- Cốm Chanh - Chanh Cốm
- Khi Đất Chuyển Mình
- Mưa Lâu Thấm Đất
- Trên Xe Bus
- Tạ Lỗi Cùng Người
Cốm Chanh - Chanh Cốm
Mọi người, nếu có nick name hay tên gọi ở nhà, cũng chỉ có hai tên. Riêng Chanh, cho đến bây giờ Chanh có cả chục cái "nick name" được người khác đặt, từ bạn bè thủa nhỏ cho đến người quen biết sau này ở Mỹ.
Lúc còn thơ dại, Chanh vẫn thầm trách ba mẹ đã đặt cho mình một cái tên bị bạn bè đem ra trêu chọc suốt cả thời đi hoc. Tên Chanh bị bạn học cùng lớp bỏ đủ dấu sắc, huyền, hỏi, ngã, nặng lên chữ Chanh mộc mạc, dung dị. Đến lúc biết tên lót của Chanh, cả lớp còn mở ra một "hội nghị" trong giờ ra chơi. Mấy con nhỏ bạn láu cá, nghịch ngợm ngồi vòng trong, vòng ngoài, bàn ra, tán vào, cười lăn lộn, một vài đứa cười đến chảy cả nước mắt. Lúc đầu, Chanh phải cố gắng ngăn không cho những giọt nước mắt tủi thân chảy ra. Lâu dần, vì chuyện này xảy ra "như cơm bữa" suốt một thời đi học, Chanh nhận ra mình càng tức, càng buồn, tụi bạn càng chọc phá nhiều hơn nên Chanh vẩn làm mặt tỉnh bơ nhưng trong lòng luôn ấm ức.
Vài đứa bạn có tên ở nhà còn quê mùa, mộc mạc hơn Chanh, như : Tí, Na, Đốm, Mun, Mực....nhưng đó chỉ là tên gọi ở nhà, trong gia đình không phải là tên trên khai sinh như cài tên Trần Thị Cốm Chanh.
Cũng vì cái tên này mà Chanh bị gọi lên bảng trả bài ít nhất là hai lần mỗi tuần. Có Thầy Cô còn tưởng là con nhỏ trưởng lớp viết tên của Chanh không chính xác nên đọc luôn tên Chanh là "Trần Thị Công Chánh" làm cả lớp được vài phut cười thoải mái. Khàc với học trò, khi nhận ra mình đọc lộn tên Chanh, càc Thầy Cô đã xin lỗi và trở thành "đồng minh" của Chanh:
-Xin lỗi tôi đã đọc nhầm tên của em Chanh. Các em khác đừng cười tên của bạn. Không có tên nào đẹp hay tên nào xấu cả. Cài tên do cha mẹ đặt riêng cho mình bao giờ cũng đáng quý. Hơn nữa tên của em Chanh đặc biệt như vậy không sợ bị trùng tên với người khác.
Lần đó, cả lớp vừa ngưng tràng cười đầu tiên,. trật tự lớp học chỉ mới tái lập độ một phút, Chanh vừa lên đứng cạnh bảng đen, chưa kịp trả lời câu hỏi của Thầy thì một tràng cười khác lại nổi lên, còn sôi nổi và ồn ào hơn cả tràng cười đầu tiên, khi một đứa bạn ngồi khoảng giữa lớp thì thầm với đứa ngồi bên cạnh, nhưng cái giọng lãnh lót của nó đủ để cả mấy dãy bàn cùng nghe:
- May mà Thầy không đọc tên nó thành "Trần Thị Cơm Cháy" nghe còn thê thảm hơn "Trần Thị Công Chánh" nhiều!
Không biết Thầy có nghe không nhưng Chanh thì nghe rất rõ, và bị chi phối bởi những trang cuối của tụi bạn trong lớp, Chanh đã trả lời lấp vấp mấy câu hỏi của Thầy về bài Sử về cuộc khởi nghiã Yên Bái mà Chanh rất thích.
Có lần, Chanh về nhà xin Bố Mẹ cho đổi tên khác, tên gì cũng được, ngay cả tên của con trai để tránh cái tên Chanh đã trở thành chuyện khôi hài mỗi ngày trong lớp. Mẹ chỉ dịu dàng giải thích:
- Đó là một cái tên đơn giản nhưng rất thùy mị, nết na của con gái làng Vòng, ở cách Hà Nội khoảng sáu, bẩy cây số, quê Bố Mẹ ở miền Bắc Việt Nam, một làng rất nổi tiếng với nghề trồng nếp làm cốm. Hơn nữa, chanh cốm là một loại chanh nhỏ nhưng rất nhiều nước . Vậy nên từ "chanh cốm" còn ám chỉ thời mới lớn đẹp nhất đời người của một cô gái. Bố Mẹ muốn cả cuộc đời của con sau này sẽ được bình yên, không vướng bận lo âu, như thời đi học.
Giải thích của Ba thì phảng phất tính khôi hài:
- Đúng ra là Ba Mẹ muốn đặt tên con là Chanh Cốm nhưng sợ lỡ người ta vô tình hay cố ý phát âm tên con thành Cớm, tiếng lóng mà người ta vẫn gọi mấy ông cảnh sàt.
Ba Mẹ nói vậy, thì Chanh cũng nghe lời, ấm ức "chịu trận" với tụi bạn dù không có ác ý nhưng vẫn làm Chanh không vui khi mỗi lần vô lớp là bị gọi bằng đủ thứ tên, kể cả cái tên "kinh hồn" nhất là Trần Thị Cốm Chanh ...Chua. Cũng vì cái tên đó mà càng lúc Chanh càng dịu dàng, thùy mị vì sợ .... cái tên vận vào con người.
Lên trung học, chuyển sang trường khác, đến một thành phố mới, cũng vì cái tên đặc biệt. bạn bè vẫn đem tên họ của Chanh ra để "mua vui cũng được một vài trống canh". Lúc đó, sau năm 1975, trong lớp có một vài đứa "bạn từ ngoài Bắc vô đây, bàn tay có dấu Đảng Đoàn" luôn luôn để ý tư tưởng, ngôn ngữ của những đứa bạn miền Nam, nhất là những đứa có cha anh đang đi "học tập cải tạo". Sinh ra và lớn lên ở miền Bắc, một vài đứa còn lớn lên ngay tại quê hương chuyên môn làm bánh cốm (làng Vòng huyện Từ Liêm Hà Nội), rất nổi tiếng với nghề trồng lúa nếp làm cốm dẹp. Loại cốm vẫn được dùng để làm bánh cốm xanh ngát có nhân đậu xanh mầu vàng tươi trong các dịp cưới hỏi theo phong tục Việt Nam. Nên các "mầm non hồng thắm" -từ ngoài Bắc vô- xem chừng quen thuộc với từ "thời chanh cốm" hơn các bạn cùng tuổi ở miền Nam. Và như vậy, không biết vì lớn hơn, khôn hơn, hay vì hiểu nghiã bóng của cái tên Cốm Chanh, cuối những năm Trung học, cái tên Chanh trở thành bình thường như mọi cái tên phổ biến khác của con gái ; Hoa , Lan, Hồng, Tuyết, Liễu..... Mà cũng có thể vì cuối năm lớp mười, trong một lần làm Luận văn,với đề tài tự do, Chanh đã viết một bài văn xuôi "tự trào" về cái tên đặc biệt của mình, với phần kết luận đầy "tâm hồn ăn uống" :
"Trái chanh ăn một mình thì rất chua , nhưng bất cứ một thức ăn nào ( từ phở, bún, gỏi, nước chấm, muối tiêu, đến nước giải khát...) cũng trở nên ngon hon khi ăn kèm với chanh. Đó là chưa nói đến lượng vitamin C mà chỉ cần một phần tư trái chanh cũng giúp người ta có nhiều năng lực để làm việc hơn và có thể có nhiều sức đề kháng hơn với những bệnh cảm cúm thông thường.
Được Ba Mẹ đặt tên Chanh, em luôn cố gắng để khi em sinh hoạt hay làm việc trong một tập thể nào đó, tập thể đó sẽ phát triển tốt hơn, có quy củ hơn, như thức ăn được thêm vào vài giọt chanh.
Sinh ra và lớn lên ở miền Nam, em chỉ nghe nói đến "thời chanh cốm" xuất phát từ làng Vòng thuộc phủ Từ Liêm, Hà Nội chuyên nghề trồng nếp làm cốm. Em tin Ba Mẹ em có lý do chính đáng để đặt cho em một cái tên rất đặc biệt." ...
Bài đó được nhiều điểm nhất lớp, được Thầy mang ra đọc cho cả một khối lớp 10 cùng nghe. Nhờ vậy mà "bất chiến tự nhiên thành", không còn những "hội nghị vòng tròn" bàn về chữ Chanh nữa. Có cả những đứa bạn còn thấy tên Chanh đặc biệt và hay hay!
Sau này, bên đời lưu lạc, lúc điền đơn vào quốc tịch Mỹ, mấy lần Chanh đã định đổi tên thành tên Mỹ. Thật ra cũng chẳng phải đổi tên, mà chỉ dịch chữ Chanh thành "Lemon" hoặc "Lime" nhưng suy đi nghĩ lại, Chanh vẫn giữ cái tên trên khai sinh được cha mẹ đặt cho từ thủa chào đời.
Chữ Chanh vẫn được đa số người bản xứ phát âm thành "Kanh" sặc mùi .....kim loại, nên cái tên Cốm Chanh được đảo ngược lại thành nghiã nguyên thủy như "thời chanh cốm" mà Ba Me đã muốn Chanh có cả cuộc đời bình yên, không lo toan như thời mới lớn.
Người Mỹ không gặp khó khăn khi phát âm chữ Cốm, có điều vì tiếng Mỹ không có dấu nên họ đọc thành "Com". Vì vậy mỗi lần nói đến tên mình, Chanh không cần phải đánh vần từng mẫu tự, chỉ cần diễn tả một cách ngắn gọn:
-My name is Com as in "dot com" (tên tôi là Com, giống như chữ "com" trong "dot com".)
Cái tên Cốm Chanh ở Việt Nam chỉ đảo ngược lại thành Chanh Cốm ở Mỹ vậy mà lại rất "được việc". Trên resume, tên của Chanh là "Com C, Tran", cái tên có vẻ dot.com , high tech. đó đã lọt vào các cặp mắt xanh, nâu, đen, xám ... của các ông bà trong phòng nhân lực. Nên Chanh vẫn được mời đến interview rất nhiều lần, ngay cả trong những lúc thị trường công việc đang ở tình cảnh "người khôn của khó".
Nhiều người bản xứ đã hỏi tại sao Chanh lại có cái tên rất giống với chữ dot.com trong khi chắc chắn là Chanh ra đời trước "thời đại dot.com".
Chanh kể cho họ nghe về cái tên có liên quan tới "thời chanh cốm" thơ mộng nhất của người con gái làng quê miền Bắc ((khoảng từ 11 đến 14 tuổi), đẹp như một nụ non. Chanh còn hướng dẫn cho họ đọc chữ "Cốm" theo lối phát âm của Việt Nam. Để có sức thuyết phục hơn, cuối tuần Chanh chịu khó lái xe đến khu phố Việt Nam mua một hộp bánh cốm xanh ngát ở ngoài có nhân đậu xanh mầu vàng thơm ngát mùi nước hoa bưởi bên trong. Những người Mỹ chắc là không hình dung hết được sự liên quan giữa những hạt nếp non với miếng bánh vỏ ngoài mầu xanh, nhân ở trong mầu vàng nhưng rất thích bánh cốm dẹp có vị ngọt dịu dàng không ngọt gắt như các loại bánh ngọt của Mỹ.
Người thông cảm với Chanh nhất là con nhỏ đồng nghiệp người tiểu bang Aizona miền Tây Nam nước Mỹ, mang một cái tên rất đặc biệt hơn là "Bullhead". Ba má nó đặt tên cho nó cùng tên với thành phố quê hương, một thành phố nhỏ thuộc Mohave County nằm bên bờ sông Colorado, gần giáp giới với Las Vegas của tiểu bang Nevada -nơi có những sòng bài nổi tiếng, và những khách sạn có đầy đủ hình ảnh các thành phố lớn ở khắp thế giới.
