỉ cần nói chuyện với bà Asley vài phút là nắm được tình hình trong khu vực. Nhà góc ngoài của building B sắp được bán, sẽ được open house vào cuối tuần tới, nhà thứ ba của building D vừa mua máy giặt, máy sấy mới từ Sears, nhà cuối dãy của building C vừa tìm lại được con mèo quý sau gần 10 ngày bà chủ nhà khóc hết nước mắt vì con mèo tự dưng biến mất. Chủ nhà dán hình con mèo cưng ở khắp nơi, phần thưởng là một ngàn dollars cho ai tìm được. Nhưng cuối cùng không ai may mắn được nhận món tiền thưởng rất là hậu hỷ đó vì con mèo gần mười ngày "đi bụi đời" đã nhận ra là "home sweet home" nên bỏ "máu giang hồ vặt" tự động quay về, bạn của Linh khi đến chơi thấy những cái flyer có hình con mèo, có thắt nơ vàng, ỏng ẹo nằm trong một cái giỏ quấn ruban hồng, với background là một nhà bếp ấm cúng, đủ màu sắc của trái cây, hoa quả người bạn đã đùa:
- Mèo bốn chân mà đã thưởng đến một ngàn dollars, người này mà mất "mèo hai chân" thì tiền thưởng chắc phải lên đến cả trăm ngàn.
Khi Linh thuật lại điều này cho bà Ashley nghe, bà cười thành tiếng, phát biểu rất là Mỹ:
- Well, tùy trường hợp lắm lúc mèo bốn chân quý hơn "mèo hai chân" bội phần. Như con Spot của tôi chẳng hạn vừa biết bảo vệ tôi trong mọi trường hợp, vừa không bao giờ phản phúc, vừa không biết xài tiền, nhất là tiền của người khác!
Linh không muốn tranh luận với bà Ashley về chuyện này, mặc dù cô vẫn ngậm ngùi nghĩ đến đồng bào nghèo khổ của mình ở quê nhà mỗi lần đọc những flyer quảng cáo về thức ăn, đồ chơi và cả thuốc bổ cho chó, mèo ở Mỹ hay những lần đi ngang những bệnh viện, những khách sạn cho chó mèo, những quầy hàng cho thú vật trong chợ Mỹ, có cả diet food hay vitamin cho chó, mèo. Đúng là cuộc đời không bao giờ công bằng.
Đi đứng khó khăn như vậy nhưng và Ashley cũng đóng góp được cho xã hội. Lúc còn trẻ còn khỏe mạnh bà là một chuyên viên giỏi về "speech Therapy" chuyên dạy cho những người bị đứt mạch máu não nói chuyện lại được. Khi bị "coma" mạch máo não bị đứt, hệ thống thần kinh từ não bộ, trung tâm chỉ huy của cơ thể bị tê liệt một phần hay toàn bộ, lưỡi cứng lại, thanh quản bị tê liệt toàn phần hay một phần, bệnh nhân không nói được, hoặc nói giọng ngọng nghịu rất khó nghe. Những chuyên viên "speech therapy" sẽ dạy họ phát âm lại từng chữ một từ dễ đến khó, từ nguyên âm đến phụ âm, đến chữ đơn âm đến đa âm, từ câu ngắn đến câu dài. Công việc đòi hỏi nhiều nhẫn nại từ cả hai phía bệnh nhân đến người điều trị, thường người ta làm chỉ vì tiền, vì những cái paycheck có số tiền từ mức trung bình trở lên cho trình độ đại học. Vậy mà, bà Ashley làm thiện nguyện mỗi tuần ba tiếng cho bệnh viện Kaiser ở gần nhà. Có lần Linh thắc mắc hỏi bà:
- Nếu đã làm thiện nguyện thì tại sao bà không làm cho bệnh viện công chuyên giúp đỡ cho những người không có bảo hiểm sức khỏe Kaiser là bệnh viện tư điều trị cho những bệnh nhân có bảo hiểm, đương nhiên họ phải có bổn phận thuê những chuyên viên Speech therapy giúp đỡ bệnh nhân phục hồi lại âm thanh, tiếng nói. Công việc sẽ có ý nghĩa và cần thiết hơn nhiều nếu bà làm ở bệnh viện Bascom của chính phủ.
