- Cửa Sổ Cửa Chính
- Cảm Ơn Chưa Bao Giờ Thừa
- Bên Kia đồi
- Viết thay Cho Ba Mẹ
- Điều Không Nói Ra
Cửa Sổ Cửa Chính
Tưởng là quen biết thì mọi chuyện thương lượng, hợp đồng sẽ trở nên dễ dàng hơn, nhưng thực tế ngược hẳn lại. Càng quen biết nhau, nhiều người lại càng đâm ra coi thường những hợp đồng thương mại dù bằng giấy trắng, mực đen hay bằng lời hứa với sự thỏa thuận giữa hai bên. Trường hợp đó đã xảy ra với Cô Tân, cô giáo cũ năm đầu Trung học của Huyên.
Ngày Thầy con sinh tiền, những chuyện sửa chữa, tân trang nhà cửa đâu có bao giờ Cô phải nhúng tay đến, mọi chuyện đã có người đàn ông trong gia đình quán xuyến.Thầy mất đi, ngoài nỗi trống vắng vì một nửa của mình đã về cõi vĩnh hằng, đôi khi Cô Tân còn thấy mệt mỏi vì Cô phải thương lượng, theo dõi công việc của những người thợ sửa chữa nhà cửa, một lãnh vực khá xa lạ với đa số đàn bà con gái.
Thoạt đầu, để dễ dàng hơn, Cô tìm lại điện thoại của những người thợ chuyên nghiệp về construction vẫn sửa chữa những căn nhà của Thầy Cô, những căn nhà có số tuổi gần ngang ngửa với số tuổi những senior citizen được hưởng discount từ một số cửa hàng vào một ngày cố định nào đó trong tuần.
Cũng là "người xưa" nhưng số tiền công phải trả cao hơn "số tiền xưa" nhiều, điều đó thì còn chấp nhận được vì giá cả thị trường đã thay đổi, người đi làm được tăng lương mỗi năm thì người làm nghề tự do cũng phải được điều chỉnh tiền công một cách hợp lý. Nhưng chất lượng công việc thì tỷ lệ nghịch với số tiền gia tăng nhiều khi gần gấp đôi. Rút kinh nghiệm từ một lần bực mình với kết qủa công việc dưới mức yêu cầu và số tiền phải trả cao hơn gần gấp đôi dữ kiện, cô Tân quay qua bạn bè để tìm những "reference" đáng tin cậy. Cô nhận được một danh sách gần đầy kín một trang giấy từ những công ty xây dựng chuyên nghiệp bề thế đến những người tháo vát làm nghề handy man với cái xe truck đầy đủ đồ nghề như một kho vật liệu xây dựng lưu động. Cô quyết định chọn một ông handy man người cùng đi lễ ở một nhà thờ Việt Nam mỗi Chủ nhật.
Tưởng là cùng đồng hương, lại thường đi lễ cùng lúc cùng nơi ở một giáo xứ Việt Nam, vậy mà "business là business" không có bóng dáng của những lần gật đầu chào nhau, đôi khi lại bắt tay chúc lành cho nhau ở mỗi cuối lễ ở nhà thờ khi vị linh mục vừa chấm dứt bài giảng của mình. Giống như một câu nói được truyền miệng từ rất lâu của dân gian Việt Nam "Quen mặt đắt hàng". Cô Tân phải trả một số tiền còn cao hơn cả số tiền phải trả cho những Công Ty xây dựng chuyên nghiệp mà chất lượng công việc thì khác xa với số tiền như khoảng cách như anh cả và em út.
Huyên được Cô kể những kinh nghiệm không vui đó ở một lần cuối tuần gọi điện thoại thăm Cô giáo cũ năm đầu Trung học ở Việt Nam. Nhớ lại kinh nghiệm đi thuê người sửa chữa nhà cửa của một anh bạn thân, và thấy Cô đã mỏi mệt sau những hợp đồng sửa chữa nhà cửa với những người quen, Huyên đề nghị Cô đến Home Depot thuê những người Mễ Tây Cơ vẫn đứng ở bãi đậu xe chờ việc làm. Cả Cô lẫn trò đều là đàn bà con gái, dù tháo vát đến đâu cũng chưa bao giờ trực tiếp làm hay điều động một công trình sửa chữa nhà cửa nào nên Huyên phải làm "research online" trên internet để lấy những lời khuyên và những "reference" của những chuyên gia sửa chữa nhà cửa từ mức độ quốc gia đến mức độ thành phố. Một phần mười của thế kỷ 21 đã gần hết, tưởng chừng nhanh hơn thời gian một cơn bão rớt lướt qua Thành phố vào mùa Đông, nên chỉ cần mười lăm phút online, Huyên đã có danh sách "do s and don ts in home construction"" (những điều nên và không nên làm trong việc sửa chữa nhà cửa) Huyên cẩn thận in ra hai copies, một cho Cô Tân và một cho mình. Chuyện đó không khó nhưng đến lúc tìm đúng người để thuê thì "nhiêu khê" hơn nhiều.
Cô Tân và Huyên trải qua gần hai giờ đồng hồ ở một tiệm Home Depot để quan sát, và "phỏng vấn: những người Mễ đứng thành từng nhóm chờ xin việc ở bãi đậu xe. Trước đó, cả Cô và Huyên đều phải ăn mặc như "Joe the plumber", nghiã là quần Jeans loại rộng thùng thình bạc phếch, áo sweat-shirt cũng rộng không kém quần, một loại áo quần mà Huyên chỉ mặc khi cần phải tự làm mình chìm vào dòng sống của blue collar workers. Cô và trò đã đùa với nhau:
- Cứ tưởng tượng như mình là vua và quan ngày xưa giả dạng thường dân ra khỏi kinh thành đi thăm dân cho biết sự tình .
Hai thầy trò ngồi trong xe đậu khuất sau một tàn cây và một hàng rào thưa bằng một loại giây leo được cắt bằng phẳng trên đầu, chăm chú quan sát đội quân hầu hết là người Mễ đứng chờ việc ở bãi đậu xe của tiệm Home Depot, người trẻ nhất chắc chưa đến hai mươi, người già nhất chắc cũng chỉ ở độ tuổi bốn mươi.
Có những người đứng đó cả ngày trời không ai buồn đến hỏi, có những người may mắn hơn, được một ngày "blooming business", hết người này thuê từ một công việc đơn giản như khiêng vác một món đồ vừa nặng vừa quá khổ hay được người thuê chở lên xe đến một địa điểm khác làm những việc chỉ cần sức như phụ thợ hồ đến những việc phức tạp hơn cần một chút khéo tay và một chút trình độ để đọc và hiểu những bản hướng dẫn bằng tiếng Tây Ban Nha.
Huyên vẫn nhớ anh bạn thân có cả một khu apartment lớn và một vài căn nhà cho thuê. Vốn là một kỹ sư chuyên làm việc với những sơ đồ kỹ thuật rất chi tiết, Anh lại khéo tay và kỹ tính, nên sau một lớp học căn bản về construction ở Home Depot, Anh tự sửa chữa tất cả những hư hỏng về nhà cửa, những việc cần sức nặng thì Anh thuê những người Mễ Tây Cơ vẫn đứng chờ việc ở các chi nhánh của Home Depot. Chỉ sau một vài tháng Anh đã biết khá rõ trong đội ngũ những người Mễ vẫn đứng ở bãi đậu xe của hãng bán vật liệu xây dựng quen thuộc Anh vẫn ghé đến, ai là người chịu khó làm việc, ai là người chỉ "chịu ăn mà ít chịu làm".
Từ đó, Anh có cả một nhóm ba người Mễ anh vẫn thường xuyên thuê cuối tuần khi Anh có những công trình sửa chữa nhà cửa cần có sức lao động. Mỗi lần thấy cái xe "truck làm ăn" màu xám nhạt quen thuộc của Anh ở cổng vào khu đậu xe của Home Depot, mắt ba người Mễ quen thuộc đó sáng lên, vì họ biết ít nhất hôm nay họ sẽ được ăn uống đầy đủ và buổi tối có một ít tiền đem về. Có lần chỉ đến cửa hàng Home Depot để mua vật liệu xây dựng cần thiết, không cần phải thuê người phụ việc, thấy ánh mắt hy vọng, vui mừng của ba "nhân viên Mễ Tây Cơ" đã tiu nghỉu, buồn thiu qua kinh chiếu hậu khi xe Anh từ từ chạy ra khỏi bãi đậu xe mà không ngừng lại chỗ họ đứng.
Từ đó về sau, Anh chỉ ghé cửa hàng quen thuộc đó khi có nhu cầu thuê người lao động. Nếu chỉ cần mua đồ cần dùng, Anh chịu khó lái xe đến một cửa hàng xa hơn vì không muốn làm họ hy vọng rồi lại thất vọng trông tội nghiệp như những đứa trẻ đang đói bụng, hăm hở chờ Mẹ mang thức ăn về từ chợ nhưng rồi lại không được gì hết!
Một vài lần đi theo Anh, quan sát Anh phỏng vấn và thuê một vài người Mễ ở bãi đậu xe của Home Depot, Huyên đã học được một số nguyên tắc để phỏng vấn và thuê được đúng người làm việc chăm chỉ, đúng yêu cầu đặt ra.
Những nhận xét đó giúp Huyên rất nhiều khi cùng cô Tân đi tìm đúng người có kinh nghiệm hoặc khả năng sửa chữa nhà cửa. Cả Cô và Trò đều chuẩn bị "homework" đầy đủ - kể cả những câu tiếng Tây Ban Nha đơn giản Huyên vẫn nhớ từ một lớp "Spanish for Beginners" từ hơn cả chục năm qua ở ghế trường Đại học- trước khi ra bãi đậu xe của cửa tiệm Home Depot ở địa phương để thuê người sửa chữa nhà cửa cho cô Tân.
Thuê người Mễ làm việc thì không sợ có cảnh "quen mặt đắt hàng", không có cảnh bị phàn nàn "người đồng hương cả mà không chịu thông cảm cho nhau ", nhưng lại có trở ngại khác là nhìn vào mắt họ, không đoán được họ nghĩ gì một cách tương đối chính xác như khi nhìn vào mắt người cùng chủng tộc, nên Huyên đã đùa với cô:
- Cô ơi nhìn vào mắt người Mễ. Mình lại là người Việt thì không cách chi thấy được "màu nắng hay là màu mắt em", cũng không thấy câu "con mắt là cửa sổ tâm hồn đúng nữa phải không thưa cô"
Tính khôi hài từ những năm hai mươi đứng trên bục giảng vẫn còn lại với cô Tân sau bao nhiêu năm tháng, bao nhiêu vật đổi sao dời, nên cô trả lời với tiếng cười trong trẻo như thời còn đứng trên bục giảng:
- Lo gì nhỏ ơi, không nhìn được bằng cửa sổ thì mình nhìn bằng cửa chính!
Và để nhìn được bằng "cửa chính" hai thầy trò đã phải trải qua hơn ba tiếng đồng hồ quan sát đội quân trên dưới ba chục người Mễ đứng chờ việc ở bãi đậu xe của Home Depot. Hầu hết họ đều khá "đậm người" theo lối nói của người Bắc, "phì nhiêu" theo lời ví von của người Trung, "tốt tướng" theo cách diễn tả của người Nam, hay "chubby" như chữ dùng của người Mỹ.