Cái tên rất lạ nên người ta vẫn thường gọi thành phố đó là "Bullhead City" thay vì chỉ là "Bullhead". Cái tên đó đã làm khổ con nhỏ Mỹ sinh ra ở thành phố có sông, có núi quyện vào nhau rất đẹp. Hồi nhỏ, nó đã từng bị tụi bạn con nít gọi thành "bullshit" với cái nghiã không đẹp chút nào, người ta chỉ buột miệng khi quá bực tức. So với nỗi khổ của con nhỏ "Bullhead" thì bao nhiêu tên mà bạn bè đặt cho Chanh hồi nhỏ xem ra còn "nhẹ nhàng" và "nương tay" hơn nhiều. Thì ra ở đâu cũng vậy, lúc còn nhỏ, vì chưa hiểu biết nhiều, con nít ở Việt Nam hay ở Mỹ đều nghịch ngợm đôi lúc hơi .....nhẫn tâm với những cái tên hơi là lạ. Lớn lên, khôn ra, hiểu biết hơn, những cái tên đặc biệt được mọi người trân trọng vì thường thì có cả một "trời quê hương" được gởi vào đó.
Ngày xưa còn nhỏ, Chanh thích bánh cốm vì thường được bọc trong giấy bóng kiếng mầu đỏ, vỏ bánh có mầu xanh, nhân vàng tươi trông rất vui mắt và ăn rất thơm ngon. Lớn lên, sống đời lưu lạc, nhận quê người làm quê hương, Chanh không còn mê bánh cốm dẹp vì các mầu xanh, đỏ, vàng, mà mê bánh cốm vì cứ mỗi lần ăn thứ bánh vừa dẻo vừa bùi mầu xanh nhạt đó là Chanh lại hình dung ra được mình đang đứng ở giữa một cánh đồng lúa vừa chín tới có mùi nếp non phảng phất trong gió, thấy lại cả cái làng Vòng, ở ngoại ô Hà Nội, quê cha đất tổ mà Chanh chỉ được ghé thăm trong tưởng tượng qua lời kể của những người lớn, và qua sách báo, qua mô tả của nhà văn Vũ Bằng.
Những người lớn tuổi đã từng được ăn bánh cốm dẹp làm từ gạo nếp non (nên có mầu xanh của mạ non) của làng Vòng, không hài lòng lắm với bánh cốm dẹp ở quê người vì bánh chỉ có mùi thơm của vanilla và nước hoa bưởi mà không có mùi nếp non nguyên thủy, Mầu xanh của vỏ bánh dù cũng làm từ nếp nhưng không phải là nếp non nên người ta phải dùng mầu nhân tạo (food color) để tạo một mầu xanh đậm khác hẳn mầu xanh lá cây nhạt nguyên thủy của nếp non chưa chín tới. Nhưng với thế hệ của Chanh, thế hệ chỉ biết về quê cha đất tổ qua thi ca, và qua lời kể lại thì bánh cốm làm ở Mỹ cũng mang được cả một cái làng Vòng thuộc Phủ Từ Liêm, ngoại thành Hà Nội, nổi tiếng về nghề làm bánh cốm ở miền Bắc Việt Nam.
Cũng như lâu lâu thấy mấy trái chanh loại nhỏ của người Mễ bán thành từng túi nhỏ khoảng nửa kg, bao giờ ý tưởng của Chanh cũng hướng về những trái chanh cốm nhỏ nhắn, vỏ mỏng, nhưng rất nhiều nước được trồng rải rác trên khắp đất nước Việt Nam. Nhiều khi Chanh mua cả túi chanh về mà biết trước là mình sẽ không dùng hết nhưng vẫn mua vì sẽ thấy lại được cả một trời Việt Nam ở trong một góc bếp nhỏ ở Mỹ.
Cái tên nhiều khi không phải chỉ để phân biệt giữa người này với người khác, mà còn gởi cả một nỗi lòng của các bậc sinh thành, và là cả một "quê hương mang theo" của rất nhiều người phải sống đời ly hương.
Nguyễn Trần Diệu Hương
(Kinh cảm ơn bác NV Định, và qúy Thầy :NV Phố, HP Võ, KV Phúc)
Khi Đất Chuyển Mình
Đầu mùa Xuân, đất trời thay da đổi thịt, lộc non đâm chồi, đầy sức sống. Trong số rất nhiều lộc non, có một chồi non dù còn bé tí nhưng đã tỏa được bóng mát lớn như những cây cổ thụ sừng sững ngàn nặm. Đôi khi dất vẫn lặng lẽ chuyển mình, trong hoảng lọan của thiên tai, ở rất nhiều lục địa khác nhau, người ta vẫn nhận ra bóng mát trải dài từ một chồi non đang lớn.
Ở California hơn hai mươi năm, chúng tôi không xa lạ với chuyện động đất. Thậm chí còn có sẵn một túi đồ dự phòng để khoàc lên vai, chạy ra khỏi nhà khi đất chuyển mình mạnh hơn sáu độ Richter. Túi đồ gồm ba hộp Cereal (giống như cốm gạo của Việt Nam) hình vuông nhỏ nằm lọt trong lòng bàn tay người lớn, một chai nước uống nhỏ, một cái đèn pin, một cái bật lửa, một hộp đèn cầy, một đôi tất, vài viên thuốc trụ sinh, một cái radio cá nhân, và một túi nylon đựng copy của tất cả càc giấy tờ cần thiết.
Hồi mới đến Mỹ được vài tháng, một lần tôi mất cả hồn vía, tưởng là có ma đang đêm lay mình thức dậy khi tự dưng cái giường run lên bần bật như có ai đó đang đứng ở chân giường dủng hai tay lắc mạnh thành giường Hồi đó, chưa hề có kinh nghiệm về chuyện động đất ở "tiểu bang vàng" ven biển miền Tây của Mỹ, tôi mở đèn đến sáng, không phải vì sợ động đất mà vì sơ....ma.
Một thời gian sau, như tất cả mọi người dân địa phương khác, tôi hiểu vì nằm sát Thái Bình dương, hiểm họa động đất có thể xảy ra với Calỉfornia bất cứ lúc nào. Hình như đó là "cái giá phải trả" cho khí hậu ôn hòa ở ven biển"
Nếu động đất xảy ra ban đêm, giường ngủ lung lay lôi mình ra khỏi giấc ngủ, dù còn mắt nhắm, mắt mở, bao giờ tôi cũng quơ tay tìm cái đèn pin nhỏ vẫn để ở một chỗ quen thuộc đầu giường đề phòng trường hợp động đất mạnh sẽ bị cúp điện .
Lúc nào cũng vậy, dù là một hay hai giờ sáng, sau một cơn động đất, bất kể lớn hay nhỏ, độ mười phút sau, trên cả Internet, Tivi, lẫn radio đài địa phương đều có đủ thông tin sơ khởi nhưng chính xác, tâm động đất nằm ở chỗ nào, cách trung tâm thành phố lớn bao nhiêu mile, về hướng nào, cừơng độ của động đất, khả năng "hậu địa chấn" là bao nhiêu phần trăm, sẽ xảy ra trong thời gian nào".... giúp dân địa phương biết trước để đề phòng hữu hiệu hơn.
Như đa số thành phố ven biển, nằm sát đại dương, Calỉfornia thường bị động đất, mọi người đều biết chuyện đó, nhưng vẫn ở Cali vì khí hậu tuyệt vời của tiểu bang có nền kinh tế đứng hàng thứ mười trên thế giới. Vả chăng, nếu khu vực mình ở xa đường nứt dưới lòng đất đã được các nhà địa chất học công bố từ vài nâm nay thì xác suất mình phái hứng chịu thảm họa khi đất chuyển mình cũng còn nhỏ. Đôi khi con người cũng phải đánh cuộc với định mệnh. Vì cũng như tất cả mọi thứ khác trên đời, không có sự an toàn nào tuyệt đối. Hơn nữa nếu "nắng mưa là bệnh của trời" thì động đất là bệnh của thiên nhiên, ngoài tầm kiểm soát của con người.
Vì ở California nên mặc dù rất thích đồ làm bằng thủy tinh, tôi không dám để đồ thủy tinh ở những vị trí cao trong nhà vì lỡ đất chuyển mình, đồ đạc cũng xê dịch theo, người trong nhà không vì nhà sập mà bị thương vì đồ đạc từ trên cao rơi xuống.
Có thấy những thảm họa do thiên nhiên gây ra mới thấy thân phận mong manh, bèo bọt của con người. Đất chỉ cần "rùng mình" dù chỉ hai hay ba độ Richter, nếu ở trong vòng 5 miles bán kính từ tâm địa chấn, dù đang lái một chiếc xe Ferrari rất đat tiền chạy trên một xe lộ phẳng phiu mới tân trang, người ta cũng cảm nhận được quyền lực của thiên nhiiên. Cái xe bỗng dưng lạng đi một vài giây như người say rượu mặc dù hai bàn tay của tài xế vẫn đang giữ chặt tay lái. Nếu đang ở trong nhà, bạn sẽ thấy mấy cái đèn chandelier treo lủng lẳng trên trần lắc lư khiêu vũ mặc dù không có partner, không có tiếng nhạc; mấy cái khung hình, cùng mấy bức tranh cũng chậm chạp xê dich trên tường như có một bàn tay vô hình đang điều khiển. Tất cả những điều đó sẽ làm du khách đến thăm California hoảng hốt. Nhưng với dân địa phương, đó là chuyện thỉnh thoàng vẩn xảy ra, không còn làm cho người ta sợ hãi mà chỉ có tác dụng nhắc nhở con người thấy thân phận mình rất nhỏ nhoi, tội nghiệp trước thiên nhiên, để bớt sân si hơn.
Biết là không thể kiểm soát được khi nào đất chuyển mình, ở phần nào, và cường độ nhúc nhích của đất, chính quyền chỉ còn phương pháp đề phòng, tổ chức những toán chuyên viên cấp cứu chuyên nghiệp về động đất, in những tài liệu hướng dẫn cách đối phó tốt nhất. Thậm chí người ta còn tổ chức cho các trường học những cuộc thực tập khi động đất xảy ra, để các em học sinh biết cách tự bảo vệ mình, chui ngay xuống gầm bàn gấn nhất hai tay ôm đầu để che chắn được phần nào thương tích nếu trần nhà bị sập. Trong mỗi thư viện ở California đều có những tập tài liệu hướng dẫn về động đất để người dân biết cách ứng phó hữu hiệu nhất, hạ thấp nguy hiểm và thiệt hại khi đất chuyển mình. Đó là lý do chúng tôi có một túi nhỏ đựng đồ phòng thân khi động đất xảy ra. Đó cũng là lý do tại sao nhà ở "tiểu bang vàng" ven biển miền Thái bình dương được xây bằng vật liệu nhẹ để nếu đất trở mình, con số thiệt hại nhân mạng vì nhà sập sẽ ở mức tối thiểu. Nước Mỹ rộng thênh thang, mỗi tiểu bang có lối kiến trúc riêng phù hợp với địa hình của thiên nhiên. Chắng hạn ở miền Trung Tây hay miền Đông, nhà xây bằng gạch rẩt chắc chắn , nhà nào cũng có basement nằm dưới mặt đất để đối phó với những cơn bão lốc mùa hè. Ngược lại ở ven biển miền Tây, nhà không có basement và xây bằng vật liệu nhẹ, càng nhẹ càng tốt, đến nỗi có những người đến thăm California lần đầu đã thắc mắc:
- Hình như dân Cali ở nhà làm bằng giấy carton"
Phòng ngừa như vậy mà ngày 17 tháng 10 năm 1989. động đất Loma Prieta 7.1 độ Richter xảy ra ở miền Bắc California. Đất chỉ chuyển mình trong 15 giây ở một quốc gia có trình độ văn minh cao, có các phương tiện cấp cứu có hiệu quả và nhanh chóng, nhưng đủ để 63 người chết và hơn ba ngàn bảy trăm người bị thương. Lần đó đất chuyển mình hơi mạnh so với bình thường. Cả một nhịp của một cây cầu lớn gãy ngang, rơi xuống và dĩ nhiên đè nát những chiếc xe đang chạy ở xa lộ bên dưới. Trong một tic tac, cả người và xe đều "về với cát bụi" vì độ rơi tự do của những tảng bê tông cốt sắt nặng cả ngàn tấn. Hình ảnh đó được ghi lại trên tivi, trên bào chí thành một ám ảnh lớn cho rất nhiều người California Mãi về sau này, vào giờ kẹt xe, trên khắp mọi nẻo đường, xe cộ sắp hàng san sát, nhưng dưới các gầm cầu vẫn là những khoảng trống. Vì người ta ngại động đất có thể xảy ra bất cừ lúc nào, nên đề phòng bằng cách tránh xa vị trí dưới gầm cầu Chúng tôi vẫn gọi đùa đó là chỗ đậu xe của không khí.
