- Đại Sứ Thiện Chí
- Mẫu Số Chung Của Người Lưu Vong
- Ấn Tượng Đầu Đời
- Một Lần Thử Sức
- Niềm Tin Còn Đó
Đại Sứ Thiện Chí
"Sweet Tomatoes" không phải là những trái cà chua ngọt mà là tên nhà hàng quen thuộc của chúng tôi, một nhà hàng loại "salad buffet, all you can eat", mà có người dịch là "ăn bao bụng" nghe vừa trần tục, vừa đi xa nghĩa gốc của tiếng Mỹ! Ở đó mọi người đều trả một số tiền giống nhau cho bửa ăn và tha hồ ăn cho đến lúc bao tử không còn chổ chứa.
Ở đó, những anh chàng bồi bàn trong bộ đồng phục màu xanh như màu của những bông cải broccoli đi quanh các bàn ăn của thực khách, không phải để lấy orders mà chỉ là để thu dọn những cái dĩa dơ. Một người trong số họ, đội thêm cái mũ màu trắng của chef cook, cũng đi quanh các bàn ăn chỉ để mời khách ăn món bánh ngọt rất phổ thông của Mỹ "chocolate chip cookie" được các em bé và... rất nhiều người lớn thích. Những cái bánh cookies của "Sweet Tomatoes" có đủ tiêu chuẩn "bánh mới ra lò, nóng hổi vừa thổi vừa ăn" vì nhà hàng có cả một bakery, chổ sản xuất bánh ngọt làm bánh liên tục, nên quầy bánh ngọt của họ là nguyên nhân để "Sweet Tomatoes" trội hẳn so với những nhà hàng "Salad Buffet" khác.
Tôi mê "Sweet Tomatoes" vì đó là nơi tha hồ ăn mà không sợ bị mập ra, không sợ bị cả trăm thứ bệnh trên đời mang đến từ miếng ăn. Ở đó cũng là nơi "all you can eat" duy nhất bạn có thể ăn no càng cứng bụng mà không bị mệt mỏi, không bị buồn ngủ, không bị nhức đầu vì trong thức ăn có bột ngọt (MSG), không bị ám ảnh bởi bệnh cao máu, bệnh mỡ trong máu, bệnh tiểu đường... Ngay cả món kem tráng miệng cũng được làm tại chỗ rất fresh với sữa low fat hay skim milk được loại bỏ gần hết chất béo nên chúng tôi tha hồ ăn mà không bị e ngại số lượng calories nạp vào quá lớn có thể làm cho quần áo nhích lên một size trong thời gian rất ngắn. Tiệm ăn không có thực đơn mà chỉ có một quày rau dài khoảng 30 feet (khoảng chín thước) toàn rau tươi hay rau luộc đủ màu trông rất bắt mắt và hấp dẫn, chỉ tiếc là không có mùi thơm dễ chịu của những loại rau Việt Nam như rau thơm, tía tô, húng quế, diếp cá, ngò gai...
Hôm nào nhà hàng không đông khách, có thể tự ý chọn chỗ ngồi, chúng tôi đều chọn chỗ ngồi trong góc để có thể quan sát toàn cảnh tiệm ăn. Hơn thế nữa, phía trên cái bàn trong góc này còn có treo hình một con gà trống với cái mào đỏ và một bụi trúc trông rất giống hình trong quyển sách Tập đọc hồi Tiểu học ở Việt Nam.
Ở cái bàn trong góc đó, tôi đã gặp một "Đại sứ thiện chí" có trái tim bao dung và nhân ái. Lần đó, ở bàn bên cạnh, có một gia đình gồm hai vợ chồng và hai em nhỏ khoảng 6, 7 tuổi. Người chồng có vẻ là người Mỹ gốc Do Thái với cái mũi cao to, không lộ rõ ra ngoài lòng thương con như người vợ, dường như là một người Mỹ gốc Bắc Âu với đôi mắt màu xanh xám. Bà ta chăm chút cho hai đứa bé rất cẩn thận, lâu lâu lại đút cho đứa bé trai, hay thắt lại cái nơ màu hồng trên đầu cho đứa bé gái, chốc chốc lại hỏi hai em ăn có vừa miệng không" Có thích lấy thêm món nào nữa không"
Điều làm chúng tôi chú ý đến họ đến quên cả ăn vì đó có vẻ là một "international family", hai em đó chắc chắn không phải là con ruột của hai ông bà. Em trai có nước da màu sậm của người Phi Châu. Em gái rõ ràng là người Á Châu, nhưng không hiểu là người nước nào" Từ vị trí đang ngồi, chúng tôi không thấy được cặp mắt của em gái. Hình dáng của "cửa sổ tâm hồn" giúp chúng ta phân định được đó là người nước nào.
Trên cái khay thức ăn màu vàng có năm ngăn nhỏ dành cho trẻ em, thức ăn có đủ màu, trông khá vui mắt: từ màu vàng của bắp, màu xanh của những hạt đậu petit bois nho nhỏ, màu cam của cà rốt luộc cắt thành khoanh tròn, màu đỏ của củ dền thái thành sợi mỏng, màu trắng của những thỏi cheese hình vuông và của khoai tây luộc; nghĩa là đủ thứ thức ăn đầy dinh dưỡng của con nít ở Mỹ. Trước mặt mỗi em còn có một hộp sữa và một hộp nước cam nhỏ. Em trai ăn uống rất ngon lành, trong khi em gái uống nhiều hơn ăn.
Khi người cha đứng dậy đi lấy thêm thức ăn, em trai đòi đi theo. Bà mẹ hỏi em gái:
-"Do you want something else, honey""
Thật bất ngờ với chúng tôi, em gái buột miệng:
-"Má, cơm. I want some rice, mommy."