Cuối cùng, Cô và Huyên chọn được bốn người cho "final interview", dựa trên "cửa chính", nghiã là bằng thái độ, cử chỉ và tư cách của họ. Hai Thầy trò mời hai người đầu tiên đến một xe bán Hot Dog ở trước cửa tiệm Home Depot, mua cho họ mỗi người một bánh Hot Dog và hỏi họ về kinh nghiệm cùng khả năng làm việc của họ. Thôi thì đủ thứ ngôn ngữ được xử dụng, từ "broken English" của mấy ông Mễ đến "broken Spanish" của Cô và Huyên, đến cả "non verbal language" nghiã là nói bằng tay. Ấy vậy mà đôi bên đều hiểu nhau, rất "thế giới đại đồng", rất vui vẻ, vì hai thầy trò tìm được đúng người có khả năng sửa nhà cho cô Tân với tiền công tương đối hợp lý, vừa phải, và những người Mễ tìm được việc làm trong ngày, được ăn uống free cả ngày và cuối ngày lại có tiền đem về cho gia đình.
Cô Tân chọn một cái bàn kê khá biệt lập kê ở ngoài hiên tiệm Home Depot của cái xe bán Hot Dog, cũng do một người Mễ khá phúc hậu làm chủ. Trong lúc Cô phỏng vấn một nhóm hai người Mễ thì Huyền chạy đến làm quen với ông chủ xe Hot Dog, lấy "free reference" và nhờ ông "đọc" giùm tâm hồn của những người đồng hương qua "cửa sổ". Là đồng hương của nhau, thì đễ đọc nhau qua ánh mắt hơn.
Bằng "cửa chính", bằng quan sát và nhận định, Cô Tân và Huyên chọn ra được bốn người. Hai người cuối cùng được thuê bằng "reference" của ông Mễ Tây Cơ ,chủ xe Hot Dog, đã rất tận tình "mách nước" cho hai thầy trò nhờ bán được cả chục phần bánh Hot Dog. Bởi vì ngoài việc mời họ ăn Hot Dog, Cô Tân còn chu đáo mua cho "hai ứng viên không được tuyển chọn" hai phần Hot Dog "take home", như là một lời cảm ơn thời gian họ đã bỏ ra cho cuộc phỏng vấn mươi phút. Bao giờ Cô cũng chu đáo như hơn ba mươi năm trước cô dẫn cả lớp 6/1 của Huyên đi chơi ở núi Châu Thới, trong lớp có một đứa bị bệnh không đi được, Cô đã nhắc nhở trưởng lớp mang quà về cho người bạn đã "bỏ cuộc chơi" vì một cơn cảm cúm đến bất ngờ.
Huyên lái xe ra khỏi bãi đậu xe của Home Depot, cô Tân ngồi bên cạnh nhìn qua kính chiếu hậu để chắc chắn là hai người Mễ trên cái xe truck cũ kỹ không bị lạc giữa đường, Huyên nhắc cô:
- Cô review lại các tờ giấy em đã in ra từ internet đi cô, để họ có cảm giác là mình biết nhiều về công việc mình thuê họ làm và không dám làm qua loa cho xong việc. Em sẽ lái chậm và cho đèn báo hiệu trước mỗi lần rẽ ngang đường khác, chắc chắn họ không lạc đâu. Cô yên tâm, em đã dẫn đường cho nhiều người rồi, không khi nào bị lạc, trừ khi em muốn "cắt đuôi".
Huyên nghe Cô kể lại thật ra hai người kia có vẻ có trình độ và kinh nghiệm về sửa chữa nhà cửa hơn, nhưng hai người mà Cô chọn để thuê sửa nhà cho Cô có hoàn cảnh đáng tội nghiệp hơn, và trình độ họ cũng không đến nỗi tệ quá để có thể sửa chữa cái bồn rửa chén và thay cái máy xay thức ăn thừa ở dưới bồn rửa chén. Hai người mà Cô không thuê, với khả năng của họ, họ có thể tìm được một công việc khác trong ngày không quá khó khăn nhưng hai người này nếu không ai thuê họ làm hôm nay thì tối đó gia đình họ sẽ không được ăn uống đầy đủ, và cuối tháng nhiều khi không đủ tiền trả tiền thuê nhà. Dù đã chuẩn bị "homework: rất đầy đủ, cô Tân vẫn có một chút tình người (tuy khác mầu da khác ngôn ngữ) trong việc thuê người dù là chỉ một vài ngày cho một công trình sửa chữa nhà cửa rất nhỏ.
Huyên nhớ lại ánh mắt của những em bé Mễ bưng rổ đi bán hộp quẹt và những vỏ sò vỏ ốc kỷ niệm ở bãi biển Tijuana của Mễ Tây Cơ, gần biên giới của Mỹ và Mễ. Ngoài những em bé ngây thơ tội nghiệp, còn có những bà mẹ trẻ trải chiếc chiếu nylon nhỏ bên viả hè, bán đồ sơn mài mỹ nghệ thủ công cho du khách, bên cạnh những món hàng thô sơ, tội nghiệp là một bầy con từ một vài tháng đến ba tuổi nằm lăn lóc quanh mẹ, trông còn tội nghiệp hơn nên vẫn được du khách, trong đó có cả Huyên chọn mua hàng, mặc dù những món hàng của bà mẹ trẻ đó, chắc chưa qua tuổi hai mươi, không sắc sảo và đẹp như những món hàng cùng loại trên các sạp hàng có vẻ "bề thế" hơn nằm dọc theo những quán ăn và khách sạn. Hình đó dĩ nhiên mang Huyên về lại với những em bé Việt Nam tội nghiệp phải một nắng hai sương kiếm sống từ tuổi đáng lẽ chỉ được đi học và được cha mẹ hay phúc lợi xã hội nuôi mà buồn thay rất đông người Việt Nam "ăn nên làm ra" ở trong nước, chắc đã "quen mắt" nên không hề mảy may xúc động. Lòng từ tâm của họ vẫn kiên cố và "kin cổng cao tường" trước nỗi khổ của đồng loại.
Trước đây trong một lần du lịch sang Mễ, Huyên đã tự động bỏ trả một số tiền tương đương để lấy một món hàng xấu hơn, kém phẩm chất hơn; và cũng chưa biết mình phải làm gì với món hàng đó. Cũng như bây giờ cô Tân chọn thuê hai người Mễ tay nghề kém hơn mặc dù trả cùng một số tiền công vì cùng một lý do, đôi mắt của họ, những cái cửa sổ tâm hồn rất u buồn, tội nghiệp và cam chịu,
Dù là chủng tộc nào, màu mắt nào đi nữa, những người nghèo, không có cơ hội được đi học, không được may mắn sinh ra từ một gia đình no đủ, hay một xã hội phát triển có đầy đủ phúc lợi và tình người vẫn cần được giúp đỡ. Bởi vì nếu không được đối xử tử tế, những "cửa sổ tâm hồn" sẻ từ từ vẩn đục, và dẫn đến điều đáng buồn là "cửa chính" sẽ bị tàn phá.
Qua kính chiếu hậu, Huyên nhìn thấy hai người Mễ Tây Cơ đang lái chiếc xe truck cũ kỹ, trông tội nghiệp như chính họ, đang theo sau Huyên nét mặt tươi hơn, cửa sổ tâm hồn lấp lánh niềm vui, niềm vui rất đơn giản giống như niềm vui của con nít được quà khi mẹ đi chợ về. Niềm vui thật nhỏ nhoi nhưng đôi lúc đem lại cả một hạnh phúc dù chỉ thoáng qua, nhưng làm cả cửa sổ lẫn cửa chính sáng lên, rạng rỡ màu nắng của mùa Xuân.
Nguyễn Trần Diệu Hương
Cảm Ơn Chưa Bao Giờ Thừa
Mỗi năm một lần xin diễn tả bằng chữ nghiã lời cảm ơn tất cả mọi người đã góp bàn tay làm cho đời sống an vui hơn, lời cảm tạ tất cả những ân nhân cụ thể đã cùng nhau gây dựng nên được những công dân tốt cho xã hội.
Xin kính cảm tạ Cô giáo đầu đời ở lớp mẫu giáo đã đưa chúng ta từ một xã hội nhỏ chỉ thu gọn với những người cùng huyết thống đến một xã hội lớn hơn có bạn bè cũng ngây thơ như chính chúng ta ở thủa đầu đời. Cô đã dạy cho chúng ta làm quen với những con số trên đầu mười ngón tay măng non chỉ biết cầm thức ăn nước uống.
Xin kính cảm tạ tất cả các Thầy Cô giáo bậc Tiểu học đã nhẫn nại uốn từng ngọn cây non theo đường ngay nẻo thẳng, đã dạy chúng ta những bước chập chững đầu đời của một Công dân gương mẫu, biết yêu thương Tổ quốc, biết ngả mũ chào vĩnh biệt lần cuối người quá cố khi thấy những đám ma chạy lẫn trong giòng xe cộ ngược xuôi. Xin cảm tạ các Thầy Cô giáo năm năm Tiểu học đã đặt nền tảng suy luận trong mỗi chúng ta qua những con toán cộng trừ nhân chia đơn giản, những kiến thức Việt Sử từ thời dựng nước, những bài học thuộc lòng mang âm hưởng ca dao.
Xin kính cảm tạ các Thầy Cô dạy Nhạc ở những năm đầu Trung học dạy chúng ta những bài hát đậm tình quê hương, đã khắc sâu vào lòng chúng ta những nốt nhạc làm lòng bình an hơn trong những lúc tâm hồn bất an, khắc khoải vì cuộc đời không vuông vức như những giòng kẻ có mang bảy nốt nhạc quen thuộc của mỗi giờ nhạc lý.
Xin kính cảm tạ các Cô dạy môn Nữ công đã dạy học trò con gái biết thêu thùa, may vá, biết nấu những món ăn đơn giản. Môn Nữ công gia chánh tưởng chỉ để dạy các cô bé ngày xưa làm nội tướng sau náy, nhưng cũng đã giúp được nhiều chị nuôi thân và đôi khi nuôi cả gia đình trong những ngày khốn khó đầu thập niên 80 ở quê nhà.
Xin kính cảm tạ các Thầy dạy môn Thể dục, ngày xưa còn bé, chúng ta cứ nghĩ đó là giờ giải trí ngoài trời nhưng đến tuổi nửa đời người mới hiểu được lợi ích của những cái nhảy cao, nhảy xa, những hít ra thở vào ở một góc sân trường ngày còn thơ dại.
Xin kính cảm tạ các Thẩy Cô dạy môn Sinh Vật tưởng như khô cằn khó nuốt nhưng đã giúp chúng ta trân trọng đời sống thiên nhiên, biết yêu thương tất cả mọi loài vật từ chim bay trên trời đến kiến bò dưới đất; biết tôn trọng cả những cơ phận trong cơ thể con người, không ăn uống bừa bãi để tránh được hậu quả "tham thực cực thân", biết tập thể dục thường xuyên để giữ được một thân thể khoẻ mạnh, tránh được gánh nặng cho gia đình và xã hội, biết góp phần nhỏ của mình giữ cho trái đất bớt bị ô nhiễm.
Xin kính cảm tạ các Thầy Cô dạy môn Hội họa đã dạy chúng ta biết phân biệt những nét đậm nhạt của màu sắc, biết thưởng thức từ những bức tranh tĩnh vật đơn giản đến những đường nét lập thể của trường phái Picasso.