Một đôi khi ngoài ý muốn dòng xe dù chậm vẫn đang chuyển đọng đều, đến lúc xe mình vào đúng vị trí nằm dưới một cái cầu vĩ đại thuộc một xa lộ bận rộn bên trên thì dòng xe ngừng hẳn lạI. Kẹt xe đúng giờ tan sở thì có thể đứng yên tại chỗ đến gần năm phút. Nhín qua các xe chung quanh, thỉnh thoảng chúng tôi vẫn nhận thấy thấy có người đang tay lần tràng hạt, môi lay động chừng như đang lầm thầm cầu nguyện. Mới biết hình ảnh động đất Loma Prieta đã thấm rất sâu vào ký ức của người dân miền Bắc Caliornia.
Những thiệt hại do động đất ở Mỹ dù là một ám ảnh lớn của rất nhiều người... hay lo xa nhưng so với động đất đầu năm 2010 ở Haiti mới thấy sự chuẩn bị trước đã giúp người dân Bắc Mỹ ở ven Thái bình dương được bảo vệ an toàn hơn rất nhiều so với người dân Nam Mỹ. Cường độ động đất tương tự nhau, cùng một thời gian buổi chiều vào giờ tan sở, nhưng gần ba trăm ngàn người Haiti cùng rất nhiều người ngoại quốc đang làm việc hoặc đang du lịch ở Haiti cũng bỏ lại trần gian một cách đột ngột so với 63 người thiệt mạng ở Caliornia năm 1989.
Nước Haiti nhỏ xíu bỗng chốc trở thành tâm diểm của truyền thông trên cả thế giới sau ngày 12 tháng 1 năm 2010 khi đất vươn vai chuyển mình ở ngay thủ đô. Hình ảnh những người sống sót ngơ ngác, ốm đói, tội nghiệp trên màn ảnh truyền hình, trên Internet và trên báo chí động đến trái tim của cả triệu triệu người trên thế giới, động đến cả trái tim ngây thơ của em bé Charlie Símpon mới bảy tuổi ở Fulham, phía Tây Luân Đôn của nước Anh, cách Haiti cả một đại dương.
Ánh mắt của cả trăm ngàn người thất thần, mệt mỏi, đói khát, nhất là những em bé trạc tuổi Charlie làm cậu nhỏ người Anh suy nghĩ tìm cách giúp các nạn nhân động đất. Dĩ nhiên là Charlie còn nhỏ, mới học lớp ba, không có tiền để giúp người bị nạn ở Haiti. Ba Mẹ cậu bé cũng không giàu có để chia sẻ được nhiều cho người dân Haiti. Cuối cùng sau nhiều giờ suy nghĩ, Charlie nảy ra ý kiến mang cái xe đạp con nít của mình ra đạp quanh công viên South Park ở cạnh nhà, và kêu gọi tất cả mọi người bảo trợ cho bảy vòng đạp xe quanh công viên của Charlie (khoảng năm miles).
Lời kêu gọi kèm hình của cậu bé ngây thơ, dễ thương trên chiếc xe đạp con nít ở một trang web phụ của tổ chức UNICEF gợi được sự chú ý của cả trăm ngàn người, không những chỉ ở nước Anh mà còn lan đến khắp nơi trên thế giới. Charlie chỉ hy vong quyên góp được 500 Anh kim (khoảng 800 Mỹ kim) đễ giúp mua thực phẩm, nước uống, và lều tạm trú cho nạn nhân động đất ở Haiti, đặc biệt là các em bé mồ côi trạc tuổi cậu. .
Charlie nhờ Ba Mẹ post mấy dòng đơn giản do chính mình viết ra trên một trang internet thuộc website JustGiving của tổ chức chuyên về văn hóa, y tế và giáo dục UNICEF của Liên Hiệp Quốc để có nhiều người đọc và chuyển tới cho bạn bè, thân nhân để cùng ủng hộ giúp 500 Anh kim cho người Haiti, đặc biệt là cho các em bé. Người lớn có tiền sẽ giúp đỡ bằng hiện kim, Charlie là con nít không có của thì có công đạp xe, và có tấm lòng của một em bé tốt bụng , biết nghĩ đến người không may.
Thế là cả thế giới biết đến tấm lòng nhân ái và mục đích tốt đẹp của một "vận động viên xe đạp" bảy tuổi qua website chuyên việc từ thiện www.http//:justgiving/CharlieSimpson
“Cháu tên là Charlie Símpon, cháu muốn tìm người bảo trợ cho một cuộc đạp xe cho Haiti, bởi vì đã có một trận động đất lớn và có rất nhiều người chết và mất tích. Cháu muốn kiếm tiền để mua đồ ăn, nước và lều tạm trú cho nạn nhân động đất ở Haiti.
Cháu sẽ đạp xe chung quanh công viên phía Nam (South Park) nhiều vòng mỗi ngày với khả năng của cháu (cháu hy vọng ít nhất là mười vòng). Mọi người có thể bảo trợ giùm cháu" Xin vui lòng bảo trợ, Tất cả tiền đóng góp của qúy vị sẽ được gởi thẳng đến tổ chức UNICEF (tổ chức của Liên Hiệp quốc lo về Giáo dục, Y tế và Xã hội cho trẻ em).
Cảm ơn quý vị rất nhiều.”
Giữa một thế giới mà chuyện buồn thường nhiều hơn chuyện vui, thảm cảnh của nạn nhân động đất ở Haiti và tấm lòng nhân ái của Charlie Símpon mang đến niềm tin cho cả triệu người, vượt qua biên giới nước Anh, qua Áo, Đức, Pháp, Ý, Tây Ban Nha, đến tận Mỹ, Puerto Rico, Úc... Dù đang lao đao với nợ áo cơm trong bối cảnh khủng hoảng kinh tế toàn cầu, cả chục ngàn người, dù đang chật vật với chi tiêu hàng ngày, cũng chắt chiu gởi về đóng góp cho quỹ từ thiện của UNICEF từ lời kêu gọi của một cậu bé bình thường mới bảy tuổi ở Anh. Hầu hết đóng góp chỉ khiêm nhường ở mười Anh kim nhưng "góp gíó thành bão", số tiền mỗi ngày một tăng. Chỉ sau ba tuần, con số đóng góp từ mọi nơi trên thế giới qua trang web của Charlie đã vượt qua con số hai trăm ngàn Anh kim (tương dương US$320,000), vựợt ngoài kỳ vọng của cả tổ chức UNICEF to lớn có tầm hoạt động khắp thế giới lẫn Charlie Símpon nhỏ bé ở một góc ngoại ô Luân Đôn.
Trong những lời nhắn gởi cho Charlie, có những ý nghĩ rất chân thành từ cảm xúc tâm hồn, và từ trái tim yêu thương vượt trên mọi lằn ranh biên giới, mọi khác biệt của màu da.
Chẳng hạn có một học sinh chỉ đóng góp được cho nạn nhân động đất được hai Anh kim (khoảng ba dollars hai mươi cents của Mỹ) kèm theo lời nhắn gởi làm mềm lòng người đọc:
“Hai đồng đó là tất cả số tiền một học sinh nghèo có thể đóng góp, hy vọng cũng phần nào góp sức cùng em trong một việc làm mang rất nhiều ý nghĩa”
Bà Lisa Sears thì ủng hộ một trăm Anh kim và rất thành thật nhìn nhận:
“Charlie hãy tự hào, em là một niềm cảm hứng, người lớn này vừa học được một bài học không bao giờ quên từ một em nhỏ bảy tuổi.”
Cô Hannah đã vun vén những đồng tiền để dành rất eo hẹp của mình để gởi về năm mươi đồng mà vẫn cảm thấy mình có lỗi:
“Xin lỗi tôi không thể đóng góp nhiều hợn. Đây là một việc làm có ý nghĩa, cả nước Anh tự hào về em.”
Từ nước láng giềng, một người Pháp góp vào mười Anh kim với chú thích mang màu sắc triết lý:
“Những con sông nhỏ sẽ hợp thành một đại dương”
Ở tận Trung Đông, một em nhỏ người Jordan, chắc cũng trạc tuổi Charlie gởi về đóng góp được 16.54 Anh kim với ước mơ rất ngây thơ:
“Tôi hy vọng một ngày nào đó bạn sẽ đến đây chơi với tôi. Xin được hưởng ứng lời kêu gọi của bạn giúp trẻ em ở Haiti với hai tháng tiền tôi được phép tiêu xài cho chính mình.”
Chỉ trong vòng hai tuần lễ, Charlie với trái tim nhân từ đã làm cả chục ngàn người Anh và rất nhiều người từ khắp nơi trên thế giới gởi tiền về đóng góp cho chi nhánh UNICEF (United Nations International Children‘s Emergency Fund sau này được gọi ngắn lại thành United Nations Children’s Fund) ở Anh. Em bé bảy tuổi chỉ mong những vòng xe đạp của mình sẽ gây quỹ được nâm trăm Anh kim. Nhưng ngoài dự kiến của Charlie Simpson, và của tất cả mọi người, "gió nhẹ đã góp thành bão lớn" khi số tiền giúp người hoạn nạn ở Haiti từ lời kêu gọi của Charlie lên đến hơn hai trăm ngàn Anh kim (khoảng ba trăm hai chục ngàn Mỹ kim).
Với sự hướng dẫn của bố mẹ, Charlie đã viết mấy lời cảm ơn và ý nghĩ ngây thơ của mình:
“Các ân nhân thân mến,
Cảm ơn mọi người rất nhiều về các đóng góp bằng hiện kim của quý vị cho trẻ em ở Haiti. Bây giờ người dân ở Haiti dã có được những túi thực phẩm, nước uống và một cái lều nhỏ để tạm trú.
Mẹ cháu có đọc cho cháu nghe một vài cái thư quý vị đã gởi cho cháu. Cháu rất thích những cái thư đó. Đến bây giờ cháu vẫn không thể tin là mình có thể kêu gọi được mọi người đóng góp một số tiền lớn đến như vậy. Cháu mừng lắm.
Một lân nữa xin cảm ơn tất cả mọi người.
Với thương yêu từ Charlie
Ở rất xa Fulham của Anh quốc, chúng tôi vào thăm trang web của Charlie Símpon mỗi ngày, vui với em, khi số tiền đóng góp mỗi ngày một tăng, dù đã vượt qua con số hai trăm ngàn Anh kim từ lâu. Đâu đó trên hơn ba trăm trang góp ý, có những cái họ Việt Nam: Lê, Hoàng, Phạm Nguyễn... của những người Anh gốc Việt sống đời lưu lạc ở quê hương sương mù.
Dù đã đóng góp cho nạn nhân động đất Haiti qua tổ chức Hồng thập tự ở Mỹ (American Red Cross), nhìn khuôn mặt ngây thơ, thánh thiện của Charlie, bị ám ảnh bởi những khuôn mặt thất thần, hốc hác của các em bé Haiti sau khi đất chuyển mình ở Port Au Prince, chúng tôi cũng lôi thẻ Credit Card ra, góp nhần nhỏ nhoi của mình bảo trợ một trong những vòng đạp xe của Charlie Simpson, đòng góp cho quỹ UNICEF. Không muốn để tên thật của mình, không muốn để tên vô danh, chúng tôi gõ lên keyboardd vào website tên Nguyễn Thị Saigon.
Nguyễn Trần Diệu Hương
Mưa Lâu Thấm Đất
Thế hệ của Ba Mẹ không còn "cổ hủ" như thế hệ ông bà, cho nên chỉ thỉnh thoảng bầy con mời được nghe những câu răn dạy bằng văn vần rất dễ nhớ từ bà nội hay bà ngoại, chẳng hạn:
"Trai thời trung hiếu làm đầu
Gái thời đức hạnh làm câu trau mình"
Nhưng Ba Mẹ, đặc biệt là Mẹ có lối dạy con kiểu "mưa lâu thấm đất", nghĩa là lập đi lập lại hoài đến một lúc nào đó, tự nhiên những điều giáo huấn sẽ thành "chân lý" trong lòng bầy con Mỗi lần Ba Mẹ khuyên răn, anh cả, chỉ khoảng mười tuổi lúc đó, vẫn lén lút thì thầm với bầy em là đã đến giờ nghe "kinh nhật tụng".
Hồi nhỏ xíu, Mẹ dạy chung cả bầy con mổi giờ ăn trưa hay ăn tối:
-Phải cố gắng học hành cho giỏi. Ba Mẹ không có nhiều của cải để lại cho tụi con, chỉ biết hết sức lo cho các con ăn học nên ngượi. Phải học hành đến nơi đến chốn thì đời sống mới khá được, và mới giúp đỡ được người khác.
Bầy con, chưa đứa nào qua khỏi ngưỡng cửa Tiểu học, nghe thì nhiều nhưng hiểu chẳng đươc bao nhiêu, Nhưng vẫn cố gắng học hành vì những gói phần thưởng bọc giấy kiếng màu đỏ mỗi cuối niên học hơn là vì hiểu lời Mẹ dạy..