Ở bàn bên này, chúng tôi cùng nhận ra cô bé là người Việt Nam.
Tôi quay sang bàn bên cạnh làm quen với bà mẹ tóc vàng, mắt xanh của em và được "bà mẹ gà" cởi mở kể lại duyên cớ tại sao mình có "hai đứa con vịt".
-"Chúng tôi lấy nhau đã hơn mười năm nhưng không có con. Thay vì dùng đến những phương pháp nhân tạo, chúng tôi quyết định xin con nuôi. Dĩ nhiên, chúng tôi cũng muốn xin một trẻ sơ sinh cùng màu da với chúng tôi để lớn lên, cháu có cảm giác mình là con ruột. Chúng tôi chỉ đến điền đơn ở một "Adoption Agency" ở địa phương. Tưởng là đơn giản nhưng hồ sơ xin con nuôi phức tạp hơn nhiều người tưởng, có cả "Background check", "Credit check" chi tiết hơn cả việc đi mua nhà và đi xin việc, vừa để chắc chắn những trẻ em ngây thơ vô tội được vào một gia đình đàng hoàng, đứng đắn; vừa để xem quyết tâm của những người đi xin con nuôi. Cũng mất gần cả tháng, sau khi hoàn thành nhiều đơn từ, và đợi có kết quả của "Background check", chúng tôi được vào "waiting list" chờ xin con nuôi. Dù đã được nhân viên ở Agency cho biết muốn xin một em bé sơ sinh Caucasian, thời gian chờ đợi ít nhất là ba năm, lâu nhất là... vô hạn định, chúng tôi vẫn kiên trì chờ. Biết đâu nếu chúng tôi may mắn, một người nào đó ở trên đầu "waiting list" mỏi mệt bỏ cuộc sau bao nhiêu năm chờ đợi, hoặc đã sinh được con, chúng tôi sẽ có một em bé sơ sinh cùng màu da, để khi lớn lên cháu sẽ không có mặc cảm mình là con nuôi.
Để chuẩn bị cho một thành viên mới của gia đình, cái phòng trống trong nhà, chúng tôi đã chuyển thành "baby room" khi vừa hoàn tất thủ tục xin con nuôi. Nhưng ngày qua ngày, tháng nối tiếp tháng, và cả năm lần lượt trôi qua, bụi phủ đầy "baby room", thậm chí một vài món đồ chơi treo ở chổ có ánh nắng mùa hè chiếu vào đã bắt đầu bạc màu.
Ngày tháng dần trôi, hy vọng của chúng tôi càng lúc càng nhạt nhòa. Hình như thời buổi này, người ta không còn sinh đẻ nhiều như thời "baby boomer" của ba mẹ chúng tôi. Dạo đó, những người lính mới được về từ World War II, con nít liên tiếp chào đời, các vị bác sĩ OBGYN làm việc không lúc nào ngơi tay, đi đến đâu cũng thấy babies.
Vả chăng, hiếm khi có người chịu cho đứa con mình đã mang nặng đẻ đau ròng rã hơn chín tháng trời, và mang cả một phần DNA của mình.
Sang đến năm thứ sáu, chúng tôi không còn kiên nhẫn nữa, khi biết cái "waiting list" ngày càng dài thậm thượt, vì chỉ có nối vào ở khúc cuối, mà khúc đầu vẫn còn nguyên. Thế là chúng tôi có ý định xin con nuôi ở ngoại quốc. "Searching" trên internet cả tháng, chúng tôi vẫn chưa quyết định mình sẽ xin con nuôi từ nước nào vì mỗi nước có một luật lệ, thủ tục rườm rà riêng. Thoạt đầu, phạm vi của "international adoption" của chúng tôi mở ra đến Phi châu. Thủ tục đơn giản và dễ dàng hơn ở Mỹ nhiều, thời gian chờ đợi thường không quá ba tháng.
Vừa hoàn tất thủ tục xin con nuôi từ Phi Châu, một hôm, trong chương trình TV buổi tối, tôi thấy tài tử Angelina Jolie xin được một em bé Việt Nam mặt mũi kháu khỉnh, thông minh, chúng tôi đổi chuyến vacation từ Nhật qua Việt Nam, đến thăm các viện mồ côi, may ra tìm được một bé con nuôi. Không đặt nhiều hy vọng, chúng tôi chỉ đi thăm các viện mồ côi ở quanh Sàigòn và tìm được cô bé này."
Bà cười thú nhận rất thành thật:
- "Vì khác màu da, đương nhiên lớn lên các em biết mình là con nuôi. Nên chúng tôi chọn các em ở độ tuổi từ 5 đến 7 tuổi, ở tuổi đó, các em có thể nói ra điều mình muốn, đở vất vả cho chúng tôi nhiều."
Theo lời bà, mặc dù chưa biết đọc, biết viết rành rẽ, nhưng cả Tom đến từ Ethiopia lẫn Lynn đến từ Việt Nam đều nói rành rẽ ngôn ngữ mẹ đẻ của mình, và lâu lâu vẫn lộn ngôn ngữ gốc vào tiếng Mỹ. Như em Lynn lâu lâu vẫn gọi bà là "má" thay vì "mommy". Hơn thế nữa, các em mới về với cha mẹ nuôi ở Mỹ vài tháng nên thói quen tập quán ở quê hương gốc vẫn chưa phai nhạt nhiều.
Chúng tôi quan sát và một lần nữa nhận rõ thức ăn đầu đời ảnh hưởng đến thói quen của người ta như thế nào. Mặc dù ở giữa nhà hàng có cả chục món soup, hơn mười loại bánh mì, ba món mì sợi spaghetti là những món chính cho buổi ăn tối, Tom chỉ thích ăn bắp. Lynn chỉ thích ăn cơm, mặc dù đó không phải là loại cơm được nấu theo kiểu Việt Nam.
