- NHỮNG CHS NGÔ QUYỀN TRÊN BỤC GIẢNG
BỤI PHẤN BỤI ĐỜI
Ngôi trường đã có nhiều thay đổi khi tôi trở lại sau mười một năm. Cùng với tốc độ tăng trưởng của khoa học kỹ thuật, trường cũng trở nên hiện đại, mới mẻ hơn, nhưng những phòng học trong Business School, từ phòng học nhỏ cho những sinh viên năm cuối chỉ có hai mươi chỗ ngồi đến những giảng đường lớn cho những lớp học với trên một trăm sinh viên, thì vẫn vậy. Hành lang vẫn như xưa với những khuôn mặt thiếu ngủ của sinh viên, luôn luôn phải dùng cà phê để giữ mắt mở to, giữ đầu óc tỉnh táo. Đó là điều đáng mừng vì ngày nào trường học còn đông người lui tới, ngày đó chúng ta còn lạc quan nhìn về tương lai.
Nhưng có một điều vẫn như xưa không vui chút nào, đâu đó lạc lõng trong những khuôn mặt sinh viên đa số còn trẻ, là một vài người già đầy vẻ nhẫn nhục, cam chịu, với một cái bao nylon đen to khoác vai và tay cầm dụng cụ dùng để nhặt lượm những vật nhỏ mà không cần phải khom lưng xuống. Điều buồn hơn, một vài người trong số họ lại là những ông bà cụ Việt Nam đã ngoài sáu mươi. Họ đến những phòng học trống, nhặt nhạnh trong giỏ rác những lon soda để mang bán cho những chỗ chuyên recycle lon nhôm.
Từ ngày chân ướt chân ráo vào trường, tôi đã đau lòng nhận ra có những ông bà cụ Việt Nam trạc tuổi Ba Mẹ mình kiên nhẫn đi từ phòng học này đến phòng học khác, và đôi khi vào cả giỏ rác trong phòng vệ sinh để thu nhặt từng chiếc lon nhôm. Có lần, nán lại sau giờ học hỏi chuyện một bà cụ Việt Nam, tôi được bà cụ kể lại tận tình nguồn cơn tại sao mình phải đi nhặt nhanh từng chiếc lon nhôm.
Ít ai ngờ được ngày xưa ở Việt Nam, thời trước năm 1975, bà cụ là một cô giáo dạy Trung học ở một tỉnh miền Tây. Sau một ngày cuối tháng 4 rất buồn của miền Nam, bà cụ lúc đó hãy còn trẻ, không còn được đi dạy vì có chồng là một sĩ quan đã được "tổ quốc ghi ơn" sau một trận chiến khốc liệt vào mùa hè đỏ lửa 1972. Cô giáo mất nghề dạy học lăn lộn ra xã hội làm đủ mọi nghề để nuôi hai con dại và nuôi thân vì cùng một lúc gia đình cô mất đi cả tiền tử tuất và tiền lương dù ít, nhưng rất ổn định của một cô giáo trung học.
Như đa số những người phụ nữ khác của miền Nam lúc đó, dù vất vả trăm chiều, bà cụ vẫn nuôi dạy hai người con trai nên người. Rồi định mệnh đẩy đưa, bà cụ đến được Mỹ nhờ một người em bảo lãnh, hai anh con trai đã lập gia đình vẫn còn kẹt lại ở Việt Nam.
Lúc đầu, bà cụ không chịu đi, với ý nghĩ bao nhiêu năm cơ cực, mẹ con có nhau, bây giờ bà không nở sống ở một đất nước giàu có, bỏ hai người con ở lại. Nhưng rồi người em ra sức thuyết phục, qua được Mỹ một thời gian may ra bà cụ còn có dư tiền gởi về giúp con.
Thế là bà cụ ra đi, hành trang chỉ vỏn vẹn tấm ảnh bán thân của người chồng quá cố, hình ảnh ba mẹ con chụp cùng nhau trước ngày bà qua định cư ở Mỹ, và một tấm hình từ thuở xa xưa đã ngã màu vàng ố thời bà cụ còn là một cô giáo trung niên ở một trường Trung Học ở miền Tây. Vậy mà bà cụ quý lắm, xem chừng những tấm hình đó với bà cụ còn quý hơn cả cái máy nghe nhạc Ipod mỏnh dính của mấy cô mấy cậu teenager mới lớn, hay cái nhẩn kim cương sáng loáng của những cô gái mới đính hôn.
Những năm đầu ở Mỹ, chưa có quốc tịch Mỹ, không xin được trợ cấp từ quỹ an sinh xã hội để nuôi dưỡng những người già không có thu nhập, (đa số là những người già nhập cư từ những nước khác vì những người già đã đi làm đủ mười năm ở Mỹ thì đã có lương hưu trí hàng tháng), thu nhập là số không như những ngày cuối năm 1975, bà cụ tìm mọi cách để kiếm tiền gởi về giúp hai con trai. Một lần đi chợ, thấy những người Mễ, người Phi, và cả người Việt Nam đến trung tâm recycle bán lon nhôm, bà cụ nghĩ được cách kiếm tiền lương thiện, nhưng đầy vất vả. Thế là mỗi buổi trưa, dù vào giữa mùa Đông băng giá, hay đầu mùa hè nóng bức, cứ khoảng hai giờ chiều, bà cụ đón xe bus xuống downtown, đến ngôi trường Đại Học lâu đời nhất ở California, đi nhặt lon ở khắp campus. Hôm nào hên, được đến ba bốn bao lon, loại bao rác màu đen, bà cụ bối rối không biết làm thế nào để mang về nhà vì xe bus đâu có chờ lâu ở mỗi trạm mà bà cụ thì đã gần bảy mươi, đâu còn nhanh nhẹn như thời còn trẻ, không thể mang lên và đặt xuống các bao nylon đen trong vòng một phút.
Lần đầu tiên nhận ra bà cụ là người Việt Nam, lại trạc tuổi Ba Mẹ mình, tôi lân la hỏi chuyện, và được nghe bà cụ kể lễ sự tình, tôi tình nguyện dùng trunk xe của mình làm chỗ cho bà cụ gởi tạm những bao nylon đựng lon nhôm những hôm bà cụ may mắn nhặt nhanh được từ hai bao trở lên. Dạo đó, nhiều khi bà cụ cột bao không kỹ, mỗi lần lái xe qua một khúc quanh có góc nhọn, những cái lon nhôm rỗng lăn tung tóe trong thùng xe tạo nên tiếng động nghe cũng khá vui tai. Một người bạn Việt Nam khi thấy xe tôi đầy hộp lon, hỏi chuyện, khi đã rõ nguồn cơn, anh nhờ tôi đem vào trường biếu bà cụ năm mươi đồng, gọi là quà gởi cho hai người con trai của cụ còn ở quê nhà. Thật bất ngờ, bà cụ một mực từ chối, viện cớ cụ còn khỏe, còn có thể "làm ra tiền" nuôi con như từ thuở nào. Bà cụ cười rất đôn hậu, nhờ tôi chuyển lại lời cám ơn đến người bạn:
- Bác cám ơn cháu và bạn cháu. Thỉnh thoảng cháu cho bác gởi nhờ những bao lon trên xe để bác mang đến trung tâm recycle từ từ đã là quý hóa lắm rồi. Khi nào, cùng quẫn lắm, Bác sẽ hỏi xin cháu và bạn cháu điều khác.
Ấy vậy nhưng tôi cũng có cách giúp bà cụ. Dạo đó, mỗi khi có giờ rảnh, tôi nhặt lon ở thư viện (là nơi chỉ dành riêng cho Giáo sư và sinh viên, người ngoài không đượcphép vào), đem ra để ở trunk xe. Tôi chỉ đậu xe ở một khu vực thuận tiện, gần trạm xe bus và cho bà cụ tạm giữ một chìa khóa trunk xe của mình, để bà cụ có "access" dễ dàng lấy lon.
Ngày tôi ra trường, tôi đã tìm được "successor", một người bạn Việt Nam học lớp dưới, thay tôi giúp bà cụ dễ dàng hơn trong việc "kiếm tiền". Như một loại "job training", tôi chỉ lại người bạn chổ đậu xe đã khá thân thuộc với bà cụ, chỗ nào thường có nhiều hộp lon ở thư viện... Người bạn cũng có tấm lòng, vui vẻ "tiếp thu" việc giúp bà cụ. Và tiếng leng keng do những hộp lon chạm nhau khi qua khúc quẹo hẹp, nhỏ hơn 45 độ lại vang lên, nghe vui tai như tiếng của "đại dương trong lòng con ốc nhỏ".
Lần tôi giới thiệu người bạn sẽ giúp bà cụ thay tôi, bà cụ chảy nước mắt. Cầm tay chúng tôi, giọng đầy xúc động:
"Ngày xưa, thời còn đứng ở bục giảng, bác cũng có những người học trò hết lòng với thầy cô giáo cũ như hai cháu. Sau tháng 4/75, tưởng đã mất, mất tất cả mọi thứ liên quan đến trường học, vậy mà trong những ngày cơ cực ở quên nhà, bác cũng còn có được sự kính trọng và biết ơn từ những người học trò cũ, trên đường đầy bụi bặm. Nhưng ngay cả trong cơn mơ, bác cũng chưa bao giờ nghỉ là trên quê người, vẫn có những học sinh Trung Học ở Việt Nam ngày xưa, hết lòng với một cô giáo cũ như bác. Ngày xưa có nhiều khi bụi phấn làm bác cay mắt. Rồi những ngày lăn lốc ở lề đường, buôn bán nuôi con, bụi đời rất nhiều, nhưng không làm bác chảy được nước mắt vì cảm động như bây giờ. Đâu có ngờ là ở trên đất Mỹ máy móc này, bác lại được sự giúp đỡ của các cháu. Các cháu biết không, bác chợt nhận ra bụi đời đôi khi cũng làm người ta nhỏ nước mắt."