Lâu lâu Mẹ mở rộng "kinh nhật tụng" với những lời khuyên bảo "cao xa" hơn:
- Anh em như thể tay chân, phải biết đoàn kết bảo bọc cho nhạu. Phải biết kính trọng người già yếu và biết giúp đỡ nguời tàn tật.
Điều này còn mơ hồ hơn chuyện "phải học giỏi", nhưng bầy con vẫn giữ thói quen khoanh tay chào người lớn (vì Ba Mẹ nhắc), và thỉnh thoảng đặt những đồng tiền cắc năm đồng có hình bông hoa (là cả một "gia tài vĩ đại" với con nít lúc đó) vào tay những người ăn xin tàn tật. Tuy vậy, lâu lâu vẫn húc cùi chỏ vô đứa ngồi bên cạnh, hay gõ đầu em khi Ba Mẹ vừa quay lưng
Lâu lâu cãi nhau với hai anh em bạn hàng xòm, con trai chạy về nhà kéo thêm đứa em chạy ra để ... "biểu dương lực lượng", đễ yên tâm mình không bị "một chọi hai" chứ thật sự cũng chưa hiểu rõ "kinh nhật tụng" mỗi ngày nghe từ Mẹ
Lớn hơn một chút, Mẹ phân chia con trai, con gái riêng biêt.
Với con trai, Mẹ khuyên răn:
-Làm gì cũng phải suy nghĩ, Không bao giờ đành nhạu Giải quyết mọi chuyện bằng cái đầu, không phải bằng tay chận Phải nhớ một sự nhịn là chín sự lành.
Với con gái, Mẹ thì thầm mỗi ngày:
-Con gái phải có ý tứ, đi đứng nằm ngồi gì cũng phải ngó trước ngó sau. Ăn nói phải giữ ý giữ tứ, không cười to nói lớn ở nơi công cộng.
Mẹ dạy kỹ như vậy, mà lâu lâu, con trai vẫn chia phe chơi đánh nhau với bạn bè; lúc đầu đánh chơi; sau hăng quá, đánh thiêt. Tàn "cuộc chiến", anh em kéo nhau về nhà, lấy quần áo dài tay ra mặc, để che "dấu tích chiến tranh" trên bắp đùi, trêm khuỷu tay; và hậu quả của chuyện không nghe lời cha mẹ.
Con gái thì lúc vui quá vẫn thoải mái cười to, phơi bày cả hàm răng sữa vừa mới mọc hãy còn lởm chởm chưa đều, và ăn to nói lớn không kém gì tụi con trại Còn tệ hơn, lúc chơi đánh thẻ bằng mười chiếc đũa tre thì ngồi bệt dưới đất, hai chân duỗi dài xòe ra thành một góc chín mươi độ, không còn nết na cần phải có của đàn bà con gái.
Nhưng đúng là "mưa lâu thấm đất", mãi về sau này, lúc lênh đênh trên chiếc ghe mong manh giữa đại dương, nôn mửa đến cả mật xanh đắng nghét con gái vẫn ngồi ngay ngắn đàng hoàng vì ghe vượt biên chật cứng, mà cũng vì ngay cà giữa hiểm nguy, lời Mẹ dạy vẫn vâng vẳng bên tai "con gái đi đứng nằm ngồi phải giữ ý".
Thời gian Ba bị "học tập cải tạo" không biết ngày về, Mẹ vừa làm cha, vừa làm mẹ, như con gà mái, dù nhọc nhằn xác xơ, vừa xù lông che chở cho đàn gà con, vừa bương chải kiếm sống (với sự đỡ đần của ông bà ngoại và bà nội), không còn cò dịp dạy dỗ, khuyên răn các con mỗi ngày. Bữa ăn lúc đó, buồn bã, không có tiếng cười, tiếng nói như thời nhỏ dại. Và khi mất rồi mới thấy quý, cả bầy con bỗng nhớ ;kinh nhật tụng" hơn bao giờ hết.
Không biết vì "bần cùng tất biến", tự nhiên khôn ra mà không đợi lớn, hay vì mưa lâu đã thấm đất, lời khuyên răn của Ba Mẹ thấm vào tâm hồn tự lúc nào không biết, cả bầy con già trước tuổi, chửng chạc ra vì thấy sự vất vả của Ba Mẹ, vì thấy mình không còn dược học thêm lễ nghĩa từ học đường, nên những điều Ba Mẹ dạy năm nào thời thơ dại ngày càng rõ nét, hằn sâu vào tâm hồn
Bẵng đi rất lâu, một mình Mẹ xoay sở lo toan mọi thứ, không có giờ "đọc kinh nhật tụng" mỗi ngày cho con cái Đến lùc bầy con vào tuổi niên thiếu, không còn chọn lựa nào khàc, phải đi xa, băng qua cả một đại dương, Trước lúc ra đi, Mẹ dặn dò từng đứa . Lần này, không còn là điều nói công khai trong bữa ăn có đông đủ cả Ba Mẹ và các con như năm xưa, mà là tiếng Mẹ thân yêu thỏ thẻ bên tai mỗi đứa con bên ngọn đèn dầu buổi tối, ảm đạm đen tối như tương lai con cái những người tù chính trị thập niên 80.
-Nếu đến được quê người bình yên, phải lo học hành thành người, phải luôn nhớ lời Ba Mẹ dạy. Anh chị em ở xa, không có Ba Mẹ bên cạnh lại càng phải đoàn kết, đùm bọc thương yêu nhau nhiều hơn. Làm gì cũng phải suy nghĩ kỹ càng
Chỉ có vậy và chỉ được nghe một hay hai lần trước lúc ra đi, không còn phải nghe hàng ngày như thời thơ ấu, nhưng ví lớn hơn, có trí khôn, ý thức được hoàn cảnh của xã hội, của gia đình nên "mưa rào vẫn thấm đất".
Nhờ Mẹ thành tâm cầu nguyện, và hình như cả Phật lẫn Chúa chỉ trao cho con người gánh nặng mà con người đủ sức gánh, nên anh chị em nối tiếp nhau, lần lượt từng đứa đến được quê người, "vô sản” về của cải vật chất, nhưng giàu có vê tinh thần nhờ những lời khuyên "mưa lâu thấm đất" của Ba Mẹ năm nào.
Những năm đầu ở xứ sở tự do, không có quan hệ ngoại giao giữa hai quê hương, nên tưởng như không còn có ngày về, không biết đến thủa nào mới gặp được Ba Me. Nhưng nhờ bận rộn, đầu tắt mặt tối với học hành và kiếm sống từ khởi điểm zéro, nên cả bầy con chỉ nhớ Ba Mẹ mà không buồn lắm. Nhửng lúc gặp khó khăn thì tự nâng mình lên bằng "kinh nhật tụng" của Ba Mẹ suốt thời thơ dại.
Thập niên cuối cùng của thế kỷ hai mươi, quan hệ ngoại giao Mỹ Việt được tái lập, mặc dù vẫn không được ở gần Ba Mẹ nhưng đường dây điện thoại viễn liên đã đem được tiếng nói và lời khuyên của Ba Mẹ đến các con. Lúc này nhửng lời giáo huấn, dù ngắn ngủi như mưa rào hay lê thê như mưa dầm đều có mang màu sắc tôn giáo vì Ba Mẹ đã ở ngưỡng cửa tuổi già.
- Mỗi năm cho Ba Mẹ xin một ít tiền, tùy lòng hảo tâm của mỗi dứa để Mẹ mua gạo cho người già, mua sách vở cho các em bé mồ coi Mình có chén cơm ăn thì nên chia xẻ cho người khác vài muỗng cháo
Lúc đầu, mổi đứa gởi tiền về như yêu cầu của Me. vì muốn Mẹ vui, nhưng nhờ "mưa lâu thấm đất", những năm sau này, việc gởi tiền về giủp người không may ở quê nhà không chỉ là do "đơn đặt hàng" của Me. mà là tự nguyện, mà còn là niềm vui
Khi Ba Mẹ qua Mỹ thăm các con, lại có lời khuyên mới rất "hơp thời trang", đi trước cả luật lệ:
- Lái xe phải cẩn thận, ngó trước ngò sau. Khi lái xe thì không làm việc gì khác, không nói chuyện diện thoại...
- Có sống ở đâu đi nữa cũng phải giữ lễ nghĩa Việt Nam của mính, con người ai cũng có gốc, gốc phải tốt thì ngọn mới xanh dươc. Đừng sống đua đòi quá đáng khì chung quanh mình nhiều người vẫn còn khổ...
Bên cạnh đó vẫn là những câu "kinh nhật tụng" cũ rích nâm xưa:
- Anh chị em phải biết thương yêu đùm bọc nhau.
Nhưng ở tuổi nửa đời người, cả bầy con đều thích nghe, đều hết sức trân trọng những lời khuyên bảo được lập đi lập lại từ lùc có trí khôn đến tận bây giờ. Những lời dạy quý báu mở đầu bằng động từ "phài" đã thấm vào tâm hồn từng đứa con tự lúc nào và đã giữ cho cả bầy con không bao giờ đi chệch về bên "trái"
Cũng ở tuổi nửa đời người, cả con trai lẫn con gái đều nhận ra rằng sau lưng mỗi người đàn ông thành công, không những chỉ có một người vợ khôn ngoan mà còn có cả một bà Mẹ tuyệt vời, kỳ quan đứng trên tất cả mọi kỳ quan đẹp nhất trên đời.
Nguyễn Trần Diệu Hương
(Với lòng biết ơn Ba Mẹ của 5H - Vu Lan 09))
Trên Xe Bus
Ngồi sau tay lái của cái xe bus cồng kềnh, dài như một toa xe lửa, đã hơn ba mươi năm, ông Phil hiểu nỗi vất vả của nghề lái xe bus cho County. Hồi mới về từ chiến trường Việt Nam đầu thập niên 70, ông cũng từng làm nhiều công việc khác, từ nhân viên đưa thư của bưu điện, đến nhân viên bảo trì sửa chữa maintenance cho School District, nhưng ông không cảm thấy thoải mái như thời còn mặc áo lính nên khi người bạn thân thời Trung học rủ vào làm nghề lái xe bus cho County, ông bằng lòng ngay.
Tuy có chiều cao gần sáu feet nhưng với ông, chiếc xe bus cũng cồng kềnh, quá khổ, nhất là so với chiếc xe thể thao hai cửa lúc đó của ông. Ông phải đi học một bằng lái xe đặc biệt cho những tài xế lái phương tiện chuyên chở công cộng. Rồi phải trở lại trường mấy tháng để lấy loại bằng lái xe dành riêng cho những tài xế xe bus, nhiều yêu cầu hơn bằng lái xe class C cho xe cá nhân mà hầu hết người Mỹ trên 17 tuổi đều có.
Thi đậu về lý thuyết xong, đến phần thi lái xe, lần đầu tiên ông ngồi lên ghế tài xế của chiếc xe bus cao to quá khổ, ông có cảm giác mình đang ngồi sau ghế tài xế xe tăng thời còn trong quân đội. Thật ra, điều khiển xe tăng khó hơn, nhưng trước mặt tài xế xe tăng là chiến trường không có người qua lại, không có hàng chục chiếc xe cá nhân và đôi khi vài chiếc motorcycle chạy chung quanh như lái xe bus. Chưa kể lâu lâu lại có người liều lĩnh băng ngang qua đường, không chịu ngó trước ngó sau, không đúng vị tri ở trong hai lằn sơn trắng chỉ dành riêng cho người đi bộ.