Chúng tôi xin phép bố mẹ nuôi của Lynn để được "phỏng vấn" em bằng tiếng Việt, và sẽ dịch ra tiếng Mỹ cho hai ông bà cùng nghe. Có lẽ cũng muốn biết thêm về background của cô con gái nuôi, họ vui vẻ bằng lòng cho chúng tôi tìm hiểu thêm về em.
Tôi đến quày bánh, chọn Angel Cake, một cái bánh được làm bằng lòng trắng trứng, rất giống với bánh bông lan Việt Nam, và một củ khoai lang màu đỏ cam đầy mật còn nóng để "hối lộ" cho Lynn trước khi hỏi chuyện em.
Ăn xong cái bánh, một phần củ khoai và nghe chúng tôi hỏi bằng tiếng Việt, cô bé Việt Nam 6 tuổi ngây thơ kể cho chúng tôi về chuyện mình "được qua Mỹ với Mommy và Daddy" bằng ngôn ngữ tuổi thơ rất chân thật và hồn nhiên với đôi mắt lãng đãng nỗi buồn:
-"Con không biết ba má đẻ ra con là ai. Ở viện mồ côi, con chỉ có các dì phước và má Bảy nấu cơm cho tụi con ăn. Con sắp được đi học ở các trường dì phước, hay của các sư cô, thì Daddy và Mommy của con đến xin đưa con về Mỹ. Con không muốn đi vì ở viện mồ côi con có nhiều bạn cũng nói tiếng Việt như con, con cũng giúp cho các soeur đút cơm và tắm cho các em nhỏ hơn. Các soeur biểu con đi vì qua Mỹ con sẽ có nhiều đồ ăn, nhiều đồ chơi, có cả búp bê biết nói nữa. Con không dám cải các soeur nên con đi theo Daddy và Mommy. Hồi con đi, mấy đứa bạn con trong viện mồ côi khóc nhiều, con cũng khóc theo... "
Khi chúng tôi hỏi về cuộc sống hiện tại ở Mỹ, đôi mắt màu đen của Lynn đổi từ xa xăm sang rạng rỡ:
-"Daddy và Mommy mua cho con nhiều đồ chơi, dạy con nói tiếng Mỹ, bây giờ con hiểu gần hết mọi điều Mom và Dad nói với con. Con được ăn ice cream mỗi ngày rất ngon, và có đến ba đôi giày màu hồng."
Chúng tôi quay lại dịch cho bố mẹ nuôi của em, với lời kết luận:
-"Lynn vẫn còn nhớ viện mồ côi của em, nhưng hạnh phúc khi sống với ông bà. Chúc mừng ông bà đã có một cô con nuôi ngoan ngoãn, dễ thương. Chỉ độ một năm nữa thôi, ông bà có thể hỏi thẳng em và sẽ được nghe em kể bằng tiếng Mỹ về nơi ở đầu đời của em."
Khi cái "gia đình quốc tế" ở bàn bên cạnh chào chúng tôi ra về thì Lynn chạy đến hỏi tôi một câu hỏi mà tôi không thể có câu trả lời chính xác cho em:
-"Cô ơi, khi nào con được về thăm các bạn, các soeur và má Bảy hả cô""
Tôi ngồi xuống để ánh mắt mình ngang tầm với mắt em, nhìn thẳng vào đôi mắt ngây thơ bằng cái nhìn cảm thông, và trả lời bằng tiếng Mỹ để bố mẹ nuôi em có thể nghe được:
-"Nếu Lynn ngoan, kính trọng và nghe lời Daddy, Mommy, chịu khó học hành cho giỏi, thì ở Việt Nam má Bảy, các bạn, và các soeur cũng vui như được gặp Lynn vậy. Khi nào Lynn viết tiếng Mỹ giỏi thì nhờ Daddy và Mommy gởi thư về thăm các soeur và các bạn. Lynn càng ngoan, càng học giỏi thì càng mau được về thăm viện mồ côi. Cô chắc chắn nếu Lynn ngoan và giỏi thì sau này Lynn sẽ được về thăm lại Việt Nam."
Bạn tôi hỏi lại em bằng tiếng Việt:
-"Con có hiểu hết mọi điều vừa nghe không""
Cô bé Việt Nam trả lời bằng cả hai ngôn ngữ:
-"Yes, I do. Dạ hiểu."
Quay sang bố mẹ nuôi của em, tôi nói mà như nói với chính mình:
-"Tổ chức UNICEF của Liên Hiệp Quốc vẫn phong tặng danh hiệu danh dự "Đại sứ thiện chí" cho những người nổi tiếng với các hoạt động thiện nguyện có tính cách quốc tế, đặc biệt là nuôi con nuôi ở ngoại quốc. Nhưng với tôi, ông bà thực sự là một trong những "Đại sứ thiện chí" rất thầm lặng, đáng quý nhất."
Chúng tôi nhìn theo cái dáng bé nhỏ của em khuất sau cửa ra của "Sweet Tomatoes" mà nghỉ đến khuôn mặt bầu bĩnh của Pax Thiên, con nuôi của cặp tài tử nổi tiếng đương thời ở Mỹ. Cầu mong cho hàng ngàn em bé mồ côi khác được những gia đình người Mỹ có tấm lòng nhận làm con nuôi, để các em có được một cuộc đời mới, bình an, tốt đẹp hơn, được lớn lên no đủ dưới bầu trời tự do.