Những kiến thức hội họa ngày xưa đã giúp chúng ta biết tô thêm màu sắc vào đời sống mà màu xám thường lấn trội màu hồng và màu xanh.
Xin kính cảm tạ các Thầy Cô dạy môn Công dân, hướng dẫn chúng ta đạo làm người, bổn phận đối với Tổ quốc và gia đình; biết kính trọng người già, nhường nhịn trẻ con , và biết thương yêu người tàn tật.
Xin kinh cảm tạ các Thầy Cô dạy môn Sử Địa đã mở rộng tầm mắt cho chúng ta về thế giới loài người, về tiến trình dựng và giữ nước của mỗi một dân tộc để cảm thông hơn với những đất nước nhược tiểu.
Xin kính cảm tạ các Thầy Cô dạy môn ngoại ngữ; chúng ta đã phải uốn lưỡi theo từng phát âm của một ngôn ngữ mới, phải học thuộc lòng rất nhiều động từ bất quy tắc. Điều đó không bao giờ ngờ là đã giúp được rất nhiều cho những thuyền nhân tỵ nạn ngay từ những phút đầu tiên trên biển cả mênh mông gặp được một thuyền đánh cá đến những chuỗi ngày dài của đời sống lưu vong sau này.
Xin kính cảm tạ các Thầy Cô dạy môn Vật lý đã dẫn dắt chúng ta từ những khái niệm căn bản về giòng điện, cực dương, cực âm, điện tích, từ trường đến ánh sáng giao thoa, những hạt ion mà thời Trung học ở Việt Nam vì không có phòng thí nghiệm, tất cả chỉ là hình ảnh và trí tưởng tượng. Vậy mà những kiến thức đầu đời đó cũng đã góp phần tạo nên những nhà khoa học, những kỹ sư Việt Nam thông minh, cần cù đang ở rải rác khắp năm châu bốn biển âm thầm đóng góp rất nhiều cho sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật, buồn thay không phục vụ trực tiếp được cho quê hương vẫn còn nghèo nàn lạc hậu ở bên kia bờ đại dương.
Xin kính cảm tạ càc Thầy Cô dạy môn Hóa học với những phản ứng hoá học có màu, không màu, có vị hay không vị, tất cả đều chỉ nằm trong tưởng tượng vì không có Lab như ở các trường Trung học ở Mỹ . Vậy mà vẫn giúp ích được nhiều cho chúng ta từ việc nấu nướng giản đơn trong bếp ,không bao giờ bị cháy thức ăn, đến việc đọc được những hoá chất trên các bao bì của thực phẩm, hay xa hơn đã là nền tảng căn bản cho những Bác sĩ, Dược sĩ, những chuyên viên dinh dưỡng đã góp phần làm xoa dịu được nỗi đau của rất nhiều bệnh nhân ở năm châu bốn biển. Hy vọng một ngày rất gần, những kiến thức đó được đem về để giúp các em bé Việt Nam nghèo nàn cơ cực đang phải đi bán rong ở khắp nẻo đường đất nước; để giúp các ông bà cụ già ở tuổi gần đất xa trời, đáng lẽ phải được hưởng phúc lợi của xã hội, vẫn phải lê tấm thân tàn đi bán từng tấm vé số đổi lấy chén cơm.
Xin kính cảm tạ các Thầy Cô dạy môn Toán, từ những bài cộng trừ nhân chia đơn giản đầu đời, đến những bài qũy tích, vì phân, tích phản đã làm đau đầu các cô cậu học trò không được giỏi Toán của thủa nào. Bước xuống cuộc đời, nếu không phải là nhà khoa học, không làm trong ngành kỹ thuật thì không hề phải lấy đạo hàm, không hề phải dùng đến những đẳng thức lượng giác, nhưng những kiến thức đó dã là nền tảng cho mọi nghĩ suy chín chắn biết xét đoán cả cuộc đời một cách khách quan và đúng đắn như những con số của môn toán. Ở tuổi nửa đời người chúng ta mới thấy cuộc đời chẳng bao giờ tròn triạ, cũng chẳng có được hình bầu dục, hình Parabol hay Hyperbol như những hình vẽ trong tập vở Toán ngày nào nhưng bằng những suy nghĩ trên nền tảng của môn Toán, những bài học thủa còn ngồi ở ghế nhà trường, chúng ta không bị lực ly tâm đẩy ra ngoài qũy đạo của nhân cách và lòng bác ái.
Xin kính cảm tạ các Thầy Cô dạy môn Văn đã đưa vào lòng chúng ta những lời ca dao trầm bổng đến những tác phẩm có giá trị ở bất cứ thời đại nào. Từ những bài Luận thơ dại ngày nào chúng ta đã viết được những đoạn văn lấy được nước mắt độc giả, hay giúp người đọc "mua vui cũng được một vài trống canh". Có những lúc bị cả một hệ thống xã hội dồn vào chân tường như thời mới lớn, chúng ta vẫn vững vàng và không làm điều gì sai trái nhờ đã được học "Les Miserables", và "Tâm hồn cao thượng" ít nhất là hai lần trong suốt những năm Trung học,
Xin kính cảm tạ những Thầy Cô không cùng màu mắt, không cùng màu da, ở các trường Đại học ở Mỹ , đã kiên nhẫn nâng đỡ chúng ta, những học sinh Việt Nam tỵ nạn túi rỗng tay không, ngây ngô tội nghiệp từ thủa chân ướt chân ráo bỡ ngỡ từ ngôn ngữ đến phong cách sống, đến những nâng đỡ tinh thần và những chỉ dạy qúy báu trong những ngày chuẩn bị bài thi tốt nghiệp hay trình các luận án khoa học. Xin được cảm ơn các Thầy Cô đã hoàn tất những chấm phá cuối cùng của một bức vẽ để từ đó chúng ta thực sự bước xuống cuộc đời, là người có một cái đầu biết suy nghĩ và một tấm lòng đầy từ tâm góp phần làm cho xã hội giàu mạnh hơn.
Xin cảm ơn những người hàng xóm láng giềng dù không cùng màu da, nhưng vẫn rất lịch sự dễ thương, đã mở cửa ra vào, đã bơm bánh xe giủm cho những cô gái Việt Nam nhỏ người, yếu sức.
Xin cảm ơn những người đồng nghiệp cùng sở làm, dù cá tính đôi lúc đối chọi như mặt trời và mặt trăng vẫn rất là nhiệt tình cộng tác và giúp đỡ lẫn nhau trong những công việc phải làm để trả nợ áo cơm lẫn những việc thích làm thêm vì yêu nghề hay vì muốn học hỏi điều mới.
Xin cảm tạ quê hương thứ hai luôn mở rộng vòng tay cho người tỵ nạn lưu vong và luôn là chỗ dung thân ấm êm hạnh phúc cho tất cả những ai phải sống đời lưu lạc.
Xin cảm tạ ơn trời đã cho chúng ta luôn binh an cả tâm hồn lẫn thể xác và luôn có một công việc an nhàn ngay cả giữa những nỗi trôi của tình hình kinh tế. Xin cảm ơn nụ cười thân thiện của những người lạ trên đường phố ở những buổi trưa đi bộ dưới những hàng cây xanh ngát vào mùa hè và vàng đỏ vào mùa thu.
Xin cảm ơn bạn bè gần xa luôn quan tâm thăm hỏi; bạn bè thời Trung học dù đã mấp mé nửa đời người vẫn khăng khít thân tình như thời còn ngồi ở ghế trường Trung học.
Xin cảm tạ anh chị em trong nhà luôn đùm bọc giúp đỡ lẫn nhau, luôn có mặt bên nhau trong thành công cũng như trong vấp ngã ngay từ thủa chào đời .
Và cuối cùng xin kính cảm tạ Ba Mẹ , hai ân nhân lớn nhất, đã đưa chúng ta vào đời, đã làm tất cả mọi thứ có thể làm được để chúng ta có được một thời thơ ấu ấm êm hạnh phúc. Những nhọc nhằn và hy sinh của Ba Mẹ vào "thủa trời đất nổi cơn gió bụi" từ năm 1975 đến giữa thập niên 80 là một nhắc nhở để chúng ta đủ nghị lực không đầu hàng trước bất cứ khó khăn nghịch cảnh nào. Những điều Ba Mẹ khuyên răn từ thời còn dại khờ vẫn được khắc cốt ghi tâm làm kim chỉ nam của cuộc đời, mong đó là món quà lớn nhất để báo đáp công ơn dưỡng dục sinh thành...
Thanksgiving 2008
ở "Tầm nhìn của núi"
Nguyễn Trần Diệu Hương
Bên Kia Đồi
Bên kia đồi, sườn dốc thoai thoải, người ta xuống dễ dàng và nhanh hơn lúc trèo lên đồi. Bên kia đồi, đôi lúc thật đẹp như trong một câu hát của nhạc sĩ Nguyễn Đức Quang “Bên kia đồi cỏ hoa đan lối”. Nhưng trong khái niệm tuổi tác của người Mỹ thì “bên kia đồi” chỉ sự xuống dốc khi người ta bước qua tuổi bốn mươi, tuổi đã “biết người biết ta” như trong quan niệm nho giáo “tứ thập nghi bất hoặc”.
Đến lần họp mặt thứ bảy của hội Cựu Học sinh Ngô Quyền ở Mỹ thì hầu hết Thầy và Trò của chúng tôi đã qua “bên kia đồi”. Một số rất ít chúng tôi đang đứng ở đỉnh đồi của đời người, mắt vẫn còn tinh tường để đọc sách báo chưa cần đến kính viễn thị, tóc vẫn còn màu đen, dù là ở Mỹ vì dùng máy sấy tóc mỗi ngày nên tóc dù đen, nhưng không phải là màu đen tuyền nhờ gội đầu bằng nước bồ kết có pha một vài giọt nước chanh như thời nhỏ dại ở quê nhà, mà là màu đen nâu, đậm hơn màu nâu brunette của người Mỹ một chút. Nhưng dù đứng ở phiá nào của ngọn đồi tuổi tác, tất cả chúng tôi đều thấy được sự cố gắng không ngừng của qúy Thầy Cô giáo thời Trung học, đặc biệt là những Thầy Cô di tản từ năm 1975, rất đột ngột, và không có một chuẩn bị nào cho đời sống quê người, không còn quê hương nên cũng không còn học trò, không còn bảng đen, không còn bục giảng trắng mầu bụi phấn….