Dù chúng tôi không nói ra, nhưng bà cụ nhận ra chúng tôi đối đãi bà cụ như thầy cô giáo cũ của mình, với ý nghĩ ở đâu đó trên đất nước đầy cơ hội cho những người đến Mỹ dưới 30 tuổi, những "người lái đò già" ngày xưa, không còn cơ hội, phải kiếm sống bằng sức lực ở tuổi xế chiều, biết đâu có một vài thầy, cô giáo cũ đã dạy chúng tôi thời Trung Học đang mỏi mòn chạy theo guồng máy của một đất nước mới. Cũng có người giúp đỡ như chúng tôi đã giúp đỡ bà cụ trong suốt những năm còn ở Đại Học.
Về lại trường sau hơn mười năm, ngoài việc đi chào các thầy cô cũ người Mỹ, tôi cố ý tìm bà cụ, nhưng "cảnh cũ còn đó mà người xưa đã không còn". Ở hành lang của các lớp học, vẫn có những người già đi lượm lon nhôm, nhưng bà cũ ngày xưa của chúng tôi đã không còn. Tôi cố dò hỏi, nhưng không một ai biết tin tức gì về bà cụ đã chảy nước mắt vì cả "bụi phấn" lẫn "bụi đời".
Tôi cầu mong cho bà cụ có một đời sống khá hơn sau khi đã vào được quốc tịch Mỹ, và chợt nghe mắt mình cay cay không phải vì bụi phấn của ngày xưa mà là bụi đời của bây giờ...
Nguyễn Trần Diệu Hương
(07/03/2007)
Thời thơ dại, mỗi lần nghe câu ca dao dân gian:
“Mẹ già như chuối ba hương,
Như xôi nếp một như đường mía lau"
tôi vẫn nghĩ đến… thức ăn (chuối ba hương, xôi nếp một, đường mía lau) nhiều hơn là nghĩ đến Mẹ (vì lúc đó Mẹ chưa đến tuổi bốn mươi, chưa già như trong câu ca dao dân gian nổi tiếng). Nghĩ như vậy, nhưng tôi không biết chuối ba hương là loại chuối nào, xôi nếp một có gì khác với xôi vò, xôi đậu xanh, đậu đen, xôi lá dứa… và đường mía lau khác với đường cát trắng thường dùng để làm nước chanh, hay đường cát vàng để nấu chè đậu ván như thế nào? Thắc mắc đó cứ quanh quẩn trong đầu, nhưng tôi không dám hỏi ai, sợ người ta cho là mình tham ăn.
Chưa kịp lớn lên để tự tìm hiểu ba món ăn chắc hẳn là ngon và quý lắm nên mới được người ta so sánh với những bà Mẹ, người có trái tim và tấm lòng được ví von với kỳ quan đẹp nhất thế giới, biến cố tháng 4/1975 như một cơn lốc cuốn đi nhiều thứ quý giá của người dân miền Nam, nhưng không làm mất được câu ca dao ngọt ngào có Mẹ, có những món ăn mà mãi sau này, ở tuổi nửa đời người, tôi vẫn thắc mắc đó là những món nào?
Mặc dù không biết được cả chuối ba hương, lẫn xôi nếp một, và đường mía lau như thế nào nhưng tôi chắc chắn cả ba món đó đều ngọt ngào cho vị giác, và không có tác dụng tai hại cho sức khỏe, như tấm lòng của tất cả mọi bà mẹ trên đời đối với con cái của mình
Tôi có diễm phúc được lặn ngụp trong ngọt ngào của lòng Mẹ, trong sự bao che của Mẹ với chúng tôi như gà mẹ đối với bầy gà con hàng ngày trong suốt tuổi thơ. Nhiều khi quên mất mình đang được hưởng thứ hạnh phúc mật ngọt lớn nhất đời người.
Mẹ là chị cả của các dì, cậu, từ nhỏ Mẹ đã giúp Bà Ngoại lo cho các em, nên lúc nuôi chúng tôi sau này, Mẹ đã “dày dặn kinh nghiệm chiến trường” trong việc nuôi con nít, vì vậy chúng tôi lớn lên khỏe mạnh, dễ nuôi, không bị đau ốm vặt vãnh.
Hồi đó, khoa học dinh dưỡng chưa phát triển như bây giờ, ở Mỹ, -thức ăn nào cũng có nutrition facts trên bao bì theo luật bảo vệ sức khỏe người tiêu dùng-. Nhưng bằng kinh nghiệm dân gian truyền từ đời này sang đời khác, Mẹ cho chúng tôi ăn thực phẩm có đủ màu: màu đỏ của củ dền, màu vàng của bí rợ, màu trắng của củ cải, màu xanh đậm của rau cải, dưa leo, màu xanh nhạt của bí bầu và mướp hương, mướp đắng… Nhờ vậy, lớn lên chúng tôi có được thói quen tốt ăn trái cây và rau cải nhiều hơn thịt, cá hay đồ biển. Và do đó, tránh được nỗi ám ảnh của cholesterol, bệnh tiểu đường, bệnh cao máu… cùng tất cả thứ bệnh tật đến do thức ăn.
Thời con gái, Mẹ là nữ sinh Đồng Khánh, tuy không phải là hoa khôi, nhưng cũng được tiếng dễ nhìn. Xã hội thời đó, thập niên 50s của thế kỷ hai mươi, đàn bà con gái, nhất là ở Huế, việc nấu ăn, may vá, thêu thùa, nội trợ được đặt trên văn hóa rất nhiều, nên Mẹ nấu ăn rất giỏi. Sau này, ở California, thỉnh thoảng cuối tuần đi ăn thử bún bò Huế ở nhiều nơi, chúng tôi vẫn thấy nhớ đến tô bún bò kiểu Huế chỉ lớn hơn cái chén một chút, có đủ màu sắc đỏ, xanh, vàng, thoáng thoáng mùi xả tươi mà Mẹ vẫn nấu cho chúng tôi ăn thủa nào. Những năm gần đây, chúng tôi được Mẹ tận tình “truyền nghề bếp núc”. Một trong những cô con dâu của Mẹ nói tiếng Việt nhiều khi không chính xác, nhưng mỗi lần về Việt Nam thăm nhà, mỗi ngày được Mẹ dạy nấu một món ăn. Khi qua lại Mỹ, mỗi lần có tiệc tùng, những món ăn học được từ Mẹ vẫn được mọi người hỏi là đặt ở nhà hàng nào?
Rời trường Đồng Khánh, Mẹ đi làm ở Bưu diện. Công việc của Mẹ là trực điện thoại ở Tổng đài, vào cái thời đại mà điện thoại có dây, mỗi lần muốn gọi cho ai, phải quay từng số một trên cái đĩa tròn lớn có những vòng tròn nhỏ hơn, mỗi vòng tròn nhỏ là một con số từ 0 đến 9. Lập gia đình được vài năm, khi anh cả của chúng tôi ra đời, theo ý của Ba, Mẹ thôi việc, ở nhà làm nội tướng. Công việc ở nhà không tên, không tuổi, và không có giờ giấc cố định như đi làm Công chức, Mẹ vất vả hơn, nhưng bù lại có tiếng cười của anh chị em chúng tôi làm Mẹ vui hơn.
Ba là lính nên những năm đầu tiên mới lấy Ba, Mẹ phải dọn nhà liên tục. Tưởng tượng cảnh Mẹ dọn nhà không có ai giúp, vì Ba vẫn đang miệt mài chinh chiến, con cái thì còn nằm nôi hay mới chập chững biết đi, tôi vẫn thán phục việc quán xuyến nhà cửa của Mẹ.
Ông Bà Ngoại người Trung, thời con gái, Mẹ chỉ được rèn luyện nấu ăn kiểu Huế, món nào cũng cầu kỳ, hơi ngọt, và nhỏ xíu. Vậy mà khi lấy Ba, làm dâu Bà Nội là người Bắc, món ăn mặn hơn, kích thước cũng lớn hơn nhiều vậy mà chỉ sau chưa đầy một năm làm dâu, Bà Nội đã “cho điểm” nấu ăn của Mẹ rất cao. Lúc dọn nhà vào miền Nam, Mẹ học được thêm món canh chua nổi tiếng của người Sàigòn từ hàng xóm, nên chúng tôi lớn lên, tuy giống Ba, không đứa nào kén ăn, nhưng biết thưởng thức đủ cả ba món Bắc Trung Nam: từ vị mặn dịu dàng của món ăn đạm bạc canh mồng tơi ăn kèm cà pháo của miền Bắc, đến vị cay nồng của bún bò Huế miền Trung, và cả vị ngọt thanh của canh chua cá lóc miền Nam. Lớn lên, do thời thế, phải nhận quê người làm quê hương, nhiếu khi ăn đồ ăn Mỹ thừa mứa chất dinh dưỡng nhưng thiếu hẳn vị đậm đà của món ăn Việt Nam, và không còn bàn tay nội trợ của Mẹ, lâu lâu chúng tôi vẫn “ăn hàm thụ” trong trí tưởng tượng những món ăn được Mẹ nấu ngày xưa. Và thấy Mẹ vẫn ở quanh mình chứ không phải xa cách cả một đại dương.
Thời thơ dại, Ba Mẹ dạy chúng tôi bằng những câu ngạn ngữ , ca dao trong Quốc Văn Giáo Khoa Thư nên anh chị em chúng tôi dù không biết quyển Quốc Văn Giáo Khoa Thư dày hay mỏng và màu gì nhưng đều thuộc tất cả ca dao, tục ngữ, kể cả những câu Hán Việt, vì nghe mãi, tự nhiên vô đầu, nằm luôn ở một góc của tâm hồn, và giúp chúng tôi giữ được cội nguồn Việt Nam dù đã rời xa quê nhà từ lúc bước vào tuổi hai mươi, không có Ba Mẹ bên cạnh.
Không những chỉ lo cho chúng tôi, Mẹ còn quan tâm lo cho những người bạn học, bạn hàng xóm của chúng tôi đến nhà chơi thời đó. Còn hơn thế nữa, một vài người bạn của Ba Mẹ phải thuyên chuyển đơn vị hay sở làm giữa niên khóa, không muốn làm gián đoạn việc học hành của con cái, đôi lúc gởi con của họ đến nhà chúng tôi nhờ Mẹ trông coi những tháng còn lại của niên học. Có lúc bầy con nít trong nhà, kể cả chúng tôi, lên đến cả chục đứa. Vậy mà tất cả chúng tôi đều tươm tất đàng hoàng. Mãi về sau này, mấy chục năm sau, khi Ba Mẹ qua Mỹ thăm chúng tôi, những cậu bé thơ ngây ở tạm nhà chúng tôi thời nhỏ dại, đã trở thành những người đàn ông trung niên thành công, từng trải, vẫn thu xếp thời giờ rất qúy báu của họ, đến thăm Ba Mẹ, và vẫn nhớ ơn Mẹ đã trực tiếp lo cho họ rất chu đáo, bằng cả một trái tim của người Mẹ như lo cho chúng tôi, bầy con Mẹ đã mang nặng đẻ đau.
