- Những Hạt Đậu Trên Sàng
- Điều Cần Phải Làm
- Một Góc Đời Riêng
- Đường Chúng Ta Đi
- Đời Sống Hai Chiều
Những Hạt Đậu Trên Sàng
Trong cái hỗn hợp đủ mọi chủng tộc của hơn 250 triệu người Mỹ, người Mỹ đầu tiên tạo cơ hội cho tôi vào nghề nghiệp chuyên môn đúng ngành học là một người Mỹ gốc Anh, một người English American nói tiếng Mỹ với giọng Anh, rất "phớt tỉnh Ang Le".
Ngày đó, tôi đang ở cuối năm thứ hai ở SJSU, và vừa đi học vừa đi làm một cái nghề không dính dáng gì đến major của mình. Cùng lúc, nước Mỹ đang ở vào một cuộc suy thoái kinh tế kéo dài gần hai năm, những người có kinh nghiệm, có bằng cấp cũng gặp rất nhiều khó khăn trong việc tìm được một công việc hợp với khả năng của mình. Cho nên, khỏi phải nói, tôi đã hoài công gởi rất nhiều resume, những cái resume sửa soạn rất kỹ từ những "bài bản" ở trường, nhưng chỉ có "Thư đi mà không có thư về".
Tôi không nản lòng (thật ra không có thì giờ để mà chán nản, 24 tiếng mỗi ngày là một thời gian ngắn đối với một người vừa đi học, vừa đi làm full time) tiếp tục gởi resume đi khắp nơi.
Cuối cùng, sau khi đóng góp cho Bưu điện và Kinko's gần hai trăm dollars (đầu thập niên 90, email không phổ biến như bây giờ) tôi cũng tìm được một việc làm part time, 25 tiếng mỗi tuần đúng major của mình. Nhân viên làm part time không có được đầy đủ quyền lợi như những người làm full time (không có bảo hiểm sức khỏe, răng, mắt, không được trả lương vào những ngày lễ…) nên thường chỉ có được những người không có kinh nghiệm, hay sinh viên đang đi học mới chịu làm part time. Không thể nào tả nổi hạnh phúc của tôi lúc đó, bởi vì đó là công việc chuyên môn đầu tiên của tôi, công việc liên quan đến ngành tôi đang theo học.
Boss của tôi thời đó là John McGovern. Một người Anh đến Mỹ làm việc dưới dạng H1 Visa, và chỉ muốn quay về "quê hương sương mù" của mình để nghỉ hè, không phải để ở luôn. Đó là một điều rất đổi ngạc nhiên cho tôi, trong đầu óc ngây thơ của tôi lúc đó, chỉ có những người mất tự do mới phải lưu vong nơi quê người.
Hai năm đầu đến Mỹ làm "survival Jobs" nghĩa là tất cả mỗi nghề để sống còn, đa số là ở những Department Stores, đồng hương của tôi thường là những người Mễ Tây Cơ to béo đầy thể lực, an phận thủ thường, hay những người Phi Luật Tân nhờ con như đa số người Châu Á, với nước da ngăm, làm việc rất cần cù, và thường tự bằng lòng với đời sống hiện tại của mình. Nếu không đi học, không coi tivi, hẳn là khả năng của tôi không thể nào tiến bộ được. Bởi vì cũng như tôi, đồng nghiệp của tôi lúc đó nói tiếng Mỹ với accent tiếng mẹ đẻ. Trong đó, tệ nhất là những người Mễ, có lẽ một phần đất Mỹ nguyên thủy ngày xưa là của Mễ Tây Cơ, nên những người Mễ vẫn thấy hình như đây là đất nước của mình, không cần phải học thêm một ngôn ngữ khác. Thời còn làm việc chung với người Mễ, tôi học được tiếng Mễ nhiều hơn là tiếng Mỹ. Vì yếu kém tiếng Mỹ, nên đa số họ phải làm những việc tay chân, cần nhiều thể lực hơn là trí lực, với một thu nhập rất đỗi khiêm nhường. Bất cứ một sắc dân nào ở Hợp chủng quốc Hoa Kỳ đều nghĩ đến những người Mễ khi cần phải tìm những người lao động tay chân. Trong những trường dạy nghề, hay Community College, còn có nhiều học sinh Mễ, nhưng khi đến trường đại học, hay sau đại học, tìm được một người Mễ thế hệ thứ nhất là một điều không dễ dàng, nhất là trong những major cần đến óc thông minh nhiều hơn là sự cần cù.
Như một con két học nói tiếng người, từ khi làm với ông Boss người Anh, tôi bắt đầu nói tiếng Mỹ với giọng Anh. Tôi cũng không nhận ra điều đó, cho đến một lần trong lúc đối thoại với một người Mỹ ở một thư viện, bà ta nhìn tôi:
- Cô đến đây từ Anh quốc"
- Không, tôi đến từ Việt Nam. Tại sao bà hỏi tôi như vậy"
- Vì cô nói tiếng Anh chứ không phải tiếng Mỹ.
Sau lời "cảnh giác" đó, mặc dù rất bận rộn, tôi vẫn có coi tivi ít nhất nửa tiếng mỗi ngày để "giữ giọng…Mỹ pha Việt Nam". Group làm việc của tôi chỉ có 4 người, ngoài John McGorvern, hai người kia một người đến Mỹ từ Na Uy mới 3 năm, nên dĩ nhiên vẫn nói tiếng Mỹ accent Na Uy, người cuối cùng trong nhóm là một người Mỹ, nhưng ông ta rất ít nói. Do đó, tôi đã nói tiếng Mỹ với giọng Anh trong gần hai năm làm với ông boss người Anh.
Đó là một công ty High Tech rất phổ biến ở Silicon Valley, hãy theo như cách gọi ở cộng đồng Việt Nam là "Thung lũng Hoa Vàng", thuộc miền Bắc California. Đa số những nhân viên của công ty là những kỹ sư thuộc đủ mọi ngành nghề: software, hardware, vật lý, hóa học và cơ khí. Ngay từ ngày đầu tiên làm ở công ty, tôi đã nhìn phone list nơi đó để tìm một cái họ Việt Nam. Chỉ có duy nhất một họ Trịnh của đồng bào tôi trong gần một trăm cái họ của đủ mọi nước trên quả địa cầu.
Cuối ngày hôm đó, nhân vật họ Trịnh đã đến cubicle của tôi để "Nhận đồng hương". Đó là anh Hoàn, một kỹ sư điện, đến Mỹ từ một ngày tháng Tư đau buồn của đất nước. Nhìn bảng tên họ Nguyễn của tôi anh cười thản nhiên:
- Hy vọng chúng ta sẽ không bao giờ lập lại lịch sử, thời "Trịnh Nguyễn phân tranh".
- Anh yên tâm, nếu người xưa còn sống tới bây giờ, họ cũng không phân tranh nhau ở quê người. Ví dụ gì đi nữa, cũng không nên "bôi mặt đá nhau" ở một nơi không phải là quê hương chôn nhau cắt rốn của mình.
Công việc bận rộn cuốn tôi vào cơn lốc đầy "due date", bill ở nhà, project ở sở, bài vở ở trường, extra credit paper (thông thường tôi chỉ viết những trang research này nếu tôi đang ở "border line" của hai loại điểm-grades- cần thêm một vài điểm để được "bump" lên "grade" cao hơn). Nhưng tôi vẫn có thì giờ để quan sát, tìm hiểu thêm về những người làm sở mới . "Birthday of the month" được tổ chức hàng tháng ở phòng họp chính (main conference room) của công ty, hay trong những lần tôi đến phòng ăn đọc báo, hay lấy thêm cà phê, giúp hai con mắt của tôi mở to hơn.
Mỗi một người Mỹ gốc ngoại quốc, bất kể thuộc thế hệ thứ nhất (sinh ra ở ngoại quốc) nói tiếng Mỹ còn pha accent của tiếng mẹ đẻ, thế hệ thứ hai nói tiếng Mỹ rất lưu loát không pha accent ngoại quốc, hay thế hệ thứ "n" thường không biết đọc, biết viết, và đôi lúc còn không biết noiù ngôn ngữ chính của tổ tiên mình đều thể hiện bản sắc riêng "chúng ta đi mang theo quê hương" trong từng hành động hàng ngày của mình.
Những người Đài Loan với màu da vàng, rất thích ăn, đặc biệt là những thức ăn tẩm đầy dầu mỡ, thường trang trí cubicle làm việc của mình bằng những chữ Tàu, hình như là "Phước-Lộc-Thọ" rất chuộng màu đỏ và kỵ màu trắng. Trong những business trip, đặc biệt là những chuyến công tác về lại quê nhà, nhiều người thường dùng tiền công chi cho việc riêng, mặc dù đã nhiều lần bị bộ phận kế toán nhắc nhở, nơi gần, nơi xa. Vào ngày Tết nguyên đán, họ thường tìm đủ mọi cách đề nghị, nếu không lấy được vacation, thì cũng "call sick" vào đầu ngày. Họ thường nói tiếng mẹ đẻ với nhau trong giao tiếp với đồng bào. Tiếng của họ vang vang trong phòng ăn rộng mênh mông nhắc nhở tất cả mọi người nhớ đến một nước Trung Hoa rất đông dân, luôn luôn bị nạn nhân đe dọa, có lẽ vì thế họ có thói quen "ăn to nói lớn". Bởi vì trong một đám đông ồn ào, muốn cho người khác chú ý đến mình, người ta thường phải nói lớn hơn bình thường.
Với nước da sậm đen và hàng ria mép rất phổ biến ở các nước theo đạo Hồi (nhắc người Mỹ nói ám về những tên không tặc cuồng tín, vô lương tâm của ngày 11 tháng 9 đầy nước mắt) những người Ấn Độ, thường phải đối đầu với INS, sở Di trú Hoa Kỳ mới 6 tháng khi Visa H1 của họ cần phải đươc gia hạn tiếp. Nơi làm việc của họ thường rất đơn giản, không được trang trí rườm rà như những văn phòng của đồng nghiệp. Cũng như người Mỹ gốc Việt, họ thường gởi tiền về cho thân nhân ở quê nhà, đông dân nhất nhì, và cũng nghèo nhất nhì thế giới. Họ làm việc rất cần cù, mang theo tinh hoa quý giá nhất của hơn một tỷ người Ấn Độ qua Mỹ: khả năng toán học. Như một bù trừ, bên cạnh khả năng tuyệt vời về toán học, đa số người Mỹ gốc Ấn Độ có một khả năng rất khiêm nhường về ngôn ngữ, tiếng Mỹ của họ vừa nặng nề (như mang theo cả một dãy Hy Mã Lạp Sơn) vừa khó nghe.
Là một người rất nhạy cảm về mùi vị, tôi đã âm thầm gạt khỏi thực đơn của riêng mình món "cari" mặc dù đây là một trong những món vừa rẻ, vừa dễ nấu, khi tôi đặt một cái gạch nối giữa mùi vị con người và mùi vị thức ăn, như người Mỹ vẫn có câu "You are what you eat".
Có một bề ngoài không khác gì người Mỹ bản xứ về màu da và chiều cao, những người Pháp mảnh mai, thon thả khi mới đến Mỹ. Chỉ sau một thời gian rất ngắn, thực phẩm rất rẻ và đầy dãy ở Mỹ (ở sở, khi kinh tế phát triển, tình hình tài chánh sáng sủa, nhân viên thường được có free lunch ít nhất một ngày mỗi tuần, đôi khi còn được ăn điểm tâm miễn phí dù 5 ngày làm việc mỗi tuần) những người Mỹ gốc Pháp da mặt đành mất "shape" của mình. Truyền thống "thực dân" từ gần một trăm năm qua, dĩ nhiên cũng được mang theo, họ vẫn, thảng hoặc, kín đáo chê người Mỹ không có truyền thống, học hành ở Mỹ "chỉ có chiều sâu, không có chiều ngang…(hẳn là họ không biết đến câu "bá nghề, bá trị, vị chi…bá láp".