Bà cười:
- Dĩ nhiên là tôi có nghĩ đến điều này nhưng Bascom ở xa nhà quá mà tôi thì không muốn lái xe trên xa lộ nữa. Nếu có người đến chở tôi đi thì tôi sẵn lòng làm từ thiện nguyện cho bệnh viện công. Aáy vậy chủ bệnh viện tư cũng cần thiện nguyện viên rất nhiều, vì mặc dù họ có những chuyên viên được trả lương giúp người bệnh hồi phục sức khỏe nhưng đâu phải ai cũng làm với cả trái tim và lòng nhân ái.
Người Mỹ có những tính toán nhiều khi Linh không hiểu nỗi, mặc dù cô đã ở đây gần hai mươi năm và thấy gần gũi với đất nước tự do này hơn là quê hương tội nghiệp của mình. Nếu Linh là bà Ashley Linh sẽ gọi taxi đưa cô đi làm thiện nguyện ở bệnh viện công. Chi phí cho taxi không đáng là bao đối với nếp sống khá cao của bà Ashley và là một phần rất nhỏ đối với công sức ba tiếng "Speech therapy" thiện nguyện mỗi tuần bà vẫn đóng góp cho bệnh viện.
Như ông Mark ở căn nhà sát cổng sau chẳng hạn. Ông là một kỹ sư quân đội về hưu, sống một mình như bà Ashley nhưng ông còn rất khỏe mạnh. Mỗi sáng khi ông Mark chạy được năm vòng của khi complex thì bà Ashley cùng con Spot vừa đi được một vòng. Vào độ tuổi gần bảy mươi, ông sống nhờ tiền hưu trí của quỹ 401K đã dành dụm từ hồi bắt đầu bước vào tuổi ba mươi. Nhưng ông Mark còn rất khỏe nên tự làm lấy được mọi việc. Hơn thế nữa, ông cũng làm thiện nguyện cho phòng thí nghiệm của trường trung học ở gần nhà. Gần đây, theo chân bà Ashley ông còn làm cho bệnh viện Kaiser ở phòng nhận bệnh khu X-ray. Được hỏi tại sao không làm cho bệnh viện công, ông Mark có một câu trả lời rất kỹ sư và rất…Mỹ:
- Từ đây tới bệnh viện Kaiser chỉ 3.5miles và là đường thẳng, không bị kẹt xe, trong khi đến bệnh viện Bascom đến 22 miles lại là đường cong, kẹt xe rất nhiều. Mỗi tuần tôi làm cho bệnh viện hai ngày, cứ thử tính khoản tiền tôi phải chi phí cho xăng nhớt, bảo trì xe thì hiểu tại sao tôi làm thiện nguyện cho Kaiser trong khi tôi biết là Bascom cần thiện nguyện viên hơn nhiều!
Thì giờ luôn luôn là vàng bạc. Cả hai người hàng xóm của Linh đều tặng rất nhiều "vàng bạc" và công sức cho bệnh viện mỗi tuần, nhưng lại tính toán rất là chi li với chi phí di chuyển! Dù sao, đóng góp của họ cho xã hội dù ít dù nhiều cũng là một điều rất đáng được trân trọng.