Là con gái duy nhất trong nhà, giữa một bầy anh em trai, Mẹ thương tôi không có ai chơi những trò chơi của con gái, nên mỗi khi chọn người giúp việc nhà, Mẹ thường chọn người không lớn hơn tôi nhiều, mặc dù như vậy không có hiệu quả nhiều như khi thuê một người trung niên. Mẹ là vậy, vẫn nghĩ đến người khác nhiều hơn là nghĩ đến bản thân mình. Những ngày tháng vất vả đi thăm nuôi Ba trên những chuyến tầu thống nhất xuyên Nam Bắc, người và hàng hóa chen chúc đến nỗi không có lối đi, không thấy sàn tàu. Lúc đó, chúng tôi còn nhỏ, không giúp gì được nhiều cho Mẹ, thông thường chỉ có một đứa được theo Mẹ ra Bắc thăm Ba, và thêm vào gánh nặng cho Mẹ nhiều hơn là đỡ đần cho Mẹ. Vậy mà có một lần thăm nuôi Ba ở trại Đầm Đùn (một trại tù chính trị có tiếng khắc nghiệt nhất Việt Nam), được người ta gọi bằng một cái tên văn hoa hơn là trại Nam Hà, ngoài đồ đạc thăm nuôi, và một đứa con còn nhỏ, Mẹ còn giúp thêm một bà cụ thân sinh ra một người bạn đồng ngũ của Ba từ trước năm 75, rồi thành “bạn tù” của Ba cả một thập niên dài. Sau này, ở Mỹ, mỗi lần mua gạo từ 25lbs (10kg) trở lên, tôi đã phải nhờ người khác vác giùm từ xe vào bếp… Tưởng tượng hình ảnh Mẹ lúc đó, cả áo quần và giày dép, chỉ cân nặng khoảng hơn bốn mươi kg; mà ngoài hai mươi kg quà bánh, thuốc men nuôi Ba, còn hai mươi kg đồ thăm nuôi đỡ đần giùm bà cụ đi cùng, đôi lúc lại còn phải nâng đỡ cả người già lẫn con nít, tôi thấy được tấm lòng của Mẹ bao la vô cùng, và tự thấy mình thua Mẹ rất nhiều về sức chịu đựng.
Thời mới đến Mỹ, còn đi học, nghèo xác xơ, lái một cái xe rất cũ có số tuổi còn cao hơn tuổi của người lái, máy lạnh bị hư, máy sưởi lúc làm việc lúc không, radio tắt tiếng không bao giờ nghe được news hay nhạc khi đang lái xe, mỗi tối đi học về, tôi thường đi đường trong dài hơn thay vì đi đường xa lộ, vì nếu xe có bị hư dọc đường, đường nhỏ đỡ bị nguy hiểm hơn xa lộ. Vậy mà chúng tôi vẫn thấy mình hạnh phúc khi nghĩ đến chặng đường Mẹ đi thăm nuôi Ba, có đoạn phải đi xe trâu (tôi không biết đó là xe gì, nhưng nghe tên gọi đã đủ thấy… hãi hùng!), có đoạn phải đi bộ trên đường rừng gập ghềnh, chênh vênh. Vả chăng, lúc đó, chúng tôi dù mới đến Mỹ còn cơ cực, vẫn vui vì có cả một tương lai rộng mở ở quê người, trong khi Ba Mẹ ở quê nhà chịu nhiều gian lao mà không có ngày mai.
Ngay từ lúc đó, Mẹ đã tập cho chúng tôi nghĩ đến người kém may mắn hơn, mỗi năm mỗi đứa “cho Mẹ xin” hai mươi dollars để Mẹ mua sách vở cho những em bé nghèo hiếu học ở Việt Nam, hay mua gạo cho những người già neo đơn và người tàn tật. Lúc đầu, chúng tôi gởi hai mươi dollars mỗi năm làm việc thiện, chỉ để cho Mẹ vui, mãi về sau, thành thói quen, và càng trưởng thành, chúng tôi càng hiểu mình phải có bổn phận giúp đỡ người không may, đúng như câu “lá lành đùm lá rách” đã được học từ thủa nào. Hai mươi dollars gởi về quê nhà hàng năm tăng theo cấp số cộng, và trở thành một hoạt động không thể thiếu mỗi năm của chúng tôi, như gương sáng mà chúng tôi đã thấy từ Ba Mẹ.
Có một kỷ niệm về một lần chuẩn bị thức ăn đi thăm nuôi Ba ở trại cải tạo ngoài Bắc suốt đời chúng tôi không thể nào quên được. Hồi đó, cuối thập niên 70, đời sống khó khăn đến mức độ những thứ bình thường cho nhu cầu sống hàng ngày của con người cũng không có. Mỗi lần gởi đường cho Ba, tôi phải dùng dao nhỏ cạo từng thỏi đường đến nát vụn ra, rồi vắt chanh tươi vào, đem phơi nắng, làm thành một thứ “kẹo chanh” rất thô sơ, mong Ba vừa có đủ chất ngọt, vừa có Vitamin C để sống còn trong các “trại học tập cải tạo” chỉ tồn tại trong xã hội chủ nghĩa. Lúc đó, chúng tôi đang tuổi lớn, trong bối cảnh toàn xã hội đói nghèo, cơ cực, cũng thèm chất ngọt vô cùng, nhưng biết dùng ý chí thắng bản năng của mình, vì hiểu Ba cần đường vắt chanh hơn là mình. Duy có mỗi một cậu em út, còn ở những năm đầu Tiểu học lúc đó, vẫn len lén nhón vài nhúm đường chanh ăn thay cho bánh kẹo. Sau mỗi một ngày phơi đường vắt chanh dưới nắng gắt, đường khô dần, tôi phải cân lại để biết sẽ còn bao nhiêu trọng lượng còn lại cho những món khác mỗi lần gởi quà thăm nuôi cho Ba, vì nếu quá trọng lượng quy định, quà sẽ không đến tay Ba. Một lần cân lại đường vắt chanh, thấy trọng lượng bị giảm gần một nửa. Đoán là cậu em út là “thủ phạm”. Khi bị tra hỏi, em trả lời rất hồn nhiên, và ngây thơ:
- Chắc mình phơi trên mái nhà , bị con mèo nhảy lên đó ăn bớt!
Những đứa lớn chúng tôi và Mẹ đều cười thầm, vì loài mèo không bao giờ ăn thức ăn ngọt, nhưng Mẹ vẫn dịu dàng, từ tốn dặn dò:
- Thôi lần sau, làm nhiều đường chanh hơn một chút, để trừ hao “mèo” ăn mỗi lần phơi đường trên mái nhà.
Có những điều “không nói ra nhưng ai cũng hiểu chỉ có một người không hiểu”, nên cậu em út còn non dại,vẫn tiếp tục ăn đường vắt chanh phơi trên mái nhà, thay cho bánh kẹo mà em không có; và con mèo vẫn mang tiếng oan. Điều đó vẫn nằm trong một góc ký ức của Mẹ và chúng tôi về những ngày không hề có cả một tia sáng lẻ loi ở cuối đường hầm dài hun hút tối tăm mù mịt như tương lai của con cái những nguời tù chính trị vào đầu thập niên 80s.
Và do vậy, Mẹ đành dứt ruột gởi chúng tôi, từng đứa một, ra biển để may ra nếu đến được bờ bến tự do, còn có tương lai, còn được học hành thành người. Sau này, nhìn lại, tôi vẫn phục và thương Mẹ đã hy sinh rất nhiều để chúng tôi có được ngày hôm nay.
Đến phiên tôi mang chính sinh mạng mình ra đánh cuộc với định mệnh, với sóng gió trên biển Đông bao la, Mẹ đưa tôi ra bến xe liên tỉnh, hôm đó trời xanh tháng sáu mùa hè, nhưng “bão tố phong ba” nổi lên trong lòng cả hai mẹ con. Tôi bắt đầu hành trình xuyên qua đại dương từ bến xe liên tỉnh về Vũng Tàu, -mang theo hình ảnh Mẹ, mảnh mai, yếu đuối như một cây lau, nhưng có sức chịu đựng như một cây cổ thụ, đứng một góc bến xe, với cái xách tay rất cũ, gần sờn rách Mẹ đã dùng từ tháng 4 năm 1975, nhìn theo cái xe cũ kỹ mang tôi về hướng biển Vũng Tàu- không phải để đi nghỉ hè, đi tắm biển, mà để đi tìm tương lai, để được tự do học hành, và không bị xếp loại thứ mười bốn trong mười lăm thứ bậc của xã hội chủ nghĩa.
Hình ảnh Mẹ ốm yếu với cái xách tay duy nhất Mẹ đã dùng từ tháng 4/75, đứng bất động ở một góc bến xe, nhìn theo cái xe đò cũ kỹ mang tôi về hướng Vũng Tầu cứ quẩn quanh trong trí tưởng của tôi. Nên khi đã học hành xong, ổn định đời sống ở Mỹ, tôi không ngừng gởi về cho Ba Mẹ đủ loại Vitamin, và những cái xách tay đủ cỡ, đủ kiểu đủ hiệu từ rẻ tiền đến brand name mặc dù như từ bao giờ, Mẹ không đòi hỏi gì từ chúng tôi.
Mẹ cũng chưa bao giờ dạy chúng tôi phải trả ơn cho Ba Mẹ nhưng cứ nhìn cách Ba Mẹ đối xử với Ông Bà Ngoại, và Bà Nội, chúng tôi hiểu mình phải làm gì để Ba Mẹ vui.