Dĩ nhiên, họ chỉ dám nói ra điều đó với người Mỹ gốc ngoại quốc, thế hệ thứ nhất, không hề dám đề cập với người Mỹ bản xứ. Họ làm việc không chăm chỉ như người Việt gốc Á, và vẫn luôn phàn nàn người Mỹ làm việc nhiều quá. Dù tiếng Pháp và tiếng Anh đều thuộc loại đa âm, vẫn rất dễ dàng nhận ra một người Mỹ gốc Pháp thế hệ thứ nhất khi họ phát âm những từ bắt đầu bằng chữ "R".
John Mc Govern, bằng một cách riêng, cũng mang theo "quê hương sương mù" của mình qua Mỹ. Lòng tự hào của người Anh hình như cao nhất so với những sắc dân lưu vong khác. Ông boss người Anh của nhóm chúng tôi cũng đã hơn một lần nhắc đến câu "Mặt trời không bao giờ lặn trên vương quốc Anh". Mỗi dân tộc đều có một niềm tự hào riêng về một truyền thống nào đó của mình. Niềm tự hào của những người Anh hình như vượt trội hơn hết, chẳng thế mà vào đầu thế kỷ 21, khi Châu Âu có chung đồng Europe, đơn vị tiền tệ thống nhất cho hầu hết các quốc gia Châu Âu, thì người Anh vẫn giữ đồng "sterlings" riêng, như là một niềm tự hào về nguồn gốc của họ, không muốn bị đồng hóa với bất cứ ai. Ngay cả trên bước đường lưu lạc, làm việc ở quê người, John McGovern vẫn "đứng thẳng lưng" và đối xử với những "big boss" một cách rất bình đẳng. Ông boss người Anh của tôi vẫn can đảm phê bình thẳng thừng, lớn tiếng trong các cuộc họp bằng một accent Anh quốc rất đặc biệt giữa đất Mỹ.
Một lần, trong một business lunch trong nhóm chúng tôi, John McGovern đã khuyên chúng tôi một điều, mà tôi vẫn nhớ mãi cho đến bây giờ:
- Cuộc đời không bao giờ công bằng. Nhưng bổn phận của chúng ta phải làm cho cuộc đời càng ngày càng đỡ bất công, cho dù đôi lúc chúng ta phải trả một giá đắt cho việc đấu tranh đó.
Tôi không biết tất cả những điều John McGovern đã làm để đi đến gần sự công bằng, nhưng ít nhất John McGovern đã điều chỉnh giờ làm việc của tôi thành Fulltime để tôi có đầy đủ mọi quyền lợi. Còn hơn thế, tôi có đươc Flexible hours, có thể vào ra sở bất cứ giờ nào, miễn là hoàn thành nhiệm vụ được giao.
John McGovern cũng nửa đùa nửa thật với chúng tôi:
- Tụi bây có biết là hồi xưa, lúc Columbus mới tìm ra Châu Mỹ, nhiều người Châu Âu đến vùng đất mới, ai cũng muốn là tiếng nói của mình sẽ thành ngôn ngữ chính của Châu Mỹ. Tụi Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha có truyền thống xuôi Nam, nên sau này Ba Tây hay Argentina nói tiếng Bồ Đào Nha. Ở Bắc Mỹ, đa số là người Anh và Pháp, nhưng người Anh đông hơn và "cao" hơn (John đã dùng lời diễn tả bằng tay của người Mỹ với hai cánh tay dơ lên, như kiểu chào sói con trong Hướng đạo, với hai ngón trỏ và hai ngón giữa cũng chuyển động để diễn tả chữ "cao") nên sau này English trở thành ngôn ngữ chính của Hoa Kỳ. Và do sống giữa một hỗn hợp đủ thứ sắc dân, kể cả người Indian bản xứ, tiếng Mỹ đã không còn accent của Anh quốc. Người Pháp rất bất bình vì French đã bị "knock out" bởi English, nên sau này họ vẫn thường hay tìm đủ mọi lý do nhỏ nhất để chê Mỹ, mặc dù như tất cả mọi nước khác trên địa cầu, Pháp cũng nghèo hơn Mỹ nhiều, và cũng rất cần hàng hóa và những đồng dollars xanh của Mỹ.
Tôi chợt nhớ đến một câu hát rất buồn về dân tộc mình "Một ngàn năm nô lệ giặc Tàu, một trăm năm nô lệ giặc Tây, hai mươi năm nội chiến từng ngày…." Và thầm tự hào sau bao nhiêu biến dâu, tiếng Việt vẫn còn, và được mang theo trên những bước đường lưu vong ở khắp nơi trên thế giới.
Là "một hạt đậu nhỏ" trong cái "melting pot" vĩ đại khổng lồ của nước Mỹ, tôi vẫn ước mong và cầu nguyện là những hạt đậu văng ra từ một dãy đất hình chữ S ở bên kia bờ Thái Bình Dương sẽ nhận được những hạt giống mới tốt hơn, to lớn hơn và có một tấm lòng cho tự do và no ấm của hơn 70 triệu đồng bào vẫn còn lầm than ở quê nhà.
Nguyễn Trần Diệu Hương
Santa Clara, tháng 10/02
Điều Cần Phải Làm
Bài Essay của cô trong đơn xin vào Y Khoa của UCSF (Trường Đại Học California ở San Francisco) mở đầu bằng câu: Tôi xin vào học khoa Y vì lý do chung "muốn có thể mang lại sự bình an thể xác cho những người thiếu tài sản quý nhất trên đời: sức khỏe; Và lý do rất riêng "Tôi muốn làm vui lòng mẹ tôi, người đã hy sinh cả một đời nuôi anh em chúng tôi nên người, và muốn làm những điều ba tôi, một bác sĩ Quân Y, đã bỏ dở."
Ngày cô được nhận vào UCSF, mẹ khóc và đứng lặng người rất lâu trước bàn thờ bố. Hình ảnh đó làm tăng quyết tâm cho cô trong gần 10 năm theo đuổi ngành Y. Thật ra, cô thích học về hội họa hơn, nhưng mẹ muốn cô học Y, vì như thế cả hai anh em đã cùng nhau làm tròn ước nguyện của bố.
Bố đã qua đời 30 năm trước, từ "mùa hè đỏ lửa" ở An Lộc, Bình Long, Việt Nam trên một trực thăng tản thương, có dấu Hồng Thập Tự đỏ. Quy luật quốc tế, trong chiến tranh người ta có thể bắn vào bất cứ chỗ nào, nhưng không được bắn vào máy bay tản thương có dấu chữ thập đỏ. Vậy mà, có những người cuồng tín và không biết hay đã làm ngơ trước quy ước, bắn vào tất cả mọi nơi, ngay cả máy bay tản thương, đưa thương bệnh binh về hậu cứ. Lúc đó, cô chỉ vừa sinh được 3 tuần, như lời bà nội: "hãy còn đỏ hỏn". Lúc đó, anh Bình vừa lên bốn. Là một bác sĩ quân Y, chính bố đỡ đẻ cho mẹ, và cắt cuống rún cho cả hai anh em. Tuy làm ở ngay Tổng Y Viện Cộng Hòa ở Saigon, nhưng bố phải theo trực thăng tản thương đi khắp bốn vùng chiến thuật hầu như mỗi ngày, và bố đã cứu kịp mạng rất nhiều người lính ở ngay mặt trận mịt mù khói súng, dưới hầm sâu chỉ có ánh sáng đèn pin, hay ngay trên trực thăng bốn bề lộng gió.
Sau này, khi khôn lớn, anh em cô được nghe mẹ kể lại có những hôm bố về nhà gần nữa đêm, từ đầu đến chân đen nhẽm, phủ đầy mùi thuốc súng, chỉ còn hai con mắt, vẫn sáng quắt, rất đẹp và cương quyết, thông minh. Những ngày đầu mới về với bố, mẹ rất lo lắng, nhưng về sau mẹ quen dần, như hai mươi triệu người dân miền Nam tự do lúc đó quen dần với chiến tranh, với cái giá phải trả cho tự do. Để trấn an mẹ, và cũng để bày tỏ khát vọng của một người lính, bố đặt cho anh Bình là Hòa Bình, và tên cô là Bình An. Nhưng khi cô, Bình An của bố mẹ chưa đầy tháng thì bố vĩnh viễn ra đi, tìm sự bình an ở thế giới vĩnh hằng, để lại cho mẹ và bà nội nổi mất mát lớn nhất đời người, và một khoảng trống không ai có thể lấp đầy. Vì bố là con một của bà nội, và là tình đầu của mẹ. Bên cạnh nổi đau nát lòng của bà nội và mẹ, anh Bình rất vô tư, dùng gậy chống trong tang phục của trưởng nam, múa kiếm với bạn hàng xóm.
Ba năm sau, chưa mãn tang bố, thì làn sóng đỏ từ bên kia cầu Hiền Lương tràn vào tận đến mũi Cà Mau, mẹ và anh em cô được gia đình bên ngoại đưa đi di tản. Mẹ muốn đưa bà nội đi theo, nhưng bà từ chối, vì muốn ở lại với mồ mã ông bà, với thân xác bố ở nghĩa trang quân đội. Nhưng bà khuyến khích mẹ đưa anh em cố đi, vì "mẹ già rồi, sống nay chết mai, con phải đưa hai cháu đi để hai cháu được học hành nên người nên ước nguyện của bố chúng nó!".
Lịch sử đã lập lai khi tháng 4/75, mẹ cõng cô trên vai, anh Bình lên 7, lúp xúp chạy theo, tay nắm chặt áo mẹ, cổ đeo thẻ bài và hình của bố, cùng khai sanh của hai anh em. Hình ảnh đó tương tự như hình ảnh bố cầm tay bà nội, chạy lên tàu há mồm vào Nam tháng 7/1954.
Đến Mỹ, ngay từ lúc còn ở Camp Fort Chaffee ở Arkansas, mẹ đã chăm chỉ học tiếng Mỹ, để mong sẽ tìm được việc làm để nuôi hai anh em nên người. Nơi định cư đầu tiên trên quê hương thứ hai của ba mẹ con là thành phố cổ kính St. Louis, thuộc Missouri ở miền Trung Tây nước Mỹ, mẹ được hội thiện nguyện giới thiệu vào làm ở một nursing home. Lúc đó, anh Bình vừa lên lớp hai, và cô chập chững bước vào Kingdergarden. Hình như trẻ con cũng có giác quan thứ sáu, cảm thông được nổi khó khăn, neo đơn của mẹ, cả hai anh em đều rất ngoan, hay ăn chóng lớn, và không hề bị bệnh trong suốt thời học sinh. Hình như đó cũng là một đền bù dành cho những gia đình, chỉ còn bố hoặc mẹ, trẻ em mồ côi thường khôn ngoan hơn, và trưởng thành hơn những trẻ em có đủ bố mẹ. Giống như cây mọc ở Bắc cực hay sa mạc thường tự điều chỉnh nhu cầu của mình theo đúng điều kiện thời tiết.
Từ tuổi lên tám, anh Bình đã biết tự mở cửa vào nhà, và biết đóng cửa giữ im lặng, vì anh biết mẹ không đủ tiền gởi anh ở Daycare sau giờ tan học như các bạn Mỹ cùng lớp. Từ nơi làm việc, mẹ vẫn gọi điện thoại về trông chừng anh mỗi nữa giờ, và anh chỉ trả lời điện thoại sau tiếng chuông thứ ba, khi biết chắc chắn là mẹ gọi. Đời sống ba mẹ con tạm đủ với công việc full time của mẹ ở nursing home chỉ cách nhà (thật ra đó chỉ là căn apartment một phòng) gần nữa mile. Mẹ có thể đi bộ đi làm. Cuối tuần đi chợ gần nhà, và đẩy cô cùng thức ăn về trong cái shopping cart của chợ.