Đó là chuyện của những người già ở Mỹ, có con cái hay không cuối đời thường vẫn cô đơn và tự lo lấy mọi chuyện, từ tinh thần đến vật chất. Bởi vậy ở Mỹ nếu muốn có một "hậu vận" an nhàn, những người trẻ ngay từ lúc qua đi thời hai mươi đẹp nhất đời người, mới ra trường được vài năm chưa tích lũy được nhiều kinh nghiệm chuyên môn, paycheck hãy còn thấp so với những đàn anh, đàn chị cùng nghề nghiệp chuyên môn, vẫn còn phải còng lưng trả student loan cả vốn lẫn lời mỗi tháng, đã phải lo để dành vào quỹ 401K cho những ngày về già.
Khu complex thu lệ phí hàng tháng từ tất cả chủ nhà khá cao, cho nền "tiền nào của nấy" đời sống trong vòng rào complex bình yên, sạch sẽ rất an ninh. Cả ông Mark lẫn bà Ashley đều là những người già hiếm hoi trong khu vực và đều là nguồn tin tức đáng tin cậy khi mọi người muốn biết thêm về đời sống chung quanh. Không có một "breaking news" nào mà họ không biết, vì phần lớn thời gian giải trí của họ là "cable network news" ở tivi hoặc trên internet.
*
Mỗi năm vào dịp lễ độc lập của Mỹ, July 4th ban quản trị khu vực tổ chức ngày "Home Owner Appereciation Day" có thịt nướng kiểu Mỹ, có món ăn truyền thống bánh mì kẹp hot dog tẩm đầy mustard và ketchup chưa ăn đã thấy triển vọng lên cân, đường cong bên hông biến từ đường cong lõm thành đường cong lồi. Ngày hôm đó guest house được trang hoàng bằng bong bóng xanh, trắng, đỏ như màu cờ Mỹ. Khi mặt trời vừa ngủ yên bầu trời sẩm tối, pháo bông bay lên khắp thành phố, lúc đó giọng hát trầm trầm của ông Mark cất lên "Let freedom ring and let share its inspiration. Let take the dream and pass it away" dĩ nhiên là không trầm ấm, truyền cảm như ca sĩ Barry Manilow nhưng đủ để làm toàn bộ những người tham dự party đứng lên hát theo "Let take the dream and pass it away" trông hào hùng như hội nghị Diên Hồng trong lịch sử Việt Nam. Có điều khác biệt là những người Mỹ cao to, no đủ và ăn mặt theo kiểu mùa hè rất mát mẻ hoàn toàn không giống những người Việt Nam mảnh mai với lối ăn mặc cổ kính, bảo thủ khi đến hội nghị Diên Hồng vài thế kỷ trước.
Nếu ngày hôm đó, thời khóa biểu không trở ngại, những người bạn thân của Linh sẽ đến dự ngày Lễ Độc Lập với Linh ở guest house với hình ảnh hội nghị Diên Hồng. Sau đó, thay vì nhảy xuống hồ tắm bơi lội hay ngâm mình trong Jacuzzi có những bọt nước nóng ấm chạy tung tăng, nối đuôi nhau massage cho cơ thể, cả bọn sẽ về nhà ra balcony nhìn về hướng công viên thành phố, nơi có những tràng pháo bông rực rỡ đủ màu bắn vào trời đêm. Ánh sáng của những tia pháo bông phản chiếu lên đôi mắt tròng nâu đen của những người Mỹ gốc Việt hình như thấp thoáng hình ảnh quê hương xa xăm, tít mù đầy tội nghiệp.
Tháng Tư: Còn Đó Ngậm Ngùi
Đầu tháng tư ở Mỹ, mùa xuân vào độ đương thì mới bắt đầu được hai tuần.
Người Mỹ đặc biệt chú ý đến tháng tư vì đồng hồ vừa mới được vặn lên một tiếng gọi là "Day Light Saving begins". Ngày thật sự dài ra. Bóng tối bị đẩy lùi. Từ hoa Anh đào trắng hồng ở Đông Bắc của thủ đô Washington DC đến hoa puppy vàng cam ở Tây Nam, đường phố cả nước Mỹ nhuộm đầy màu sắc của hoa lá mùa xuân. Nhưng dù trời tháng Tư có xanh ngát đến đâu, với những người Việt lưu vong, dù ở tiểu bang vàng California, vẫn có chút ngậm ngùi, vì bóng dáng màu đen ảm đạm của tháng 4 năm 1975.