Cũng như chúng tôi, bây giờ và trong những ngày tháng tới ở tương lai, những ngày tháng lưu lạc quê người dài hơn thời gian sống trên quê hương chôn nhau, cắt rốn của mình, nhưng thói quen, tập quán đầu đời vẫn còn nguyên. Mỗi ngày chúng tôi vẫn ăn bông cải xanh broccoli mà nhớ đến bông cải trắng cauliflower nho nhỏ của Đàla.t năm xưa, ăn miếng cheese cake màu trắng ngà mà lòng vẫn tưởng nhớ đến món bánh gan mát lạnh màu nâu vàng làm bằng trứng vịt mẹ vẫn cho ăn thời xưa trước năm 1975; Lynn sẽ sống cả cuộc đời còn lại với bố mẹ nuôi người Mỹ nhưng tôi tin chắc từ tận cùng ký ức, em vẫn không quên những củ khoai lang nhỏ bé mộc mạc, thô sơ, không to quá khổ và đầy ắp mật ngọt như "sweet potatoes" ở Mỹ, mỗi lần ăn những dĩa cơm nấu bằng gạo Mỹ có trộn đầy butter và các loại herb, Lynn sẽ nhớ đến những chén cơm trắng nấu bằng lúa miền Tây ở viện mồ côi thuở đầu đời.
Mùi thơm nhẹ nhàng, ngan ngát của tía tô, rau thơm, húng quế, diếp cá, ngò gai... vị ngọt đằm thắm của xôi nếp một, vị ngọt đậm đà của đường mía lau một cách nào đó vẫn hiện diện trong một góc bình yên nhất ở tâm hồn của Lynn, của tôi, của cả triệu người Việt Nam phải sống đời lưu lạc...
Dedicated to bac Dinh va chi Dung with special thanks
Mẫu Số Chung Của Người Lưu Vong
Từ nhỏ đến giờ, chưa bao giờ tôi phải dùng đến đồng hồ báo thức. Mỗi lần có chuyện gì phải dậy sớm, tiềm thức tôi làm việc ngay cả trong giấc ngủ, nên bao giờ tôi cũng trở dậy đúng giờ, ngay cả trong những năm mười lăm mười bẩy, mê ăn mê ngủ, tôi luôn ra khỏi giường trước giờ phải thức giấc ít nhất là mười lăm phút.
Thói quen dậy sớm đó theo tôi vượt biên, lưu lạc ở Mã Lai, Phi Luật Tân, Nhật rồi đến quê hương thứ hai ở Mỹ. Dù ở đâu, đêm trước dù có đi ngủ rất trễ, hôm sau tôi vẫn thức giấc đúng giờ. Mỗi lần đi business trip hay đi du lịch, bao giờ tôi cũng chọn chuyến máy bay sớm nhất trong ngày vì tôi thuộc loại người quen dậy sớm, như người Mỹ vẫn gọi là "morning person". Do vậy, tôi phải đến phi trường rất sớm khi các xa lộ chưa đông lắm vì cả thành phố lẫn dân địa phương vẫn còn chìm trong giấc ngủ. Nhưng lúc đó, tôi có cảm giác tiền đóng thuế từ mỗi paycheck của minh chỉ dành để xây dựng những xa lộ rộng mênh mông, không bị kẹt xe như giờ đi làm hay giờ tan sở, nhìn từ máy bay, các xa lộ giống như một bãi đậu xe rộng và rất dài, xe cộ phải nhích lên từng thước một.
Chiều hôm trước, vừa sắp xếp đồ vào vali, vừa nói chuyện qua điện thoại với một công ty shuttle bus chuyên đưa người ra phi trường, tôi yêu cầu một người nữ tài xế để đỡ bị ám ảnh bởi những bài báo có những ông tài xế Taxi không tốt thảng hoặc vẫn xẩy ra đâu đó trong nước Mỹ. Hôm đó không có một tài xế nữ nào làm việc trong khoảng thời gian tôi cần xe taxi. Chừng như hiểu ý tôi, người trực điện thoại trấn an tôi:
- Chúng tôi sẽ sắp xếp cho cô một tài xế cẩn thận và tốt nhất trong các nhân viên của Công ty chúng tôi.
Sáng sớm, tôi trở dậy trước khi "wake up call" của khách sạn reng lên từ điện thoại. Và rất đúng hẹn, chiếc shuttle bus mầu vàng đã chờ sẵn ở cửa chính của khách sạn. Người tài xế khá đứng tuổi, với tiếng Mỹ đầy accent của tiếng mẹ đẻ, mở cửa xe sẵn sàng với nụ cười thân thiện làm tôi yên tâm hơn:
- Good Morning, cô đến phi trường LAX phải không" Hãng máy bay nào vậy"
Chưa đầy sáu giờ sáng, mặt trời còn ngái ngủ, thấy người tài xế tóc trắng mầu sương khói có vẻ phúc hậu, tôi cười đáp lại ân cần:
- Ông, ông có muốn uống cà phê từ khách sạn không" Tôi trở vào lobby lấy cà phê cho ông" Tôi sẽ đi máy bay của Southwest.
- Cảm ơn cô rất nhiều, tôi vừa ghé một tiệm Starbucks ở đầu đường.
Chiếc mini van mầu vàng bắt đầu vào xa lộ khi trời hừng sáng, đèn đường vừa tắt, nhường chỗ cho mặt trời soi sáng những lối đi của xa lộ hãy còn thênh thang, chưa bị kẹt xe. Hình như đó cũng là lúc dễ lái xe nhất trong ngày.