Ký ức thời thơ ấu của cô còn in rất rõ nét của mùa đông trắng xóa ở St. Louis và sở thú mùa hè xanh ngát cây cao, bóng mát. Một thân một mình nuôi con mẹ vẫn giữ thăng bằng cho đời sống của anh em cô. Cô được gởi ở Day care center rất gần nhà. Trong nursing home, nơi mẹ làm, những đồng nghiệp da đen, hay da trắng của mẹ, cũng dành cho mẹ một ưu đãi đặc biệt, vì thấy mẹ nhỏ con, nhưng rất siêng năng chăm chỉ họ để cho mẹ phụ nấu ăn ở nhà bếp, thay vì giúp những bệnh nhân lo vệ sinh cá nhân. Mẹ sống thời son trẻ, như người đứng ở điểm giữa của đường đời, mà hai anh em cô ở điểm đầu, và những người già sống trong nursing home ở điểm cuối. Bên cạnh mẹ, không có ai chỉ có hình ảnh của bố và ký ức hạnh phúc tuyệt vời, lúc bố còn sống là niềm an ủi.
Năm năm sau, học xong AS ở Forest Park Community College, mẹ đưa hai anh em về San Jose, miền Bắc California để có một khí hậu ấm áp hơn, để gần cộng đồng Việt Nam hơn, hai anh em có thể giỏi tiếng Việt hơn. Thật ra, từ hồi còn ở St, Louis hai anh em đã biết đọc biết viết tiếng Việt qua những bài Việt văn, mẹ nhớ lại và viết ra từ những bài giảng mẹ đã dạy cho học trò ở trường Quốc Gia Nghĩa từ trước năm 1975. Mẹ dạy tiếng Việt cho hai anh em, và hai anh em giúp mẹ phát âm tiếng Mỹ chính xác hơn.
Ba mẹ con đi dọc theo chiều dài của hơn một nữa nước Mỹ từ miền Trung Tây êm đềm sang ven biển miền Tây đầy nắng ấm "Gia tài sự sản" không có gì nhiều trong 5 năm đầu tiên ở Mỹ, tất cả chất đầy lên thùng xe và băng ghế sau, hai anh em cùng ngồi phía trước với mẹ, các cậu, các dì cùng muốn giúp mẹ, nhưng tính mẹ độc lập nên vẫn tự làm lấy mỗi chuyện.
Chỉ sau khi về San Jose vài tháng, mẹ liên lạc được với bà nội và vẫn thường xuyên gởi tiền về thay bố phụng dưỡng bà nội trong những ngày về già. Lúc đó, anh Bình bắt đầu tuổi teenager, và đã giúp mẹ được rất nhiều điều, kể cả việc đưa đón cô đi học từ trường Elementary cách nhà ba blocks. Anh giống bố rất cao, nên nhiều người tưởng anh đã 16 tuổi, đủ tuổi để có thể đưa đón em ở trường Tiểu học.
Đời sống của ba mẹ con, dù không có bố vẫn rất êm đềm. Bố mất từ ngày cô rất chào đời, cô không hiểu được hạnh phúc của một gia đình có đủ bố mẹ, nhưng cô nghĩ là mẹ đã vừa làm bố, vừa làm mẹ một cách rất chu toàn. Bởi thế, hai anh em vẫn bảo nhau "mình phải cố học giỏi để làm vui lòng mẹ, vì đó là món quà lớn nhất dành cho mẹ, cho ông bà ngoại bà nội ở quê nhà và cho ngay cả linh hồn của Bố".
Lên trung học, anh Bình được vào Acedemic High school, thú giải trí duy nhất của hai anh em là những video tape, những phim du lịch hay những family movies mượn được từ thư viện của thành phố. Từ một phim tài liệu giới thiệu về trường đại học quân sự của Mỹ "West Point" anh Bình muốn vào học ở đó, với full scholarship để đở gánh nặng cho mẹ trong những ngày anh học Đại học. Hai anh em đã cùng hứa với nhau, sẽ nối được nghiệp bố, một bác sĩ quân y.
Anh Bình đã vào West Point với major computer engineering, như ước nguyện. Anh rời nhà, trao lại trách nhiệm săn sóc mẹ cho cô. Hai anh em đã bắt đầu lo được cho mẹ khi anh Bình lên mười lăm tuổi và đi làm công việc parttime đầu tiên ở một công viên giải trí. Mỗi cuối tuần, hay mùa hè, anh làm 8 tiếng mỗi ngày như một người lớn. Lúc đầu, anh phải chiên French fry mỗi ngày, khi anh về nhà, mang theo đầy mùi dầu và mùi khoai tây chiên. Năm sau, anh được làm ở chỗ điều khiển roller coaster, lương nhiều hơn một chút, anh đã có thể mua đồ mới mỗi mùa tựu trường cho cả hai anh em, mà không còn làm phiền mẹ nữa.
Cô cũng bắt đầu đi làm ở tuổi mười sáu ở một trạm bán xăng gần nhà. Tuy chỉ làm 15 tiếng mỗi tuần trong vòng vài tháng ở đó, cô đã rành đủ mọi loại nhớt xe. Khi anh Bình chuyển về New York, vào nội trú ở West Point, cô "thừa hưởng" được cái xe cũ của anh để lại, cô bắt đầu vào làm ở các department stores, những nơi mẹ vẫn thường mua quần áo để có thể mua đồ cho mẹ nhiều hơn với giá discount 20% cho nhân viên. Bước đầu vào tuổi teenager, cô cũng bắt đầu thích áo quần đẹp, thích shopping, nhưng những điều đó không bao giờ nằm trong "Things to do/List" của cô.
Bởi vì không phải đợi đến lúc nghe và hiểu bài hát "Lòng mẹ" cô mới hiểu và thương mẹ, mà anh em cô đã thương mẹ vô cùng từ khi bắt đầu có đủ trí khôn, bắt đầu thấy mình rất đầy đủ, hạnh phúc hơn nhiều bạn cùng tuổi có đầy đủ ba mẹ. Tấm lòng, trình độ và sự hy sinh cả một thời son trẻ của mẹ dành cho anh em cô là một trong những hạnh phúc quý giá nhất. Và cô nghĩ là bố cũng rất hoàn hảo, ít nhất là đối với mẹ, để một người đàn bà đẹp như mẹ có thể giữ lòng sắt son từ tuổi ba mươi.
Cô giống mẹ, nên từ năm lên trung học, cô đã được vài người bạn nam trong trường theo đuổi, nhưng cô bỏ ngoài tai điều đó, vì như lời mẹ nói "các con phải học hành đến nơi đến chốn, giúp mẹ làm tròn bổn phận với linh hồn bố, và giữ lời hứa với bà nội". Mẹ đã dạy anh em cô ở tuổi nào người ta cũng có thể yêu được, nhưng bộ óc con người chỉ hoạt động hữu hiệu và có khả năng học cao nhất trong những năm từ 15 đến 30 tuổi. Và cô hiểu để học được chuyên ngành về tim, cô phải tốn mười năm dài. Đó là đầu tư lâu dài và tốn kém nhất trong các ngành học ở Mỹ. Và không những chỉ mẹ hy sinh cho cô, anh Bình vào học West Point, để có được scholarship, dành toàn bộ tiền mẹ đã bỏ trong "College fund" cho những năm tháng ở trường đại học Y khoa sau này của cô. Tất cả những điều đó đã là một chất xúc tác làm cô có nhiều nghị lực hơn trong mười năm đăng đẳng kể từ lúc bước vào dự bị Y khoa đến lúc xong chuyên ngành về tim. Để tránh tốn kém cho mẹ, ở bốn năm đầu đại học, không phải đi thực tập, cô đi bằng Cal-Train. Mỗi sáng, dù nắng ráo hay sương mùi, cô đeo một cái cặp khá to (trong đó có một sandwich cho giờ ăn trưa, một trái cam, một trái chuối và một hộp cereal, thực phẩm cả ngày của cô), leo lên tầng thứ hai của xe. Ở đó, yên tỉnh hơn, cô có thể đọc lướt qua những chapter sẽ học trong ngày, để dễ dàng hơn khi nghe giảng ở lớp. Buổi chiều, cô về bằng xe của một bạn học cùng lớp, và chia tiền xăng trong ngày, rất là Mỹ với bạn.
Nhiều hôm, cô trở về nhà, sau một ngày dài ở trường với nhiều căng thẳng, bụng trống trơn, chỉ có hai ly Starbucks Coffee, một ly buổi sáng và một ly buổi chiều giúp cô tỉnh ngủ, chống lại mỏi mệt. Bài vở chồng chất, cuối tuần cô lại phải đi làm thêm, nên đôi lúc cô không có giờ xuống Cafeteria để ăn trưa, cái sandwich cô mang theo, đôi lúc đã được đem biếu cho một người homeless hiền hòa, vẫn ngồi ngủ ở một góc Cal-train.
Hai anh em đươc thừa hưởng gene cam đảm, chịu đựng của bố và gene từ bi, hy sinh của mẹ nên không hề đòi hỏi một điều gì. Một đôi lần, đi dự những tiệc sinh nhật trọng thể của bạn bè, cô chợt nhớ là từ lúc mới sinh cho đến lúc xong MD, cô vẫn không hề tổ chức một party sinh nhật, nhưng có hề gì, vì điều đó cũng không bao giờ nằm trong "thing to do/list" của cô. Hay trong những năm nội trú ở bệnh viện, có dịp đến những căn condominium nằm trong khu vực sang trọng của bạn học cùng lớp, cô vẫn không hề phân bì tại sao mình không có được một nơi ăn chốn ở tiện nghi như bạn.
Bởi vì có được ngày hôm nay, cô hiểu là mình đã may mắn hơn hàng triệu người khác trên thế giới, hàng triệu bạn trẻ Việt nam ở trong nước, và cô phải nhớ ơn ân nhân lớn nhất đời mình: mẹ yêu quý của anh em cô.
Sau mười năm dài nhiều cố gắng, cô đã được học vị MD để làm quà cho mẹ cho bà nội ở quê nhà và cho linh hồn bố. Anh Bình cũng đã tốt nghiệp từ West Point mấy năm trước, và là một sĩ quan kỹ thuật của Không quân Hoa Kỳ. Cả hai anh em, mỗi đứa đã nối được một nửa con đường của bố bỏ dở từ gần ba mươi năm trước. Và quan trọng hơn hết, cô thấy được một con mắt rất đẹp và buồn của mẹ sáng lên, rạng rỡ niềm tự hào.
Con đường trước mặt còn dài. Cô còn phải học thêm nhiều chuyên môn với những đồng nghiệp đã ra trường từ nhiều năm trước. Nhưng một điều chắc chắn cô phải làm là khám từ thiện cho những trẻ em ở những public shelter, chỉ có mẹ, như anh em cô. Và cô cũng sẽ về thăm quê nhà thăm bà nội, đưa tro tàn của bố về gần mẹ hơn và cũng sẽ khám bệnh miễn phí cho những trẻ em nghèo, bất hạnh ở quê nhà. Phải làm được tất cả những điều đó, cô mới thấy mình thật sự bình an trong tâm hồn.
(Kính tặng cô Lan, tặng Lan Hương, Tiến Tuấn để chia xẻ muộn màng nổi đau từ thời thơ dại- Santa Clara, Vu Lan 2002).
NGUYỄN TRẦN DIỆU HƯƠNG
Một Góc Đời Riêng
Ba mẹ đặt cho cô một cái tên rất đẹp, đầy âm điệu quê hương: Phạm Kim Ca Dao.
Cô may mắn được lớn lên trong những âm thanh ngọt ngào của quê hương từ lời ru miền Trung của mẹ, từ những bài vè dân gian miền Bắc của Hà Nội. Cô tự hào về cái tên của mình lắm, mặc dù cái tên đã làm gợi óc tò mò cuả nhiều thầy cô giáo thời trung học, và cô luôn bị gọi lên bảng đọc bài. Tệ hơn thế, cô còn bị lũ bạn "nhất quỷ, nhì ma, thứ ba học trò" trêu chọc, gọi là "Chắc Cà Đao" "Cây Dao" hay "Phạm Kim Dao…Búa".
Đến khi "làn sóng đỏ" đẩy cô trôi dạt từ Mã Lai, đến Phi Luật Tân, đến Nhật và qua Mỹ thì cái tên dễ thương của cô lại gặp những "vấn nạn" khác, người ngoại quốc đọc tên cô thành "Down". Nghe cũng không ổn chút nào! Nghĩ đi, nghĩ lại cô quyết định giữ đúng tên khai sinh nguyên thủy của mình, nhưng vẫn yêu cầu "đồng bào mới" của cô, những người Mỹ, gọi cô là Kim, một phần của tên cô.