Và hơn ai hết, nỗi ngậm ngùi của ông Đạt lan tỏa, xót xa như chuyện mới xảy ra hôm nay, tuần trước chứ không phải gần ba mươi năm qua. Nhiều người nghĩ rằng, ba mươi năm rồi còn nhắc chi chuyện cũ! Đó là chuyện của quá khứ hãy quên đi! Ông Đạt hoàn toàn không đồng ý!
Quên thế nào được khi mà nỗi đau còn đó và hệ quả của nỗi đau vẫn còn tưởng như không dứt! Đâu có cần phải sống thời Hai Bà Trưng, mỗi người dân Việt đều cảm nhận được nỗi đau của tổ tiên phải vào rừng tìm ngà voi, xuống biển tìm ngọc trai làm giàu cho quân Tàu tàn ác, gian tham! Đâu có cần phải sống dười thời vua Quang Trung cũng cảm thấy hào khí chiến thắng Đống Đa, đuổi quân Bắc Phương xâm lược chạy dài! Đâu có cần phải sống thời nhà Trần cũng cảm thông được nỗi ngậm ngùi của Công Chúa Huyền Trân phải làm dâu nước láng giềng để đổi lấy hai châu Ô, Lý mở rộng bờ cõi về phương Nam.
Đời sống ở Mỹ bận rộn quá. Người ta không có thì giờ nhắc tới chuyện cũ. Nhất là tụi trẻ bị cuốn hút vào đời sống đầy tốc độ, nhưng ông Đạt tin rằng nhiều người trong số họ sẽ cảm nhận được một phần "nỗi đau tháng tư" của ông, mặc dù vào thời điểm đó họ còn ở tuổi ấu thơ hay vừa mới chào đời. Chuyện trăm năm, ngàn năm trước từ đời tổ tiên dựng và giữ nước họ chưa chào đời, còn cảm nhận được nỗi đau, còn tự hào về những giai đoạn vàng son của lịch sử thì chuyện ba mươi năm trước, ông tin, ít nhất tụi nhỏ cũng đồng cảm với ông.
Chỉ có bà Đạt, bà như chìm vào cõi vô minh nào đó, không còn chia sẽ được với ông những ngọt bùi cay đắng như lời khấn trước bàn thờ tổ tiên, như lời hứa "gừng cay, muối mặn xin đừng bỏ nhau" ngày họ lấy nhau gần nửa thế kỷ trước.
Căn bệnh Alzheimer vẫn còn là chứng nan y chưa có thuốc chữa, đẩy bà vào cõi vô minh, trí nhớ bị xóa nhòa từ mười bốn năm nay, làm ông trở thành một C.N.A (Certified Nurse Assisant) bất đắc dĩ.
Lúc bà mới trở bệnh, cán sự xã hội ở bệnh viện đã bảo ông:
- Với bệnh của bà nhà, cần có người săn sóc bên cạnh 24/7 (24 tiếng mỗi ngày, 7 ngày mỗi tuần) có hai giải pháp: hoặc là ông đưa bà vào viện dưỡng lão có người chăm sóc 24/7 cho bà cùng với những bệnh nhân khác, hoặc là ông có thể đưa bà về nhà, bệnh viện sẽ huấn luyện kỹ năng săn sóc bệnh nhân Alzheimer cho ông, mỗi tháng hai lần sẽ có y tá đến xem xét tình trạng của bà.