Người tài xế, ở vào độ tuổi sắp bước vào sáu mươi, không phải tập trung vào việc lái xe, rất cởi mở kể cho tôi nghe những vui buồn trong nghề lái xe taxi của mình, khi tôi hỏi ông trung bình mỗi ngày bao nhiêu lần ông đến phi trường" Ông kể về những hành khách thuộc đủ mọi quốc tịch mà ông đã có dịp đưa đón, từ những người Mỹ bản xứ, rất thực dụng nhưng cũng rất hào phóng khi cho tiền tip, đến những khách du lịch đến Mỹ, rất dễ nhận ra nhờ giọng Mỹ rất cứng, đầy aaccent tiếng mẹ đẻ và quyển tự điển song ngữ trên tay. Ông hỏi tôi gốc gác ở đâu" Như từ bao giờ, tôi vẫn tự hào trả lời mình là một thuyền nhân đến từ Việt Nam.
Có vẻ là một người biết chút ít về Việt Nam, người tài xế hỏi tôi:
- Vào đầu những năm 80, cô có thấy người Nga ở Việt Nam không"
Câu hỏi đưa tôi về với hình ảnh những người được gọi là "chuyên gia" Nga mà vào cuối thập niên 70, chính quyền ở trong nước không muốn người dân tiếp xúc nhiều.. Chỉ cần cho tôi xác nhận có biết về những người Nga, ông tài xế người Mỹ gốc Afhganistan như chạm đến nỗi lòng kể cho tôi nghe cả một "ân tình mang theo" từ ngày bỏ quê nhà ra đi.
Ông Kal, tên người lái xe, cũng là một người lưu vong như tôi, và cả trăm ngàn người Mỹ gốc Việt khác, đã kể cho tôi nghe về quãng đời lưu lạc của ông từ khi ông trốn khỏi quê nhà, dưới sự thống trị của "Liên bang Sô Viết" hay Cộng sản Nga thời đó. Thì ra nỗi lòng của những người Mỹ gốc ngoại quốc lưu vong (dù là gốc Ba Lan, gốc Nga, gốc Cuba, gốc Việt Nam, hay gốc Trung Hoa...) đều có một mẫu số chung,. giống nhau ở chỗ "nỗi niềm mang theo" luôn có sự ghê sợ chính quyền Cộng sản đã một thời áp bức mình ngay trên quê nhà.
Hồi đó, không chịu nổi sự thống trị sát máu của chính quyền Sô Viết từ Nga, ông Kal đưa cả gia đình gồm vợ, mẹ và hai con còn rất nhỏ vượt biên giới trốn khỏi Afghanistan. Sau nhiều gian khổ như mọi cuộc vượt biên giới, ông và cả gia đình được nhận vào Mỹ như những người tỵ nạn chính trị. Gia đình ông gồm năm người, chỉ có hai người ở trong độ tuổi lao động bắt đầu cuộc sống mới với hai bàn tay trắng như hầu hết những người lưu vong khác. Gánh nặng đè lên vai của hai vợ chồng người Afghanistan tỵ nạn Cộng sản gồm bà mẹ già, hai đứa con nhỏ, cái gia tài chỉ vỏn vẹn mấy tấm hình gia đình và mấy bộ quần áo. Lúc đó là đầu mùa hè, mùa hái ra tiền của những Công ty xây dựng, ông Kal được nhận làm như một người phu thợ hồ, một cái nghề không liên quan gì đến một thời ông đã đứng trên bục giảng một trường Trung học ở Afghanistan, Bà vợ chưa từng đi làm ngày nào hồi còn ở trong nước như hầu hết đàn bà con gái ở Afghanistan- xin vào làm người dọn dẹp phòng ngủ ở một khách sạn lớn. Mỗi tối hai vợ chồng về nhà, người mỏi nhừ vì công việc lao động chân tay họ làm suốt tám tiếng, nhưng họ không hề ân hận mình đã trốn khỏi quê hương để sống ở quê người. Mọi việc ở nhà trông cậy vào bà cụ thân sinh ra ông, từ việc nấu nướng, dọn dẹp, đến đưa đón hai đứa con nhỏ đi hoc ở trường Tiểu học cách nhà chỉ một block.
Hiểu rõ nỗi vất vả của con trai và con dâu, hiểu rõ thân phận lưu vong của mình, bà cụ chu toàn bổn phận của mình một cách toàn hảo, mặc dù bà không biết lấy một câu tiếng Mỹ. Bà không dám nhấc điện thoại mỗi lần chuông điện thoại reo, vì biết là mình không thể hiểu được ngôn ngữ ở quê người. Ông Kal lập ra một quy ước để cả gia đình có thể liên lạc với bà cụ qua điện thoại. Chuông điện thoại reo 3 tiếng, họ gác máy, gọi lại lần thứ hai, lúc đó, bà cụ biết đó là điện thoại từ người nhà, an tâm nhấc máy.
Đi chợ hay đi xe bus ở Mỹ thì đâu cần phải hiểu hay nói được tiếng Anh. Điều thống nhất tuyệt vời của ngôn ngữ là những con số, bao giờ cũng giống nhau, dù ở một quốc gia nào. Cứ thấy người khác làm sao thì mình làm theo y như vậy.
Mỗi lần đến một nơi nào cần phải giao tiếp bằng tiếng Mỹ, một trong hai đứa cháu của bà đi theo để làm thông dịch viên cho bà nội, từ thời hai cậu bé còn ở trường Tiểu học mãi cho đến bây giờ đã trở thành hai thanh niên ở trường Đại học, vẫn ngoan ngoãn đưa đón bà nội quê mùa, mỗi lần ra khỏi nhà vẫn có một miếng khăn nhỏ phủ từ đầu xuống đến lưng như từ hồi còn ở quê nhà. Từ gương hiếu thảo của bố, hai cậu con trai biết bổn phận của mình đối với cha mẹ và bà nội.