Thế hệ của Mẹ, thế hệ của những người trạc tuổi nhạc sĩ Trịnh Công Sơn, đàn bà con gái thời đó, nhất là đàn bà con gái ở Huế, rất thích bài “Diễm Xưa”. Hồi nhỏ tôi vẫn được nghe bài này, nghe đi nghe lại rất nhiều lần mà… không biết mình có hiểu đúng ý của tác giả hay không, nhưng tôi vẫn nhớ mãi câu “… làm sao em biết bia đá không đau…” và nghĩ là thế hệ lớn hơn mình, những ông cha bà mẹ, phải hy sinh rất nhiều, nhất là sau năm 1975. Đôi lúc tôi vẫn tưởng tượng dù bia đá cũng đau như ông nhạc sĩ có tài đã viết thanh ca khúc, nhưng không bằng một phần nhỏ nỗi đau của những ông Cha, nỗi chịu đựng của những bà Mẹ Việt Nam, trong đó có Mẹ yêu quý của chúng tôi trong những ngày khốn khó cuối thập niên 70s, đầu thập niên 80s.
Khác với thời thơ dại, bây giờ, mỗi khi nghe câu ca dao “mẹ già như chuối ba hương, như xôi nếp một như đường mía lau”, tôi chỉ nghĩ về Mẹ, nghĩ về tấm lòng bao la hơn cả đại dương của Mẹ. Và không cần phải biết xôi nếp một, chuối ba hương, và đường mía lau ra sao, tôi vẫn tin là ba món ăn đó ngọt ngào và quý hiếm , quý như Mẹ của chúng tôi, như mỗi một bà Mẹ Việt Nam mà tấm lòng bao la hơn cả đại dương to rộng.
Đâu có cần phải biết đường mía lau là gì, chỉ cần có Mẹ ở trên đời là mỗi một chúng ta đã có được vị ngọt dịu dàng nhất trên đời, Dù có lớn, có già đến đâu đi nữa, hạnh phúc lớn nhất trên đời vẫn là được nếm đường mía lau, được ăn chuối ba hương, được nhai xôi nếp một, và được cài bông hồng đỏ mỗi dịp lễ Vu lan - Mother’s Day của người Việt Nam-. Cầu mong bông hồng đỏ nằm trên ngực áo của mỗi người sẽ tồn tại lâu dài, dài như sự hy sinh triền miên, không ngừng nghỉ của mỗi một người Mẹ Việt Nam trong gian khổ cũng như trong an nhàn…
Nguyễn Trần Diệu Hương
(Santa Clara, Mothers’s Day 2009- Với tất cả lòng biết ơn Mẹ của 5H)
NHỮNG CHS NGÔ QUYỀN TRÊN BỤC GIẢNG
Từ trái sang phải: Thầy Hoàng Phùng Võ, Thầy Mai Kiến Phúc, Thầy Phan Thanh Hoài (hàng ngồi)
Thầy Diệp Cẩm Thu, Cô Hà Thị Nhung, Nguyễn Trần Diệu Hương (hàng đứng).
Vào trường Ngô Quyền trong thập niên 70, tôi không được hân hạnh học những năm cuối ở Ngô Quyền, nhưng bù lại tôi có may mắn được học với 5 thầy cô là cựu học sinh Ngô Quyền. Với quý thầy cô này, sợi dây gắn bó với trường bền chặt gấp hai lần những thành viên khác của Hội CHS NQ, mỗi thầy cô đều có một quá khứ học trò nhìn lên bục giảng, tiếp nhận những kiến thức căn bản từ quý vị giáo sư, và cũng thực hiện được mơ ước trên bục giảng Ngô Quyền.
“Mai sau con lớn làm cô giáo
Thiên hạ trông lên ngước mắt chào”
Những thầy cô này là bạn học của nhiều anh chị tôi được quen biết trong những lần họp mặt CHS NQ hàng năm ở California. Qua lời kể của các anh chị đó tôi được biết là các thầy cô cũ của mình thời đi học đều học rất giỏi.
Thầy Diệp Cẩm Thu được anh Nguyễn Hữu Hạnh gọi là “một trong những đứa con cưng của Ngô Quyền”. Có lẽ thầy là ông thầy hiền nhất trong tất cả các thầy cô trong suốt quãng đời cắp sách cũa tôi. Thời gian thầy đứng trên bục giảng cũng nhiều gần bằng số tuổi của chúng tôi, lớp học trò đầu tiên của thầy. Trong những lần họp mặt, nhiều anh chị vẫn “phân bì”, lúc nào thầy Phố cũng nhớ đến “Diệp Cẩm Thu” mà quên đi những học trò khác. Cũng có lý do để thầy Phố và có lẽ nhiều thầy cũ khác của thầy Thu nhớ đến thầy Thu. Có lẽ thầy sinh ra để làm một nhà mô phạm và suốt đời sống mẫu mực cho “Thiên hạ trông lên ngước mắt chào” như một câu thơ đã ca tụng những nhà giáo chân chính. Điều duy nhất tôi đã làm được để tỏ lòng biết ơn thầy là đã vẽ lại “tập hợp giao” không phải bằng những vòng tròn của Tân Toán học mà là những suy nghĩ rất chân thành khi nghĩ về những người lái đò xưa, đã cùng các bậc sinh thành, đưa chúng tôi đến bờ bến thành đạt.
Lần đầu tiên tôi gặp lại cô Hà Thị Nhung sau giờ Hình học cuối cùng của cô kể từ niên khóa 74-75, đời sống đặt lên vai thầy trò chúng tôi 32 năm với nhiều “vật đổi sao dời”, nhưng cô vẫn nhớ chổ ngồi đầu bàn nhất của tôi trong lớp học ở giữa dãy lầu quét vôi vàng ngày xưa của Ngô Quyền. Dĩ nhiên dưói mắt cô đã ẩn hiện “vết chân chim” nhưng nét thông minh của một trong những nữ sinh đầu tiên của lớp đệ nhất B (12B) Ngô Quyền vẫn còn. Cô lái xe đến thăm tôi trong mưa phùn giữa mùa đông của California, cô và trò “nhìn xuống cuộc đời” qua cửa sổ kính dầy của Marriott Courtyard ở Anaheim mà nhớ đến những khung cửa sổ hình chữ nhật của những lớp học ở Ngô Quyền xưa. Ước gì có một ngày, mình được về ngồi nhìn lại mưa trên sông Đồng Nai. Bên đời lưu vong, ở một khía cạnh nào đó, mình cũng giống những tam giác đồng dạng ngày xưa cô đã dạy em phải không thưa cô?
Qua cô Nhung, tôi được biết cô Liêng Tuấn Tài, giáo sư Đại số của lớp chúng tôi và là bạn học cùng lớp đệ nhất B của cô Nhung, vẫn đang sống ẩn dật bình an với một tiệm sách nhỏ ở Biên Hòa. Ngoài những đẳng thức, phương trình của môn Đại số, cô còn chứng minh cho chúng tôi một cách hùng hồn câu ngạn ngữ “hữu xạ tự nhiên hương”. Càng lớn lên, nhìn lại quá khứ, nhìn lại những người bạn học ngày xưa giữa cuộc đời có muôn ngàn lối rẽ, tôi càng hiểu hơn bao giờ hết những điều cô Tài đã dạy lũ học trò con gái mắt sáng môi tươi nhưng rất ngu ngơ ngày nào. Tôi chưa có dịp gặp lại cô kể từ giờ học cuối hơn 30 năm qua ở Ngô Quyền, những điều cô dạy tôi dù nhạt nhòa theo năm tháng nhưng nền tảng suy luận vẫn còn, bởi vì tôi đã được học toán với cô, một “đàn chị Ngô Quyền” rất xuất sắc thời đi học.
Nếu bây giờ các em ở trong nước được học môn Công dân giáo dục, và được nghe đọc “Le Petit Prince” như thầy Huỳnh Quan Phận đã dạy cho chúng tôi từ bục giảng của những năm đầu Trung học thì cuộc sống sẽ tốt đẹp hơn nhiều, tôi tin chắc như vậy. Thời Trung học của thầy ở Ngô Quyền chắc là rất bình an, thơ mộng, nên thầy cũng tạo cho chúng tôi những giờ phút thoải mái nhưng vẫn giữ trật tự nghiêm minh trong giờ học. Hơn mười năm trước, lúc giơ tay tuyên thệ thành công dân Hoa Kỳ, tôi đã cố gắng kìm những giọt nước mắt lăn ra khi nhớ đến lời giảng của thầy ngày xưa “mỗi người dân chỉ có một tổ quốc và nên tuyệt đối trung thành với tổ quốc của mình”…
Ở tận một góc nào đó rất xa, không phải ở trong nước, bây giờ cô Phạm Thị Hạnh vẫn dạy Anh văn như hồi xưa cô dạy chúng tôi. Học trò của cô bây giờ lớn hơn chúng tôi ngày xưa nhiều, và cô cũng không còn ở tuổi ngoài hai mươi như lúc chúng tôi nhìn cô đứng trên bục giảng mỗi tuần hai lần. Nhưng hẳn là những bài học ngoại ngữ vẫn như xưa, vẫn được giảng dạy bằng nhiệt tình của một cô giáo trẻ truyền lại kiến thức cho đàn em. Bây giờ đã nói được tiếng Mỹ rất nhuần nhuyễn, nhưng tôi vẫn không quên những bài học đầu tiên cô Hạnh dạy chúng tôi ở một thời xưa đã nằm trong ký ức tuyệt vời của thầy trò chúng tôi.
Ngoài tư cách nhà giáo, cả năm thầy cô kể trên đã hướng dẫn chúng tôi bằng nhiệt tình của những đàn anh, đàn chị Ngô Quyền. Nếu ở mỗi cuộc họp mặt, có bảng tên màu xanh cho CHS, bảng tên màu vàng cho quý thầy cô, thì chắc phải có một bảng tên nửa vàng, nửa xanh cho những lớp đàn anh, đàn chị Ngô Quyền đã công thành danh toại, về lại trường xưa với tư cách mới trên bục giảng nhưng tấm lòng với thầy cũ, trường xưa vẫn còn nguyên, mãi mãi không nhòa…
Nguyễn Trần Diệu Hương
Santa Clara, đầu thu 2007
(Với lòng biết ơn đến các CHS NQ đã là thầy cô của em)
ƠN THẦY
Rất nhiều năm sau này, tôi bắt đầu hiểu được những hạt giống tốt thầy đã ra công gieo vào tâm hồn mới lớn của chúng tôi. Hạt giống năm đó, chưa đúng điều kiện, chưa thể nẩy mầm. Đến khi chúng tôi lớn lên, khôn ra, đúng thời điểm, hạt giống tốt ngày xưa nẩy mầm, đơm hoa, kết trái.