Khi Thầy Lân đến camp Fort Chaffee ở Arkansas những ngày đầu tháng 5 năm 1975 thì Thầy vừa bước vào tuổi ba mươi, vẫn còn ở “bên này đồi”, chưa đến tuổi 40 “down of the hill” như lời nói của người Mỹ. Nỗi bàng hoàng vì vận nước chưa nguôi, Thầy đã có nỗi lo mọi thứ phải làm lại từ đầu, và chắc là không còn được dậy bầy học trò Trung học những bài Toán Qũy tích, những vecto tịnh tiến mà bọn học trò đứng sau “qủy và ma” của chúng tôi vẫn đọc thành vecto “tính tiền”. Nhưng Thầy còn may mắn hơn rất nhiều người “di tản buồn” lúc đó ở chỗ Thầy có đủ Bố Mẹ, các anh chị bên cạnh Thầy. Đặc biệt là Thầy có được một vài người học trò cũ ở trại tỵ nạn lúc đó, dù trường xưa đã xa mù tít tắp, ngăn cách bằng cả một đại dương, dù khoảng cách Thầy trò không còn rõ ràng như chiều cao của cái bục giảng có kê bàn thầy cô giáo đến mặt đất có hai dãy bàn học trò đặt song song, nhưng sự tương kính vẫn như xưa, những anh chị học trò vẫn giữ nguyên sự kính trọng đối với Thầy. Điều đó nâng đỡ tinh thần Thầy Lân rất nhiều trong những ngày đầu lưu vong. Rồi Thầy rời camp Fort Chaffee theo chương trình bảo trợ của một Hội từ thiên Thiên Chúa giáo ở tận Wisconsin miền Đông Bắc nước Mỹ. Qua đến cái tiểu bang gần giáp giới với Canada giữa năm 1975 thì gặp được một người Việt Nam cũng khó như trúng số, gặp lại đồng nghiệp hay học trò ở Wisconsin gần như là chuyện không tưởng. Vậy là dù có yêu nghề “bán cháo phổi” đến độ nào đi nữa, Thầy Lân cũng đành phải học ngành khác để bắt đầu cuộc sống mới ở một nơi không có một dấu tích Việt Nam nào ngoài chuyện mỗi tối sau một ngày dài bốn tiếng lao động chân tay, và bốn tiếng trở lại thời sinh viên, với một ngôn ngữ khác, Thầy quay về nhà với Bố Mẹ và các anh chị của Thầy nói tiếng Việt, ăn thức ăn Việt Nam nấu bằng vật liệu mua từ chợ Mỹ không đậm đà nhưng dù sao vẫn phảng phất hương vị quê nhà. Dù là một người dạy Toán, không sống bằng kỷ niệm nhiều như các Thầy Cô dạy Văn, mỗi lần đeo một cái backpack đựng đầy những quyển sách giáo khoa bià cứng của Mỹ đi từ parking lot vào giảng đường, Thầy vẫn chạnh lòng nhớ ngôi trường Đại học Sư phạm ngày xưa ở đường Thành Thái Saigon. Lúc đó, tiếng Mỹ của thầy Lân chưa nhuần nhuyễn lắm nhưng Thầy vẫn được các ông bà giáo sư người Mỹ qúy vô cùng vì một lẽ đơn giản là thầy Lân học giỏi, đặc biệt là môn Toán và đối xử với họ rất lễ độ như truyền thống Việt Nam giữa thầy và trò. Dĩ nhiên Thầy không nói ra nên những ông bà giáo sư người Mỹ không thể tưởng tượng người học trò Việt Nam thông minh, chăm chỉ đó đã có một thời đứng trên bục giảng ngày còn ở trong nước.
Trước khi trở lại trường học, Thầy còn có ham vui, theo một người bạn về Washington DC làm busboy trong những quán ăn loại sang mà thực khách thường là khách ngoại quốc hay gia đình của những chính trị gia, những người làm trong ngoại giao đoàn. Nhiệm vụ của busboy là phải lau chùi những cái bàn trong quán ăn thật bóng loáng để xứng đáng với những khoản tiền khá cao trên các hoá đơn cuối mỗi bữa ăn. Dù phải làm việc tay chân vì vừa chân ướt chân ráo đến Mỹ, thầy Lân vẫn còn nguyên khiếu khôi hài , nên vẫn đuà với anh bạn Việt Nam cùng làm:
- Tụi mình làm nghề “đánh bóng bàn” mà chẳng bao giờ dám nghĩ đến chuyện có huy chương.
-
Đến khi làm thêm cuối tuần cho một tiệm ăn khác, Thầy lại khôi hài tiếp:
- Càng “đánh bóng bàn” càng thông thạo, nên bây giờ “đánh” cho hai hội cùng một lúc vẫn không thấy mệt.
-
Thế nhưng khi bà chị của Thầy bay về DC thăm em, thấy cậu em út đã học hành xong xuôi ở Việt Nam, đã đi dạy Toán một vài năm ở trường Trung học mà bây giờ lại phải đi làm busboy suốt ngày đi dọn dẹp, lau chùi bàn ở quán ăn thì quả là phụ công ơn sinh thành dưỡng dục của ông bà cụ thân sinh.
Bà dùng quyền chị cả, “áp tải” thầy Long về lại Wiscosin với “phán quyết” đầy uy lực của “quyền huynh thế phụ””
- Về ngay Wisconsin với Bố Mẹ và các anh chị, quay lại trường học ngay. Mày còn trẻ đừng phí phạm thời gian như thế em ạ!
-
Vậy là thầy Long vĩnh viễn bỏ nghề busboy chuyên lau chùi, đánh bóng bàn…ghế ở những quán ăn, về với “mái nhà xưa” ở “quê hương mới” và trở lại thời sinh viên không phải là ở trường Đại học Sư phạm Saigon mà là trường University of Wisconsin ở Stevens Point.
Dạo đó, ở tuổi ba mươi, vẫn còn ở phiá “bên này đồi” nên thầy Lân không buồn lắm, vì thật ra không có thì giờ để nghĩ ngợi lung tung, để nhớ lại quá khứ để bùi ngùi và buồn bã. Và cũng vì còn trẻ nên Thầy đủ sức chịu đựng cái lạnh của Wisconsin, một trong những tiểu bang lạnh nhất ở miền Đông Bắc nước Mỹ, một nơi mà vào mùa đông mặt đất phủ tuyết có khi dày đến nửa thước.
Những ngày tháng đứng trên bục giảng trắng mầu bụi phấn có những lần vẽ các vecto tịnh tiến bằng phấn màu cứ nhạt nhoà , nhạt nhoà dần khi thầy Lân ra trường với bằng cử nhân về Electrical Engineering và về làm việc ở miền Tây Nam đầy nắng ấm của Mỹ. Tưởng nước chảy bèo trôi, mọi chuyện đã là dĩ vãng xa xăm, vậy mà ở tiểu bang vàng có khí hậu tương tự Đalat của Việt Nam, Thầy gặp lại học trò xưa, đồng nghiệp cũ. Và do vậy một quá khứ của thời còn rất trẻ, ở những bước đầu của “bên này đồi” chợt sống dậy, rõ nét tưởng như mới hôm qua thầy vẫn còn dậy Hình học, môn toán Qũy Tích cho các cô cậu học sinh ở ngôi trường Trung học lớn nhất miền Đông Nam phần, đã đào tạo cho cả hai đất nước Việt Nam và Mỹ rất nhiều nhân tài. Ở đó, Thầy gặp lại một vài đồng nghiệp ngày còn ở trong nước, nhưng chỉ có cuối tuần mới gặp lại được nhau để ôn lại chuyện ngày còn rất trẻ, và để nâng đỡ tinh thần nhau trong những năm đầu lưu vong.
Thầy đặc biệt thân với thầy Tòng, một đồng nghiệp dạy Lý hoá cùng trường thời trước năm 1975. Lúc đó, cả hai Thầy đều chưa lập gia đình, và đều phải khởi đầu sự nghiệp ở tuổi không còn trẻ. Thầy Tòng rời quê nhà chậm hơn Thầy Lân vài năm, mất một vài năm ở các trại tỵ nạn, rồi Thầy đến Mỹ chỉ một thân một mình, không có một thân nhân nào bên cạnh, giống như một người phải bơi giữa sóng to mà không có một cái phao nào để bám. Là cả một sự khác biệt lớn khi người ta phải xây dựng mọi thứ từ khởi điểm số không ở tuổi sắp vào thời 40, sắp xuống con dốc của đời người như lối nói của người Mỹ “down of the hill”. Có đầy đủ Bố Mẹ và anh chị bên cạnh, thầy Lân hiểu điều đó hơn ai hết, và ra sức giúp bạn “lội giòng nước ngược” như mình đã làm từ vài năm trước. Hai Thầy vẫn chia xẻ với nhau mọi cay đắng ngọt bùi của đời sống ly hương như ngày còn ở quê nhà, chỉ có điều khác biệt là ngày xưa các Thầy đã nhiều lần chở nhau trên cái vespa mầu trắng ngà trên đường Duy Tân cây dài bóng mát, ở đường Thành Thái dẫn vào cổng trường Đại học Sư phạm, thì ngày đó , những ngày đầu lưu vong, chiếc Toyota Celica mầu nâu nhạt đã đưa hai Thầy ngược xuôi ở quê người có những tên đường bằng tiếng Mỹ được các thầy dịch ra bằng tiếng Việt gợi nhớ cả một quê nhà đã bỏ lại sau lưng: đường “Mùa Thu”, đường “Lá vàng”, đường “Cánh đồng mùa Xuân”, “thị trấn giữa đường”, “ngọn đồi mù sương”, “tầm nhìn của núi”………….
Nước Mỹ rộng mênh mông, vậy mà trong những tình cờ của đời sống, Thầy Lân vẫn gặp lại một số học trò cũ của mình. Phần đông họ vẫn giữ được nề nếp Việt Nam nhờ những bài học về Công dân giáo dục trước năm 1975 vẫn còn rõ nét. Nhưng đâu đó, có một hai người không hiểu trí óc đã bị nhạt nhoà theo năm tháng, hay bị quay như chong chóng bởi đời sống đầy bận rộn, những bài học về Công dân giáo dục đã bị đẩy khỏi tâm tưởng, đã đối xử với Thầy không đúng với lễ nghiã thầy trò. Dạo đó, thầy Lân cũng buồn, nhưng chỉ thoáng qua một chút rồi thôi, vì Thầy vẫn chưa đến tuổi bốn mươi, vẫn còn sống với tương lai nhiều hơn là quá khứ. Nhưng từ dạo đó, cách nhìn của Thầy về học trò cũ đã không còn như xưa. Đó là thập niên đầu của đời sống lưu vong, cộng đồng Việt Nam không lớn mạnh, đông đảo như bây giờ. Vả lại, mọi người đều đang phải mải mê làm việc, học hành như một đàn ong thợ cần cù xây một cái tổ mới, nên chưa có các hội ái hữu của các trường học trước năm 1975, mọi người, kể cả thầy Lân nếu có những điều không vui thì cũng giữ lại rất riêng ở một góc tâm tưởng.