Lần đầu thi thực hành, không thành công vì ông không lái được xe bus đến những trạm chờ đúng giờ, dù là do đèn đỏ ở hai ngã tư đường kéo dài lâu hơn bình thường khi một đoàn học sinh tiểu học đi filed trip băng qua đường. Ông còn nhớ có mười trạm cho xe bus phải ngưng lại trong suốt lộ trình thi thực hành, ông chỉ trễ có hai trạm khoảng hai phút trong lần đầu tiên lái chiếc xe bus quá khổ nhưng ông giám khảo khó tính cuả công ty xe bus VTA đã bắt ông phải thi lại với lý do tài xế xe bus phải luôn luôn đến các trạm chờ xe đúng giờ. Lần thi thứ hai, ông cố hết sức tránh khuyết điểm cuả lần trước, vẫn bị đánh rớt với lý do ông chờ ở trạm X, một trạm xe bus rất bận rộn, không đủ ba phút như yêu cầu. Thi lại lần thứ ba, chấm điểm ông trong việc thi thực hành có đến hai giám khảo và một tài xế lái xe bus với hơn hai mươi năm kinh nghiệm. Dù đã tự tin hơn trong lần thi thứ ba, ông vẫn chuẩn bị tinh thần để nếu phải thi lại lần nữa, ông vẫn không bỏ cuôc. Ông vẫn được ông bà cụ thân sinh dạy ông từ ngày đủ trí khôn "you re never been a quitter". Lần đó, trời mưa, tưởng là khó lái hơn bình thường, nhưng có lẽ nhờ mưa nên người ta ít đi ra đường, đường vắng hơn, và ông thi đậu với số điểm gần như tuyệt đối từ cả hai vị giám khảo. Cả tháng sau khi có được bằng lái, ông đóng vai trò người lái phụ trên hơn mười chuyến xe bus chạy khắp tuyến đường của County. Thoạt đầu, những người lái xe lâu năm đầy kinh nghiệm chỉ cho ông điều khiển chiếc xe bus thời gian đường vắng xe, dễ lái. Một tuần sau, thấy người tài xế trẻ lái chiếc xe bus một cách tự tin, thư thái, họ để ông cầm lái suốt ngày. Tuy vậy, họ cũng ngồi ở ghế gần tài xế nhất, tận tình chỉ dẫn cho ông những bất trắc mà bất cứ nghề nghiệp nào cũng có, nhất là nghề lái xe bus với đa số hành khách là trẻ em hoặc người lớn tuổi, không còn phản ứng nhanh nhẹn, chính xác. ghế ngồi lại không có dây nịt an toàn.
Có những cô cậu học sinh teenagers mải mê nói chuyện hay chơi game trên xe bus, không chú ý đến những trạm dừng, đến lúc nhớ ra thì đã vượt qua nơi cần đến một đoạn dài. Ông liên lạc bằng điện thoại với người đồng nghiệp chạy ở chiều ngược lại, và họ gặp nhau ở trạm xe bus kế đó, ở hai chiều đối nghịch nhau trên cùng một lộ trình, để những học sinh có thể lên xe bus chiều bên kia về lại nhà mà không cần phải trả thêm tiền. Lần đó, chưa bao giờ chiếc xe bus của ông lại vui vẻ, huyên náo như vậy! Chỉ có tám học sinh khoảng mười ba, mười bốn tuổi, nhưng đã gây một không khí hưng phấn với những tràng pháo tay kèm theo lời reo hò khi thấy cái xe bus chiều ngược lại ngừng lại bên kia đường, và người lái xe chiêu bên kia thò đầu ra từ ghế tài xế, vẫy vẫy các cô cậu teenagers. Những người lớn tuổi ngồi trên xe cũng vui lây theo cái hào hứng của bọn nhỏ. Chuyện đó xảy ra vào mùa giáng sinh nên các em nhỏ học sinh đã gọi ông với cái nick name bằng tiếng Pháp rất dễ thương "Papa Noel".
Một lý do khác để các cô cậu học trò Trung học thích đi xe bus là được tự do nói chuyện, cười giỡn với bạn bè đồng trang lứa, không bị ngồi một mình, không có bạn bè bên cạnh như trên xe riêng của cha mẹ. Điều làm các cô cậu tranh cãi hào hứng nhất là những hình vẽ quảng cáo ở hai bên hông của xe bus. Những hình vẽ đó thường là những hình tài tử của một phim sắp chiếu trong các rạp cinema ở địa phương. Thôi thì đủ thứ hình từ hình của những tài tử lão thành như Clint Eastwood đến những tài tử con nít vừa xong Trung học như Ashley Olsen. Nhiều lúc lái cái xe bus cồng kềnh với hình tài tử của cuốn phim sắp chiếu ở hai bên hông nhưng ông Phil và các đồng nghiệp không biết rõ về họ như những hành khách tennagers đi xe bus. Nghe các cô các cậu bàn cãi mới hiểu tai sao người ta bỏ một số tiền không nhỏ để thuê những hoạ sĩ có tài vẽ quảng cáo thường (chỉ kéo dài khoảng hai tuần) ở hai bên hông của các xe bus chạy trong thành phố. Các cô các cậu nhỏ tranh luận hăng say về các chi tiết trong phim, về "thần tượng trên màn ảnh" của mình. Đôi khi bất phân thắng bại, hai bên cùng thỏa thuận trích một phần tiền trong số tiền allowance nhỏ nhoi được cha mẹ "phát lương" mỗi tuần, mua vé cho một người bạn khác, " nhân vật thứ ba đáng tin cậy" đi coi để về làm.... trọng tài. Gần mười năm nay, ông Phil không còn đến rạp để coi những phim mới ra như những ngày còn trẻ, nhưng ông biết rất nhiều về các phim mới chiếu qua những hành khách học trò đi xe bus của ông mỗi ngày. Vào muà hè, trường đóng cửa vài tháng, ông Phil cũng cảm thấy nhớ những "bình luận gia phim ảnh" đáng tin cậy của ông. Tụi nhỏ cũng quý người tài xế đứng tuổi lái chuyến xe bus trên lộ trình đi học của chúng vì có hôm lở bị thiếu tiền, ông Phil cho các cô cậu học trò thiếu nợ, khi nào có tiền sẽ trả.
Quan hệ giữa hai bên ngày càng thắm thiết vì "chủ nợ" không bao giờ đòi, nhưng "con nợ" luôn nhớ trả số tiền mình còn thiêu, dù có lỡ kẹt tiền trả trễ, nhưng vẫn trả đúng số tiền mình đã nợ ông tài xế xe bus tốt bụng.
Nhưng với những người già, những senior citizen đã lớn tuổi, không biết lái xe, hay không còn đủ sức để lái xe, phải dùng xe bus như phương tiện di chuyển hàng ngày thì mọi chuyện phức tạp hơn nhiều. Ông cụ thường lên xe ở trạm số 32 chẳng hạn, dù đã về hưu khá lâu, nhưng thói quen tất bật vội vã luôn chạy đua với kim đồng hồ của ông vẫn còn, nên nhiều khi ông để quên đồ trên xe bus. Sáng hôm sau, vẫn lên xe đúng giờ thông lệ, nhưng ông cụ không đi thẳng đến chỗ ngồi quen thuộc của mình ở khoảng giữa xe, ma ngồi ngay sau lưng tài xế và hỏi:
- Cái mũ tôi bỏ quên hôm qua, ông có cất giùm tôi không"
Khi nhận lại được cái beret quen thuộc màu đen, ông cụ đã cảm ơn bằng cách tặng cho ông Phil hộp sữa chocolate hiệu Nestlé (ong Phil vẫn quen mang theo xe bus để uống) còn lạnh buốt như mới được lấy ra từ tủ lạnh.
Hai vợ chông ông bà cụ lên xe ở trạm số 50 luôn mỉm cười rất thân thiện và hỏi thăm ông một cách vồn vã khi họ vừa lên xe và chià cho ông xem cái vé đi xe tháng của người lớn tuổi. Ấy vậy mà một lần, vì mải mua sắm, ra trạm chờ xe bus lượt về trễ hơn lệ thường năm phút. Khi cánh cửa lên xuống được đóng lại, chiếc xe bus lăn bánh ông Phil mới thấy thấp thoáng hình ảnh hai vợ chồng người khách quen thuộc vội vã băng ngang qua đường sai chỗ quy định (giữa hai cột đèn lưu thông), không đúng luật lệ phải băng qua đường trong hai lằn sơn trắng dành cho người đi bộ. Ông rất muốn chờ hai người khách quen thuộc từ cả chục năm nay, nhưng quy luật về giờ giấc ở mỗi trạm xe bus không cho phép ông chờ lâu hơn thời gian quy định quá hai phút. Và chặng ở trạm chờ kế tiếp, có rất nhiều người đi làm ca hai ở một nhà máy nằm ở phiá Đông Nam thành phố. Ông không muốn những người công nhân này phải đến sở trễ giờ vì lỗi của ông. Những người già đã về hưu, không còn đi làm, trễ chuyến xe bus này, họ chỉ cho mười lăm phút vào ngày thường hay nửa tiếng vào cuối tuần để lên chuyến xe bus kế về nhà hay đi mua sắm ở các cửa tiệm. Nhưng những người công nhân thì không thể trễ được, họ phải có mặt đúng giờ ở chỗ làm.
Hôm sau, gặp lại ông bà cụ trọng tuổi đã trễ xe bus chiều qua, ông Phil nghe ông cụ phàn nàn về chuyện trễ xe bus phải đứng giữa trời mùa đông mười lăm phút để chờ chuyến xe kế tiếp; lại còn bị phạt một cái ticket về tội "Jaywalking", băng qua đường không đúng chỗ quy định, phạm luật giao thông dành cho người đi bộ. Cũng may ông Cảnh sát giao thông thương tình cho những người già sống bằng qũy an sinh xã hộI, thu nhập không cao, nên chỉ phạt cụ ông một cái ticket với tiền phạt là $30.00; và không phạt cụ bà dù cả hai người cùng băng qua đường không đúng vị trí quy định,
Ông Phil chăm chú nghe, tuy không đứng hẳn về phe ông cụ hay về phiá nhân viên Cảnh sát nhưng vẫn biểu lộ sự thông cảm với nỗi ấm ức của ông cụ.
Tuy vậy, vốn là một người lạc quan, nhìn nửa ly nước với ý nghĩ "ly nước vẫn còn đầy một nửa", ông cụ vừa diễn tả xong nỗi ấm ức đã tự khôi hài với cái giấy phạt ba mươi dollars của mình:
- Như vậy là coi như ông Cảnh sát đã cho hai vợ chồng tôi được "buy one get one free" với pháp luật đúng không"
Đến đây, thì không những chỉ ông Phil mà hai người khách ngồi ngay sau lưng ông Phil, nghe rõ mọi chuyện, cũng bật cười thành tiếng. Hạnh phúc đôi lúc cũng đơn giản như lộ trình lái xe bus của ông Phil mỗi ngày.
Đó chỉ là một trong hàng trăm mẩu chuyện ông Phil được nghe hàng ngày trong gần ba mươi năm lái xe bus cho County. Những người khách quen thuộc qúy ông Phil không phải chỉ vì ông đã lắng nghe mọi chuyện của họ, những bực dọc đời thường mà họ không thể chờ đến lúc về nhà, phải phân trần ngay với ông Phil, mà còn vì họ đã từng chứng kiến ông Phil giúp đỡ nhiều hành khách đi xe bus, đặc biệt là những người homeless không có nhà, vẫn mua vé "day pass" cả ngày, rồi ngồi ngủ gà ngủ gật với nhiệt độ dễ chịu trên xe bus, với máy lạnh vào mùa hè, và máy sưởi vào mùa đông.
Ông Phil yêu nghề lái xe bus của mình vì một lẽ giản dị là khuôn mặt rạng rỡ của những người đợi ông ở trạm chờ xe bus. Nhất là những ngày mùa Đông, trời lạnh, đặt chân lên xe bus có máy sưởi, dễ chịu hơn nhiệt độ ngoài trời nhiều. Thế nên mùa Đông, thỉnh thoảng vẫn có những người homeless vét những đồng quarter cuối cùng từ cái áo jacket đã dày lại càng phồng lên với đủ thứ đồ vặt vãnh cá nhân, đât vào hộp bán vé xe vẫn đặt cạnh tài xế. Có hôm một người vét đủ cả bốn túi quân của cái quần jeans bạc phếch, đến hai túi áo của chiếc jacket dầy cộm, đến cái túi vải cũ ông ta mang trên vai, vẫn còn thiếu năm mươi cents, ông Phil nhẹ nhàng:
- Đừng lo, tôi sẽ trả phần còn lại cho ông.
Chuyện chỉ có vậy, năm mươi cents không đáng là bao, vào thời điểm này chưa mua được một ly cà phê ở McDonald, nhưng người homeless ân cần cảm ơn, tỏ vẻ rất cảm kích làm ông Phil cứ áy náy trong lòng.
Ông có thiện cảm với những người homeless, đặc biệt là những người homeless đứng tuổi vì nhiều lý do, mà lý do quan trọng nhất là ông đã từng là một người lính, và có rất nhiều cựu chiến binh Mỹ, lúc giải ngũ, trở về đời sống dân sự, vì nhiều lý do cá nhân, hoặc vì không được chuẩn bị tinh thần để chuyển từ đời sống quân sự dù phải khép mình trong kỷ luật gắt gao nhưng có chính phủ lo mọi thứ, sang đời sống dân sự tự do hơn nhưng phải tự lo cho mình, phải đấu tranh trong một môi trường mà những người lính trẻ chưa kịp thích nghi thì đã bị vấp ngã, nên đã mang bệnh trầm cảm. Gặp khó khăn như vậy, lại không được sự trợ lực cần thiết của gia đình nên đã trở thành một thành viên của đội quân homeless, một vấn nạn triền miên của Hoa Kỳ mà chưa có một ông Tổng thống Mỹ nào có khả năng giải quyết ổn thỏa.