Trên tất cả mọi giấy tờ, bằng lái xe, thẻ an ninh xã hội, diplomat, deets, passport, đều in rõ cái tên bốn chữ Phạm Kim Ca Dao, nhưng mọi người vẫn gọi cô là Kim theo yêu cầu của cô. Trên resume của cô, paychecks, hay bảng tên ở văn phòng làm việc đều chỉ có hai chữ, ngắn gọn: Kim Phạm. Thật ra, cô có thể chọn một cái tên Mỹ: Linda, Margaret, Theresa, Babara, Cathy….nhưng cô không muốn, vì "chúng ta mất hết, chỉ còn…tên".
Cái tên rất dễ thương của cô đã gây nên một trận chiến tranh lạnh giữa cô
và "Cố vấn tối cao" kéo dài gần 3 tháng, làm hai bên đều đau khổ, nhưng không bên nào chịu dẹp tự ái để mở miệng nói lời xin lỗi. Khách quan nhận xét, lỗi không phải ở cô, vì cô hoàn toàn không biết nguyên nhân. Câu chuyện bắt đầu từ một lần cô gọi điện thoại đến sở tìm anh, người có đủ khả năng làm "leader" cho cô trọn cu ộc đời. Anh không có ở văn phòng, và hệ thống điện thoại tự động tranfer đến phòng Lab, nơi anh cùng làm việc với nhiều kỹ sư khác. Không may, hôm đó, anh không có mặt quanh Lab, một đồng nghiệp của anh nhấc điện thoại. Đó là một người Mỹ không giống những người Mỹ bình thường khác, và đã đưa anh và cô đến "ba tháng chia lìa". Nguyên văn cuộc điện đàm như sau:
- May I speak to Dan, please.
- Dan, who"
- Dan Tran
- He's not around here! Can I take the message"
- Sure. Please tell him to call me back, my name is Kim. He known my number. Thanhks so much for yor time. Bye now.
Cô gác điện thoại thầm nghĩ anh sẽ gọi lại cho cô trong ngày hôm đó. nhưng ba tháng sau, cô mới nhận được điện thoại của anh. Lý do là người đồng nghiệp bản xứ của anh rất khác thường so với những người Mỹ chúng ta thường tiếp xúc. Khi chuyển lại message cho anh người bạn đồng nghiệp đã "go extra mile" không những nhắc lại nguyên văn lời nhắn nhủ của cô, hắn còn thêm vào:
- Girlfriend của mày, rất dễ thương, cái tên Ca Dao cũng rất dễ thương, vậy mà mày không take care cẩn thận, có ngày mày mất Ca Dao, như mày đã mất nước.
Lời bình luận đó làm anh rất đổi "up set" vì hắn đã đụng đến "vết thương không bao giờ lành" của anh, chuyện mất nước, và hắn đã biết tên của cô là Ca Dao, nghĩa là theo suy luận của anh, cô đã nói chuyện rất nhiều với hắn, vì hơn ai hết, anh biết là chỉ có những người rất thân, hay bạn thời nhỏ dại của cô mới biết cô tên Ca Dao.
Anh đã lớn tiếng với hắn, đó là một trong những lần hiếm hoi anh cao giọng giận dữ, vì là người con thứ sáu trong một gia đình đông con, dưới một nền giáo dục rất cẩn thận, đầy tôn ti trật tự của ba mẹ anh, theo truyền thống người Huế, anh rất bình thản, biết tự kềm chế và luôn hòa nhã, lịch sự với tất cả mọi người. Nhưng anh cũng đủ bình tỉnh để mời hắn vào văn phòng của anh, đóng cửa lại và bắt đầu to tiếng. Từ khung cửa kính trong suốt nhìn vào, những đồng nghiệp khác của anh biết anh và hắn đang to tiếng, nhưng họ đều nghĩ là anh và hắn đang cãi nhau về một project đang gặp trở ngại, không ai ngờ rằng cái tên "Ca Dao" đầy nhạc tính và đầy hương sắc quê hương của cô là nguyên nhân để hai người to tiếng.
Tận cùng thâm sâu của tư tưởng, hình như không phải là chuyện ghen tuông thường tình, không ai muốn người mình thương quý nói chuyện thân mật với một người khác phái mà đó còn là dịp để anh biểu lộ thái độ đối với hắn, một kỹ sư bản xứ, không được boss tin cậy và giao cho nhiều trách nhiệm, quyền hành như anh, từ lâu hắn vẫn thắng hoặc có những lời nói dèm pha về anh, về công việc anh đang làm. Giá mà anh là người bản xứ, thì lòng dèm pha, đố kỵ đã không xảy ra, hoặc nếu có ở một cường độ nhẹ hơn! Đó là một trong những "nổi buồn lưu vong" nhưng nổi niềm không biết than thở cùng ai!
Cho đến bây giờ, cả anh lẫn cô vẫn thắc mắc, không hiểu tại sao người đồng nghiệp rất đổi "lousy" của anh lại có thể biết đến cái tên Ca Dao của cô, và phát âm rất chính xác như một người Việt Nam. Hình như email của cô gởi đến cho anh, những cái email luôn được ký tên bằng hai chữ Ca Dao để nhắc cho người gởi lẫn người nhận những lời ru thân thương đã nuôi anh và cô thành người hữu dụng cho cả hai Tổ quốc, đôi khi anh đọc xong, quên không kịp đóng lại, hắn vào và đã đọc những email rất là riêng tư đó. Và hắn đã nhờ một người Việt Nam nào đó, "huấn luyện" cho hắn phát âm hai chữ Ca Dao rất chính xác.
Sau "tai nạn bất ngờ" đó làm hai người giận nhau ba tháng, cô quyết định viết email cho anh bằng tiếng Việt thay vì tiếng Anh như trước, để tránh mọi phiền phức xảy ra trong tương lai "Một lần vấp ngã là một lần bớt dại".
Mỗi lần gặp chuyện bất an trong đời sống, cô vẫn lên Treadmills chạy nhanh hơn, lâu hơn vì đó là cách tốt nhất để "release strees". Sau ba tháng không liên lạc với anh, cô đã chạy được từ bốn lên sáu miles mỗi giờ trên treadmills! Tốc độ của cô càng tăng cao, và thời gian trong Fitness Club càng lâu hơn khi cô mua nhà lần đầu.
Đó là cả một "huge strees" vì cô chỉ có một nguồn thu nhập duy nhất, từ tấm paycheck mỗi 2 tuần. Như một người bơi giữa biển, không có "life vest" không có phao an toàn, mạng sống tùy thuộc vào thế lực và khả năng bơi lội. Là một người rất là độc lập, cô biết mình phải bơi bằng mọi cách để tới bến bờ, phải luôn tự nhủ mình "tôi phải sống" như trong quyển truyện nổi tiếng ngày xưa của nhà văn Khái Hưng. Không một người thân nào ủng hộ cô trong quyết định "an cư". Ba mẹ cô, vẫn ở quê nhà, qua thư từ hay qua điện thoại vẫn muốn cô ở với các em, vì anh chị em nên đùm bọc, ở quanh nhau để còn giúp nhau khi "tối lửa tắt đèn". Các em cô không muốn cô ở nhà riêng, vì đời sống vốn đầy strees, sẽ càng căng thẳng hơn khi phải trả mortgage, một món nợ kéo dài ba mươi năm. Suy đi, nghĩ lại cô quyết định mua nhà rất đơn phương, vì không có ai ủng hộ kể cả anh.
Vả chăng, cô đã quen cái cảm giác "you have to stand on your own feet" kể từ mùa hè năm 88, cô rời quê nhà lao vào cuộc hành trình đầy hiểm nguy giữa đại dương một mình. Và sau đó, cũng tồn tại một mình giữa đại dương một mình. Và sau đó cũng tồn tại một mình giữa những trại tỵ nạn đầy phức tạp.
Cô đến thư viện, lục tìm sách dạy về nguyên tắc, thủ tục và những điều nên biết cho người mua nhà lần đầu. Và cô lên internet tìm lấy cho mình một realtor và một lender. Rút kinh nghiệm từ "ba tháng chia lìa" cô tìm một nữ realtor. Lần đầu gặp cô giữa mùa hè, trong quần short, giày tennis shoes và áo halter bà realtor tưởng cô chỉ là người đi theo góp ý không phải là "decision maker". Về sau, khi nhận được "pre approval paper" của ngân hàng, với đầy đủ giấy tờ chứng minh khả năng tài chánh của cô, bà realtor rất đổi ngạc nhiên. Khi biết cô mới ở Mỹ chỉ 10 năm, bà hỏi cô "Bí quyết thành công" nhớ lời anh khuyên, không bao giờ tự mãn về mình, cô không nói về mình mà không bỏ lỡ cơ hội, đưa ra lập luận kèm cả chứng minh, phản bác lại cô đào chiếu Jane Fonda thập niên 60, một trong những nguyên nhân phụ giúp làn sóng đổ tràn vào miền Nam. Cô cười buồn, kết luận:
- Bà biết không" Khi con chó bị dồn vào đường cùng, nó còn biết cắn lại. Khi con người dồn vào đường cùng, chỉ có một lựa chọn duy nhất, phải tìm đường sống trong một hành trình hiểm nguy, thì không có một khó khăn nào có thể quật ngã những người đã đến "dead end".
Mỗi thứ bảy, bà chở cô đi trong ba thành phố lân cận, ở trung tâm của Sillicon Valley, tìm coi những căn nhà nằm trong khả năng của cô và được cô tìm thấy trên một web site của thị trường địa ốc ở địa phương. "Người thầy" lớn nhất của cô trong lúc này là "web site www.ask.com".
Sau hơn 2 tháng đi xem xét gần 100 căn nhà trên thị trường, cô quyết định mua một căn condo minium nhỏ, nằm trong một khu vực yên tỉnh, có cổng vào, đủ hai tiêu chuẩn an ninh, và thơ mộng, một kiểu thơ mộng của các thành phố châu Âu. Và quan trọng hơn hết, nhà nằm trong khả năng tài chánh của cô, và mức độ Ngân hàng cho cô vay tiền.
Không may, căn condo ở một góc nhỏ-end unit có một khung cảnh "Đà Lạt rừng thông" từ cửa sổ phòng khách, có tiếng rì rào của thác nước nhân tạo, như tiếng sóng biển của Nha Trang, từ cửa sổ phòng ngủ và có mùi dạ lý hương thơm lừng trên lối vào nhà, cũng "lọt vào mắt xanh" của nhiều người khác. Cô ở vào số hai của waiting list, lòng thầm nghĩ mình đã để mất một cơ hội hiếm có. Tuy vậy, cô cũng bỏ ra hai mươi phút ngồi điền đủ toàn bộ hồ sơ phức tạp của việc mua nhà. Bởi vì, nếu mua không được, cũng là một dịp để thực tập một khía cạnh phức tạp của đời sống Hoa Kỳ.
Hai tuần sau cuộc "khảo sát nhà cửa" tạm dừng, cô đang cắm đồ cắm cổ lao vào một project mới ở sở, thình lình bà realtor xuất hiện ở lobby của nơi cô làm, yêu cầu cô deposit 5% vì những người trước cô đã bỏ cuộc. Từ đó, hình như cô bắt đầu tin hơn ở định mệnh.
Đến lúc đó, bà realtor mới bày tỏ sự hài lòng khi làm việc với cô, vì thông thường khi một căn nhà được quyết định mua, có rất nhiều ý kiến. Trong trường hợp này, chỉ có mỗi mình cô trông rất là tự tin và cũng rất là tội nghiệp. Cô tin ở khả năng của mình, cô tin ở "phước nhà" như lúc sinh thời, bà nội vẫn thường nhắc đến cô. Và cô cũng tin ở anh, ở các em cô, ở lời cầu nguyện tự tận lòng thành của mẹ vẫn dành cho chị em cô mỗi đêm.
Mấy ngày trước khi "closing escrow" một sáng thứ bảy, cô cùng bà realtor đến thăm "căn nhà tương lai" của cô và để gặp người chủ nhà đang chuẩn bị dọn nhà qua Sugar Land, Texas. Một lần nữa, hai vợ chồng chủ nhà tưởng là sẽ có "một phái đoàn" đến thăm, nào ngờ chỉ có một mình cô, rất nhỏ nhoi, tội nghiệp.