Mãi về sau này, khi năm tháng lặng lờ trôi qua, Thầy không còn trẻ như những ngày đầu lưu vong, sự nghiệp và gia đình riêng đã ổn định, Thầy đỡ vất vả hơn những ngày đầu lưu lạc. Nhưng đến lúc đó, Thầy cũng đã bước gần đến tuổi về hưu, đã qua tuổi “down of the hill” của Mỹ, và đã ở “bên kia đồi” theo cả nghiã bóng lẫn nghiã đen. Những con chữ mầu đen trên sách báo đã biến thành những đốm đen nhạt nhoè, chi chít nếu Thầy không đeo kính viễn thị. Thầy đã phải đi khám bệnh nhiều hơn thay vì mỗi năm một lần đi khám sức khoẻ tổng quát như những người dưới bốn mươi tuổi, vẫn còn ở “bên này đồi”. Nhưng dù sức khoẻ có hao mòn đôi chút, Thầy vẫn còn làm việc hăng say, dù không còn vất vả, tất bật như những ngày còn trẻ. Lúc này, Thầy đã phải thăm viếng các ông bà Bác Sĩ thường xuyên hơn. Đúng theo tiêu chuẩn của Mỹ, mọi thứ đều được chuyên môn hoá, Thầy đã phải đi gặp rất nhiều Bác sĩ chuyên khoa theo đề nghị của ông Bác sĩ tổng quát của Thầy. Có lần phải đi một Bác sĩ chuyên khoa về mắt, có cái tên Nguyễn Lạc Việt đầy âm hưởng quê hương, Thầy kiên nhẫn ngồi ở phòng đợi, chờ đến lượt mình. Dòng tư tưởng của Thầy lúc đó không phải là hoài niệm quê nhà mà là những lo toan về sức khoẻ và cả tinh thần của tuổi “bên kia đồi” sức khoẻ mỗi ngày mỗi xuống. Đến phiên Thầy, cô y tá theo Thầy vào phòng khám, hướng dẫn Thầy đến chiếc ghế đặc biệt của bệnh nhân, đẩy cái khung đo mắt đến trước mắt Thầy, điều chỉnh một cách thuần thục cho hợp với chiều cao của Thầy rồi lặng lẽ quay ra sau khi đã khép cửa cẩn thận. Ông Bác sĩ nhãn khoa mải mê đọc hồ sơ của Thầy, cũng chưa nhìn rõ mặt Thầy. Nhưng khi ông nhìn vào mắt thầy qua tròng kính đặc biệt của cái máy đo mắt, ông kêu lên bằng một giọng vừa kinh ngạc vừa ẩn chứa niềm vui:
- Thầy, thầy có phải là Thầy Nguyễn Phan Lân hồi xưa dạy ở Ngô Quyền không Thầy" Em là học trò của Thầy năm lớp 8/1, Thầy nhớ không"
-
Thầy Lân chưa kịp trả lời, cũng chưa kịp nhìn kỹ ông Bác sĩ nhãn khoa, người học trò cũ ở vào những năm cuối của tuổi 30, chắc là đang ở “trên đỉnh đồi của tuổi tác” hăm hở tiếp lời:
- Hồi đó em ngồi đầu bàn nhất cạnh cửa ra vào đó Thầy, Thầy nhớ em chưa" Qua tròng kính của máy đo mắt, em vẫn nhận được ánh mắt của Thầy, dĩ nhiên đổi thay theo năm tháng, nhưng không khác thời em còn học với thầy ở Ngô Quyền nhiều.
-
Thầy Lân trầm tĩnh:
- Bác Sĩ chuyển cái máy đo mắt ra khỏi tầm nhìn của tôi, tôi mới có thể nhìn kỹ lại Bác Sĩ được.
-
Ông Bác sĩ Nhãn khoa vừa chuyển cái khung của máy đo mắt ra khỏi mắt Thầy, vừa vồn vã:
- Em xin lỗi Thầy, Thầy nhận ra em không"
-
Thầy Lân quan sát kỹ khuôn mặt của người đối diện nhưng trí nhớ của Thầy vẫn nhạt nhoà:
- Chịu thôi, ngày tôi dạy các cô các cậu, các cô các cậu còn nhỏ quá. Vả lại, ký ức của tôi bây giờ đôi lúc mờ ảo như sương mù.
-
Vậy mà “ký ức sương mù” của thầy Lân in rất rõ nét lần gặp lại người học trò cũ hôm đó. Thầy vui cả ngày, không phải vui vì nhận được cả một bao thuốc nhỏ mắt, thuốc bổ mắt loại “sample” từ các viện bào chế vẫn thường biếu để giới thiệu thuốc mới hay quảng cáo thuốc cũ trên thị trường, mà vui vì sau hơn hai mươi năm gặp lại, người học trò mười ba tuổi ngày xưa đã nên người và vẫn không quên câu ngạn ngữ Việt Nam “Công Cha, nghiã Mẹ, ơn Thầy”. Từ đó, lâu lâu Việt, người học trò cũ ở Trung học Ngô Quyền xưa, thỉnh thoảng vẫn đến tham gia đình Thầy đều đặn với sự kính trọng như khi anh còn ngồi ở ghế trường Trung học.
Ở tuổi sắp về hưu, bên này triền đồi của đời sống, sức khoẻ mỗi ngày một yếu đi như một cái xe cũ đã cao mileage, cũng như những người cùng thời, Thầy Lân sống bằng quá khứ nhiều hơn là tương lai. Rải rác đâu đó khắp nước Mỹ, thảng hoặc Thầy vẫn gặp lại những người học trò cũ, hầu hết họ đều thành công ở xứ người, và vẫn nhớ những bài học năm xưa. Lâu lâu Thầy vẫn nhận được điện thoại của một vài học trò cũ, có người ở tận Châu Âu hay Châu Úc, có người cũng đã ngấp nghé tuổi năm mươi, vậy mà nói chuyện với Thầy, họ vẫn lễ độ, vẫn còn nhắc nhở những giờ học năm xưa. Những lúc như vậy, Thầy vui lắm, và vẫn nghĩ về những năm tháng đi dạy ở trong nước, ngày còn trẻ, dù ngắn ngủi, nhưng đã để lại môt hệ quả rất qúy mà không một khoản tiền nào có thể mua được.
Một lần khác Thầy phải nằm bệnh viện vài tuần vì một cuộc giải phẫu không quan trọng lắm, nhưng một người học trò cũ khác từ Canada bay về tiểu bang Thầy đang ở dự một hội thảo của ngành y đúng vào thời điểm đó, vẫn chịu khó vào thăm Thầy tận giường bệnh mỗi ngày. Điều đó hình như là một liều thuốc có hiệu quả nhất giúp thầy Lân hồi phục sức khoẻ rất nhanh chóng làm kinh ngạc rất nhiều nhân viên ở bệnh viện.
Ấy vậy mà có lần đi lang thang một mình trên đường phố ở Mỹ, Thầy đã lặng người khi nghe một người đàn ông trung niên hỏi Thầy:
- Anh có phải là anh Lân không" Hồi xưa anh dạy chúng tôi môn Hình học.
-
Tối hôm đó, về nhà, thầy Lân cứ xoè bàn tay, nhìn những ngón tay của mình và nhớ đến câu ngạn ngữ “bàn tay có ngón dài ngón ngắn”. Khi còn trẻ, ở tuổi dưới 40, người ta sống bằng tương lai vì không có quá khứ, hoặc quá khứ quá ngắn ngủi. Ở tuổi bốn mươi, quá khứ đã có chiều dày và tương lai vẫn còn rộng mở, chừng như đang ở đỉnh đồi của đời sống. Và qua khỏi tuổi “tứ thập nghi bất hoặc”, tương lai mỏng dần, quá khứ thì mỗi ngày một dày, cho nên người càng già thường chỉ sống bằng quá khứ.
Điều may mắn nhất cho những người đã một thời đứng trên bục giảng như Thầy là tình nghiã thầy trò vẫn còn, và quá khứ cuả những người đi dạy vẫn thường ngọt ngào, thi vị hơn những người làm các ngành nghề khác. Cho nên, chừng như những nhà giáo tuy nghèo nhưng thường sống thọ hơn vì có nhiều niềm vui hơn những người ở các ngành nghề khác. Họ còn được so sánh với những người lái đò vẫn cặm cụi chèo thuyền mỗi năm đưa rất nhiều người từ bờ này đến bờ kia. Có những người đến bên kia bờ, mất dạng biệt tăm. Nhưng cũng có nhiều người khách trở lại bến đò cũ thăm người lái đò,
vẫn với cái nhìn kính trọng như ngày xưa họ vẫn còn thơ dại , được đưa qua dòng sông nhỏ đầu đời hướng về biển học mênh mông.
Ở bên này đỉnh đồi của đời sống, có liều thuốc nào hiệu nghiệm hơn là niềm vui tinh thần đến từ mọi phiá, đặc biệt là đến từ những người học trò cũ bé dại ngày nào nay đã thành người nhưng vẫn theo đúng những điều căn bản về đạo đức, luôn nhớ đến công cha nghiã mẹ ơn thầy.
Nếu có khiếu về âm nhạc, Thầy sẽ viết nên bài hát “xin được làm người đưa đò”, chắc hẳn là sẽ cảm động hơn “xin được làm người hát rong” . Nhưng điều càm động đó, Thầy chỉ nhận ra được rất rõ ràng khi đã ở phiá bên này của ngọn đồi tuổi tác………
Nguyễn Trần Diệu Hương
Mountain View, tháng 8 /08
Với lòng biết ơn của Cựu HS Ngô Quyền với những “người lái đò” xưa đã đưa chúng em đến bến bờ thành công
Viết Thay Cho Ba Mẹ
Thời nhỏ dại, mỗi lần đi tắm biển hay tắm hồ bơi mà có Ba đi cùng, bao giờ Ba cũng bắt chúng tôi chià hai bàn tay ra để xem xét những đầu ngón tay. Nếu những đầu ngón tay của chúng tôi nhăn lại, đó là dấu hiệu ngâm nước một thời gian dài, có thể đã bị lạnh, chúng tôi phải rời khỏi mặt nước và về nhà. Một vài lần như vậy, không được bơi lội dưới nước lâu như ý muốn, chúng tôi khôn hơn, nếu không bơi, đứng yên một chỗ trong nước biển, nước sông, hay nước hồ, bao giờ chúng tôi cũng giơ hai tay lên khỏi mặt nước để tránh những đầu ngón tay bị nhăn. Kiểu tắm này được anh cả của chúng tôi gọi là "tắm đầu hàng". Khi kiểu "khôn lỏi" này đến tai Ba Mẹ, chúng tôi đã phải bỏ kiểu tắm giơ hai tay lên khỏi đầu. Còn nhớ Ba đã dạy chúng tôi:
- Không bao giờ đầu hàng trước những khó khăn. Ba không muốn trong tự điển của các con có chữ "đầu hàng".
Tháng 4 năm 1975, vì nhiều nguyên nhân, vì vận nước, vị Tổng Thống cuối cùng của miền Nam VN, chỉ ngồi ở ghế lãnh đạo cao nhất của đất nước vài ngày, kêu gọi QLVNCH "bỏ súng". Lệnh "bỏ súng bàn giao" với một người lính hinh như đồng nghiã với "đầu hàng". Chắc là không ai muốn vậy, nhưng quân đội là nơi kỷ luật được đặt cao nhất, nên những người lính năm xưa đã "bỏ súng" dù trong lòng đầy chua xót, uất ức.
Vì nhiều hệ lụy, Ba cũng như cả ngàn đồng đội của mình bị lừa, từ một tháng đến cả một thập niên bị lao động khổ sai, sống dưới mức sống tối thiểu của con người., chừng như còn thê thảm hơn mức sống được mô tả bằng kinh nghiệm sống của chính tác giả trong "Tầng đầu địa ngục" của nhà văn người Nga đọat giải văn chương Nobel năm 1970 Alexander Solzhenitsyn .