Người Việt Nam với văn hóa Đông Phương có câu “Công Cha Nghĩa Mẹ Ơn Thầy”.
Từ thời Tiểu Học, thơ dại, học sinh đã được giảng dạy rất kỹ thế nào là Công Cha, Nghĩa Mẹ, Ơn Thầy. Hình như trong mười năm đầu tiên đi học, chúng tôi đã làm ít nhất là ba bài luận văn về đề tài này. Hồi đó, còn ngây thơ, khờ dại, đứa nào cũng ngồi cắn bút, gãi tai mà chỉ có thể thấy được một phần của Công Cha, Nghĩa Mẹ, Ơn Thầy. Lớn lên, “bước xuống cuộc đời”, dù có lạc quan đến độ nào, mọi người đều thấy không phải ai cũng thành thật với mình, không phải ai cũng chỉ bảo điều hay lẽ phải cho mình như cha mẹ và thầy cô.
Ở đây, xin được nói về Ơn Thầy, một trong những đạo đức căn bản của người Việt Nam.
Cho đến bây giờ, tôi vẫn nhớ rõ tên của tất cả các thầy cô từ Mẫu Giáo ở Việt Nam đến Đại Học ở Mỹ. Những thầy cô ở Mỹ không để lại trong tôi một ấn tượng sâu sắc như các thầy cô ở Việt Nam, nhất là những thầy cô ở trường Trung Học Ngô Quyền.
Năm lớp sáu, mới đậu vào Ngô Quyền, “ốc tiêu” nhất trường, lớp 6/1 chúng tôi có thầy Đức dạy Hình Học vừa mới ra trường. Cả thầy lẫn trò đều bỡ ngỡ với ngôi trường Trung Học công lập lớn nhất miền Đông Nam Phần. Hình như thầy bỡ ngỡ nhiều hơn chúng tôi, vì chúng tôi có đến hơn năm mươi đứa bạn cùng lớp, mặc dù chúng tôi đến từ nhiều Trường Tiểu Học khác nhau, từ Trịnh Hoài Đức, Nữ Tiểu Học, Nguyễn Đình Chiểu, Nguyễn Khắc Hiếu… Đầu năm lớp sáu, niên khóa đầu tiên trường có đến mười hai lớp sáu, so với chín lớp sáu của niên học trước, nên tuần đầu tiên ở Trung Học, có một số giờ, chưa có giáo sư, chúng tôi chỉ được chép chương trình (curriculum) do các thầy cô giám thị đưa xuống. Chép chương trình, và dặn dò học sinh mới chỉ mất tối đa là nửa giờ, nửa giờ còn lại chúng tôi có dịp làm quen nhau, và kịp “kết bè kết cánh” để xứng đáng là “thứ ba học trò”.
Tuần thứ hai, chúng tôi bắt đầu có giáo sư chính thức, và bắt đầu vào học thực sự. Lần đầu tiên thầy Đức đến lớp với quần xanh dương đậm, và áo chemise trắng, với dây nịt đàng hoàng, thầy lại còn mang theo một cái cặp nhỏ, trông giống học sinh hơn là thầy giáo. Đó là lần đầu tiên chúng tôi gặp thầy. Thầy vừa ra trường từ Đại Học Sư Phạm Sài Gòn, còn lớ ngớ, và mang chất sinh viên nhiều hơn là thầy giáo. Chúng tôi tưởng lầm đó là một học sinh lớp mười hai đi lộn phòng học, thế là gần năm chục cái miệng đồng thanh:
-- Đi lộn lớp rồi!
Nhiều đứa còn chanh chua hơn:
-- Đi ra nhìn lại tên lớp học đi. Mắt mũi để đâu vậy? Có cần phải đeo kính không?
Một thoáng bối rối, nhưng thầy Đức bình tĩnh ngay:
-- Tôi là Đức, thầy giáo dạy Hình Học của các em. Lớp sáu một phải không? Chắc chắn là tôi vào đúng lớp, không lộn đâu. Các em trật tự lại.
Dĩ nhiên chúng tôi bẽn lẽn im ngay. Nhưng sau đó, trong niên khóa đầu tiên, biết thầy trẻ nhất trong các giáo sư và rất hiền, cả lớp chọc phá thầy nhiều nhất so với các thầy cô khác.
Có lần Tuyền bị gọi lên bảng trong giờ Toán, nó quên học bài nhưng đã rất tinh ranh để tránh khỏi điểm xấu.
Thầy hỏi:
-- Tại sao em không học bài?
Tuyền cười, tỉnh bơ:
-- Thưa thầy em có học. Nhưng tự nhiên bị gọi lên bảng đứng cạnh thầy, em run quá,
quên hết mọi định luật, định đề.
Mấy chục cái miệng con gái không hẹn mà cũng mở ra cười hết cỡ. Thầy Đức trẻ măng, có lẽ chỉ hơn chúng tôi khoảng mười tuổi, đỏ mặt lên, cho Tuyền về chỗ. Nhưng sau đó thầy dẹp ngay “mầm mống nổi loạn” bằng cách kể lại với giáo sư hướng dẫn là cô Nguyệt dạy Quốc Văn. Cô Nguyệt cũng trẻ nhưng đi dạy đã gần mười năm, nên cô đầy đủ kinh nghiệm để đưa chúng tôi “vào khuôn khổ”.
Ấy vậy, nhưng thầy Đức dạy rất kỹ, và đã tạo cho chúng tôi một căn bản rất vững chắc về Hình Học. Bao nhiêu năm trôi qua, tôi vẫn nhớ lời thầy:
-- Các em phải giỏi Toán, mặc dù môn Toán không có ứng dụng thực tiễn trong đa số
nghề nghiệp, nhưng khi giỏi Toán, các em sẽ giỏi khả năng suy luận, yếu tố chính để thành công trong tất cả mọi lãnh vực.
Lời thầy lúc đó chúng tôi chưa thấy đúng hoàn toàn, nhưng hơn 20 năm sau, ở tuổi nửa đời người, chúng tôi hiểu thầy không chỉ dạy chúng tôi các trường hợp tam giác bằng nhau, những khái niệm về đường thẳng, đường cong, mà thầy còn tạo nền tảng cho khả năng suy luận của chúng tôi.
Năm đó, chúng tôi cũng có cô Liên dạy Nữ Công, hướng dẫn chúng tôi những bài học nữ công gia chánh, thêu thùa, nấu nướng, nghệ thuật làm “nội tướng” sau này. Cô Nguyệt dạy Cổ Văn xây nền móng đạo đức Đông Phương cho chúng tôi “Trai thì trung hiếu làm đầu, gái thì đức hạnh làm câu trau mình”. Cô Thanh dạy Kim Văn, kiên nhẫn dạy chúng tôi kỹ thuật viết những bài văn ngắn mạch lạc. Thầy Mẫn dạy vẽ, dạy chúng tôi biết thưởng thức tranh Picasso. Thầy Tỵ dạy nhạc đưa vào hồn chúng tôi những nốt nhạc trầm bổng cùng những bài hát thiếu nhi có tiếng sáo diều vi vu của mơ ước tuổi thơ. Thầy Mẫn dạy Pháp Văn dẫn dắt chúng tôi làm quen với ngoại ngữ đầu tiên trong đời…
Thầy Long dạy Vật Lý giúp chúng tôi suy luận và phán đoán những hiện tượng căn bản trong đời sống. Cô Tuyết dạy Hóa Học đưa đường dẫn lối cho chúng tôi nhìn mọi hiện tượng dưới lăng kính khoa học, và biết yêu thiên nhiên hơn.
Dĩ nhiên, chúng tôi vẫn kính trọng và biết ơn các thầy cô, nhưng phá thì vẫn phá, và hôm nào quên học bài thì có đủ thứ lý do để biện hộ.
Vào năm lớp bảy, năm học rơi vào đoạn cuối của chiến tranh, thời sự rất là dầu sôi lửa bỏng, nhiều nước mắt đổ xuống, chúng tôi vẫn nghêu ngao bài hát thầy Tỵ dạy chúng tôi năm đầu Trung Học “Tổ quốc vấn khăn tang, mây che phủ đầu…”. Nhưng thế giới học sinh của chúng tôi chưa bị khuấy động nhiều. Nên chúng tôi vẫn yên ổn học hành, vẫn yên ổn phá phách, mặc dù lòng có đôi lúc chùng xuống trước “đại bác đêm đêm, vọng về thành phố”, trước những tin tức chiến sự trên báo chí mỗi ngày.
Đa số chúng tôi vẫn trẻ thơ, vẫn chơi cò cò trước cửa lớp, vẫn cột áo dài lên, chơi u mọi trong giờ ra chơi. Nhưng một vài đứa trong lớp đã bắt chước người lớn đến trường với một lớp phấn hồng nhẹ trên má, với một lớp son phớt trên môi. Chừng đó thôi, so với các em cùng tuổi ở Mỹ bây giờ thì không có nghĩa lý gì. Nhưng thời đó, thập niên 70, đủ để các thầy, cô lên tiếng. Mở đầu là thầy Bình dạy Pháp Văn, cuối giờ học, sau khi đã hoàn thành một bài học mới, biết chia động từ ở quá khứ gần và xa, thầy chợt tằng hắng:
-- Đáng lẽ đây không phải là lãnh vực thầy nói với các em, mà nên để các cô, hay ba mẹ các em đề cập đến, nhưng vì thầy muốn các em có một thời mới lớn ngây thơ, trong sáng như tuổi mười hai, mười ba của các em nên thầy phải nói. Thầy không có ý phê bình bất cứ em nào trong lớp nhưng thầy chỉ muốn nhắn nhủ với các em rằng: người ta chỉ cần trang điểm khi người ta cần che dấu những vết hằn của năm tháng. Ở tuổi của các em, em nào cũng đẹp như những bông hoa hàm tiếu, không cần phải trang điểm các em vẫn rất đẹp vì các em đang bước vào những năm tháng đẹp nhất đời người.