Theo lời anh khuyên, cô mang theo một cái máy sấy tóc, đi khắp các ổ
cắm điện trong nhà, gắn vào, để chắc chắn hệ thống điện chìm trong vách tường vẫn hoạt động bình thường. Cô cũng mở và đóng tất cả các vòi nước trong nhà, để chắc chắn hệ thống nước hoạt động tốt, không bị rò rỉ. Khi thấy cô ngẩn ngơ ngắm những cây cảnh bày trước balcony, bà chủ nhà bỗng có cảm tình với cô, vì bà cũng là một người rất yêu cây cỏ.
Hai vợ chồng rất thích căn condominium, nhưng phải bán đi, vì tình hình công việc, họ phải dọn về Sugar Land để có một "living cost" thấp hơn họ có nhiều tiền hơn để du lịch và quỹ về hưu sau này của họ sẽ tăng cao như ý họ muốn.
Nhìn tấm lòng của họ đối với căn nhà, nhìn cách họ giữ gìn căn nhà, cô đề nghị để họ có thể ở lại lâu hơn một tuần, hay mười ngày mà không phải trả cho cô thêm một đồng nào "Bánh ít cho đi" cô có được "Bánh quy trở lại" trong vòng một tuần sau đó. Hôm cô nhận chìa khóa và mở cửa vào nhà cô có nhiều món quà bất ngờ:
- Một bình hoa hướng dương rực rỡ từ bà realtor, với tấm thiệp chúc mừng và cám ơn về hai tháng làm việc với bà, cô là một khách hàng rất cương quyết mà cũng rất dễ thương của bà.
- Mấy cây bông giấy ở balcony còn đó, bà chủ nhà bỏ lại cho cô, khi thấy cô ngẩn người ngắm mấy cây bông mộc mạc này, một bức tranh tỉnh vật rất đẹp ở phòng khách, một bộ bàn ghế nhỏ bày ở balcony, và một lồng chim có một con chim nhỏ vẫn ríu rít hót trong lồng.
Sau cùng là một cái thư rất Mỹ và cũng rất chân tình do cả hai vợ chồng cùng viết. Ông chủ nhà để lại mấy dòng, chỉ dẫn cho cô về hệ thống điện nước, intercom, remote control ở cổng vào, cổng ra, bà chủ nhà viết mấy lời chúc mừng cô, và chỉ dẫn cho cô cách chăm sóc mấy cây bông giấy, cách chăm sóc con chim nhỏ.
Cô lặng người đi, cảm động trước tấm lòng của những người da trắng "đồng bào mới của cô" và cô quyết định trả con chim nhỏ đang nhảy nhót trong lồng, về với trời xanh. Cô cũng đã mất tự do, cô đã đọc truyện "Chim hót trong lồng" của nhà văn Nhật Tiến, cô hiểu tự do quý mến dường nào đối với cả người lẫn thú. Cô còn cẩn thận để thêm nhiều "bird seeds" trong cái lồng trống cửa để mở, để nếu chẳng may chưa quen với việc tự kiếm ăn trong bầu trời đầy tự do, nhưng cũng rất nhiều bất trắc, chim có thể về tổ ấm kiếm ăn trong bất cứ lúc nào. Sau đó, con chim nhỏ chỉ bay trở về một lần duy nhất rồi biến mất trong bầu trời tự do, thênh thang rộng mở. Cô đóng cửa lồng lại và vẫn treo trước balcony, như một nhắc nhở về lòng tốt của những người bản xứ dành cho cô, cũng như về cái giá tự do mà con chim nhỏ, và ngay cả chính cô, cùng hơn hai triệu đồng bào đang lưu lạc ở khắp nơi trên thế giới phải trả.
Và như vậy, cô đã sống trong vòng rào kín cổng cao tường, rất bình yên trong căn condominium ở cuối dãy, rất yên tỉnh, rất an toàn và cũng đầy hương vị quê hương: rừng thông của Dalat, sóng biển của Nha Trang. Hàng xóm của cô rất dễ thương, họ vẫn chào hỏi cô rất vui vẻ mỗi khi chạm mặt nhau ở basement parking, trong guest house, ở phòng tập thể dục hay ở hồ bơi, nhưng không ai hỏi một điều gì về đời sống cá nhân. Bởi vì nếu không lo cho nhau được, thì thắc mắc về đời sống của nhau để làm gì" Đó là lối sống rất Hoa Kỳ mà cô yêu thích vô cùng.
Đời sống của cô đã bén rễ vững chắc ở quê người, nhưng quê nhà vẫn còn đó, trong cô mãi mãi không nhòa.
NGUYỄN TRẦN DIỆU HƯƠNG
Đường Chúng Ta Đi
Một ngày đầu tháng 5, giữa sáu Email từ công việc và hơn mười junk mail, tôi nhận được thông báo họp mặt cựu học sinh của trường trung học NQ, ngôi trường chứng kiến tôi, cùng "vận nước nổi trôi" bước từ tuổi ấu thơ vào thời người lớn, mà không hề có thời niên thiếu.
Thời học sinh bao giờ cũng là thời đẹp nhất đời người, vì đó là cái tuổi không có bon chen, chưa phải trả "nợ áo cơm". Học sinh trung học ở Mỹ thường có "High School Reunion" sau mỗi năm năm hay mười năm của ngày ra trường, nhận mảnh bằng đầu tiên trong đời. Thông thường chỉ những người tương đối thành công trở về tham dự ngày họp mặt, thường được tổ chức ở một Conference Room của một khách sạn sang trọng, có "self service food" có "Dancing floor". Ngoài những học sinh ra trường cùng ngày, còn có vợ (chồng) hay bạn thân của họ đi theo. Họ thường cùng một lứa tuổi. Rất nhiều người đã rời "High School Reunion" với nổi buồn thua thiệt vì "ngày xưa nó học dở hơn mình nhiều, mà bây giờ nó thành công, và giàu hơn mình nhiều." Cũng không thiếu những người rời cuộc họp mặt với nổi thất vọng ê chề, vì "người xưa thần tượng một thời đẹp đẽ, tươi mát, "sexy" là thế, bây giờ than ôi "tươi mát" đã thành "cằn cỗi" "đẹp đẽ" đã trở thành "khó coi", "sexy" đã thành "overweight".
Họp mặt của cựu học sinh Trung Học Việt Nam ở Mỹ khác với "High School Reunion" của học sinh trung học Mỹ rất nhiều. "Bên đời lưu lạc", muốn tìm lại đủ những người ra trường cùng năm với mình, chắc là đếm không đủ đầu ngón tay, thế nên cựu học sinh trường trung học ở VN thường phổ biến một thư mời trên báo chí, hay trên các đài truyền thanh Việt ngữ, và thành phần tham dự đủ mọi lứa tuổi, đôi lúc cựu học sinh còn già hơn cựu giáo sư. Nhưng mỗi người có thiện chí đến với cuộc họp mặt đều vui vẻ, mặc dù khoảng cách tuổi tác giữa họ đôi lúc bằng hai thế hệ.
Với những anh chị lớp lớn, ngày họ tốt nghiệp trung học, tôi chưa ra đời, hình như họ vẫn trẻ lại, hồn nhiên như thời mới lớn khi trở về họp mặt. Thầy và trò đều bạc tóc như nhau, tóc bạc của thầy do năm tháng. Tóc bạc của trò phần nhiều là do stress của đời sống Hoa Kỳ. Đôi lúc tôi không biết ai là trò và ai là thầy, đành cuối đầu khoanh tay chào họ một cách cung kính như đã chào các thầy cô giáo thời nhỏ dại.
Tôi không phải là "Party Animal" lại càng không phải là một người có "tâm hồn ăn uống" nhưng tôi vẫn thích đến họp mặt với cựu học sinh trường trung học cũ của mình vì muốn hiểu thêm về đời sống qua những thế hệ lưu vong.
Trường tôi là ngôi trường lớn nhất miền Đông Nam phần ở một tỉnh lỵ nhỏ cách Saigon khoảng 20 miles về hướng Đông Bắc, nữ học sinh học buổi sáng, nam học sinh buổi chiều, trừ những lớp lớn, vì phải chia ban A, B hay C, các anh chị học chung.
Ở mỗi cuộc họp mặt, tôi vẫn thường ngồi yên ở một góc phòng quan sát và nghe ngóng để hiểu thêm về đời sống của người Việt lưu vong. Tôi chỉ học ở trường Ngô Quyền có vài năm đầu trung học, rồi phải chuyển về một trường khác sau cuộc đổi đời năm 75, nên tôi không nghĩ là mình gặp được những cô bạn thân đã một thời "như chim liền cánh, như cây liền cành" của thời mới lớn.
Ở đó, tôi không gặp được các bạn cùng lớp ngày xưa, nhưng đã gặp đủ các "thế hệ lưu vong" nghĩa là đã được gặp và nghe chuyện của những người di tản hối hả chạy trốn làn sóng đỏ, những người vượt biển "thoát thì con nuôi ba má, không thoát thì con nuôi cá, hay mẹ nuôi con", những người lên đàng hoàng theo chương trình ODP "ra đi trong trật tự" nhưng không được chuẩn bị tinh thần từ những khóa "cultule orientation" ở trại chuyển tiếp, chỉ còn những cơ hội muộn màng.
Ở những cuộc họp mặt cựu học sinh trung học đó, tôi đã gặp lại những người bạn hàng xóm trong cứ xá ngày xưa, học trên tôi một vài lớp và được nghe những vui buồn "bên đời lưu lạc". Ngày xưa chúng tôi cùng ở một tỉnh lỵ nhỏ, cả tỉnh chỉ có một trường trung học công lập, nên cứ vào trung học là chúng tôi học cùng trường với nhau.
Từ Washington, anh Sinh bay về họp mặt, trông anh rất yêu đời, trẻ hơn tuổi rất nhiều, không ai có thể ngờ được những thăng trầm anh đã trãi qua kể từ ngày đặt chân đến Guam tháng 4/75.
Sau ngày mất nước, tôi chỉ mơ hồ biết là gia đình anh đã ra đi, nhưng không ngờ ba anh một trong những sĩ quan chỉ huy của trường Bộ Binh Thủ Đức, đã kẹt lại, và phải trả giá bằng 13 năm tù đày trong các trại cải tạo của VC từ Bắc vào Nam.
Anh Sinh đến Mỹ ở tuổi 15 với gánh nặng oằn vai, vì anh là người con cả trong gia đình, với 3 em còn nhỏ dại và mẹ anh, lúc đó chỉ mới ngoài 30, chưa bao giờ phải đi làm. Gánh nặng của "người chủ gia đình" đặt lên vai anh chưa đủ, trái tim anh một nữa để lại VN theo hình bóng người cha đang phải chịu nhục hình dành cho kẻ thua trận, và một nữa vương vấn theo mối tình đầu của thời mới lớn, chị Thanh, người yêu đầu đời của anh, cũng qua Mỹ kịp theo người anh là phi công.
May mắn là vốn liếng anh ngữ của anh Sinh tạm đủ để anh hội nhập ngay được vào đời sống xứ người. Từ Guam, gia đình anh được chuyển đến Camp Pendleton ở miền nam CA, và sau đó được gia đình một người bảo trợ đưa về Washington. Mẹ anh, một người đàn bà đẹp, lúc đó chỉ mới ngoài 30, như một cây cảnh yếu mềm bị bứng đi, nhưng đã lập tức vững vàng như một con gà mái xù cánh che chở cho đàn gà con.