Ông Phil phân biệt được người homeless nào là cựu chiến binh qua "tài sản", mà vì không có nhà, họ luôn mang theo bên mình. Những người homeless là cựu chiến binh vẫn còn giữ được tính ngăn nắp của một quân nhân. Đồ đạc của họ gọn gàng hơn, lưng họ vẫn còn thẳng mặc dù đang phải gánh gồng nhiều áp lực từ đời sống lang thang, không nhà.
Mỗi độ cuối thu đầu đông, khi trời trở lạnh, những shelter (nhà tập thể mở cửa suốt mùa đông giúp những người homeless có chỗ dung thân dưới cái lạnh buốt da buốt thịt của trời đất) mở cửa mười hai tiếng mỗi ngày, từ bẩy giờ tối đến bẩy giờ sáng, những chuyến xe bus của County thành nhà tạm trú cho những người homeless nửa ngày còn lại, từ bảy giờ sáng đến bảy giờ tối. Họ ngối ở những băng ghế cuối xe ngủ gà ngủ gật, không để ý đến ai, hiền lành, vô hại. Lâu lâu ông Phil mang cho họ một hộp donuts, hay một vài gói potatoes chips. Lúc đầu, họ không nhận, về sau nhận ra người tài xế xe bus có từ tâm, thật lòng muốn giúp đỡ họ. Ông làm việc đó vì trái tim thương người khốn khó, không phải bằng tính toán thiệt hơn, để quay phim, chụp hình như các chính trị gia đang vận động tranh cử, không mưu đồ cho lợi ích cá nhân, nên họ nhận thức ăn và coi ông như một "Good Samaritan" chuyên giúp đỡ người khác một cách vô vị lợi. Ông Phil bắt đầu mang đồ ăn lên xe bus cho những người homeless vẫn ngồi ở cuối xe, dong ruổi cùng ông cả ngày trên xe bus, từ mười năm trước.
Lúc đó, khi ông đủ hai mươi năm thâm niên làm việc với Công Ty xe bus, những người đồng nghiệp làm cho ông một cái bánh chocolate rất lớn có hình một chiếc xe bus, mỗi cửa sổ là một viên chocolate hersley hình chữ nhật, trên mặt bánh có con số hai mươi tròn triạ màu olive. Vì họ biết ông rất yêu nghề và yêu cả quãng đời trai trẻ mặc áo lính, dù phải hy sinh nhiều thứ nhưng được đi khắp nơi trên thế giới, học được rất nhiêu thứ từ "sàng khôn"của cuộc đời Dĩ nhiên cái bánh rất lớn có kích thước gần bằng phân nửa khung cửa kính trước của cái xe bus, mừng ông đủ hai mươi năm trong nghề lái xe bus, chỉ được "tiêu thụ" khoảng một phần ba. Hai phần ba còn lại, cô Kathy ở Huaman Resources bỏ vào hộp để ông mang về. Ông từ chối mãi không được, đành phải mang về và vì phần bánh còn lại to quá, ông mang lên xe bus ngày hôm sau để mời những người khách vẫn đi xe bus mỗi ngày. Hôm đó, cái xe bus quen thuộc của ông trở thành một cái party lưu động. Khách lên xe, dù đã quen mặt từ bao năm qua, đến những người mới đi xe bus lần đầu, từ những cô cậu học sinh mười lăm, mười sáu tưởi đến những ông bà cụ già đã phải chống gậy đều rất vui vẻ vì "sweet treat" bất ngờ trên xe bus từ người tài xế đứng tuổi vẫn được tiếng tốt bụng, thương người.. Đến cuối ngày, cái bánh chocolate vẫn còn một phần tư, và ông nhờ người homeless ngồi ở cuối xe mang về shelter cho những người khác. Ông ra về, lòng thanh thản như mọi ngày, đúng như một câu thánh kinh đã dạy "tay mặt làm phước không nên để tay trái biết".
Ấy vậy mà hôm sau, ông nhận được một bó hoa của những người homeless tặng cho ông, Ông bàng hoàng, thấy mình có lỗi vì đã làm phiền đến những người homeless. Không chừng họ đã phải vét những đồng quarters cuối cùng trong túi áo, góp lại để mua hoa cho ông, như họ đã từng vét tất cả túi áo, túi quần để đủ mua một cái "day pass" để được ngồi trên xe bus cả ngày, như là một cái nhà lưu động của họ.
Bên cạnh những chuyện vui, cũng có những chuyện bực mình trong nhiều năm lái xe bus, chẳng hạn chuyện có những người không biết đã bất đồng ý kiến, không thuận thảo với nhau ở đâu, lại giải quyết mâu thuẫn ngay trên xe bus, từ tiếng bấc tiếng chì, mới đầu còn nho nhỏ vừa đủ nghe, sau giận quá mất khôn, mở hết volume của âm thanh từ cổ họng, và đến giải pháp nặng nề nhất, thượng cẳng chân, hạ cẳng tay. Tuy họ chỉ đánh nhau, không đụng đến bất cứ một hành khách nào, nhưng cũng đủ làm ông Phil bị chia trí, không tập trung vào lái xe. Vì phải có thời gian cố định, chính xác đến và đi ở mỗi trạm xe bus, ông Phil không thể ngừng xe lại can gián, mặc dù ông đã có được đai đen Thái Cực Đạo thời còn ở trong quân đội. Điều duy nhất ông có thể làm được là gọi về văn phòng của Công ty VTA, ở đó nhân viên trực sẽ tường trình vụ ẩu đả trên xe với Cảnh sát địa phương. Ở một trạm ngừng kế tiếp, nhân viên công lực sẽ lên xe, giải quyết nội vụ. Cái khó của tài xế xe bus là sau đó nhiều khi họ phải ra tòa làm chứng, mất rất nhiều thì giờ dù họ không được chứng kiến và nghe rõ mọi chuyện. Những nhân chứng thật sự thấy và nghe rõ nguồn cơn thì lại xuống xe đi mất biệt ở phương trời nào, nhân viên công lực chỉ biết rõ người tài xế lái xe bus trên tuyến đường có rắc rối hôm đó. Nên rất nhiều tài xế xe bus nếu phải lái xe ở một tuyến đường của một thành phố trình độ dân trí không cao, thường phải thường xuyên ra hầu tòa vì những chuyện không liên quan gì đến mình.
Một điều bực mình khác, nhẹ nhàng hơn, nhưng cũng vẫn là chuyện không có gì vui chỉ xảy ra ở mười năm gần đây khi kỹ thuật truyền thông đã đạt được mức độ mọi người dân đều có một cái điện thoại mỏng, nhỏ có thể mang theo bên mình bất cứ lúc nào, bất cứ ở đâu. Từ lúc đó, không khí trên xe bus không còn tĩnh lặng như trước, thỉnh thoảng chuông điện thoại reo lên, rồi một hành khách nào đó (nhất là những cô cậu còn trẻ) nói chuyện trên phone, càng lúc càng hào hứng đến mức độ quên rằng mình đang ở trên xe bus, tự nhiên... phơi bày đời tư và chuyện riêng của mình cho người khác nghe. Chính vào những lúc quyền "tự do ngôn luận" được lạm dụng qúa độ, ảnh hưởng đến "tự do yên lặng" va "tự do suy nghĩ" của quần chúng nơi công cộng, một vài hành khách (thường là những hành khách lớn tuổi) tiến đến gần ông tài xế xe bus để... khiếu nại về việc họ không thể đọc sách, hay đọc báo trên xe bus khi bên tai cứ phải bị nghe những chuyện... không lợi ích, những hỉ nộ ái ố của cuộc đời về cá nhân những người khác. Ông Phil chỉ nhẹ nhàng khuyên họ:
- Ông (bà) chịu khó dời chỗ ngồi khác, như vậy sẽ được thoải mái hơn.
Một số người dễ tính, dời chỗ ngồi, dích ra xa người đang lạm dụng quyền "tự do ngôn luân" đến độ xâm phạm quần chúng nơi công cộng, hay đặt headphone lên tai để vừa nghe nhạc, vừa tránh nghe chuyện thị phi. Một số người khác khó tính hơn, nhất định không chịu để tự do ngôn luận của người khác phương hại tự do cá nhân của mình, nằng nặc đòi ông Phil yêu cầu người đang nói chuyện trên cell. phone... điều chỉnh âm thanh vừa đủ nghe để khỏi làm phiền những người khác trên xe bus. Điều duy nhất ông Phil có thể ngăn chận "chiến tranh có thể bùng nổ" là vặn to hệ thống âm thanh trên xe bus. Dĩ nhiên âm thanh của public announcement trên xe bus át được âm thanh của mobile phone nên người đang nói chuyện trên phone tạm ngưng "phát huy quyền tự do ngôn luận" của mình.
Thời còn trai trẻ trong quân ngũ, nhiều lúc giữa những phút bình yên hiếm qúy ở chiến trường, ông Phil vẫn tự hỏi "tại sao có chiến tranh" để có nhiều hệ qủa đáng buồn, mà không khi nào tự trả lời được Mãi về sau này, sau nhiều năm tháng nhìn xã hội thu nhỏ trên xe bus, đôi khi vẫn có tranh chấp giữa một nhóm người nhỏ đếm trên đầu ngón tay, ông nghiệm ra rằng tại sao vẫn có chiến tranh, nếu không là chiến tranh súng đạn, thì cũng là chiến tranh ngôn ngữ.
Đến khi ngân sách của Chính phủ bị can kiệt vì "mạnh ai nấy tiêu xài" không quan tâm đến người khác, từ liên bang đến tiểu bang, người ta nghĩ đủ cách để cắt giảm chi tiêu, ngay cả cắt giảm ngân sách dàng cho giáo dục, và những phương tiện chuyên chở công cộng như xe bart, xe bus... Điều đó là chuyện tất nhiên, ông Phil và đồng nghiệp không phàn nàn vì cha mẹ giầu thì con hưởng, đến lúc cha mẹ túng quẫn thì con cái phải hy sinh mỗi đứa một chút. Nhưng những người tài xế lái xe bus đều phẫn nộ khi một vài bài báo trên những tờ báo địa phương cho là nghề lái xe bus là một nghề "overpaid" nghiã là được trả lương quá cao. Tác giả của những bài báo đó có lẽ chưa bao giờ phải đi xe bus, chưa bao giờ tưởng tượng đến một tuổi nào đó khi gối mỏi chân chồn, mắt mờ tai điếc, họ không còn lái xe được nữa, xe bus sẽ trở thành một phần đời sống của họ. Họ cũng không tưởng tượng được trách nhiệm của một người tài xế xe bus về những lợi ích công cộng, về sự an toàn của hành khách cũng như tất cả mọi người trên đường phố. Rồi còn kiến thức về cơ khí để còn biết cách bảo quản tu sửa chiếc xe bus để xe luôn có tình trạng hoàn hảo.
Ông Phil đã sắp đến tuổi về hưu, ông sẽ không bị ảnh hưởng bởi qũy an sinh xã hội càng lúc càng thu nhỏ lại trong lúc đội ngũ người đến tuổi về hưu càng lúc càng đông vì tuổi thọ của người ta tăng cao cùng với sự tiến triển của khoa học. Ông cũng không thấy trở ngại lắm nếu paycheck của ông bị giảm xuống. Điều ông vẫn trăn trở là tại sao người ta không đặt mình vào vị trí của người khác trước khi phát biểu, phê phán, hoặc làm điều gì, ông vẫn trân trọng từng người khách đi xe bus, ông vẫn trân trọng nỗi nhọc nhằn của tất cả mọi người mỗi ngày vì no áo cơm. Hy vọng như những con đường hai chiều quen thuộc, mọi người cũng trân trong sự hy sinh của những người lính ở chiến trường bom đạn, tinh thần trách nhiệm của những người lái xe bus trên "chiến trường đường phố" mỗi ngày
Nguyễn Trần Diệu Hương
Tạ Lỗi Cùng Người
Mười ô cửa sổ của chi nhánh Sở An sinh Xã hội ở Mountain View , vẫn được gọi bằng tiếng Việt là thành phố "Tầm nhìn của núi", có kích thước giống nhau, chiều dài khoảng một thước, chiều ngang khoảng chín tấc, thoạt trông giống hình vuông hơn là hình chữ nhật. Nhưng vì đang là giờ ăn trưa của các công sở, văn phòng chính phủ ở Mỹ nên chỉ có hai cửa sổ số 5 và số 9 mở, trong khi tám ô cửa sổ khác đã đóng kín, mà không cần phải treo bảng "be back at 1:00PM" như các văn phòng tư nhân, vì Công chức ở Mỹ, dù là của liên bang hay tiểu bang, đều có giờ ăn trưa cố định từ mười hai giờ trưa đến một giờ chiều
Từ hai dãy ghế ngồi chờ, người ta chỉ thấy được nửa phần trên khuôn mặt của các nhân viên sở An sinh Xã hội bên trong khung cửa sổ. Nhân viên khung cửa số 5 làm việc khá nhanh, trung bình bảy phút, ông ta giải quyết xong một trường hợp. Nhưng nhân viên khung cửa số 9 làm rất chậm. Bảng điện tử màu đỏ chỉ cho người chờ đợi biết khung cửa sổ nào đang giải quyết số mấy . Cửa sổ số 5 đã nhấp nháy thay số ba lần mà cửa sổ số 9 vẫn còn giữ nguyên số A39. người ngồi phiá ngoài ô cửa sổ số 9, đang làm việc với một nhân viên Sở An ninh Xã hội ngồi bên trong, rút hết tờ giấy này đến tài liệu khác , đưa ra cho nhân viên ngồi phiá trong, có vẻ như đó là một trường hợp đặc biệt cần được thẩm tra, xem xét kỹ lưỡng.