Sau đó đến cô Diệp dạy Kim Văn, giáo sư Hướng Dẫn. Cô người Huế, tuy còn rất trẻ, nhưng rất nghiêm khắc, mặc dù cô rất thương chúng tôi:
-- Tại sao đang còn trẻ không muốn làm con nít, mà muốn làm bà già ở tuổi mười hai, mười ba? Trang điểm lên, các em vừa bị già hơn, mà làn da non mới lớn của các em còn bị tổn thương bởi những hóa chất trong mỹ phẩm. Người ta làm ra mỹ phẩm để giúp cho những người trên ba mươi tuổi che bớt những vết nhăn, đâu phải để cho những người mới lớn như các em hủy hoại làn da đẹp tự nhiên.
Rồi cô Khang dạy Vạn Vật, rất ít nói, mà cũng lên tiếng:
-- Người ta chỉ đi đóng phim, đóng tuồng khi người ta trưởng thành. Không ai trát phấn bôi son ở lớp bảy đâu các em ạ!
Cô Tài dạy Đại Số, vừa khôi hài, vừa mỉa mai:
-- Các em hơn cô nhiều, “trò hơn thầy là lớp có phúc”. Cho đến lúc rời trường Đại Học Sư Phạm cô vẫn chưa biết trang điểm.
Mãi cho đến bây giờ, đã xa rất xa thời tươi mát của tuổi mới lớn, mỗi lần phải “điểm phấn tô son”, lời thầy Bình, lời cô Diệp vẫn còn vang vang bên tai tôi.
Ngoài những bài học căn bản của lớp bảy, các thầy cô còn dạy chúng tôi rất nhiều điều, từ đạo đức căn bản của một con người, một công dân tốt đến tư cách một người đàng hoàng. Những đứa ngồi bàn đầu, đứa nào lỡ dại rung đùi, đều bị các cô nhắc nhở:
-- Con gái phải có ý tứ, không ai ngồi rung đùi như vậy, các em phải nhớ giữ ý tứ.
Hồi đó, còn thơ dại, nhiều lúc chúng tôi cũng bực mình vì bị bắt bẻ từng chút. Nhưng lớn lên, hiểu thêm nhiều điều, chúng tôi vô cùng mang ơn các thầy cô thời Trung học. Đôi khi các thầy cô chỉ dạy nhiều điều vượt quá khả năng hiểu biết của chúng tôi lúc đó, nhưng đã vẽ một đường đi rất rõ ràng, chính xác cho chúng tôi đến đạo làm người. Chẳng hạn, thầy Phận dạy Công Dân, cứ mỗi lần xong bài học, còn dư giờ, thầy đọc cho chúng tôi nghe một đoạn trong quyển “Le Petit Prince” của văn hào St. Exupery, tiếng Việt là “Hoàng Tử Bé”. Cho đến cuối năm lớp bảy, chúng tôi đã nghe trọn quyển sách triết lý nổi tiếng đó, nhưng… “nghe thì nhiều mà hiểu chẳng bao nhiêu!”
Khi lớn lên, ở tuổi hai mươi, tôi bắt đầu đọc lại “The Little Prince”, và đọc đi, đọc lại rất nhiều lần bằng cả ba thứ tiếng Việt, Pháp và Anh. Đến lúc tôi hiểu rõ mọi ý nghĩa triết lý của anh chàng Hoàng Tử bé hạt tiêu nhưng có những tư tưởng siêu việt thì tôi càng cảm nhận “Ơn Thầy” xứng đáng đứng hạng thứ ba sau “Công Cha, Nghĩa Mẹ”.
Cũng như thầy Phận, thầy Chí dạy Cổ Văn, (thầy chuyên dạy Triết ở Đệ nhị cấp, nhưng vì thiếu giáo sư, thầy dạy lớp chúng tôi) đã đưa vào tâm hồn chúng tôi những triết lý cao siêu của Phật Giáo, những “chánh kiến, chánh ngữ, chánh nghiệp…” mỗi cuối giờ Cổ Văn. Dĩ nhiên ở lớp bảy, chúng tôi… không hiểu gì hết! Lời thầy nói vào lỗ tai bên này, bay qua lỗ tai bên kia, bay vào hư không. Ấy vậy, mà những danh từ triết lý đó vẫn nằm ở một ngõ ngách nào đó trong tiềm thức chúng tôi. Rất nhiều năm sau này, tôi bắt đầu hiểu được những hạt giống tốt thầy đã ra công gieo vào tâm hồn mới lớn của chúng tôi. Hạt giống năm đó, chưa đúng điều kiện, chưa thể nẩy mầm. Đến khi chúng tôi lớn lên, khôn ra, đúng thời điểm, hạt giống tốt ngày xưa nẩy mầm, đơm hoa, kết trái. Chúng tôi mới hiểu ra những tư tưởng tốt đẹp các thầy muốn gieo vào tâm hồn còn trong trắng của chúng tôi lúc đó.
Bằng nhiều cách khác nhau, ngoài kiến thức căn bản của hai năm đầu Trung Học, các thầy cô đã tạo được một nền móng vững chắc của đạo làm người trong tâm hồn của mỗi chúng tôi.
“Ơn Thầy” được chúng tôi khắc ghi ở một vị trí đặc biệt trong lòng khi chúng tôi trưởng thành. Những học sinh ngây thơ của 7/1 ngày xưa, có đứa đã đứng ở bục giảng của trường Đại Học trong nước, có đứa đã đóng những vai trò chính yếu trong những công ty lớn, những bệnh viện từ Châu Mỹ qua Châu Âu, đã góp được bàn tay xoa dịu những bất hạnh đến từ mọi phía của những đồng bào không may. Và cũng có những thầy cô đã vĩnh viễn từ bỏ cuộc đời. Nhưng chúng tôi chưa có dịp nào để nói lời cám ơn từ tận đáy lòng, chưa mua được cho các thầy cô một món quà nhỏ nào. Nhưng hình như món quà lớn nhất mà chúng tôi đã mang lại cho các thầy cô là sự đóng góp của chúng tôi cho cả hai Tổ Quốc. Trong mỗi chúng tôi, có ba vị trí cao nhất trong lòng, chúng tôi vẫn dành cho Cha, Mẹ và Thầy Cô.
chsNQ Nguyễn Trần Diệu Hương
Với lòng tri ân sâu xa dành cho tất cả các Thầy Cô, những “người lái đò nhẫn nại” đã đưa chúng em đến bến bờ.
NGƯỜI MUÔN NĂM CŨ
(Tựa bài được đặt theo hai câu thơ của nhà thơ Vũ Đình Liên “Người muôn năm cũ bây giờ ở đâu?” để thành kính thắp nén hương lòng tưởng nhớ đến các Thầy Cô đã về với “hạc nội mây ngàn”, và các Cựu học sinh NQ đã vĩnh viễn “bỏ cuộc chơi”)
* Mùa Đông năm 1995, giữa lúc mọi người đang giăng đèn kết hoa để đón mừng Chúa Giáng Sinh, chúng tôi cũng mua hoa, mua đèn nhưng để viếng Thầy Phùng Thái Toàn, cố Giáo Sư dạy Lý Hóa ở Ngô Quyền vào đầu thập niên 70. Tôi chưa được hân hạnh học với Thầy Toàn, Thầy chuyên dạy lớp Mười Hai trong lúc tôi đang còn ở những lớp đầu tiên của bậc Trung học, nhưng đất khách quê người, Thầy lại không có gia đình nên học trò cũ của Thầy lẫn “học trò tương lai” như tôi tụ tập rất đông đủ để chào vĩnh biệt Thầy lần cuối. Đó cũng là lần đầu tiên tôi liên lạc với nhóm cựu học sinh Ngô Quyền ở miền Bắc California. Anh Thầy Toàn ở tận bên Pháp, nên ngay lúc Thầy vừa nằm xuống, ba người bạn thân nhất của Thầy lúc đó, có cô Tâm là Giáo Sư Sử Địa dạy tôi năm lớp Bảy, lo cho Thầy rất tận tâm, chu đáo. Trong lúc chờ anh Thầy bay qua từ Pháp, chúng tôi, cựu học sinh Ngô Quyền của rất nhiều niên khóa đã đến thăm Thầy lần cuối. Thầy nằm bình an, bỏ lại cuộc đời nhiều hệ lụy, bỏ lại nhiều định luật Vật Lý trong đầu những cô cậu học trò “thời mới lớn tuổi mười lăm mười bảy” của ngày nào. Trông Thầy không khác nhiều với những năm còn đứng trên bực giảng. Tôi không khóc như các chị đã được học Thầy nhưng khi đứng trước di ảnh của Thầy, tôi đã khấn:
“Kính thưa Thầy, em chưa được học Thầy ngày nào, nhưng xin được khấn Thầy thay cho các học sinh cũ của Thầy đã không có dịp chào Thầy lần cuối. Em cầu mong, kiếp sau nếu còn phải làm người, Thầy cũng sẽ đi dạy như Thầy đã làm từ ngày còn ở trong nước."
Trời mùa Đông ở miền Bắc CA lạnh buốt, chúng tôi thở ra khói, nhưng tôi tin ở một nơi nào đó trong cõi hư không, nhìn xuống cuộc đời, Thầy Toàn vẫn rất ấm lòng dù không có nhiều người để tang cho Thầy như những đám tang người quá cố có đông con cháu. Hình như tình nghĩa Thầy trò là nhiên liệu đặc biệt nhất sưởi ấm lòng Thầy trò chúng tôi mùa Đông năm đó.
* Nạn kẹt xe hầu như cả bảy ngày trong tuần ở Los Angeles đã ngăn không cho tôi đến viếng thầy Phạm Khắc Thành (cố Hiệu Trưởng Trung học Ngô Quyền đầu thập niên 70) lần cuối. Cả tôi lẫn anh bạn thân lái xe hôm đó đều không phải là dân địa phương nên chúng tôi đã đến trễ khi tang lễ Thầy đã xong. Hôm nay xin được viết một vài kỷ niệm về Thầy để thay cho nén hương trước linh cửu của Thầy mà tôi không còn dịp được thắp.