Không cần suy nghĩ, ông xin đưa bà về nhà vì ông không muốn bà sống cô đơn ở một nơi xa lạ, với những người khác màu da và những người chăm sóc thì không có tấm lòng như tấm lòng của ông đối với bà. Ông đã đến thăm người quen ở viện dưỡng lão vài lần và thấy những người trợ y (C.N.A) đối xử không tử tế lắm với bệnh nhân, nhất là những bệnh nhân bị Alzheimer thì lối đối xử càng tệ hơn vì họ không có khả năng nhận xét, không có khả năng phàn nàn với những người có thẩm quyền. Hơn thế nữa, tận cùng tâm khảm ông vẫn hy vọng dù ở trong cõi vô thức, nhưng với không khí gia đình ở nhà với sự chăm sóc tận tình của ông với một trái tim chân thật của nghĩa tào khang, biết đâu có một phép màu đưa bà về lại với thế giới bình thường.
Thế là ông cắp sách đi học một khóa huấn luyện ba tháng để săn sóc bệnh nhân Alzheimer ở nhà. Mái tóc ông điểm bạc, rất dễ nhận ra giữa những mái tóc blond, brunette hay đen tuyền của những học viên còn trẻ. Ông còm cõi đi học, với nỗi lòng canh cánh nghĩ đến bà đang cô đơn lạc lõng ở nursing home. Mỗi ngày đi học về ông ghé thăm bà bắt đầu ứng dụng những điều học được từ lớp huấn luyện, săn sóc bà từ hồi còn ở nursing home. Nhân viên ở đó nhẹ được phần nào công việc nhờ tình nghĩa vợ chồng của ông đối với bà.
Bệnh nhân Alzheimer chừng như có một nữa tình huống của một em bé vừa chập chững biết đi, một nửa tình huống của một người điên ở một mức độ không nguy hiểm. Họ vẫn ăn, vẫn nói, vẫn thở chỉ mất đi bộ nhớ trong não, mất đi khả năng suy nghĩ. Ở lớp học ông đã nghe kể về những bệnh nhân Alzeimer mở bếp điện lên, rồi quên tắt để cháy lan ra cả nhà hàng xóm. Hay có một bệnh nhân khác, ban đêm mở cửa đi ra không hề đóng cửa lại để trộm vào nhà khuân hết đồ đạc trong nhà. Bi thảm hơn có một bệnh nhân đi bộ ra tận công viên thành phố vào ban đêm, đi lên mặt hồ nước rồi chìm luôn dưới đáy hồ bỏ lại cả thế giới bình thường lẫn cõi vô minh.
Lần được huấn luyện về chăm sóc bệnh nhân ông hoàn toàn không nghĩ là đời ông lại có nhiều ngả rẽ không ngờ. Hồi còn trẻ vào trường võ bị Đà Lạt, ông đã chọn võ nghiệp như là nghề nghiệp cả đời. Đó là thời thanh niên đầy sinh lực, mắt sáng môi tươi. Rồi ông trưởng thành từ mặt trận này đến chiến trường khác. Mọi việc ở nhà đã có bà đảm đương, quán xuyến dạy con nên người, phụng dưỡng mẹ thay chồng. Có những lần tưởng đã bỏ bà và các con lại một mình, trời thương ông vẫn còn sống lành lặn.
Rồi cùng vận nước nổi trôi ông và gia đình trôi dạt đến quê người, kinh nghiệm chiến trường không giúp gì được cho ông ở quê hương thứ hai. Ông vào làm ở warehouse của một công ty chuyên cung cấp vật liệu xây dựng cho các tỉnh miền Tây Hoa Kỳ. Ngày xưa ông làm việc giữa những bao cát trong hầm chỉ huy ngoài chiến trường, bây giờ ông làm việc giữa những thùng giấy lớn, đôi khi còn nặng hơn cả ông. Ngày xưa ông lái xe Jeep, bây giờ ông lái fort-lift. Nhưng sự khác biệt đó không làm ông đau lòng như mỗi lần nghĩ đến các bạn cùng khóa võ bị đang chịu nhục hình trong những trại cải tạo ở rừng thiêng núi độc trên quê nhà hay nghĩ đến những đồng đội, thuộc cấp mãi mãi nằm xuống trong những trận chiến bảo vệ tự do.