Trước ngày vào trình diện ở trường Don Bosco (tôi không biết chính xác trường này ở quận nào của Saigon và cũng không chắc mình viềt tên trường có đúng không vì lúc đó chúng tôi còn qúa nhỏ), Ba tập họp chúng tôi (đoàn quân cuối cùng Ba còn được chỉ huy) giao nhiệm vụ trong một tháng Ba vắng nhà. Lúc đó, chúng tôi còn nhỏ dại, đứa lớn nhất vẫn ở ngưỡng cửa Trung học, đứa nhỏ nhất vừa đọc thông viết thạo tiếng Việt nhưng chúng tôi có linh tính trước những đổi thay rất lớn, chăm chú nghe khẩu lệnh của Ba, Chúng tôi đứng hàng ngang ngay ngắn và nghiêm nghị, giống như hình ảnh trong một câu thơ của Trần Tế Xương "Bốn con làm lính, Bố làm quan"
Ba dặn dò chúng tôi phải thương yêu nhau nhiều hơn, tuyệt đối vâng lời Mẹ, bà nội, ông bà ngoại, phải suy nghĩ kỹ càng trước khi làm điều gì.
Ba muơi ngày trôi qua, rồi một trăm ngày, một ngàn ngày, rồi ba ngàn ngày, Ba vẫn ở xa nhà, mỏi mòn trong một xó xỉnh đen tối nào đó , bao quanh bởi núi rừng, bởi những cánh đồng trồng sắn khoai có những gốc được vun bón bằng chính thân xác của những người tù khổ sai không có án.
Đến khi nhận được thư đầu tiên Ba gởi về từ một địa chỉ "hòm thư" có dấu bưu điện của miền Bắc XHCN thì dù còn thơ dại, chúng tôi cũng biết chắc chắn mình sẽ phải sống không có Ba trong một thời gian rất dài không phải tính bằng ngày, tuần hay tháng, mà tính bằng năm.
Thư Ba gởi về theo đúng như khuôn mẫu "one of a kind", nội dung giống hệt nhau của các trại giam tù chính trị, chỉ khác nhau ngày tháng, và chỉ có tác dụng giúp Mẹ và chúng tôi nhận ra nét chữ của Ba vẫn còn cứng cỏi để biết Ba vẫn khỏe. Thư nào Ba cũng kín đáo nhắn nhủ Mẹ gởi chúng tôi ra ngoại quốc để chúng tôi có cơ hội được học hành thành người. Trong cơn bão lốc lớn nhất của đất nước và của gia đình, chúng tôi trưởng thành nhanh chóng, có một khuôn mặt trẻ thơ với cái đầu của một người đã trải qua nửa cuộc đời. Duy có mỗi cậu em út, chưa đến mười tuổi lúc đi thăm Ba ở trại Nam Hà miền Bắc, lần đầu tiên gặp lại Ba với cái đầu bạc trắng ở mấp mé tuổi 50, đã buộc miệng tương tự như đứa bé trong bài thơ về vợ chàng Trương trong điển tích ngày xưa của vua Lê Thánh Tôn:
- Đâu phải Ba, người này già hơn Ba nhiều!
Mẹ thương Ba nên tay xách nách mang, chịu nhiều gian khổ từ tinh thần đến vật chất mua đủ thứ dồ thăm nuôi bởi xách cho Ba mặc dù Ba chẳng bao giờ đòi hỏi vì Ba vốn sống giản dị, không hút thuốc, không uống rượu và luôn luôn "ăn để sống", chưa bao giờ "sống để ăn". Có lẽ nhờ vậy nên mãi đến bây giờ đã qua tuổi "thất thập cổ lai hy", với qúa khứ mười năm gian khổ trong lao tù cải tạo từ Nam ra Bắc, rồi từ Bắc vào Trung, Ba vẫn khỏe mạnh hơn hẳn so với những người cùng trang lứa.
Chúng tôi không được may mắn ở gần Ba nhiều, không được nghe Ba dạy dỗ hàng ngày trong suốt thời niên thiếu, nhưng bằng lối sống mẫu mực của Ba, bằng sự hy sinh và chịu đựng của Ba Mẹ trong nhiều năm tháng chúng tôi biết con đường mình phải đi, để làm vui lòng Ba Mẹ.
Đầu thập niên 90 lúc Ba Mẹ được phái đoàn Mỹ ở Saigon mời lên phỏng vấn theo diện HO thì chúng tôi đã học hành xong xuôi và ổn định cuộc sống ở quê hương thứ hai, nên Ba Mẹ chỉ qua Mỹ chơi, không nghĩ đến chuyện định cư hẳn.
Qua cách tiếp đón Ba Mẹ của những người bạn cùng thời, từ hồi Ba Mẹ còn đi học hay lúc đã đi làm, chúng tôi hiểu thêm nhiều về Ba Mẹ, mặc dù Ba Mẹ không kể nhiều về những ngày còn trẻ của chính mình.
Khi Ba Mẹ qua Mỹ thăm chúng tôi, thời gian Ba Mẹ ở chơi với mỗi chúng tôi không được lâu, vì bạn bè của Ba Mẹ ở khắp mọi nơi trên nước Mỹ đã bay về nhà chúng tôi thăm Ba Mẹ hay mua vé máy bay cho Ba qua thăm họ ở nhiều tiểu bang khác nhau. Ở một xứ sở rộng lớn và bận rộn như ở Mỹ mà tình bạn từ nhiều thập niên trước, có khi cả nửa thế kỷ trước vẫn được trân trọng thì hẳn là Ba Mẹ phải sống rất được lòng người khác.
Tình cờ đâu đó ở Mỹ, trong những hồi ký của những người cùng thời với Ba, chúng tôi đọc được những giòng nhắc đến Ba, từ những ngày Ba làm việc bằng tất cả tinh thần trách nhiệm trong quân ngũ, đến những ngày bị đọa đày trong" lao tù cải tạo" từ Nam ra Bắc, rồi từ Bắc vô Trung, chúng tôi càng hiểu nhiều về sự hy sinh vô bờ bến của Ba và Mẹ.
Ba được về thăm lại quê hương miền Bắc lần đầu kể từ chuyến di cư vào Nam năm 1954 không phải bằng máy bay, không phải bằng xe, mà là chuyến tàu Sông Hương (hình như đó là con tàu Việt Nam Thương Tín đưa cả trăm người từ Mỹ về lại VN rồi vào thẳng trong trại cải tạo sau này được đổi tên thành tàu Sông Hương và đưa các cựu Sĩ Quan QLVNCH ra Bắc đến những trại tù ở mạn ngược) đưa Ba cùng hàng ngàn Sĩ quan QLVNCH đặt chân trên cảng Hải Phòng của miền Bắc XHCN. Có lẽ chưa bao giờ, kể cả trong những giấc mơ, Ba và nhiều người Bắc di cư năm 1954 tưởng tượng được mình được "quy cố hương" tập thể trong cái còng tay số 8 với thân phận của những người tù.
Còn bi thảm hơn nữa, khi đoàn tàu lửa chở súc vật chở những cựu Sĩ Quan QLVNCH rời cảng Hải Phòng để xuôi về miền rừng thiêng nước độc của mạn ngược, những trại tù ở Nam Hà, Sơn La, Vĩnh Phú...,. họ còn bị những trận mưa sỏi đá do đồng bào miền Bắc phải làm theo chỉ thị của chính quyền địa phương thời đó, ném vào qua cửa sổ những toa tàu, rất là tương phản với trận mưa bánh kẹo, tự phát từ tấm lòng của những người dân miền Nam, ào ạt đổ lên qua khung cửa sổ của những toa tầu chỉ mở hé (để khối người trên tầu khỏi bị ngợp thở) mỗi khi đoàn tàu lửa Thống Nhất chở họ xuôi Nam , ngừng lại ở những ga nhỏ từ Huế vào đến Long Khánh. Những đau xót vật chất lẫn tinh thần từ sỏi đá ở miền Bắc hay những an ủi ngọt bùi từ bánh kẹo ở miền Nam chưa bao giờ Ba kể lại với chúng tôi nhưng chúng tôi biết được qua những hồi ký của những cựu Sĩ Quan QLVNCH phải trải qua những ngày cuối đời ở đất khách quê người. Mãi về sau này chúng tôi mới biết được điều đó, và càng thương Ba vô bờ. Ấy vậy mà điều đó ám ảnh tôi đến nỗi, có lần đi xe lửa ở Mỹ, trên ghế ngồi của toa tàu sạch sẽ, thoáng mát tri tưởng tượng làm tôi nghe vang vang tiếng chát chúa của sỏi đá chạm vào thành toa của chuyến tàu Thống Nhất năm xưa đưa Ba và những cựu Sĩ quan cấp tá cảa QLVNCH vào một giai đoạn đen tối nhất của đời người.
Là một người suốt đời chỉ làm lính, kỷ luật và tác phong quân đội ảnh hưởng sâu đậm đến đời sống cá nhân của Ba và của cả chúng tôi, tất cả mọi thứ đều phải ngay hàng thẳng lối , ngăn nắp, tinh tươm, Nên mãi cho đến bây giờ ở Mỹ, nhiều người đến chơi nhà cửa chúng tôi, cứ nghĩ là chúng tôi chuẩn bị "open house" khi thấy mọi thứ đều sáng bóng, ngay hàng thẳng lối như một hàng quân. Chúng tôi học được điều đó từ tác phong quân đội của Ba. Suốt đời Ba chỉ làm lính, chưa làm một nghề nào khác, nên tác phong đó theo Ba suốt cuộc đời.
Ngày đính hôn của Ba Mẹ từ cả nửa thế kỷ qua, đã sắp xếp trước nhưng giờ chót có thay đổi đột ngột, Ba không về được, nên ngày Bà Nội bưng trầu cau sang nhà Ông Bà Ngoại hỏi Mẹ cho Ba không có chú rể. Mười ngày sau, đơn vị của Ba hành quân ngang Huế, Ông Ngoại dẫn Mẹ ra Quốc lộ I ở Huế chờ đoàn xe Ba đi qua, xe ngừng, Ba Mẹ chỉ nói chuyện được mười phút với ...... sự hiện diện của Ông Ngoại và cả một đoàn lính ngồi nhìn xuống từ xe GMC , mặc dù lúc đó Ba Mẹ đều đã có đeo nhẫn đính hôn ở ngón tay áp út. Điều đó gây một ấn tượng mạnh mẽ trong lòng chúng tôi, đến nỗi ngay cả những tháng ngày sống một mình ở các trại tỵ nạn ở tuổi hai mươi, mỗi lần đi dạo bờ biển Pulau Bidong, Malaysia hay những con đường tráng nhựa dưới ánh trăng ở Bataan, Philippine với người bạn thân, tôi vẫn tưởng tượng có Ba đang đi bên cạnh để tự giữ "thân gái dậm trường". Hay sau này ở Mỹ, đứng trước biển Malibu lúc mặt trời lặn hay ngồi bên bờ hồ nhân tạo ở khuôn viên trường Đại hoc MIT rất thơ mộng một mình với anh bạn rất thân, chúng tôi vẫn chưa bao giờ vượt qua bức tường lễ giáo. Vì hình ảnh ông ngoại năm xưa dẫn mẹ ra Quốc lộ 1 ở Huế đón Ba sau khi Ba Mẹ đã đính hôn vẫn luôn rõ nét trong trí tưởng tượng của tôi. Và tôi vẫn nhớ lời Ba phải suy nghĩ kỹ càng trước khi hành động, vì không ai có thể quay ngược lại bánh xe thời gian để sửa chữa lỗi lầm của mình.
Có lẽ Ba Mẹ, nhất là Ba không có cơ hội ở gần chúng tôi dạy dỗ chúng tôi nhiều điều như những ông bố bà mẹ may mắn khác, cho nên những điều Ba Mẹ dạy chúng tôi như một tảng bê tông cốt sắt bám dính vào trí tưởng của chúng tôi giữ chúng tôi đi trên đường ngay nẻo thẳng.