Khi nhân dân Đông Âu đứng lên lật đổ được chế độ Cộng sản, Cộng hoà Liên bang Sô viết tan ra nhanh chóng như một tảng nước đá lớn bị một vòi nước sôi tưới vào, đất nước Afghanistan của ông Kal được thoát khỏi sự xâm lược đó đã để lại một hệ quả tai hại lâu dài trên một đất nước nhỏ bé. Từ tài nguyên vật chất đã bị ngoại bang rút riả rất nhiều, đến gia sản tinh thần văn hóa của người Afghanistan cũng bị băng hoại.
Ông Kal chưa từng về thăm lại quê nhà từ ngày lưu vong, nhưng mẹ và vợ ông đã về thăm lại quê nhà. Lúc trở lại Mỹ, cả hai người đều rất buồn, họ kể lại cho ông Kal nghe về một thế hệ con nít lớn lên ở Afghanistan không còn giữ được lễ nghiã, truyền thống của dân tộc nhỏ bé này. Ngay cả những người quen biết cũ của họ, sau một thời gian dài sống dưới sự thống trị của chính quyền Cộng sản Nga, bản chất cũng biến đổi, họ trở nên gian trá, lọc lừa hơn, và trái tim đầy tình người ngày xưa từ từ khô héo dưới thời chính quyền Cộng sản thống trị, chừng như chẳng thể tìm lại được tươi mát, để xúc động trước nỗi bất hạnh của đồng loại ngày nào.
Tất cả những mất mát đó là một nỗi buồn trong tâm hồn ông Kal, vẫn đang trào lên như nước thủy triều mỗi lần ông chở một người khách nói tiếng Mỹ với accent của người Nga trên chiếc Taxi quen thuộc của mình.
Ông cười buồn kể lại với tôi:
- Vẫn biết là những người Nga đó không phải là người trực tiếp gây ra những hậu quả đáng buồn hiện nay ở Afghanistan nhưng cứ nghe giọng nói của họ là nỗi buồn tận tâm hồn của tôi lại dăng đầy chất ngất.
Tai tôi vẫn nghe người tài xế Mỹ gốc Afghanistan kể lại cả một "nỗi niềm" canh cánh trong lòng, mắt tôi vẫn thấy cảnh xe cộ nối tiếp nhau rất trật tự trên những xa lộ thênh thang của một nước Mỹ giầu mạnh, nhưng tâm hồn tôi lại hướng về đất nước Việt Nam thân yêu, tội nghiệp của mình ở tít tắp bên kia Thái bình dương.
Rồi cả ông Kal lẫn tôi đều im lặng thả hồn về quê cha đất tổ của chính mình.
Ở đó, ông Kal đã một thời bị áp bức bởi những người Cộng sản Sô viết, lúc đó ông là một người trung niên ở tuổi ngoài ba mươi chỉ có quá khứ mà không có tương lai. Ở đó, ở "quê hương là chùm khế ngọt" của tôi, có một thời tôi vừa bước khỏi tuổi thơ, miệng còn hơi sữa, mặc dù không còn có sữa để uống, không có quá khứ và cũng không có cả tương lai dưới chính sách khắc nghiệt của những người Cộng sản cùng gốc Việt Nam với mình.Không quen chia sẻ "nỗi niềm" với một người lạ, tôi chỉ mỉm cười, an ủi ông Kal:
- Là một thuyền nhân, đến Mỹ bằng quy chế tỵ nạn, tôi hiểu ông nhiều, như hiểu rất nhiều người Mỹ gốc Ba Lan, gốc Tiệp khắc, gốc Cu ba, gốc Trung cộng. Cứ tin là "sau cơn mưa trời bao giờ cũng sáng", đến một lúc nào đó, sẽ không còn có áp bức, đói nghèo trên quê nhà của ông, của tôi và của nhiều người lưu vong khác. Tôi tin như vậy, ông cũng nên tin, để còn có sự lạc quan cần thiết trong cuộc sống đầy tất bật ở quê hương thứ hai.
Đó là lời kết luận của tôi, khi tôi chào người tài xế lái taxi phúc hậu, với nửa trái tim luôn hướng về quê nhà.
Trời sáng rõ, tôi xách hành lý vào "security check line", kịp nhìn thấy mặt trời vừa ló dạng ở phương Đông, hy vọng sẽ chiếu rọi ánh sáng của trí tuệ và văn minh đến tất cả những nước ở khối đang phát triển, trong đó có quê hương thân yêu tội nghiệp của mình.
Ấn Tượng Đầu Đời
Cuộc cắm trại ở Yosemite mở lại ký ức của tôi về thời Trung Học mới lớn của thập niên tám mươi. Những cây cổ thụ và phong canh hoang dã của công viên quốc gia ở miền Trung của California mang tôi về lại vùng khai hoang kinh tế mới của núi rừng Khánh Sơn ở ngoại ô Nha Trang, miền Trung Việt Nam.