Tôi cũng không được hân hạnh học với Thầy Thành, nhưng tôi có một kỷ niệm rất đặc biệt với Thầy mà ít có học sinh nào có được. Hồi đó, năm 1973, thân phụ Thầy Phố qua đời ở Sàigòn, Thầy Thành với cương vị Hiệu Trưởng dẩn tôi và Phương (chúng tôi là học trò năm đó của Thầy Phố) vào tận chùa Vạn Hạnh phân ưu với Thầy Phố. Tôi còn nhớ hôm đó chúng tôi học buổi chiều, chuông vừa reo, Thầy Hưng, Giám Thị đến lớp chúng tôi với giấy mời Phương và tôi lên Phòng Hiệu Trưởng, chúng tôi xanh mặt, không biết mình đã làm gì để bị lên Văn phòng gặp Thầy Hiệu Trưởng. Nhưng sau đó, chúng tôi rất vui vì được nghỉ một buổi học, đại diện học sinh Ngô Quyền (đặc biệt là học sinh đang học với Thầy Phố niên khóa đó) đi Sàigòn viếng thân sinh Thầy Phố vừa mới qua đời.
Thầy dẫn hai đứa nhóc chúng tôi, ở tuổi mười hai lúc đó, ra bến xe đò di Sàigòn, đặt vòng hoa và mang đến chùa Vạn Hạnh chia buồn với thầy Phố.
Lúc đó, chúng tôi còn nhỏ, lại là con gái, mặc dù đi hai tay không (cặp sách để lại trong lớp nhờ bạn mang về) nhưng không giúp gì được cho Thầy, lại còn ham nhìn ngó đồ chơi bán hai bên lề đường, Thầy Thành vừa phải mang vòng hoa, vừa nhắc nhở, để mắt đến hai con nhỏ ham nhìn búp bê bán hai bên đường hơn là lo nhìn theo Thầy. Nhưng đến lúc thấy Thầy khệ nệ mang vòng hoa phúng điếu lên xe thì chúng tôi sực tỉnh, lo chạy theo Thầy, không bắt Thầy phải nhắc nhở. Trên đường về, ba Thầy trò đều ốm nên ngồi cùng trên một chiếc xích lô máy, ra bến xe về lại Biên Hòa, Thầy Hiệu Trưởng ân cần hỏi:
- "Các con có đói bụng không?"
Cả hai đứa đồng thanh:
- "Thưa Thầy không, tụi con muốn về nhà."
Thầy cười hiền từ:
- "Thầy đã cho người báo cho Ba mẹ các con biết hôm nay các con về trễ."
Đó là kỷ niệm duy nhất rất đặc biệt tôi và Phương, cô bạn thân cùng lớp có được với Thầy Hiệu trưởng Phạm Khắc Thành. Sau nầy, bên đời lưu lạc, có dịp gặp lại anh Luận, con Thầy, chúng tôi còn được biết thêm không những Thầy là một nhà mô phạm gương mẫu mà còn là một người cha toàn hảo. Được đi viếng người quá cố với Thầy nhưng khi đến phiên Thầy về với “hạc nội mây ngàn”, tôi đến trễ, không được chào Thầy lần cuối, xin được viết bài nầy như một nén hương lòng thành kính tưởng niệm Thầy.
* Khi được Ban Chấp hành HCHS NQ báo tin Thầy Nguyễn Minh Mẫn qua đời tháng 8 năm 2004 ở miền Nam CA, dù đang rất bận với một project quan trọng ở sở, tôi cũng thu xếp bay về viếng Thầy vì Thầy dạy Pháp Văn năm tôi học lớp tám. Kinh nghiệm từ lần đi viếng linh của Thầy Thành, tôi đến miền Nam CA từ buổi trưa, và nhờ anh Tuấn chị Hiền (là dân địa phương) đi đón để khỏi bị trể. Chúng tôi đến nhà quàn cùng lúc với rất đông cựu HSNQ khác, và rất đông các Giáo Sư NQ đến viếng Thầy. Chúng tôi lần lượt xếp hàng hai vào nơi Thầy an nghĩ trước khi về với cát bụi. Không hề sắp đặt trước, nhưng những bài học Công Dân Giáo Dục năm nào vẫn còn trong mỗi chúng tôi, nên những ba hàng ghế sắp sẵn được dành cho quý Thầy Cô, và các Anh Chị lớp lớn, tôi ở lớp sau, lặng lẽ đứng ở góc phòng, nghĩ về những ngày ngồi ở lớp 8/1 nghe Thầy dạy những bài học trong quyển “Cours De Langue” mà nghe cay ở mắt.
Chúng tôi lần lượt thắp hương cho Thầy, và xếp vòng tròn đến nhìn Thầy lần cuối. Thầy nằm đó, vẫn từ tốn, an nhiên như thuở còn đứng trên bục giảng, bắt chúng tôi kể về hai nhân vật Pierre và Marie bằng tiếng Pháp. Tôi lén lên nắm tay Thầy lần đầu cũng là lần cuối, bàn tay Thầy lạnh cóng nhưng hẳn là ở đâu đó Thầy đang nhìn xuống từ cõi hư vô, chắc lòng thầy vẫn ấm. Tôi khấn với Thầy:
-"Thưa Thầy, con là Diệu Hương, xin được khấn Thầy cho cả lớp 8/1 ngày xưa, tụi con xin cám ơn Thầy đã dạy dỗ tụi con nên người, và cùng xin lỗi Thầy nếu ngày xưa, còn nhỏ dại, đôi lúc ham chơi hơn ham học, đã có lúc làm Thầy buồn lòng. Con cầu xin, nếu kiếp sau vẫn phải làm người, con cũng xin được học với Thầy thêm lần nữa…"
Tôi cúi đầu chào Thầy lần cuối trong tiếng nấc của chị Minh Thủy, một đàn chị của lớp Pháp văn từ nhiều năm trước. Đó là lần đầu tiên tôi tiễn một vị Thầy cũ của mình ra khỏi kiếp nhân sinh.
Sau nầy, tôi được nghe Thầy Phố kể về những ngày cuối đời của Thầy Mẫn, không còn có học trò sớm thăm tối viếng như thời còn ở quê nhà, nhưng mỗi một lần Cựu Học Sinh NQ họp mặt, Thầy đều được các Thầy thế hệ sau đến tận nhà đưa đón Thầy để Thầy còn được dịp nhìn lại học trò cũ, nhiều người tóc đã trắng màu sương khói nhưng tinh thần “nhất tự vi sư, bán tự vi sư” vẫn còn đó không nhòa. Đó phải chăng là phần thưởng lớn nhất cho những người đã một thời đứng trên bục giảng?
*Mới đây, cận Tết âm lịch, vào một buổi sáng đến sở, check Email, nhận được tin Thầy Nguyễn Phong Cảnh lâm trọng bệnh phải vào Intensive Care Unit, tôi vội gọi điện thoại cho Thầy Phố báo tin vì linh tính cho tôi biết Thầy Cảnh sẽ không còn ở với chúng tôi được lâu. Thầy Phố, vừa là đồng nghiệp ngày xưa, vừa là hàng xóm bây giờ, vội vào thăm Thầy Cảnh, để kịp nói chuyện với Thầy trước khi Thầy chìm vào hôn mê, và ra khỏi kiếp nhân sinh.
Tôi cũng Email cho Thầy Thu, là đồng nghiệp dạy Toán của Thầy để báo tin Thầy đã trở bệnh rất nặng. Tôi không được hân hạnh là học trò của Thầy Cảnh, nhưng là một học sinh ban Toán ngày xưa, và đang làm một công việc đầy những dãy con số bây giờ, lúc nào tôi cũng rất quý trọng Thầy Cảnh nói riêng, và tất cả Thầy Cô dạy Toán nói chung. Dạo đó, công việc ở sở đang đến hồi tất bật nhất, phải đi làm đủ 7 ngày trong tuần, tôi không có dịp tiễn Thầy về với cát bụi, nhưng bằng Email và bằng website của Hội CHSNQ, tôi được thấy toàn bộ hình ảnh tang lễ Thầy từ ở Việt Nam cho đến Mỹ.
Một lần nữa, dù bận rộn với đủ mọi thứ trên đời, CHS Ngô Quyền và quý Thầy Cô đã tề tựu để viếng Thầy Cảnh lần cuối . Trong nước mắt tiếc thương của gia đình, học trò, và đồng nghiệp, chắc là Thầy ra đi thanh thản với nghĩa Thầy trò vẫn như xưa dù chúng tôi đã ở xa quê nhà hơn nữa vòng trái đất, và thời Trung học càng lúc càng nhạt nhòa trong ký ức…
Nguyễn Trần Diệu Hương
CA, tháng 3/2006
TẬP HỢP GIAO
(Xin kính tặng thầy Phố, thầy Thu, Cô Minh Tâm với tất cả lòng biết ơn của 7/1 ngày xưa.)
Ngày xưa, người ta có câu “tứ đại đồng đường” để chỉ những gia đình có phúc, có đủ bốn đời: ông cố, ông nội, cha và con ở cùng một mái nhà. Bây giờ ở tuổi nửa đời người, bên đời lưu vong, ít người có được diễm phúc đó, hay nếu có cũng không có được tôn ti trật tự kính trên nhường dưới như truyền thống gia đình Việt Nam.
Ở một khía cạnh tương tự, tôi thấy mình vô cùng may mắn vì được ở trường hợp của “tứ đại đồng đường”. “Tứ đại” của riêng tôi không phải là bốn đời trong gia đình, mà là bốn đời thầy trò. Thầy Phố, thầy Thu, tôi, và một cô học trò nhỏ ở trường Việt ngữ đã tạo nên được bốn đời thầy trò. Có nhiều điều để kể trong tứ đại, nhưng chỉ xin ghi lại điều cảm động nhất.