Ngày Ba Mẹ qua thăm chúng tôi, Ba Mẹ có cơ hội đến thăm những người bạn xưa, chúng tôi tất bật với nợ áo cơm, với những lo toan ở một đất nước mà tốc độ sống nhanh tưởng chừng như bằng với tốc độ của ánh sáng, chúng tôi không được dịp theo chân Ba Mẹ trên những chuyến bay khắp nước Mỹ. Nhưng một lần nữa chúng tôi thấy và học được từ hình ảnh Ba với người bạn đồng ngũ thân nhất ở Pennsylvania lúc đó, vẫn sát cánh bên nhau dưới màu áo lam trong ngôi chùa do Bác đổ nhiều công sức tạo dựng , giống như một thời xa xưa, Ba với Bác vẫn làm việc cùng nhau rất trung thực trong màu áo ô liu của quân đội. Thật ra, bây giờ, trong những ngày cuối thu, dầu dông, của cuộc đời, Bác và Ba vẫn là một "team work" rất tâm đắc, như ngày nào. Thời xa xưa "team work" đó chỉ quanh quẩn trong một góc phòng của Bộ Tổng Tham mưu hay đôi khi ở khắp bốn vùng chiến thuật, những năm gần đây, "team work" trải dài từ Mỹ đến Việt Nam, trong công cuộc từ thiện, giúp những người tàn tật, khốn khó. Bác qua Mỹ từ 1975, làm Công chức suốt 30 năm, có lương hưu từ qũy an sinh xã hội của Mỹ, nên "giàu" hơn Ba nhiều. Nghiệp nặng hơn, Ba ỏ lại, cả đời không hại ai, không làm gì sai trái mà vẫn phải sống đời tù không có án cả thập niên, đến tuổi già chỉ còn trông cậy vào các con đúng như nghiã của câu thành ngữ Việt Nam "già cậy con".
Cuộc đời rẽ ra hai hướng từ tháng 4 năm 1975, vậy mà tình bạn, tình đồng ngũ vẫn còn nguyên, không sứt mẻ. Hai người lính trẻ ngày xưa, hai Sỉ Quan QLVNCH trung niên thủa nào, đến tuổi hoàng hôn của cuộc đời vẫn còn đầy đủ tình "huynh đệ chi binh", vẫn sống giản dị, vẫn giữ kỷ luật với chính bản thân, và vẫn ngăn nắp sạch sẽ như dạo còn là một sinh viên sĩ quan ở quân trường. Không gặp nhau thường xuyên, nhưng Bác và Ba vẫn rất tâm đằc trong những việc làm từ thiện, Bác góp của nhiều hơn nhờ tiền hưu trí mỗi năm từ qũy an sinh xã hội của Mỹ. Ba không có được một ngân khoản nào ngoài sự tài trợ của các con, nên góp công nhiều hơn của.
Nhưng cả hai người lính già cùng mãn nguyện, cùng vui; niềm vui đôi khi còn lớn hơn cả niềm vui của những người kém may mắn được nhận những khoản trợ cấp đột ngột , bất ngờ mà tên ân nhân luôn luôn được giữ kín.
Gương sáng đó dạy cho thế hệ chúng tôi biết nghĩ đến người khác nhiều hơn nghĩ đến những nhu cầu xa hoa của chính mình, và biết "thi ân bất cầu báo" như những người bán hàng rong dọc theo các ga nhỏ năm nào đã đổ cả thúng hàng, cả một vốn liếng đáng kể đối với họ, để tặng những người "tù cải tạo", vẫn bị đói triền miên, đang chuyển trại từ miền Bắc về lại miền Nam (Sau này, có dịp về VN, chúng tôi vẫn chọn đi xe lửa, để mua hết những thúng mía ghim, bánh tráng, kẹo mè xửng... của những người bán rong dọc theo các ga nhỏ; chỉ mong được thay Ba trả lại phần nào những ân tình hiếm qúy năm xưa.)
Lần đưa Ba Mẹ vào những tiệm sách nổi tiềng của Mỹ như Barnes... Noble hay Borders, Ba chỉ quanh quẩn ở quầy sách về chiến tranh Việt Nam, Ba có thể đọc hàng giờ không chán, chốc chốc lại nhìn qua khung cửa sổ bằng kính dày của tiệm sách. Quang cảnh dưới đường phố vẫn tấp nập, một đường phố bình an, tự do, giầu có của Mỹ , nhưng trong mắt Ba hình như là hình ảnh đất nước Việt Nam với bom đạn năm xưa bỗng dưng sống dậy từ những trang sách. Hình như Ba đang chìm về một quá khứ nào đó, có một thời tuổi trẻ của Ba Mẹ phải chịu nhiều thiệt thòi như công nghiệp của cả một thế hệ cùng thời.
Cũng ở quầy sách đó, Ba đã may mắn được "tha hương ngộ cố tri", có dịp nói chuyện với ông Larry, một ông cụ người Mỹ đã có một thời làm cố vấn cho quân đội miền Nam, và có một thời học ở trường Bộ binh Fort Benning ở Georgia như Ba từ thập niên 60. Hai người lính già, hai mái tóc bồng bềnh ngày còn son trẻ một màu đen, một màu brunette, bây giờ cùng thưa thớt và bạc trắng phau như nhau. Cũng giông như vào đầu mùa đông, tuyết phủ trắng khắp mọi nơi, dù là đất loại nào, màu gì, cũng đều mang một màu trắng như nhau mỗi độ đông về. Những nếp nhăn trên khoé mắt của cả Ba lẫn ông Larry không phải còn là vết chân chim sẻ mà là vết chân của chim đại bàng.
Mỗi một nếp nhăn phải chăng là một kinh nghiệm máu xương, là một tấc thảm đỏ cho thế hệ con cháu an nhiên tự tại bước lên"
Hai ông cụ già hai màu da khác nhau, ở hai lục địa khác nhau mà vẫn tương đắc như tri kỷ khi nhắc đến quá khứ trong quân đội.
Dòng đời đã lướt qua từ gần nửa thế kỷ ,nhưng người lính năm xưa dù "gối đã mỏi, chân đã chồn", đã đi gần hết vòng tròn sinh tử, nhưng nhắc đến thời son trẻ, mắt họ vẫn sáng rực lên đầy tự hào về một thời đã làm hết bổn phận của mình, mặc dù đã không toại nguyện giống như một câu hát của Mỹ "I did my best but it is not good enough ...."
Lần tới, Ba qua Mỹ chơi, tôi tự hứa sẽ cố gắng đưa Ba đến tiệm sách của trường Harvard, nơi có cả một phòng sách về chiến tranh Việt Nam, dưới mắt của nhiều tác giả, nhiều khuynh hướng khác nhau. Có lẽ đọc những trang sách đó, Ba và những người lính già như Bác, như ông Larry đỡ cảm thấy ray rức hơn.
Những năm gần đây, mỗi lần có một người bạn của Ba về với hạc nội mây ngàn, theo yêu cầu của Ba, chúng tôi gởi vòng hoa phúng điếu đến tang quyến ở rải rác khắp nước Mỹ qua hệ thống gởi hoa trên internet. Mỗi lần gởi hoa như vậy. trong lòng vẫn có một chút xót xa khi nghĩ đến vòng tròn sinh tử nhiều người cùng thời với Ba Mẹ đã đi hết, thời gian chúng tôi còn được ở gần Ba Mẹ sẽ thu ngắn dần, ngắn dần.
Vài năm sau nầy, Ba cũng viết hồi ký, không phải để phổ biến đến công chúng mà chỉ in ra vài quyển để phân phát cho chúng tôi "đoàn quân cuối cùng" trong đời binh nghiệp của Ba, một đoàn quân không bao giờ đầu hàng trước mọi nghịch cảnh như lời Ba dạy lúc còn thơ dại. Nhờ vậy mà chúng tôi biết được thêm nhiều điều, biết được thế hệ cha anh của mình đã chịu nhiều gian khổ để ngày hôm nay chúng tôi được thênh thang sống dưới bầu trời tự do.
Mỗi dịp Father's Day hay Mother's Day chúng tôi vẫn lúng túng không biết phải làm gì để Ba Mẹ vui hơn trong hai ngày đặc biệt đó, vì Ba Mẹ không cần gì hết, không còn tha thiết nhiều đến vật chất. Mà những món quà tinh thần thì hơn ai hết, chúng tôi biết mình phải nỗ lực nhiều, nhiều hơn nữa vẫn chưa đền bù được tất cả sự hy sinh, nhọc nhằn của Ba Mẹ trong một khoảng thời gian dài hơn cả cuộc đời của chúng tôi.
Dù chúng ta có giỏi đến đâu, dù chúng ta có thành công đến đâu, chắc chắn chúng ta vẫn nhỏ bé dưới công ơn của núi Thái Sơn, của nước từ nguồn. Và suốt đời chúng ta vẫn cần bóng mát của núi, vẫn cần mạch nước nguồn ngon ngọt đã chở che, vỗ về chúng ta cả một thời nhỏ dại. Không có công ơn cha mẹ, không một ai lớn nổi thành người.....
Nguyễn Trần Diệu Hương
(Với lòng biết ơn Ba Mẹ của 5H. Viết dịp Father's Day 08 và ngày 19 tháng 6. Xin kính cảm ơn bác Định, chú Tấn, bác Lai về một vài tư liệu trong bài)
Điều Không Nói Ra
Không cần phải ước ao nhiều như trong câu hát "Ước gì nhà mình chung vách", hồi đó nhà chúng tôi ở cùng vách, nhưng không có chuyện tình cảm nào xảy ra vì năm tôi sắp vào lớp hai thì anh Tiên bay đi du học ở Nhật.
Ở căn nhà duplex trong cư xá thời đó, nhà tôi ở bên mặt, nhà anh ở bên trái, mỗi lần xuống bếp, có một khoảng trống nhỏ, ở trên đỉnh bức tường ngăn đôi hai nhà, chỉ cần hét lên, chúng tôi có thể "nói chuyện" với nhau dù không thấy mặt nhau. Cư xá nhỏ nhưng có đủ mọi thứ cây cỏ từng hiện diện trong thơ văn Việt Nam: cây tre, cây sung, cây lêkima, cây trứng cá, hoa giấy, hoa quỳnh, hoa tigôn, hoa dạ lý, hoa tóc tiên, hoa trinh nữ& Tôi mê nhất là cây sung trước cửa nhà anh. Ai đó đã làm một cái đu nhỏ máng lên thân cây rất to, tôi hay chạy qua sân nhà anh, nhảy lên tấm ván được treo lên một cành cây lớn của cây sung bằng hai sợi dây thừng to hơn ngón tay cái của người lớn. Nhiều lần trèo lên không tới, vì đu cao quá, mà tôi thì chỉ khoảng năm, sáu tuổi, anh Tiên nhấc tôi lên, đặt vào chiếc đu gỗ, và ân cần dặn dò, sau khi đã đẩy cho tôi một vòng đu khởi động:
-Cẩn thận không thôi bị té.
Đó là ấn tượng lớn nhất anh Tiên để lại trong tôi, một người lớn luôn "ra tay nghĩa hiệp" nhấc tôi đặt lên cái đu treo tòn ten trên cây sung to lớn trước cửa nhà anh.