Giang sốt ruột nhìn cái bảng digital treo tường, Hàng chữ màu đỏ vẫn chạy rất chậm "we re now serving numbers A39 and B81". Đây là lần thứ hai Giang đến Văn phòng Sở An sinh Xã hội của Mỹ. Lần đầu tiên đến Sở An sinh Xã hội , đã hai mươi năm trước, Giang phải đi ba chuyến xe bus mất gần cả ngày trời, tay khư khư ôm cái giỏ màu trắng của một thuyền nhân tỵ nạn vừa đến Mỹ với đủ mọi thứ xa lạ: ngôn ngữ, tập quán, ngay cả khí hậu, đang là giữa mùa đông, trời nắng nhạt nhưng vẫn lạnh, lạnh đến nỗi thở ra khói. Ngày đó, có lẽ thấy nước da của Giang còn phảng phất mùi gió biển của một thuyền nhân tỵ nạn, thấy thái độ rụt rè của một người mới nhập cư, nhân viên Sở Xã hội tận tình chỉ dẫn Giang mọi thứ từ điền đơn, đến chờ đợi ở phòng nào, ở cửa nào.
Trở lại Sở An sinh xã hội lần này, Giang đi vào giờ ăn trưa để khỏi bị mất nửa ngày phép. Cô cẩn thận vào website của Sở An sinh Xã hội download và điền đầy đủ những chi tiết của cá nhân vào mẫu đơn cần thiết. Bắt nguồn từ một mẫu báo cáo hàng năm Sở An sinh Xã hội vẫn gởi về cho tất cả những người dân Mỹ đã đi làm đủ bốn mươi quarters (120 tháng hay 10 năm tròn), cho biết chính xác số tiền an sinh xã hội họ sẽ được lãnh nếu họ ngưng đi làm kể từ ngày bản báo cáo đó in ra. Mọi công dân Hoa Kỳ sẽ biết thu nhập của mình lúc về hưu để có thể lập kế hoạch tài chính cá nhân cho những ngày hoàng hôn của cuộc đời.
Trên báo cáo cá nhân của Giang mọi thứ đều chính xác, từ con số thu nhập khiêm nhượng của năm đầu tiên với mức lương tối thiểu ở California (Giang bắt đầu đi làm sau hai tuần đến Mỹ). Con số thu nhập mỗi năm tăng lên đều đều hàng năm, tỷ lệ thuận với những cố gắng không ngừng nghỉ của Giang, của cả mấy chị em bên đời lưu vong ở đất lạ quê người, không có Ba Mẹ bên cạnh
. Một dãy con số thu nhập từng năm , chính xác đến từng cents, đúng như báo cáo lợi tức cá nhân hàng năm với Sở Thuế từ mẫu đơn 1040EZ đơn giản của những ngày đầu cơ cực gần như "chuyên chính vô sản", đến form 1040A với đủ thu mẫu đơn phụ kèm theo nhiều năm sau này. Chín con số an sinh xã hội của Giang cũng chính xác. Tháng sinh, năm sinh đều đúng, chỉ có ngày sinh, đã bị sớm hơn một ngày, trở thành ngày 27 thay vì ngày 28 như ngày mẹ sinh ra Giang. Phát hiện ra chi tiết sai đó ngay từ lần đầu tiên nhận được statement của Sở An sinh Xã hội, nghiã là năm thứ mười một sau khi đến Mỹ, đi làm và đóng thuế đầy đủ hàng tuần hay hai lần một tháng từ mỗi paycheck, nhưng Giang chưa lưu tâm đến chuyện đến một chi nhánh của Sở An sinh Xã hội để điều chỉnh, vì còn lâu, lâu lắm, Giang mới đến tuổi về hưu, đủ để hưởng trợ cấp an sinh xã hội cho những người già đã miệt mài đóng thuế trong nhiều thập niên. Đã vậy, một vài người bạn thân còn nửa đùa nửa thật:
-That’s OK, trên nguyên tắc, ngày 27 ở Mỹ là ngày 28 ở Việt Nam, thì ngày sinh của Giang vẫn đúng trên lý thuyết. Don’t worry, be happy.
Lâu lâu, trên báo chí hay internet, Giang vẫn đọc thấy những phiền phức của một người đến tuổi hưởng an sinh xã hội, nhưng không được Sở An sinh Xã hội Liên bang gởi check đều đều hàng tháng vì lý do là chi tiết cá nhân trên ID của họ, không hoàn toàn đúng với hồ sơ lưu trữ của Sở An sinh Xã hội, nhất là những người phụ nữ Mỹ lập gia đình nhiều lần, mỗi lần lập gia đình , lại lấy họ của người chồng mới, mà không chịu đến Sở An sinh xã hội cập nhật hoá hồ sơ cá nhân của mình.
Năm ngoái, làm việc ở một Công ty không xa Văn phòng An sinh Xã hội địa phương lắm, Giang quyết định đến điều chỉnh ngày 27 trở thành ngày 28 đúng như ngày sanh trên khai sinh, và các giấy tờ cá nhân khác..
Hướng dẫn online trên website của Sở An sinh Xã hội đã nhắc nhở mọi người trước khi đến gặp nhân viên Sở Xã hội phải mang đủ ít nhất là ba loại giấy tờ, trong đó có hai thứ giấy tờ có hình, ngày sinh tháng đẻ và full name (họ tên đầy đủ của mình) để chứng tỏ mình là ai. Giang cẩn thận mang theo đến bốn loại giấy tờ. Hai loại có hình là bằng lái xe và Passport có đủ ngày sinh tháng đẻ, full name, Hai loại có đầy đủ họ tên, nhưng không có hình là bằng tốt nghiệp Đại học và giấy chủ quyền cái nhà nhỏ xinh xắn như cái chuồng chim bồ câu màu trắng nằm ẩn mình bên cạnh một cây thông hiên ngang, xanh mướt quanh năm, mỗi mùa thu lại mang về hình ảnh Dalat sương mù ở quê nhà đã xa mù tít tắp.
Giang còn cẩn thận download và điền vào mẫu đơn xin điều chỉnh ngay từ website của Sở An sinh xã hội.
Giang chuẩn bị kỹ càng vì muốn rút ngắn thời gian làm việc ở Sở An sinh xã hội đến mức tối đa, để khỏi làm phiền những người chờ đợi sau lưng mình, và để có thể trở lại Sở làm trong vòng chín mươi phút, như thời gian vẫn đi ra ngoài cho một business lunch ; để dành ngày nghỉ cá nhân cho nhiều việc khác quan trọng hơn, cần nhiều thời gian hơn. Những lúc đi lo việc riêng trong giờ ăn trưa như vậy, khi trở về Sở, Giang vẫn uống cà phê sữa, chocolate nóng hay ăn Oatmeal (một loại bột ngũ cốc của Mỹ) thay cho bữa ăn trưa. Những người Việt Nam mới qua Mỹ khi nghe kể về những bữa "ăn trưa dã chiến như vậy, vẫn rất ngạc nhiên thấy Giang vẫn khoẻ mạnh, hồng hào, vẫn enjoy bữa ăn trưa rất Mỹ, thay vì cơm, bún, phở, hay tệ lắm cũng là mì gói hay bánh mì, Họ quên rằng "lâu dần rồi cũng quen", và khi thời gian ở quê hương mới dài gần hai lần thời gian ở quê cha đất tổ thì ăn Oatmeal loại " Original Instant Grits" màu vàng nhạt, bỏ thêm một chút đường, cũng thấy ngon không kém gì chè kê ở Huế.
Văn phòng Sở An sinh Xã hội ở tầng hai, ở ngay cửa ra vào có một nhân viên an ninh to con như một võ sĩ hạng nặng đứng gác. Không thể nào lầm lẫn ông với những người đến lo công việc ở Văn phòng Sở An sinh Xã hội vì ông mặc bộ đồng phục quần xanh đen, áo xanh nước biển của nhân viên an ninh. Thêm vào đó, ông có một nụ cười rất business, nhưng cũng rất thân thiện vui vẻ đón tiếp từng người dân đến văn phòng. Ngoài nhiệm vụ của "security officer", ông ta còn kiêm thêm nhiệm vụ chào hỏi và chỉ dẫn người đến văn phòng An sinh Xã hội lấy số thứ tự từ cái computer đặt ngay gần cửa. Ông ta cũng tận tình hỏi từng người công việc họ cần được giải quyết ở Sở An sinh Xã hội để hướng dẫn họ điền đúng mẫu đơn thích hợp, tiết kiệm thời gian cho tất cả mọi người, từ những nhân viên liên bang đến những người dân đang ngồi chờ ở hai dãy ghế đặt trước mười khung cửa sổ , chờ đến lượt mình. Ông ta đã chỉ Giang điền mẫu đơn xin điều chỉnh ngày sinh, Giang nhỏ nhẹ cảm ơn và cho ông ta biết mình đã điền xong mọi mẫu đơn cần thiết trên online và đã in ra từ nhà, Ông cười vui vẻ:
- Smart girl, bây giờ cô chỉ cần đến computer ở góc phòng kia , touch vào screen để lấy số thứ tự và ngồi chờ. Bảng điện tử trên tường sẽ cho biết khi nào đến lượt cô và việc của cô sẽ được giải quyết ở ô cửa sổ nào.
Giang lấy số thứ tự của mình A42, đi vòng quanh phòng đợi, đến cái trụ hình vuông có thể xoay tròn đủ 360 độ để tìm đọc các mẫu đơn và tìm hiểu thêm về những dịch vụ Sở An sinh Xã hội Liên bang lo cho người dân Mỹ. Và ngoài dự tưởng của Giang, Sở An sinh Xã hội không những chỉ cấp số An sinh Xã hội cho các em bé mới sinh, cho những thường trú nhân mới của Hoa kỳ, hay phát tiền hưu cho những người đã về hưu, tiền trợ cấp cho những người bị tàn tật, những gia đình có thu nhập thấp dưới mức nghèo khó (theo tiêu chuẩn của người Mỹ)...., . mà còn lo cho những người về hưu hay những "senior citizen" có thu nhập thấp , không đủ tiền trả cho các chi phí bệnh viện , thuốc men.
Ngồi chờ đợI, không có việc gì làm, không có cái gì để đọc, Giang quay ra đọc ... Guide Book của Sở An sinh Xã hội, học được thêm rất nhiều điều mới, và thầm phục hệ thống làm việc rất có quy cũ , mặc dù cũng đôi lúc cũng "cồng kềnh" và "nặng nề" vì đa số nhân viên Chính phủ vốn dĩ "quen thói lè phè", làm đủ giờ, không làm kiểu "whatever it takes to make the job done on time" như nhân viên của các Công ty tư nhân.
Đọc gần cả chục trang của quyển guide book xong, bảng điện tử vẫn còn cách số của mình đến hai số nữa, cũng chỉ có hai khung cửa sổ làm việc, tám khung cửa sổ còn lại vẫn đóng kín, Giang đến một góc phòng nhìn xuống bãi đậu xe từ tầng hai. Ngay dưới cửa sổ là cái bồn phun nước vẫn nhởn nhơ nhả từng tia nước, vô tư đùa giỡn với thảm cỏ xanh có điểm hoa vàng ở chung quanh, phớt lờ mọi bon chen, tranh chấp của dòng xe cộ dang ngược xuôi trên xa lộ 85 ở bên cạnh.
Cuối cùng, bảng điện tử đã chuyển sang số thứ tự của Giang " Now serving A42 at window 9" Giang đứng dậy, tiến đến cái ghế trước cửa sổ số 9, chuẩn bị tinh thần mình sẽ phải làm việc với một nhân viên chắc là vừa khó tính, vừa chậm chạp.