Cả gia đình năm người ở trong một căn apartment, hai phòng vẫn còn thấy rộng thênh thang, vì không có đồ đạc gì ngoài bộ bàn ghế cũ vừa làm bàn ăn, bàn học, bàn tiếp khách. Mẹ anh đã làm tất cả mọi thứ bà có thể làm để giữ vững đời sống bình thường cho các con. Ban ngày, bà nấu ăn cho một Day care Center, ban đêm và cuối tuần bà nhận đồ về may, vừa nuôi con ở Mỹ, vừa nuôi chồng trong tù ở VN. Không hiểu nổi vất vả của mẹ anh Sinh ở cuối thế kỷ 20 và nổi vất vả của bà Tú Xương ở đầu thế kỷ, nổi vất vả nào đẫm nhiều nước mắt hơn"
Bỏ ngoài tai rất nhiều lời ong bướm, mẹ anh Sinh với sự giúp đỡ tận lực của anh đã hoàn tất chu đáo bổn phận của một người mẹ và người vợ. Ở quê nhà, trong núi rừng âm u đầy chướng khí của trại cải tạo, ba anh vẫn nhận được đầy đủ quà thăm nuôi qua một người thân, từ nguồn tiếp tế của người vợ. Mười lăm năm sau, ba anh trở về và được qua Mỹ theo chương trình H.O, vẫn còn được đền bù, vì với riêng ông "Nước mất" bầy con đã thành tài. Mỗi ngày, ông vẫn hát bài "Ơn em" như một lời cám ơn dành cho người vợ, một trong những bà Tú Xương vĩ đại nhất của cuối thế kỷ 20.
Sau ba năm Trung học ở Mỹ, anh Sinh vào trường đại học Washington và trở thành một thầy giáo. Giữa những tất bật, lo toan cùng mẹ, trở thành người chủ gia đình thay cho ba ở tuổi mười lăm, anh vẫn không quên chị Thanh. Bằng một tìm kiếm không mỏi mệt qua các hội thiện nguyện, anh tìm được chị Thanh vào đầu năm 1980.
Lúc đó vẫn là một sinh viên nghèo, anh đã lái chiếc xe rất cũ, cao hơn cả tuổi anh lúc đó, từ miền Tây Bắc qua miền Đông Nam, một cuộc hành trình xuyên qua nhiều tiểu bang để được gặp lại chị Thanh. Hai người đã gặp lại nhau sau những năm chia lìa, nhưng buồn thay họ không có một Happy ending như mơ ước. Hình như tình đầu vẫn luôn là "Một chút gì để nhớ", để làm tâm hồn an nhiên hơn trong những tất bật, bon chen của đời sống.
Thời gian vẫn là liều thuốc nhiệm màu, hàn gắn mọi đau buồn. Xong 4 năm đại học, các em tạm ổn định, để quên đi mối tình đầu mang theo từ bên kia bờ đại dương của một thời mới lớn, anh Sinh học tiếp hai năm nữa với master degree về ngành giáo dục, và lập gia đình với một người bạn cùng học ở UW, mà hình như không nhìn cùng một hướng. Hai vợ chồng cũng đã có 12 năm cùng chia xẻ mọi vui buồn, cùng hài lòng với thành quả vật chất bằng nhiều năm đi làm của họ. Riêng anh Sinh, căn nhà rộng gần 4000 sqft, với green house trong nhà, hình như lạnh lẽo hơn căn apartment hai phòng của mấy mẹ con anh từ ngày mới tới Mỹ, vì thiếu tiếng cười của trẻ thơ, thiếu sự cảm thông khi anh phải đối đầu với những stress ở trường. Hình như hơn mười năm qua, hai vợ chồng vẫn luôn "đồng sàng di mộng" hình như anh có tiếng đàn của Bá Nha, mà chị không phải là Tử Kỳ. Sau gần ba mươi năm lưu vong, anh Sinh rất thành công về sự nghiệp và đời sống vật chất, nhưng buồn thay đời sống tình cảm của anh trở về khởi điểm zero. Anh vẫn thường thắc mắc với ba anh:
- Tại sao ngày xưa ba tìm được mẹ" Và điều gì đã làm một người đàn bà đẹp như mẹ có một lòng son sắt chung thủy với ba"
Câu hỏi đó không bao giờ được trả lời thỏa đáng vì hai hoàn cảnh xã hội khác xa nhau. Cũng như trái thanh long chỉ có thể lớn trên đất cát, cây thông chỉ có thể tươi mát trên vùng đất có khí hậu lạnh.
Đó là tất cả những gì chúng tôi được nghe kể lại khi gặp người bạn lớn cùng trường ngày xưa, ở cùng cư xá, qua Mỹ từ một ngày cuối tháng tư rất buồn của đất nước. Tôi không được nghe giải thích từ chị để hiểu thêm về một điều rất dễ xảy ra ở Mỹ: chuyện ly dị. Tôi không dám có kết luận vì rất là phiến diện nếu chỉ căn cứ trên lý luận từ một phía.
Mới đây, trong một business trip ở Seattle, tôi được anh đưa qua Vancouver BC, Canada để ăn trái cây nhiệt đới và quan trọng hơn hết để nhớ lại thời thơ dại, anh chở tôi trên chiếc xe đạp mini màu đỏ đến cô nhi viện ở núi Châu Thới Biên Hòa thăm các em bé mồ côi.
Chiếc xe đạp mini màu đỏ ngày xưa không bằng một góc của chiếc BMW convertible màu đỏ bây giờ, nhưng hẳn là thời thơ dại ngày xưa trên quê nhà quý giá gấp vạn lần thời trung niên lưu vong trên quê người.
Học cùng lớp với anh Sinh ngày xưa ở trường Ngô Quyền thân yêu của chúng tôi là chị Duyên.
Như tất cả mọi ông Bố trong cư xá sĩ quan ngày đó, Ba chị Duyên cũng phải chịu cảnh "cùng một lứa bên trời lận đận" đập đá ở "cổng trời" miền Bắc, trồng cà phê ở đất đỏ miền Nam trong môi trường nghiệt ngã dành cho những người đã một thời chiến đấu để bảo vệ tự do.
Có ba đi "học tập cải tạo, có nợ máu với nhân dân" bị xếp vào thành phần cuối cùng của "xã hội chủ nghĩa" đứng dưới cả những người hành nghề đâm thuê chém mướn, chị Duyên rời Việt Nam vào đầu thập niên 80. Từ Mã Lai, chị đến Michigan giữa tháng 12 đầy tuyết trắng. Tấm postcard đầu tiên chị gởi về cho tôi có một câu trích dẫn là làm tôi chùng lòng trong những ngày vượt biển "hãy tưởng tượng ra em ở một nơi xa lạ, mình em một màu mắt, mình em một màu da, mình em mắt lệ nhòa…"
Những ngày đó chị đã trải qua nhiều nghề để sống còn, như người Mỹ vẫn gọi "survival jobs" chiên French Fries cho Mc Donald, bưng thức ăn ở "Denny's". Do vậy, sau này mỗi khi đi ăn, chị vẫn để lại một khoản tiền tip hậu hĩnh cho những cô cậu waiter, waitress. Khi học xong Drafting design ở Michigan, chị lập gia đình với một sĩ quan hải quân trẻ ngày xưa, mà những tháng mặc đồng phục màu trắng của anh đếm chưa đủ mười đầu ngón tay. Đám cưới của hai anh chị rất nghèo, dù đầy tình nghĩa, đàng trai và đàng gái đều là những sĩ quan hải quân học trên anh vài khóa.
Lúc đó những năm tháng đầu tiên chân ướt chân ráo nơi quê người, cô em kế của chị Duyên không đủ tiền để mua vé máy bay từ Michigan về California dự đám cưới của chị. Hai vợ chồng trẻ có một tuần trăng mật đầy hạnh phúc và đầy…mồ hôi dọc theo chiều dài của California, từ San Deigo đến San Francisco.
Lúc đó trang sử người Việt tỵ nạn ở Mỹ mới ở chương đầu tiên, tất cả mọi người đều nghèo. Quà cưới của các bạn anh dành cho anh chị là một chiếc xe Volvo có một số tuổi bằng tuổi anh và chị cộng lại, mỗi lần start up, phải có một người nhảy xuống đẩy xe, giúp xe chạy được. Vậy mà, họ rất hạnh phúc, vì khi một người nói thì có một người biết lắng nghe, và hiểu rõ những vui buồn người bạn đời muốn chia xẻ.
Rồi năm tháng trôi qua, với nhiều cố gắng từ hai bàn tay trắng, anh chị đã có một cơ ngơi ổn định hạnh phúc ở chân đồi của một thành phố nhỏ ở miền Nam Cali, cùng hai con thông thạo cả hai ngôn ngữ của hai quê hương. Mỗi lần "Nam du" nhà chị vẫn là một tổ ấm thứ hai của tôi. Ở đó, tôi thấy được cả một thời thơ dại hạnh phúc, chơi đánh thẻ với chị Duyên, chơi bắn bi với anh Sinh. Ở đó, trong khoảng sân sau nhà chị, tôi tìm lại được giàn hoa giấy màu đỏ mang lại hình ảnh hạnh phúc trong cư xá thân yêu của chúng tôi thời thơ ấu.
Cũng ở một lần họp mặt của cựu học sinh Ngô Quyền, tôi gặp lại Thi, người bạn học ở lớp bên cạnh. Khác với chúng tôi, đã rời đất nước lén lút trong một đêm tối trời ven biển, trên một chiếc thuyền mong manh. Thi rời Saigon, từ phi trường Tân Sơn nhất có đủ người thân đưa tiển, theo chương trình ODP.
Khi Thi đến Mỹ, thì cộng đồng VN ở Mỹ đã hình thành khá lớn mạnh, ít nhất là những thành phố quân tụ người Việt tỵ nạn như: Orange County ở miền Nam, San Jose ở miền Bắc California, Houston ở Texas, Falls Church ở Virginia, New Orleans ở Lousiana. Người đi sau vẫn thường bị thiệt thòi vì "trâu chậm phải uống nước đục" cơ hội đã không còn nhiều như trước, nhưng rút ra được kinh nghiệm từ những thành công và cả thất bại của người đi trước.
Một tối về nhà hơi trễ vì một project không thể bị bỏ dỡ dang, chưa kịp ăn tối, tôi nhận được điện thoại của Thi. Thoạt đầu, đầu óc còn vương vấn với những con số ở sở, tôi không nhận ra Thi, nhưng ký ức của tôi refresh nhanh chóng khi Thi nhắc lại niên khóa 74-75, niên khóa cuối cùng tôi còn đi hoc với đầy đủ cơm ăn, áo mặc và sự vô tư của một đứa trẻ chưa kịp lớn.
Chúng tôi có gần 120 phút trên đường dây điện thoại đường dài để cùng nhắc lại thời… chưa kịp lớn. Đó là lần đầu tiên chúng tôi nói chuyện với nhau sau 27 năm. Đời sống đã có nhiều ngả rẻ sau một ngày cuối tháng 4 không thể nào quên, nhưng chúng tôi vẫn cảm thấy mình rất gần nhau như ngày xưa chỉ ngồi cách nhau có mấy dãy bàn, bởi vì chúng tôi đều nhận ra rằng: chúng tôi là những người không bao giờ có thời niên thiếu, khi chúng tôi chưa kịp lớn thì làn sóng đỏ tràn vào Nam Việt cuốn trôi tất cả mọi thứ, tự do, ước mơ, hy vọng và cả thời mới lớn của chúng tôi, đẩây chúng tôi lưu vong nơi quê người.
Thi tương đối thành công trong sự nghiệp với tiệm Beauty Salon khá phát đạt ở một thành phố ven biển miền Nam CA. Đặc biệt, Thi còn tiếp tục được một lối sống rất là VN vì Thi may mắn có mẹ ở cùng nhà, bà cụ còn khỏe, rất thương con, cháu đã lo gia đình Thi từng miếng ăn, thức uống giống như ở quê nhà.
Tôi đến nhà Thi và được bà cụ cho một ít ớt đỏ tươi bầm rất ngon, mang về nhà tôi vẫn để dành không dám ăn vì tôi biết mình không có thì giờ để làm được như vậy, và tôi trân trọng tình cảm của mẹ bạn dành cho mình.
Chồng Thi làm ở một thành phố khác, cách nơi Thi ở 2 tiếng lái xe, anh chỉ về nhà mỗi cuối tuần, đủ để có một khoảng không gian nhỏ, anh có thể đặt ống kính viễn vọng nhìn trăng, nhìn sao và đủ để nếm mùi hạnh phúc với Thi và cô con gái nhỏ.