Em gái út của anh, chị An, hơn tôi khoảng năm sáu tuổi, rất thân với tôi, vì chúng tôi thuộc loại nhỏ nhất trong cư xá. Anh thương chị An nhất trong bầy em của mình vì chị là em út, hay cho chị kẹo bánh, và bao giờ tôi cũng có phần. Ký ức của tôi về anh Tiên chỉ có vậy, nên mùa hè đỏ lửa năm 1972, việc anh đi du học ở Nhật cũng không gợi sự chú ý nhiều ở tôi. Nhà hàng xóm vắng anh, nhưng chị An vẫn còn đó, thế giới trẻ thơ hạn hẹp của tôi vẫn không có gì thay đổi. Lúc đó, tôi lớn hơn, chân dài thêm, đủ để tự mình leo lên chiếc đu gỗ treo trên cây sung trước cửa nhà anh, nên cũng không nhận ra sự thiếu vắng của một người hàng xóm.
Mùa hè đỏ lửa 1972 được báo chí nhắc đến nhiều, và có cả một chổ đứng trong văn học Việt Nam không những chỉ ở những ngày cuối cuộc chiến mà mãi cho đến bây giờ. Nhưng mùa hè năm 1975 mới thật sự là mùa hè đầy tai biến, không một người Việt Nam nào có thể quên được. Từ năm đó, cái cư xá nhỏ bình yên hoàn toàn đổi chủ, ngay từ tuần lễ thứ hai của tháng năm, chính quyền mới đến từng nhà trong xóm đọc "lệnh đuổi nhà", tất cả mọi người phải dọn ra khỏi nhà trong vòng một tuần để trả lại nhà cho "nhân dân". Thế giới tuổi thơ bình yên của tôi bị phá vỡ, và tôi bước thẳng từ tuổi thơ vào tuổi trưởng thành mà không hề có thời mới lớn thơ mộng quý giá nhất đời người như anh Tiên, chị An, và các anh chị đang học những năm cuối trung học. Từ đó, tôi không còn biết gì về những người hàng xóm, kể cả gia đình chị An, người bạn lớn thời thơ dại của tôi. Năm đó, tôi chưa bước khỏi tuổi thơ, vẫn còn mang cái mặt "búng ra sữa" mặc dù đã không còn có sữa để được uống, nhưng vẫn đủ trí khôn để nhận ra điều thiện, điều ác, và đủ để ghi lại ký ức tuổi thơ ngọt ngào của mình. Những người dàn ông trong cư xá nếu không di tản thì cũng vướng vào cảnh tù tội ở các trại tập trung cải tạo. Những người đàn bà, trong đó có Mẹ, đã trở thành người chủ gia đình kể từ tháng 5 năm 1975, trở thành những bà Tú Xương của thời đại, phải "lặn lội thân cò" nuôi chồng nuôi con, nhưng còn bất hạnh hơn bà Tú Xương ở chổ không hề biết ngày về của chồng.
Mẹ đưa chúng tôi rời cư xá, về sống ở Nha Trang với sự cưu mang của ông bà ngoại. Từ đó, chúng tôi không còn được tin tức của những người hàng xóm cũ.
Tưởng vậy là xong, một đoạn đời đã đóng lại cùng vận nước. Anh chị em chúng tôi lớn lên, không được hồn nhiên và đầy đủ như các anh chị lớn trong khu cư xá ngày xưa, nhưng có lẽ nhờ vậy chúng tôi khôn ra, và trưởng thành hơn tuổi thật của mình rất nhiều.
Vậy mà hơn hai mươi năm sau, chúng tôi được gặp lại gia đình người hàng xóm cũ ở quê hương mới. Tình cờ, làm chung chổ với một vài ngươi bạn Việt Nam, một trong số họ ở thành phố thời thơ dại của tôi và là bạn học ngày xưa của anh Tiên. Từ đó, tôi liên lạc dược với anh, với chị An, và cả gia đình của người hàng xóm ngày xưa.
Cũng bị cuốn bởi "cơn lốc của tháng Tư oan nghiệt" với gần hai mươi triệu người dân Nam Việt, gia đình Bác Thanh, ba mẹ anh Tiên, chị An nổi trôi theo vận nước cho đến ngày họ định cư ở San Jose, miền Bắc California vào đầu thập niên 80.
Tháng Tư năm 1975, đang học năm cuối về khoa điện ở một trường đại học ở Nhật, nước mất, anh Tiên và rất nhiều sinh viên Việt Nam đang du học mất luôn đuờng về với quê nhà, với những người thân yêu khi miền Nam đổi chủ.
Một trong những điều ân hận của Quốc Hội Mỹ lúc đó sau khi bỏ phiếu cắt viện trợ cho miền Nam là hình ảnh những sinh viên Việt Nam mắt sáng môi tươi ở tuổi hai mươi, bị cắt đứt lối về, bơ vơ ở đất khách quê người, nên họ đồng ý cấp "free pass" cho tất cả du học sinh Việt Nam ở khắp thế giới được vào Mỹ. Thế là anh Tiên được vào Mỹ, đoàn tụ với chị Hân, em gái của anh đang du học ở Mỹ. Không còn có gia đình, không còn có quê hương, nhưng dù sao cũng có hai anh em, vẫn hạnh phúc hơn những người không có người thân yêu nào bên cạnh.
Vui buồn cứ tuần tự đi đến, đan vào nhau trong đời sống của anh Tiên. Vừa ổn định ở Michigan với chị Hân, vừa tìm được một công việc đầu tiên hợp với chuyên môn của mình, nỗi buồn mất nước vẫn canh cánh trong lòng, nỗi vui anh em đoàn tụ chưa phai, tin buồn lại đến từ bên nhà, lần này là tin buồn "tử biệt sinh ly": Bác Thanh trai bị vào trại tù tập trung như mọi Sĩ quan, Công chức cao cấp của chính quyền miền Nam; nhưng buồn hơn nũa là anh Duy, em trai út của anh Tiên, một thiếu úy trẻ của QLVNCH tử trận đúng ngày 30 tháng 4 ở ven rừng Long Khánh. Anh Duy cùng cả tiểu đội của anh bị một xe tăng của những người về từ miền Bắc bắn vào một trong những đồn phòng thủ cuối cùng của Quân lực VNCH. Bên cạnh nỗi đau vì mất một người em, anh Tiên còn nỗi ân hận là nhiều người cùng tuổi, cùng thời của anh đã vào quân trường, ra chiến trường để anh và những sinh viên may mắn khác được bay đi du học ở ngoại quốc. Từ đó, đã ít nói, anh còn trầm ngâm hơn. Hình như với anh, tận đáy lòng của những sinh viên đi du học vào cuối cuộc chiến có món nợ ân tình với những người lính trẻ đã nằm xuống, hay đã góp một phần thân thể của mình cho tự do của miền Nam.
Rồi thời gian cứ tuần tự trôi, bác Thanh gái và những người em còn lại của anh được qua đoàn tụ nhân đạo với anh Tiên và chị An. Gia đình bác hàng xóm ngày xưa của chúng tôi đã gặp lại nhau, sống một thời gian ngắn tại Michigan, rồi định cư ở California, được bổ sung thêm nhiều thành viên "Family-In-Law" khác, nhưng anh Duy thì mãi mãi nằm lại ở một góc rừng cao su Long Khánh, ở tuổi hai mươi mốt đầy sức sống cùng với mười một đồng đội khác cũng trẻ như anh. Nghe nói cả một tiểu đội lính trẻ nằm xuống ở góc rừng vào cái ngày rất buồn của miền Nam lúc đó đều không nhắm mắt khi vĩnh viễn bỏ lại đời sống. Điều đó đã để lại một nỗi đau hận trong lòng anh Tiên. Do vậy, khi chính quyền VN đương thời bắt đầu "mở cửa, đổi mới" để đi theo chiều hướng cạnh tranh của tư bản vào đầu thập niên 90, các công ty lớn nhất của Nhật là một trong những nhà đầu tư ngoại quốc đầu tiên mở văn phòng ở Sàigòn. Văn phòng của những Công ty Nhật này đang đặt ở Mỹ để mắt ngay đến anh Tiên, một kỷ sư nhiều kinh nghiệm, thông thạo cả ba thứ tiếng Mỹ, Việt và Nhật, một trong những "ứng cử viên sáng giá" nhất có thể đại diện cho Sony, hay Fujitsu ở Việt Nam.
Đang làm cho một công ty của Nhật rất lớn có văn phòng ở Mỹ, anh Tiên được mời lên văn phòng nhân lực, với một đề nghị được tăng lương, được nhiều quyên lợi hơn nếu anh chịu về làm cho văn phòng của Sony ở Sàigòn trong 3 năm. Lương tăng gần gấp đôi, nhiều quyền lợi hơn, địa vị cũng cao hơn, nhưng các đồng nghiệp của anh đã rất ngạc nhiên khi anh từ chối không muốn về làm ở Sàigòn. Thuyết phục anh cả tuần không được, công ty đặt anh trước lựa chọn: hoặc về làm cho văn phòng của công ty ở Sàigòn hoặc nghỉ việc. Rất dứt khoát, anh Tiên về lại văn phòng của mình, thu xếp mọi thứ, bỏ việc vì anh không muốn về lại Việt Nam trong lúc này, và không giải thích gì thêm mặc dù đã được ân cần thăm hỏi. Từ tận đáy lòng, anh vẫn chưa quên hình ảnh anh Duy với khuôn mặt baby face sạm nắng quân truờng, rồi chiến trường, nhưng vẫn còn phảng phất nét trẻ thơ đã vĩnh viễn rời bỏ cuộc đời ở tuổi hai mươi đầy sức sống. Anh cũng chưa quên món nợ ân tình với những ngưới bạn cùng thời đã lăn lội ở chiến trường gian khổ cầm súng bảo vệ tự do để anh và một thiểu số người may mắn được thênh thang trong giảng đường đại học ở một dất nước bình an, giàu có. Và khi đầu óc chưa thanh thản thì anh không thể làm đươc điều gì, kể cả những vấn đề kỹ thuật trong chuyên ngành của anh.
Đồng nghiệp của anh ngạc nhiên, những người Mỹ ngạc nhiên, nhưng gia đình và những người bạn thân của anh hiểu rõ anh rất nhiều, không ai ngỡ ngàng trước quyết định của anh.
Mãi về sau này, có dịp gặp lại anh qua một người bạn làm chung trong giờ ăn trưa vội vã ở một quán ăn Việt Nam ở gần San Jose, được nghe kể lại câu chuyện, tôi không ngạc nhiên chút nào, vì nhìn vào mắt anh, mãi cho đến bây giờ, tôi vẫn thấy thấp thoáng hình ảnh anh Duy nằm xuống ở một góc rừng Long Khánh , mắt vẫn mở nhìn bầu trời trắng xám vào một buổi trưa trời âm u không có nắng cuối tháng 4 năm 1975.
Có những điều dù chưa bao giờ được nói ra thành lời, nhưng không có nghĩa là đã chìm vào quên lãng, đó là một trong những nổi niềm mang theo mà chỉ có những người cùng cảnh ngộ mới đọc được từ "cửa sổ của tâm hồn".
Nguyễn Trần Diệu Hương
(Kính tặng bác Thanh, anh T., các chị; Và để tưởng nhớ anh NAD)