Khi cộng đồng lưu vong lớn dần, có thêm làn sóng tỵ nạn, vượt trùng dương, chấp nhận hiểm nguy bảo táp để có tự do, bà bàn với ông đưa gia đình về miền Bắc California gần với tập quán Việt Nam hơn, có nhiều trường đại học thuận tiện cho các con hơn. Ông bỏ cái xe fort-lift, bỏ cái walkie-talkie. Lần này là tự nguyện và hiểu rõ lý do, chứ không phải như dạo tháng tư 75, ông rời quê nhà gần như bị ép buộc, đầy uất ức, hoài nghi và mù mờ về lý do mình phải bỏ súng giữa đường.
Định cư ở Silicon Valley vào đầu thập niên 80, đúng vào lúc thung lũng điện tử đang bùng phát. Dạo đó, tóc ông mới lơ thơ điểm bạc, ông lại cắp sách đi học một lớp căn bản về điện tử ba tháng, rồi vào làm trong một hãng điện tử cùng với một số người đồng hương. Những anh chàng trẻ bằng tuổi con ông vẫn gọi đùa ông bằng bố. Hay những người trung niên vẫn ngậm ngùi mỗi độ tháng tư. Họ vẫn nhắc về những trận chiến hào hùng ở Bình Giả, Đồng Xoài, Quảng Trị, An Lộc, Charlie vv… mà không hề biết là mình đang cùng làm việc với ông "người hùng của mùa hè đỏ lửa năm 1972", chỉ huy những người lính thủy quân lục chiến dũng cảm cắm lại được cờ vàng ở cổ thành Quảng Trị. Bản tính ông vốn ít nói, đôi lúc họ hỏi về quá khứ của ông, ông chỉ cười, nhắc họ nhớ một câu hát của nhạc sĩ Lam Phương "Đời mong manh lắm, kể chi chuyện mình". Họ không biết rằng mỗi độ tháng tư, ông thường vào phòng vệ sinh hay ra ngoài trời đứng lặng lẽ như đang hút thuốc, thật ra ông không hề hút thuốc chỉ đến những nơi vắng người để dấu nỗi ngậm ngùi, để tưởng nhớ những bạn bè, thuộc cấp đã bỏ mình cho tự do.
Ở quê nhà, bà là công chức tòa hành chánh tỉnh. Lưu lạc quê người, bà đứng bán ở trạm xăng, phụ việc hành chánh ở phòng mạch một bác sĩ tư rồi có thời gian đi làm hãng điện tử cùng ông. Trời không thương, chẳng may bà bị cảm xoàng, nhức đầu, chóng mặt. Uống thuốc trụ sinh không hết ông đưa bà vào bệnh viện làm đủ mọi xét nghiệm y khoa kéo dài cả nữa năm. Cuối cùng bác sĩ mời ông đến, báo tin bà bị Alzeimer ở tuổi chưa đến sáu mươi.
Đời ông có 3 lần ông khóc, lần bà cụ thân sinh qua đời, ông không có mặt được ở phút lâm chung của mẹ, ông khóc vì mình chưa trả hiếu được nhiều cho mẹ. Lần thứ hai là ngày 30 tháng 4 năm 75 nước mắt ông rơi cùng vận nước nổi trôi. Và lần thứ ba ông biết bà sẽ vĩnh viễn vào cõi vô minh, mặc dù thân xác vẫn còn đó, hiện hữu bên ông.
Các con xúm lại an ủi ông. Tất cả đều thương mẹ, nhưng những cô con dâu Việt Nam lớn lên ở Mỹ đâu có được như bà ngày trước, phụng dưỡng mẹ chồng chu đáo nên vẫn muốn để bà ở viện dưỡng lão.