Học được thói quen Hoa Kỳ, tôi không dám hỏi bất cứ điều gì về đời sống cá nhân, nhưng gần mười lăm năm ở Mỹ, bằng quan sát và phân tích tôi hiểu được phần nào đời sống riêng của mỗi người bạn ngày xưa. Và hơn ai hết, tôi hiểu để có được ngày hôm nay, cũng như tôi, cũng như bao nhiêu người Việt nam khác đến Mỹ với một túi xách nylon của UNHCR, Cao Ủy tỵ nạn LHQ, các bạn tôi đã rất vất vả trong quá khứ, đã phải ngoảnh mặt trước những cám dỗ vật chất, thường tình trong một giai đoạn nào đó của đời sống ở quê hương thứ hai.
Chúng tôi may mắn gặp lại nhau sau một phần tư thế kỷ, trong khi nhiều thầy cô và bạn bè khác đã vĩnh viễn nằm xuống ở một góc rừng heo hút của trại cải tạo, vùng kinh tế mới của Việt nam, hay ở một góc nhỏ của biển Đông. Và chúng tôi vẫn còn bị chia lìa với rất nhiều bạn bè thân thương khác, bị chia lìa với chính quê hương mình, như một câu hát "Ru em giòng lệ quê hương, chảy xuôi trăm ngả, trùng dương chia lìa".
Trong mỗi khoảng đời riêng, chúng tôi cùng có một khoảng đời chung thời nhỏ dại, rất bình yên hạnh phúc ở Việt Nam. Bằng nhiều con đường khác nhau, chúng tôi đã cũng được hít thở tự do, và xây dựng được cơ ngơi riêng ở quê người.
Cầu mong chúng tôi, hay thế hệ kế tiếp của chúng tôi sẽ xây dựng được cơ ngơi chung ở quê nhà, có tự do, có cơ hội và có đủ cơm ăn áo mặc cho hơn 70 triệu đồng bào ở bên kia bờ đại dương.
Nguyễn Trần Diệu Hương.
Santa Clara, July 2002
Viết cho trường Trung Học Ngô Quyền Biên Hòa cho anh chị Xuân Dung-anh Sơn và những ngày xưa thân ái, và như món quà tinh thần đầu tiên cho anh NĐT.
Đời Sống Hai Chiều
Tháng 10 đầu mùa thu ở Mỹ, ngày ngắn lại, bầu trời xám ngắt của mùa thu không ngăn được nỗi hân hoan của chúng tôi khi đón Ba Mẹ từ Việt Nam đến Mỹ thăm chúng tôi vài tháng.
Đây là lần đầu tiên mẹ đến Mỹ, nhưng ba đã đến đây từ thập niên 60, khi ba còn là một sĩ quan trẻ của quân lực VNCH tham dự khóa huấn luyện tham mưu cao cấp ở Camp Fort Benning, tiểu bang Georgia.
Hồi đó, ba mẹ mới lấy nhau, và chỉ có anh cả của chúng tôi ra đời. Hồi đó, theo lời ba kể, nước Mỹ vẫn còn một khoảng cách lớn giữa người da trắng và người da đen. Đó đây, trong những chuyến đón xe bus chạy khắp nẻo đường đất nước, người da đen rất nhẫn nhục và cam chịu, chỉ được ngồi ở nửa phần sau của xe bus, những hàng ghế đầu chỉ dành riêng cho người da trắng. Những bạn Mỹ cùng học với ba ở trung tâm Fort Benning còn khuyên ba không nên giao tiếp với người da đen. Hồi đó, ba và bác M mỗi cuối tuần đi chơi, trú ngụ trong Holiday Inn chỉ phải trả có 4 dollars mỗi ngày.
Bây giờ, gần 40 năm sau, nước Mỹ đón ba mẹ với nhiều đổi thay và tiến bộ, tiến bộ lớn nhất là không có một khoảng không gian phân đôi giữa những người Mỹ gốc Âu Châu, và những người Mỹ gốc Phi Châu. Khoảng cách đó vẫn còn, nhưng chỉ còn trong tâm tưởng. Đó là điều đương nhiên không thể tránh khỏi, vì con quạ bao giờ cũng lạc loài giữa bầy bồ câu trắng. Nhưng ít nhất, cơ hội đã mở ra cho tất cả mọi người, và không có những dấu hiệu phân chia rất đáng buồn của ngày xưa. Trên những cánh đồng màu mỡ của nước Mỹ, tất cả mọi loài chim quạ, bồ câu, se sẻ, chích chòe…đều có thể đến nhặt thóc, kiếm ăn đồng đều như nhau. Cuối ngày kiếm ăn, mỗi loài chim dĩ nhiên bay về tổ riêng của mình, ở đó sau cánh cửa đóng lại, trong khoảng trời riêng, có những tập quán và thói quen riêng cho mỗi loài chim.
Và chúng tôi đón ba mẹ với lòng hân hoan như nỗi vui được mảnh áo mới của thời thơ dại. Đó là tháng mười năm 2001, chỉ hai tuần sau ngày nước Mỹ bị quân khủng bố tấn công, cả thành phố Nữu Ước chìm trong lửa và nước mắt. Cho nên thủ tục hải quan kéo dài gấp mười lần thông lệ. Và chúng tôi không được đón ba mẹ ở bên trong, mà phải chờ ba mẹ ở bên ngoài Security check point.
Kỹ nghệ hàng không của cả thế giới bị ảnh hưởng nặng nề khi nước Mỹ, người khổng lồ của thế giới bị tấn công, các chuyến bay bị dồn lại, để giảm chi phí. Tôi đã phải gọi điện thoại cho văn phòng của Eva Airline ở Mỹ, chắc chắn là ba mẹ không bị bỏ lại ở phi trường Đài Bắc lâu hơn, do việc dồn chuyến bay. Đầu dây bên kia là một giọng nói tiếng Mỹ âm hưởng Đài Loan:
- Tôi có thể giúp gì được cho bạn"
Tôi đưa tên ba mẹ ra, và muốn chắc chắn là ba mẹ có tên trên chuyến bay từ Đài Bắc qua San Francisco như thời khóa biểu, và không bị gạt lại vì bất cứ lý do nào.
Nhân viên Eva cho biết danh sách đã lên nhưng nếu giờ chót có gì thay đổi, ba mẹ phải đi chuyến bay kế đó, trễ hơn bốn tiếng đồng hồ sau. Tôi không nén nổi kiên nhẫn, bắt đầu thực hành thói quen Hoa Kỳ "Khách hàng là vua" quát lên:
- Ba mẹ tôi ngoài 65, nếu Eva gạt ba mẹ tôi ra khỏi chuyến bay chính thức, Eva sẽ phải trả giá rất đắt cho chuyện này. Tôi sẽ gởi email cho khắp các potential clients của Eva, báo cho họ biết là lề lối làm việc này. Và khỏi phải nói, business của Eva sẽ bị ảnh hưởng như thế nào"
Qua đường dây điện thoại, tôi vẫn cảm nhận được sự bối rối của nhân viên Eva. Cô ta xin số điện thoại của tôi, và hứa sẽ gọi lại sau khi làm việc với văn phòng Eva ở Đài Bắc.
Nửa giờ sau, một nhân viên Eva khác gọi lại, với tiếng Mỹ nhẹ nhàng hơn, không quá nặng nề âm hưởng tiếng mẹ đẻ, cho tôi biết mọi việc được thu xếp ổn thỏa, ba mẹ sẽ được boarding đầu tiên trong chuyến bay đúng thời khóa biểu.
Thật ra trình độ anh ngữ của mẹ hơi bị hạn chế, nhưng trình độ tiếng Mỹ của ba dư thừa để đối đáp với nhân viên phi trường khi có trục trặc, nhưng chúng tôi vẫn lo.
Cuối cùng ba mẹ đến Mỹ đúng như thời khóa biểu, không gặp trở ngại nào trong thủ tục hải quan. Nhưng nhân viên phi trường San Francisco còn rất ngạc nhiên khi thấy một ông già á châu tóc bạc trắng, mang thông hành Việt Nam, nói tiếng Mỹ rất thông thạo, không cần thông dịch viên.
Thời gian ba mẹ lưu trú ở Mỹ là một khoảng thời gian rất hạnh phúc, tuy rất bận rộn của chúng tôi. Điện thoại reo liên tục, những người bạn của ba từ một "thời chinh chiến bảo vệ tự do" cả Việt lẫn Mỹ, những người bạn của mẹ từ một thời áo trắng Đồng Khánh liên tục thăm hỏi ba mẹ, làm chúng tôi càng thấm thía câu ngạn ngữ "Tình bạn như rượu chát, càng cổ xưa càng dịu ngọt" mặc dù không một đứa nào trong lũ con của ba mẹ đụng đến bia, rượu.
Cảm động nhất là tình thân của ba với bác DKL. Bác và ba cùng làm ở bộ tổng tham mưu trong những năm cuối cùng trước ngày mất nước. Bác luôn là cố vấn cho ba trong những vấn đề quân pháp, vì ngoài quân hàm của quân đội VNCH, bác còn là một luật sư. Trong những ngày cuối tháng tư đầy hoảng loạn, bác đưa kịp gia đình di tản. Khỏi phải nói đến vất vả của bác những ngày đầu đến Mỹ, như bao nhiều "người di tản buồn" khác, bác đã làm việc và cố gắng không ngừng để đưa đàn con nhỏ tới một trình độ khả dĩ của giai cấp trung lưu của Mỹ như hiện tại.
Khi con đò cuối cùng tới bến (người con út xong đại học), ông lái đò thư thả hơn, nhưng không gác mái. Bác bắt đầu nghĩ đến tình "huynh đệ chi binh" bằng một cố gắng không mỏi mệt, bác đã tìm ba bằng đủ mọi cách. Trước tiên bác viết thư về dò hỏi những người sống gần cư xá nơi gia đình chúng tôi cư ngụ đến tháng 4/75. Dĩ nhiên cố gắng này chỉ có "thư đi mà không có thư về" bác liên lạc với những người bạn đồng ngũ ngày xưa, dò hỏi bằng mọi cách mặc dù trong rất nhiều năm dài, bác đã phải chịu cảnh "tìm ai như thể tìm chim, chim bay biển Bắc, anh tìm biển Nam".
Một lần nào đó, qua tin từ một người bạn chung của ba và bác, bác biết được chúng tôi, các con của ba mẹ đã đến Mỹ như những thuyền nhân, và đang ở California. Từ Pennsylvia của miền Đông nước Mỹ, bác đã đến thư viện lấy "white book" của CA, tìm họ Nguyễn (một cái họ chung của hơn một nửa dân số VN) và tên của chúng tôi. Mỗi cuối tuần, bác lần lượt gọi điện thoại và tốn rất nhiều thì giờ và tiền bạc để tìm chúng tôi, nhưng vẫn không có kết quả, vì hồi đó (và mãi cho đến bây giờ) tôi vẫn trả mỗi tháng thêm 30 cents để tên mình không bị list trên niên giám điện thoại. Mỗi cuối tuần sau năm ngày làm công chức cho chính phủ từ năm 1975, người bạn già chân thành, đầy tình nghĩa của ba nhẫn nại ngồi bên điện thoại gọi từng người trùng tên với anh chị em của chúng tôi ở CA để tìm lại được ba tôi.
Bao cố gắng của bác đã không mang lại một kết quả cụ thể nào, kể cả việc bác đã nhờ một tổ chức tìm người ở Mỹ truy tìm chúng tôi, nhưng vẫn chưa có kết quả. Bác vẫn không đầu hàng, nhờ một người bạn khác, bạn của cả bác và ba, vừa đến Mỹ theo diện H.O số 1, có con học cùng lớp chúng tôi ngày xưa ở tỉnh lỵ Biên Hòa, bác tìm lại được chúng tôi. Lúc đó, chúng tôi đã tạm thời ổn định, đã học hành xong xuôi, bác không còn phải giúp đỡ chúng tôi, hay giúp đỡ ba, người bạn già đáng kính của ba quay về giúp đỡ những gia đình thương binh VNCH còn ở Việt Nam. Và bác với ba làm thành một cầu nối tình nghĩa, chuyển tiền về giúp những gia đình thương binh VNCH vẫn còn sống lầm than trên quê hương mình. Với chúng tôi, những đứa con phải xa cha mẹ, sống tự lập còn trong lúc tuổi vị thành niên, bác trở thành một "cố vấn tối cao" mỗi khi chúng tôi có những "trăn trở" trong đời sống. Kinh nghiệm, kiến thức và tình thân của bác đối với ba làm chúng tôi kính trọng và yêu thương bác như một người cha thứ hai, mặc dù chúng tôi chỉ mới gặp được bác và gia đình, một gia đình rất thành công và hạnh phúc, một lần duy nhất ở CA.