Hồi đó, để được thi tốt nghiệp Trung Học, chúng tôi phải đi lao động hai tuần, đốt rẫy, và đốn cây, xây nhà ở vùng "kinh tế mới". Những lớp chuyên Toán bị đày đi trước vì đó là những lớp mà chín mươi phần trăm là nam sinh, ít nhất có thể nhấc cuốc, vung xẻng cao hơn nữ sinh, có thể có "năng suất" và "hiệu quả lao động" cao! Sau Tết vài tuần, chưa kịp thi học kỳ II trong năm, chúng tôi bị đưa lên rừng núi Khánh Sơn bằng những chiếc xe tải, loại xe chở trâu bò ở nông trại, không có ghế ngồi. Lúc đầu, chúng tôi còn đứng, về sau mỏi chân quá, đành phải ngồi bệt xuống sàn xe, vừa dơ, vừa nóng. Ngồi trên xe bao quanh là cuốc xẻng, dù có lạc quan đến đâu, đứa nào cũng thấy tương lai rất là mù mờ, ảm đạm, mặc dù lớp chúng tôi là lớp giỏi nhất của khối chuyên toán, với triển vọng nhiều hứa hẹn nếu không có "bức tường lý lịch" và quan niệm "hồng thắm chuyên sâu" ngăn cản. Trên đường ra khỏi thành phố, mặt chúng tôi chảy dài, cười không nổi vì thấy mình giống thú vật hơn là giống người. Bạn có tưởng tượng được những học sinh lớp mười một ở tuổi mười sáu đẹp nhất đời người, lại là những học sinh chuyên toán, nguồn chất xám không dễ kiếm ở bất cứ một đất nước nào, chưa một lần cầm cuốc xẻng, bị đưa bằng xe chở súc vật đi khai hoang ở núi rừng hoang vu" Hình ảnh đó tương phản với hình ảnh những học sinh Trung Học ở Mỹ đi fieldtrip hay summer camping trên những chiếc xe bus màu vàng có hai hàng ghế nệm màu đen chạy song song. Đó là lý do tại sao thế hệ chúng tôi trưởng thành, sâu sắc và khôn hơn tuổi thật của mình. Đó là lý do tại sao chất xám Việt Nam luôn luôn chảy đến quê người.
Chiều hôm đó, chúng tôi và thầy, cô hướng dẫn bị bỏ xuống ở ven rừng Khánh Sơn, hoang vu, không một bóng người chỉ có chim kêu vượn hú, bụi đất và cây rừng. Nữ sinh chúng tôi đã bắt đầu rơm rớm nước mắt. Các bạn Nam sinh, đúng nghĩa phái mạnh, mạnh hơn cả về thể lực lẫn tinh thần, đi gom những thanh cây rừng về đốt lửa lên, vừa để thú vật khỏi đến gần, vừa có ánh sáng, và vừa để sưởi ấm. Một số khác căng lên ba lều lớn cho thầy và chính mình, và một lều nhỏ cho cô và các nữ sinh. Dũng, "lớp phó lao động" còn cố cười, cái cười gần như mếu:
- Đừng khóc nhè, nước mắt không giải quyết được gì hết! Cố lên, tụi mình chỉ ở đây hai tuần thôi. Soạn đồ ra ăn, để tụi này còn có sức căng lều, không thôi phải ngủ giữa rừng, vừa lạnh, vừa nguy hiểm.
Đêm đó, chúng tôi ăn uống đồ nguội mang theo từ nhà dưới ánh lửa bập bùng, trông rất giống "caveman", người tiền sử của thời kỳ đồ đá. Đúng như lời một nhà Triết Học đã khuyên "Thà bật một que diêm còn hơn ngồi nguyền rủa bóng tối", giữa rừng thưa buồn, chuyên môn thuốc men lại chẳng có, nên bệnh gì cũng cho uống thuốc "xuyên tâm liên". Người ta đến phòng khám để tìm một lý do hợp pháp được miễn lao động hơn là hy vọng được chữa bệnh bởi những bác sĩ "Xuyên tâm liên". Do vậy hai người bạn của chúng tôi phải uống những viên thuốc còn lại từ trước 75. Đã quá date, expired từ lâu, nhưng "có còn hơn không"! Sức khỏe ở giai đoạn sung mãn của "tuổi mười bảy bẻ gãy sừng trâu". Những viên thuốc trị sốt rét quá hạn từ lâu cũng giúp các bạn hồi phục dù rất chậm. Cách duy nhất chúng tôi có thể giúp bạn là thay phiên nhau ghi chép bài cho bạn.
Về lại thành phố, trở lại lớp, từ lúc đó cho đến cuối năm học, sĩ số lớp học cứ nhỏ dần, nhỏ dân vì rất nhiều người bạn cùng lớp đã "bỏ cuộc chơi", bỏ lớp chuyên toán, không phải để lấy vợ hay theo chồng mà để tìm một quê hương khác, ở đó không có trại cải tạo giam giữ những người hoàn toàn lương thiện, ở đó không có cảnh học sinh Trung Học bị đưa lên lao động giữa rừng rú xa xôi, hui quạnh. Đến lúc chúng tôi thi tốt nghiệp Trung Học thì lớp học chỉ còn vỏn vẹn 32 học sinh so với 48 học sinh của đầu niên khóa. Lúc đó, một số bạn chân ướt chân ráo ở quê người, một số còn đang tạm cư ở trại tị nạn, và một số đang chuẩn bị "bỏ cuộc đời".
Những năm cuối Trung Học của chúng tôi, cứ mỗi sáng đến trường, một chỗ ngồi nào đó bỏ trống, không hẹn mà cả lớp cũng không nhắc đến bạn, và cũng thầm cầu nguyện cho người bạn cùng lớp của mình được may mắn "xuôi buồm thuận gió", "chân cứng đá mềm" đến bờ bến tự do. Chúng tôi còn tìm cách bao che cho bạn mình khi thầy chủ nhiệm (là một thầy giáo miền Bắc mới vào Nam sau tháng 4/75) hỏi về chỗ ngồi bỏ trống. Những thầy cô giáo miền Nam thì thông cảm hơn, không hề hỏi đến những học sinh vắng mặt, và còn chia xẻ nỗi ưu tư với chúng tôi bằng ánh mắt ái ngại và thương xót. Đôi khi, không may, chuyến vượt biên không xuôi lọt như dự định, bạn quay về, đầu bị cạo trọc như tài tử Bruce Willis của Mỹ, mắt sâu hơn, một chút xíu hồn nhiên còn lại cũng biến mất. Dưới ánh mắt quan sát cú vọ của một vài "Đoàn viên Thanh Niên Cộng Sản" học cùng lớp, chúng tôi không dám hỏi bạn, chỉ chia xẻ nỗi niềm bằng ánh mắt thông cảm.