Ông làm theo quyết định của mình, xin về hưu non, đi học về nghề trợ y tế có thể chăm sóc cho bà, trả nghĩa tào khang. Dạo bà mới phát bệnh mãn tính, không ngờ người cán sự xã hội ở bệnh viện cảm kích tình nghĩa vợ chồng của những người di dân gốc Á, xin cho ông được trợ cấp chính phủ dành cho những người chăm sóc bệnh nhân Alzheimer nên tình cờ ở vào mùa thu của cuộc đời, ông có một công việc full time khác là trợ y (Certified Nurse Assistant) mà bệnh nhân duy nhất không may lại là người bạn đời. Hình như lúc bắt một con chiên vác thánh giá, Chúa đã cho họ đủ sức khỏe để chịu gánh nặng. Hình như lúc bắt một phật tử trả nghiệp chướng, Phật đã trợ giúp tinh thần cho họ. Nên ông vẫn bình an tâm hồn, mặc dù không còn hạnh phúc tròn đầy như trước năm 1975 hay hạnh phúc một phần trước ngày bà chìm vào quên lãng.
Ông làm những bài tính cộng, trừ, nhân, chia với thu nhập hạn chế của cả hai vợ chồng và chi phí cần thiết cho đời sống vào độ hoàng hôn. Ông biết các con không bỏ cha mẹ, mặc dù ông không trông mong chữ hiếu vẹn toàn như trong "Nhị thập tứ hiếu" hồi xưa. Vả chăng, đi bằng bàn chân của mình vẫn thoải mái hơn phải phụ thuộc người khác. Rồi ông thuê một căn condo minium hai phòng ở gần công viên, gần bệnh viện để dễ dàng cho sức khỏe cuối đời của hai ông bà.
Ông vốn ít nói lại càng trầm lặng hơn nhưng ông vẫn âm thầm dạy các con dù họ đã thành người bằng cách riêng của ông. Cách của một người thích làm hơn thích nói. Ông chép lại một câu thơ của nhà thơ Nguyễn Tất Nhiên "Mỗi mặt trời phải trả giá một hoàng hôn" với khổ chữ lớn dán ở phòng khách, để nhắc nhở các con: kết quả chúng (và nhiều người lớn hay trung niên) đạt được hôm nay là nhờ có lớp già của ông lót đường. Lớp người ở tuổi hoàng hôn như ông đã lót đường cho họ, từ thời họ mới sinh ra vào đoạn cuối cuộc chiến ở quê nhà hay những ngày thơ ấu của họ ở quê người.
Lũ con hiểu ngay về thăm bố mẹ thường xuyên hơn, và chăm sóc mẹ kỹ hơn mặc dù không may từ hơn 10 năm nay trí óc bà đã rong chơi ở cõi hư không. Mỗi tuần cô con gái lớn về thăm hai ông bà đi chợ, nấu ăn cho bố mẹ. Ông chỉ có việc săn sóc ăn uống và vệ sinh cho bà mỗi ngày. Thì giờ còn lại ông đọc sách báo đủ loại từ báo Mỹ đến báo Việt và chơi ô chữ trên báo như thể dục cho trí óc. Ông phải sống khỏe mạnh, để không làm phiền người khác để còn có thể lo cho bà cho đến cuối đời.