Ngày ba đến Mỹ, bác xin nghỉ hai tuần mời ba mẹ qua Philadelphia thăm miền Đông Hoa Kỳ. Vào thời điểm mà những chuyến bay ở Mỹ thường chỉ cất cánh với gần một nữa số ghế bỏ trống với cơn ác mộng của ba chuyến bay bốc cháy vẫn còn đậm nét trong lòng mỗi người Mỹ, ba mẹ đã du hành khắp 6 tiểu bang để tìm lại những ân tình rất quý hiếm ở một xứ sở vật chất, và thì giờ đã thành ưu tiên số một của đa số mọi người.
Chúng tôi chỉ có thể đưa được ba mẹ đến Security Check Point. Từ đó ba mẹ tự tìm lấy gate, tự lấy vé để boarding. Những năm tháng tù đày dài đăng đẳng trong các trại cải tạo của VC đã lấy đi của ba rất nhiều thứ, nhưng trình độ anh ngữ của một sĩ quan QLVNCH vẫn còn đó, chưa bị mai một nhiều, nên chúng tôi an tâm để ba mẹ bay khắp nước Mỹ một mình.
Thật tình chúng tôi cũng muốn lấy vacation "thắp tùng" ba mẹ, trước là để yên tâm hơn khi luôn được ở gần ba mẹ, sau là để được tận mắt thấy tai nghe tình bạn hiếm có của ba mẹ với bác, với những người bạn già đã trãi qua một thời niên thiếu, hay trung niên cùng ba mẹ, nhưng công việc và "nợ áo cơm" không cho phép chúng tôi đi cùng cha mẹ. Khi kinh tế đang bị trì trệ các công ty liên tục cắt giảm nhân viên để sống còn và giữ vững lợi nhuận, tất cả những nhân viên còn lại phải làm việc nhiều hơn, và không thể vắng mặt dài ngày. Do vậy, chúng tôi đành ở nhà và "vấn an" theo dõi hành trình của ba mẹ, qua điện thoại hay email.
Cuộc Mỹ du của ba mẹ rất là thông suốt, ở Philadelphia bác DKL đưa ba đi thăm nhiều tiểu bang ở miền Đông Hoa Kỳ và dĩ nhiên là không quên dừng lại rất lâu trước VietNam War Memorial ở DC. Đó là một bức tường bằng đá cẩm thạch đen dài khoảng 200 thước, với tên tuổi của tất cả những người lính Mỹ đã chết hoặc mất tích trong chiến tranh Việt Nam.
Khi chiến tranh Việt Nam có sự tham chiến trực tiếp của lính Mỹ, tôi còn chưa đọc thông, viết thạo tiếng Việt, vậy mà mỗi lần đứng trước bức tường cẩm thạch đen đó, tôi vẫn chùng lòng rơi nước mắt, không phải chỉ khóc cho những thanh niên trẻ phải chấm dứt cuộc đời ở lứa tuổi đầy sức sống, mà còn khóc cho thân phận nhược tiểu, bất hạnh của đất nước Việt Nam. Trường hợp này, cả ba và má đều trực tiếp tham chiến và làm việc với những sĩ quan cố vấn Mỹ và dù ít dù nhiều đều có tiếp xúc với một trong số những người mà tên họ được khắc sâu không những trên bức tường cẩm thạch đen, mà trong lòng của rất nhiều người, trong đó có những người lính già như ba và bác. Tôi không được có mặt cạnh ba và bác lúc đó, nhưng tôi biết hẳn bác và ba đã nghiêm trang chào kính những người bạn đồng ngũ một thời. Tấm lưng còng đi vì năm tháng, vì bao biển dâu cuộc đời của ba và bác hẳn đã thẳng lên với hào khí một thời và cái chào nhà binh vẫn đầy nét hào hùng từ hơn một thế kỷ trước. Đó là cái chào biết ơn dành cho những người đã nằm xuống cho một đất nước nhỏ bé, nghèo nàn ở bên kia bờ Thái Bình Dương.
Bác cũng đưa ba đi thăm cảnh chùa của bác lập ở Philadelphia. Chúng tôi chỉ được thấy hình ảnh của ba và bác những tấm lưng một thời khoác áo kaki, bây giờ khoác áo tràng màu lam thành kính trong trầm hương trước tượng Phật. Ngày bác và ba chia tay hẳn là lắm nổi bùi ngùi, bởi vì cả hai đều xấp xỉ ở tuổi "thất thập cổ lai hy".
Ở Houston, Texas mẹ được những gia đình hàng xóm ngày xưa đón tiếp nồng hậu, ngoài sức tưởng tượng của chúng tôi. Một trong những gia đình đó, di tản từ tháng 4/75, không đủ tinh thần đối phó với cuộc biển dâu quá lớn, đã tan nát từng mảnh trong 3 năm đầu tiên ở Mỹ. Cô sang ngang với người bản xứ, chú sống một mình, ngày tháng càng trống vắng hơn khi chú vừa mới về hưu năm ngoái. Chú đã tâm sự với ba tôi, người chiến hữu, người bạn, người hàng xóm thân thiết một thời:
- Ngày xưa sĩ quan không quân nổi tiếng hào hoa, nhưng tôi chỉ có một "cô". Bây giờ tôi sống cũng một lúc với 4 cô: "cô độc" "cô quạnh" "cô đơn" và đôi lúc cả "cô hồn".
Ba mẹ cũng bùi ngùi, nhưng không biết làm gì để giúp được chú, như ngày xưa ba mẹ vẫn làm "trọng tài hòa giải" khi chú và cô to tiếng. Khi ba mẹ rời Houston, cả cô và chú đều đã nghỉ hưu, vẫn biếu ba mẹ một ít tiền gọi là "chút quà" để ba mẹ tùy nghi xử dụng. Chẳng những thế, cô chú còn gọi điện thoại qua CA, nói anh trai lớn đang sống ở thành phố kề cận nơi chúng tôi đang sống, nhắn nhủ:
- Hai bác ở Việt Nam qua chơi vài tháng, nhớ đến thăm.
Khi anh đến thăm, lại biếu tiền cho ba mẹ rất cung kính, rất Việt Nam.
- Chắc các anh chị đã mua sắm đủ cho hai bác, cháu xa VN gần 30 năm, không biết đời sống ra sao, chỉ xin biếu bác đem về VN để chi dùng lúc cần, các anh chị bên này chưa "tiếp tế" kịp.
Chúng tôi rất cảm động, không phải vì những tờ giấy bạc màu xanh mới toanh gia đình cô chú đã biếu ba mẹ, mà cảm động vì thấy một tâm tình, hầu như không tìm thấy được ở thế hệ chúng tôi.
Thời gian ba mẹ ở CA, chúng tôi được mắt thấy tai nghe nhiều gương sáng của thế hệ ba mẹ. Như bác T, một người bạn tù của ba trong các trại học tập cải tạo từ Bắc vào Nam mới đến Mỹ theo diện H.O vài năm nay, đời sống vẫn chưa ổn định đã lái một xe cũ kỹ, từ xa 40 dặm về thăm ba. Cả người lẫn xe đều cao tuổi, bác phải đi đường nhỏ, thay vì xử dụng frew way, giữa thời tiết mưa gió, tôi không biết làm gì hơn là chỉ biết cầu nguyện cho bác được "chân cứng tay mềm, thượng lộ bình an". Hay vợ chồng bác D. lái xe về thăm, đón ba mẹ lên chơi, chỉ được để "cùng ôn chuyện dài chuyện ngắn của thời son trẻ".
Để đền lại phần nào những ân tình hiếm quý đó, chúng tôi mở một tiệc lớn ở nhà có đầy đủ các món bác thích, để những vị sĩ quan oai hùng của một thời xưa cũ có dịp hàn huyên, nhớ lại một thời "huynh đệ chi binh" khi lá cờ vàng ba sọc đỏ vẫn là một biểu tượng chính thức cho một quốc gia trên bản đồ Liên Hiệp Quốc.
Tiệc kéo dài gần nửa ngày, cả chủ và khách đều đi gần hết hành trình của đời người. bác Ch đã ngoài 80 nhanh chân di tản từ 75, không bị hành hạ bởi những năm tháng tù đày lao nhục, vẫn khỏe mạnh, tinh anh, và vẫn lái xe đổi từ hệ thống xa lộ này qua free way kia rất vững vàng.
Chúng tôi ngồi ở góc phòng, vểnh tai nghe chuyện giữa ba mẹ và các bác và tự hỏi với những con người đầy tình nghĩa, hiểu biết như vậy, tại sao lại có biến cố tháng 4/75, nói về "cuộc biển dâu" những người một thời "cầm quân" chỉ biết lắc những mái đầu đã "muối nhiều hơn tiêu" bùi ngùi, đau xót.
Đời sống thường nhật của chúng tôi có sự đảo lộn rất lớn trong thời gian ba mẹ "Mỹ du", chúng tôi đi về quá khứ cùng ba mẹ hơn là hướng về tương lai như thông lệ. Đúng như một nhà văn đã nhận xét "Người trẻ sống bằng tương lai, người già sống bằng quá khứ".
Những ngày hạnh phúc đó, tất cả chúng tôi đều "đi trễ về sớm" và lúc có mặt ở sở thì chúi đầu vào PC, không có giờ surfing internet, không có giờ đi vòng quanh các office kế cận "gossipping".
Và ba mẹ đã chứng kiến cuộc sống rất cao, nhưng cũng đầy stress, và tất cả ở Mỹ. Nước Mỹ với ba mẹ không phải là Las Vegas hào nhoáng với những khách sạn lớn nhất thế giới, không phải là một St. Louis êm đềm với Gate of Arch, không phải là một San Diego ôn hòa với sở thú lớn nhất nước Mỹ, không phải là New York với tượng nữ thần tự do, biểu tượng của nước Mỹ không phải là Washington DC thủ đô quyền lực của nước Mỹ, và của cả thế giới, mà nước Mỹ với ba mẹ là nơi hạt giống ước mơ của ba mẹ nẩy mầm, cho hoa thơm trái ngọt, nơi chúng tôi được cưu mang, và được nuôi dạy thành người hữu ích cho cả hai quê hương.
Nước Mỹ với ba mẹ là giàn hoa giấy màu đỏ được trồng trước balcony là mùi dạ lý hương thơm lừng về đêm trên lối vào nhà tôi, là bông hoa quỳnh nở đúng nửa đêm trong vườn nhà đứa em kế, là luống rau thơm mộc mạc của quê nhà trong một góc vườn đứa em út, là mùi vị quê hương chúng tôi mang theo từ mô hình của căn nhà hạnh phúc trong cư xá trước tháng 4/75.
Nước Mỹ với ba mẹ là thân tình chất ngất của những người bạn của gần nữa thế kỷ, tuổi tác càng cao, tình nghĩa càng đầy.
Nước Mỹ với ba mẹ là những đứa con trưởng thành, có thể tồn tại ngang hàng với người bản xứ, được hít thở tự do và được ngẩng cao đầu làm người.
Chúng tôi học được rất nhiều điều trong 3 tháng ba mẹ thăm chúng tôi ở Mỹ, chúng tôi biết nhìn về quá khứ, trong khi hướng tới tương lai. Cả quá khứ và tương lai đều góp phần làm nên đời sống.
Nguyễn Trần Diệu Hương
Mountain View, June 02
(xin được kính dâng ba mẹ với lòng biết ơn chân thành của tất cả chúng con. Xin được kính tặng hai bác Doãn Kim Lai cùng tất cả các bác các chú đã một thời chia xẻ mọi "cay đắng, ngọt bùi" với ba mẹ chúng con)