Vào giữa thập niên 1970, trước biến cố đổi đời của miền Nam Việt Nam, chúng tôi được học môn Công dân giáo dục với thầy Nguyễn văn Phố. Hình như lúc đó thầy chuyên dạy Toán, nhưng đến lúc chúng tôi vào Ngô Quyền, trường đang đà phát triển, mở rộng rất nhanh, thiếu giáo sư nên thầy dạy chúng tôi môn Công dân giáo dục. Thầy là người dạy chúng tôi những lễ nghĩa căn bản, biết kính trọng người già, biết dỡ mũ cúi chào khi đi ngang đám ma, biết giữ im lặng khi vào thăm bệnh viện… Thầy cũng đưa vào đầu chúng tôi những kiến thức đầu tiên về “Bản tuyên ngôn Quốc tế nhân quyền”, về tổ chức Liên Hiệp Quốc với những ông Tổng thư ký đủ mọi quốc tịch và màu da được bầu ra bởi tất cả những nước thành viên. Thuở ấy, còn nhỏ xíu, ra chơi còn nhảy cò cò trước cửa lớp, không một mảy may lo âu về nợ áo cơm, điều thầy dạy nằm sâu trong tâm khảm của tôi.
Gần 30 năm sau, mỗi năm đến tháng 12 ngày kỷ niệm thành lập LHQ, dù bận rộn tất bật đến đâu, đầu óc tôi vẫn quay về với lớp bảy một ở một góc của dãy lớp màu vàng ở trường Ngô Quyền, có cái dáng cao gầy của thầy Phố với những giờ Công dân giáo dục, với những kiến thức đầu tiên của chúng tôi về Liên Hiệp Quốc.
Cũng năm đó, tôi được học Toán, môn Đại số với thầy Diệp Cẩm Thu. Hình như năm đó, thầy Thu mới ra trường, thầy còn rất trẻ, còn bối rối mỗi khi mấy chục cái miệng con gái trong lớp chúng tôi yêu cầu thầy hát vào một giờ học gần Tết Nguyên Đán. Thầy đỏ mặt, cười chống chế:
_ Tôi chỉ biết làm toán, không biết hát.
Thầy Thu vốn ít nói nên chúng tôi không biết là thầy vừa đi du học ở Pháp về, có một điều quan trọng hơn, thầy cũng từng học Trung học Ngô Quyền như chúng tôi, và điều quan trọng hơn nữa thầy lại là học trò của thầy Phố. Hồi đó, khái niệm Tân Toán học mới được đưa vào trung học ở Việt Nam, không hiểu vì thầy Thu dạy dễ hiểu hay môn Tân Toán học có những vòng tròn, những chữ U quay đủ bốn hướng, có những phần giao nhau rất đoàn kết, gần ba thập niên qua, tôi vẫn nhớ đầy đủ những khái niệm về Tân Toán học với Tập hợp Giao, Tập hợp Hội… Hồi đó, nếu biết thầy cũng đã từng học Ngô Quyền chắc chúng tôi cũng đã “thấy người…giỏi, bắt quàng làm…đồng môn”.
Niên khóa đó, mỗi tuần chúng tôi có hai giờ Đại số của thầy Thu, một giờ Công dân của thầy Phố. Còn nhớ vào ngày thứ ba mỗi tuần, chúng tôi có giờ thứ hai là giờ Đại số, giờ kế là giờ Công dân, khi chuông reng báo hiệu hết giờ thứ hai, thầy Thu bao giờ cũng xóa bảng sạch sẽ, sửa lại khăn bàn tươm tất, kéo ghế ngồi trên bàn giáo sư ngay ngắn, thầy không bao giờ quên làm điều đó. Nhưng đến giờ Đại số ngày thứ năm, có lúc thầy xóa bảng, có lúc không, và thầy không kéo lại ghế ngồi như ngày thứ ba. Hồi đó là trưởng lớp, có bổn phận nhắc nhở đội trực trong ngày bôi bảng mỗi cuối giờ, hành động đó của thầy Thu dĩ nhiên gợi được sự chú ý của tôi, nhưng tôi chỉ nghĩ đơn giản là hôm thứ năm thầy có giờ kế ở một lớp khác phải đến ngay, hôm thứ ba thầy không phải dạy ngay liền sau giờ Đại số ở lớp chúng tôi.
Hồi đó, thầy Thu còn rất trẻ, thầy vẫn đỏ mặt lên mỗi lần mấy chục cái miệng con gái cùng cất lên:
_ Sao hôm nay (thứ năm) thầy không lau bảng dùm “ tụi con”?
Biết thầy còn trẻ, mới ra trường, chưa có kinh nghiệm “trị” chúng tôi, những người đứng hạng thứ ba trong câu ngạn ngữ “nhất quỷ, nhì ma, thứ ba học trò”, chúng tôi cố tình xưng “con” với thầy, thầy càng bối rối, phe ta càng toét miệng cười, cái cười rộng đến tận mang tai, không còn một chút gì là thùy mị, đoan trang của học trò con gái!
Mãi về sau, sau này, hơn ba mươi năm sau, tình cờ được dịp gặp lại thầy Phố trong những lần họp mặt Cựu Học sinh Ngô Quyền ở miền Nam California, tôi mới có câu trả lời chính xác tại sao thầy Thu chỉ lau bảng và sắp xếp bàn giáo sư tươm tất vào mỗi thứ ba. Là vì người dạy giờ kế, sau giờ Đại số của thầy Thu ở lớp7/1 ngày đó là thầy Phố. Tên giáo sư mỗi ngày ở sổ đầu bài đã cho thầy Thu biết điều đó, và thầy vẫn lặng lẽ thi hành bổn phận học trò với thầy cũ của mình.
Hơn ba mươi năm trước, thầy Thu dạy chúng tôi những khái niệm đầu tiên của Tân toán học trong lớp của dãy lầu màu vàng của Ngô Quyền xưa ở Biên Hòa. Ba mươi năm sau, thầy trò chúng tôi ở xa nhau nửa vòng trái đất, tôi vẫn học được thêm về nghĩa thầy trò từ thầy Thu.
Dạo đó, thầy sợ chúng tôi ham chơi, không lau bảng, thầy Phố vào dạy giờ kế phải tự xóa bảng, và phải hít thêm bụi phấn vào phổi, thầy lặng lẽ lau bảng để gánh bớt bụi phấn cho thầy cũ của mình.
Ngẫm lại điều đó, tôi vẫn thấy mình chưa trả ơn được nhiều cho các thầy cô giáo cũ như thầy Thu đã làm, nhưng cho đến lúc được nghe thầy Phố kể về một “tình cờ gặp gỡ” khác giữa thầy và thầy Thu, tôi mới thấy tình nghĩa thầy trò của thế hệ thầy Thu cao quý đến độ nào!
Sau năm 1975, đời sống trở thành “thương hải biến vi tang điền”, trật tự xã hội quay một góc ba trăm sáu mươi độ, tôi không còn được là học trò Ngô Quyền, và không bao giờ được thi Tú Tài như các lớp đàn anh, đàn chị. Nổi trôi cùng vận nước, thầy Phố cũng bị bắt buộc phải rời bục giảng, sống nhẫn nhục, cam chịu trong các trại cải tạo một thời gian, rồi thầy lưu lạc về tận Tây Ninh, thay vì cầm phấn viết bảng, thầy phải cầm kim khâu giày cũ. Vậy mà hình ảnh cao quý của thầy trên bục giảng ngày xưa ở Ngô Quyền không bao giờ mất trong lòng lũ học trò cũ, kể cả thầy Thu.
Một ngày đầu mùa hè cuối thập niên 70, hai người thầy của chúng tôi đã dựng lại hoạt cảnh “người học trò Carnot vĩ đại về thăm thầy cũ của mình” ở một lề đường của tỉnh Tây Ninh. Tôi chưa bao giờ được đến Tây Ninh, chưa bao giờ được thấy những lề đường của tỉnh lỵ nhỏ bé này, nhưng tôi tưởng tượng được toàn bộ hoạt cảnh “Carnot” của thời đại.
Năm đó, thầy Thu đi chấm kỳ thi “học sinh giỏi Toán” ở Tây Ninh, tình cờ thầy thấy thầy Phố ngồi sửa những đôi giày cũ ở lề đường; thầy ngồi xuống chuyện trò với thầy Phố, vẫn ân cần, vẫn lễ độ như thuở nào thầy còn ngồi trên ghế học trò ở Trung học Ngô Quyền và thầy Phố vẫn còn đứng trên bục giảng trắng màu bụi phấn. Tôi không được có mặt ở đó để viết nên một điều mắt thấy tai nghe, có lẽ sẽ là câu chuyện cảm động nhất trong những ngày tháng cầm bút nghiệp dư. Nhưng một phần tư thế kỷ sau, được nghe thầy Phố kể lại câu chuyện, mắt tôi vẫn nhạt nhòa, tim tôi vẫn đập mạnh hơn đầy xúc động về tình nghĩa thầy trò của hai người thầy cũ của tôi.
Và như thế, tôi nghĩ là thầy Thu đã là một ông Carnot vĩ đại như trong một bài Quốc văn tôi được học từ thời lớp Ba, và như thế, cả hai vị thầy ngày xưa của tôi đã dạy thêm cho tôi một bài học về đạo làm người, về nghĩa thầy trò, ngoài môn Công dân của thầy Phố, và môn Đại số của thầy Thu mà tôi đã được học từ thuở còn là một con bé cột hai đuôi tóc với nơ đỏ đi học mỗi ngày ở Ngô Quyền.
Học sinh Ngô Quyền ngày xưa, lưu lạc bốn biển năm châu, với đời sống rất riêng của mỗi người, nhưng hình như chúng tôi vẫn có một tập hợp giao, giống nhau ở chỗ chúng tôi vẫn kính trọng và biết ơn tất cả các thầy cô như từ thuở nào, chúng tôi còn nhỏ dại ngồi ở ghế học trò của Trung học Ngô Quyền.
Dù chúng ta có lớn, có già đến đâu đi nữa, dưới mắt của cha mẹ chúng ta vẫn dại khờ như thời nhỏ dại. Dù chúng ta có một địa vị xã hội cao đến đâu, dù tài sản của chúng ta có hàng chục con số không ở phía sau đi nữa, chúng ta vẫn là học trò Ngô Quyền một thuở nào, và vẫn là học trò của các thầy cô với những con mắt ngây thơ, dại khờ của thời mới lớn. Công cha, nghĩa mẹ và ơn thầy luôn được trân trọng ở một góc nào đó trong tâm khảm vì không có những ân nhân đó, chúng ta không bao giờ lớn nổi thành người.
Christmas 05, Santa Clara, CA.
Nguyễn Trần Diệu Hương