Ban đêm mỗi khi tuổi già khó ngủ, ông vẫn thường để CD chạy bài "Ru
em sông núi đợi chờ" với tiếng hát bằng cả trái tim của Việt Dzũng và Nguyệt Ánh, bài hát đã ru bà vào giấc ngủ rất nhanh nhưng lại làm ông thao thức trăn trở thêm vì một câu hát rất hay "Ru em giòng lệ quê hương, chảy xuôi trăm ngã trùng dương chia lìa". Tương tự một số người ghiền thuốc lá, biết chất nicotin trong thuốc lá tàn phá cơ thể về rất nhiều mặt họ vẫn hút, ông dù thao thức dù trăn trở vẫn nghe bài hát đó mỗi đêm. Có đêm, ông bận một chuyện gì đó quên để CD chạy bài hát, bà hỏi ngay:
- Nhạc đâu rồi" Không có bài hát đó làm sao ngủ được"
Ông không biết hát để ru bà như bà đã ru các con ngày xưa bằng những câu ca dao Việt Nam mộc mạc thân thương, nhưng ông vẫn "ru em" bằng những câu hát đi vào lòng mỗi một người Việt lưu vong, có tấm lòng. Điều đó cũng giống như một em bé sơ sinh, được ru ngủ mỗi đêm. Nếu không có tiếng hát, sẽ rất khó cho em đi vào giấc ngủ.
Lâu lâu ông vẫn thì thầm với bà, mặc dù bà chỉ nhìn ông bằng đôi mắt lạc thần:
- Như mình vậy mà sướng cứ nhớ nhiều thứ như tôi, đôi lúc cũng đau đầu vì nghĩ lại niềm vui thì không ai có thể vui được. Nhưng hồi tưởng lại những nỗi buồn nhất là nỗi buồn của tháng tư 75, thì nỗi ngậm ngùi vẫn còn nguyên, ca khúc phim buồn thảm lại kéo về trong tâm khảm.
Mỗi tuần ông dẫn bà ra công viên ít nhất là ba lần. Ông chọn quần áo chỉnh tề cho bà và đeo cho bà một cái kính mát, để không ai thấy được đôi mắt vô hồn của bà. Ông cầm tay bà đi dọc theo những bãi cỏ của công viên. Chốc chốc, mỏi chân hai vợ chồng lại ngồi phơi nắng trên ghế đá. Hình ảnh đó rất quen thuộc với những người già ra tập thể dục ở công viên. Họ vẫn thầm khen đôi vợ chồng già hạnh phúc, mặc dù không thấy ai nói với ai câu nào!
Ông còn một niềm vui khác là lâu lâu dành dụm từ khoản thu nhập hạn chế của hai vợ chồng. Ông lại gởi về giúp cho những người bạn đồng ngũ vẫn còn chật vật với đời sống mỏi mòn ở quê nhà. Được thư cám ơn ông vẫn trịnh trọng đọc cho bà nghe, thì thầm kể với bà tại sao ông giúp người này mà chưa giúp được người khác. Bà nghe hẳn là không biết ai với ai nhưng vẫn gật gù, chăm chú nghe ông đọc thư. Mỗi lần các con biếu tiền nhận Father's Day, Mother's Day hay sinh nhật của hai ông ba,ø ông chỉ bỏ một phần vào account ở ngân hàng, cái account vẫn còn nguyên tên hai vợ chồng mặc dù bà đã chìm vào cõi vô minh từ gần mười hai năm nay. Phần còn lại, ông lại gởi về chia xẽ với những người đồng ngủ bên nhà mà nỗi ngậm ngùi hẳn là hơn ông bội phần.
Đôi lúc ông vẫn tự an ủi khi nhìn quanh, những "người bạn hoàng hôn" của mình nhiều người đã phải sống một mình hoặc nhìn xa hơn, nhiều người bạn cùng khóa đã mãi mãi nằm xuống ở một mặt trận hay một góc rừng heo hút nào đó. Phải chăng, nỗi ngậm ngùi vẫn đeo đẳng ông từ gần ba mươi năm nay, như một vết thương không bao giờ lành vẫn buốt lên nhức nhối hơn mỗi độ tháng tư"
Tiếc là bà không còn như xưa để chia xẻ nỗi ngậm ngùi cùng ông, như bà đã từng chia xẻ mọi cay đắng ngọt bùi với ông từ những ngày xưa cũ.
Nguyễn Trần Diệu Hương