Ngồi xuống cái ghế trước cửa sổ số 9, Giang kín đáo quan sát người công chức của Sở Xã hội đang ngồi trước một cái PC. Đó là một người đàn ông Á châu ở độ tuổi trên dưới sáu mươi, có khuôn mặt lạnh lùng như "linh hồn tượng đá", không buồn không vui. Giang lễ phép chào ông ta bằng tiếng Anh vì không chắc ông ta là người Tàu hay người Việt Nam.
Đọc qua giấy tờ của Giang, thấy cái tên Việt Nam của Giang, người công chức liên bang đổi qua tiếng Việt, loại tiếng Bắc của những người Bắc di cư vào Nam trước tháng 7/54, trầm và thanh hơn tiếng Bắc của người Bắc vào Nam sau tháng 4/75
- Ngày sinh không đúng trên statement hàng năm của Sở An Sinh Xã hội từ năm 1997 mà sao mãi đến giờ mới đến xin diều chỉnh"
- Thưa Chú, vì cháu nghĩ là còn vài thập niên nữa cháu mới đến tuổi được hưởng tiền hưu trí của Liên bang. Miễn là điều chỉnh trước ngày về hưu ít nhất là ba năm tưởng cũng chưa muộn lắm.
Vẫn dán mắt vào computer, chỉ gõ keyboard bằng một tay để tìm hồ sơ của Giang trên soft file của Sở An sinh xã hội, giọng người nhân viên vẫn đều đều, lạnh lùng như khuôn mặt của ông ta:
-Tên cũng không đúng theo thứ tự, thế này mà để mãi đến mười mấy năm sau mới sửa.
-Thưa cháu nghĩ là số an sinh xã hội là yếu tố chính để truy cập hồ sơ cá nhân, những yếu tố khác chắc không quan trọng lắm.
- Không quan trọng thế đến điều chỉnh làm gì!
Giang im lặng không nói, trong lòng thầm nghĩ chắc ông này đang "giận cá chém. thớt", chắc ông đang có chuyện gì buồn bực và khách đến tiếp xúc với ông ở Sở An sinh xã hội là những tấm thớt trong tầm tay, ông ta tha hồ chì chiết. Giang hơi bực mình, nhưng tự bảo lòng mình chỉ làm việc với ông ta nhiều lắm là nửa tiếng hôm nay, rồi có thể sẽ chẳng bao giờ "see you again". Vả chăng ông ta cũng sắp đến tuổi về hưu, nên kính trọng người lớn tuổi.
Họ tên đầy đủ của Giang có bốn chữ, chữ nào cũng là cả một ý nghiã với Ba Mẹ và riêng Giang, Giang không biết bỏ chữ nào chọn chữ nào. Hồi mới đến Mỹ, Giang cứ theo đúng nghiã đen, first name, last name, middle name mà điền các loại đơn từ, chưa biết cách viết dính tên vào với nhau, chưa biết chữ nào người Mỹ phát âm chính xác chữ nào họ không đọc đúng được.
Sau vài năm ở Mỹ, biết rõ cách phát âm người Mỹ với tên của mình. Giang dùng chữ lót làm tên , và tên thành chữ lót, họ thì vẫn giữ nguyên vì đó là phần quan trọng nhất trong một cái tên, phản ảnh rõ nguồn gốc của mình. Khi trở thành công dân Hoa kỳ, rất nhiều người lấy tên Mỹ để người bản xứ dễ phát âm hơn. Với riêng Giang, quê hương chôn nhau cắt rốn đã bị chia lià, nhiều thứ đã bị mất, nếu mất luôn tên thì chắc Giang đã thành một người khác, một Tiffany, một Linda, một Cathy, một Jennifer... nào đó, không còn là giòng sông nổi tiếng của Huế, không còn là cô con gái độc nhất của Ba Mẹ. Vì vậy, cái tên bốn chữ Phan Trịnh Hương Giang nguyên thủy của Giang theo kiểu Mỹ trở thành ba chữ HuongGiang Trinh Phan. Duy chỉ có những giấy tờ quan trọng nhất như bằng tốt nghiệp Đại học, bằng khoán nhà cửa, Passport, và bằng lái xe đều giữ nguyên bốn chữ của cái tên trong khai sanh thủa chào đời, và được viết theo kiểu Mỹ thành Giang Trinh Huong Phan.
Mọi người ở sở làm chỉ biết tên Giang là Trinh Phan. E mail ở sở, business cards và bảng tên ở phòng làm việc cũng là Trinh Phan ngắn gọn. Đồng nghiệp người Mỹ gọi là Trinh, dễ dàng, không có vấn đề. Đồng nghiệp Việt Nam gọi là Trinh, không hề biết đến thật ra chữ Trinh không phải là tên của Giang mà đến từ "compound last name", có dấu nặng đi theo. Hồi bà ngoại còn sống, có lần Giang kể chuyện này qua điện thoại với bà, và "khoe" với bà bây giờ Giang có thêm một tên mới là Trinh. Bà cho ý kiến theo cái nhìn cổ kính của một người đã ngoài tám mươi:
- Thôi kệ, tên Trinh cũng được, bỏ bớt dấu nặng cho nhẹ nhàng hơn. Miễn sao với gia đình, cháu vẫn mãi mãi là Hương Giang.
Ấy vậy mà bây giờ thứ tự của bốn chữ trong tên lại trở thành "big deal" với ông nhân viên của Sở An ninh Xã hội. Vì trong những giấy tờ quan trọng nhất, sẽ đi theo Giang suốt cuộc đời, tên có đủ bốn chữ , mà trên cái thẻ an sinh xã hội màu xanh nước biển chỉ có ba chữ "Giang T. Phan". Giang nhận ra điều dó từ lâu nhưng chín con số an sinh xã hội đủ để phân biệt Giang với hơn ba trăm triệu người Mỹ còn lại.
Không cần biết Giang đang nghĩ gì, ông nhân viên Mỹ gốc Việt Nam làm ở Sở An sinh xã hội vẫn đều đều "giảng bài" về tầm quan trọng của thẻ an sinh xã hội, và full name trên tất cả các giấy tờ phải giống nhau để khỏi gặp rắc rối khi đến tuổi về hưu, được hưởng toàn bộ quyền lợi an sinh xã hội cho người già, bù lại công lao mình đã đi làm đóng thuế đầy đủ lúc còn trẻ để nuôi những người ở thế hệ lớn hơn mình.
Mục đích của Giang là chỉ để điều chỉnh ngày sinh từ 27 thành 28 nhưng người công chức liên bang còn điều chỉnh luôn tên của Giang thành bốn chữ (dĩ nhiên là với một thứ tự khác trên khai sanh thủa chào đời), đúng với Passport, bằng lái xe và các giấy tờ quan trọng khác. Giang thầm cảm ơn ông ta về chuyện điều chỉnh tên, nhưng không vui lắm vì ông ta không ngừng "lecture với nét mặt khó đăm đăm, mà không cần biết là Giang không muốn nghe, chỉ cần ông ta điều chỉnh ngày sinh cho đúng Cái giọng đều đều, lạnh lùng, với cách nói trống không còn "lên án" Giang:
- Sống ở Mỹ gần hai thập niên mà còn "dám" coi thường sự chính xác trên giấy tờ. Đến lúc gặp chuyện lớn thì phải "vác chiếu ra hầu tòa" thì đừng trách là không được báo trước.
Đến lúc đó thì Giang bắt đầu bực mình, và thầm nghĩ chưa thấy ai khó chịu như ông này, chắc lâu rồi ông ta không có dịp "lên lớp" ai; hôm nay gặp đúng một khách hàng người đồng hương lại đang cần sự giúp đỡ của ông về điều chỉnh ngày sinh trong hồ sơ an sinh xã hội, thì đúng là "cơ hội ngàn năm một thủa" để làm "lecturer". Đã vậy thì thôi, ông ta còn nhẫn nha làm việc chỉ bằng một tay, gõ keyboard bằng tay trái, tay mặt chắc là đang gõ nhịp trên chỗ tựa của ghế ngồi, đúng như nhiều người vẫn thường phàn nàn về hệ thống làm việc red tape" không có hiệu quả cao của công chức.
Bên ngoài khung cửa sổ 9, Giang kiên nhẫn ngồi nghe, chỉ phàn nàn trong tư tưởng và ánh mắt. Phía trong khung cửa, ông nhân viên Sở An sinh xã hội cần cù "ngồi giảng bài". Cũng cả gần hai mươi phút sau, một cô nhân viên khác có một khuôn mặt rất là quốc tế, pha trộn ít nhất là hai chủng tộc, có màu mắt xanh xám (không biết đó là màu của contact lens hay màu nguyên thủy của mắt), tóc highlight chỗ vàng, chỗ nâu, chỗ đen, rất techni- color, có vẻ là nhân viên học việc đến hỏi ông ta về một trường hợp bảo hiểm sức khoẻ cho một công dân khá lớn tuổi phải đi chuyển bằng xe lăn. Ông nhân viên Việt Nam đứng lên tiến đến cái tủ hồ sơ ở góc phòng, mặt vẫn đầy vẻ "lạnh lùng sương gió" mặc dù trời bên ngoài đang là giữa mùa hè. Và thật bất ngờ, Giang há hốc miệng khi nhìn thấy cánh tay áo bên phải của người nhân viên đứng tuổi phất phơ di chuyển theo nhịp bước của ông ta. Cánh tay phải của người công chức Sở Xã hội đã không còn!
Giang nghe ân hận dâng cao trong lòng, nhanh như thủy triều đang lên, về những phán đoán vội vã của mình, về những phàn nàn trong ý nghĩ chỉ vài phút trước đó. Nhớ đến câu nói của người Mỹ "Put yourself in somebody else’s shoes". từ tâm tưởng Giang có lời xin lỗi rất chân thành với người ngồi trước mặt. Nỗi ân hận lớn đến nỗi Giang như chìm vào một cõi nào đầy dẫy ăn năn, người nhân viên Sở Xã hội phải nhắc đến hai lần, Giang mới nghe ra là đúng quy luật, ông ta sẽ thu lại thẻ An sinh Xã hội cũ, và đưa cho Giang một biên nhận tạm có số điện thoại trên đó, để nếu trong lúc chờ thẻ mới gởi về, có ai cần xác minh số an sinh xã hội của Giang thì có thể liên lạc với viên chức Sở Xã hội.
Đôi khi bị khan tiếng, hay cảm cúm nhẹ nhàng, Giang đã tự thấy mình trở nên bẳn gắt và khó chịu hơn bình thường nhiều. Một người mất cả một cánh tay, mất hẳn một phần thân thể của mình, thỉ đâu còn có thể vui vẻ nhìn đời toàn màu hồng hay màu xanh như một người hoàn toàn lành lặn!
Hai tuần sau hôm đó, Giang nhận được thẻ an sinh xã hội mới màu xanh nước biển có những vân nhỏ màu hồng gởi qua bưu điện với cái tên đầy đủ "HuongGiang Trinh Phan" đúng như trên các giấy tờ quan trọng khác. Một tháng sau, trên statement của Sở An sinh Xã hội gởi về ba tháng trước sinh nhật hàng năm, ngày sinh của Giang đã trở về đúng với ngày 28 như ngày Giang lọt ra từ lòng Mẹ vào lúc bình minh một ngày giáp Tết năm nào. Nghiã là người nhân viên Xã hội có một cánh tay đã bỏ lại ở một góc chiến trường Việt Nam năm xưa, hay một nơi nào đó trên những xa lộ đầy xe cộ ngược xuôi ở Mỹ, làm việc bằng chỉ một cánh tay trái còn lại, với mức độ chính xác đôi khi còn hơn cả những người trẻ, khỏe, với đầy đủ các bộ phận toàn hảo của cơ thể.
Nếu ông ta là người thuận tay phải như hơn chín mươi phần trăm nhân loại thì nỗi khó khăn sẽ lớn hơn bội phần. Một người mất nguyên cánh tay phải mà vẫn đi làm ở tuổi ngoài sáu mươi, vẫn tiếp tục nuôi thân, và đóng thuế góp phần xây dựng xã hộI, thay vì ngồi nhà để xã hội nuôi, trong tự điển của nhiều người, và của cả riêng Giang, đã là một anh hùng.
Mỗi năm nhận được statement của Sở An sinh Xã hội, nhìn ngày sinh chính xác của mình nằm ở một góc của tờ giấy bià cứng màu trắng, viền xanh lá cây, Giang vẫn âm thầm tạ lỗi cùng người nhân viên Sở Xã hội có cánh tay áo bên phải phất phơ theo gió.
Nguyễn Trần Diệu Hương
Santa Clara, tháng 2/09