Sau này, khi đã gặp lại nhau "bên đời lưu lạc", chúng tôi vẫn bùi ngùi nhắc lại những kỷ niệm chua xót, nhiều hơn là ngọt ngào thời Trung Học của mình. Nhưng có lẽ cũng nhờ lớn lên trong điều kiện hết sức khắc nghiệt, không hề có một chút mơ mộng của thời mới lớn tuổi mười lăm, mười bảy, không có áo dài trắng thướt tha, không có đồng phục học sinh, và không có hồn nhiên của tuổi học trò, thế hệ chúng tôi thâm trầm và khôn ngoan từ tuổi mười bốn, mười lăm, hơn các em học sinh Trung Học bây giờ rất nhiều. Dạo đó, các thầy cô đã nói chuyện với chúng tôi:
- Các em có khuôn mặt hãy còn bún ra sữa, nhưng có một cái đầu cứng đủ để chọi lại với mọi bức tường.
Ỏ Mỹ, các em học sinh Trung Học có "Senior Prom", có xe Limousine đưa các em đến dạ hội cuối năm lớp mười hai, có quần là áo lượt. Ở Việt Nam, đầu thập niên 80 có xe chở súc vật đưa chúng tôi đến lao động khổ sai ở rừng thưa hoang vu, vắng vẻ, áo quần tối đen như màu sắc của tương lai, có những cơn mưa rừng ào ạt đổ về, mái lều yếu ớt không chịu nổi cơn cuồng nộ của thiên nhiên, mặt đứa nào cũng ướt, không biết là do mưa rừng, do nước mắt, hay cả hai" Buồn bả, quạnh hiu, một cây guitar cũ được mang theo cùng với cuốc xẻng và thức ăn khô, đã giúp chúng tôi có những buổi cắm trại đêm với những bài hát hướng đạo bên lửa trại bập bùng.
Ở một xó rừng hoang vu, hẻo lánh, không có những "Đoàn viên Thanh niên Cộng sản" luôn để mắt theo dõi để báo cáo cho "Đảng và Đoàn" chúng tôi tha hồ hát những bài hát phản ảnh đúng tâm trạng chúng tôi:
"Trong đêm u tối có bao lời trăn trối, trong đêm u tối có bao lời trăn trối..." rồi "Một ngày đã qua đi mà không cho ta gì, mà không cho ai chi là một ngày mất đi, tuổi thơ đâu có chờ, thời gian đâu có đợi... "
Hai tuần sau đó, ban ngày nam sinh vào rừng đốn cây, dựng những chòi lá, nữ sinh ở lại lều, nấu một nồi cơm và một nồi canh to, mà chúng tôi vẫn đùa là "cơm canh toàn quốc". Nước lấy từ suối về, được chúng tôi nấu kỹ lưỡng để khử vi trùng. Bếp là ba khúc cây được đặt thành ba cạnh của hình vuông, củi khô được một số bạn nam sinh mang từ rừng về. Những lúc trời mưa, củi ướt đẫm, học trò con gái chúng tôi cong lưng vừa quạt, vừa thổi bếp, khói tỏa mù mịt, nước mắt chúng tôi lăn dài, không biết vì khói bếp hay vì tủi thân" Chuyện ăn uống cũng tàm tạm nhờ những thức ăn khô chúng tôi mang theo từ nhà, nhưng chuyện vệ sinh mới là cơn ác mộng cho bọn con gái chúng tôi. Vì thế chúng tôi chỉ ăn uống một lần trong ngày. Khác hẳn chúng tôi, các bạn trai cùng lớp phải làm việc nặng cả ngày, lại sắp bước vào tuổi "mười bảy bẻ gãy sừng trâu" nên vẫn ăn như tằm ăn rõi mặc dù cơm được nấu bằng gạo mốc (dạo đó hình như gạo lúa mới được chính quyền đương thời đem trả nợ cho Trung cộng và cả Liên Xô, gạo bán cho dân miền Nam là gạo tích trữ từ bưng biền, từ núi rừngTrường Sơn để nuôi "bộ đội" trong "cuộc kháng chiến thần thánh chống Mỹ cứu nước"), canh thì toàn là rau trái vừa cũ, vừa héo. Có lần, các bạn vào rừng đốn cây, tìm được một ít nấm rừng, trắng như tuyết giống nấm rơm, chúng tôi bỏ lên nấu, mùi thơm lừng, nhưng rồi lại đem đổ, do các thầy cô sợ chúng tôi bị ngộ độc vì ăn nấm lạ! Những lúc mưa rừng kéo về, quất những làn nước xối xả lên cây cối, lên những cánh lều mong manh của chúng tôi, lúc đó cả lớp và thầy, cô ăn toàn những thỏi lương khô (làm bằng bột, muối và đường), con trai không thể vào rừng đốn cây khai hoang, con gái không thể nấu nướng, chúng tôi vẫn hát hò, vẫn cười đùa, mặc dù ánh mắt ngây thơ của tuổi mười sáu đã bắt đầu vẩn đục như suối giữa rừng sau cơn mưa. Hiểu rõ là ở đâu cũng có "tai mắt của cách mạng, của Đảng và Đoàn", không đứa nào dám nói ý nghĩ thật của mình, nhưng những ánh mắt đăm chiêu đã biểu lộ một cách lặng lẽ những ý nghĩ của chúng tôi.
Hai tuần "lao động khổ sai" rồi cũng qua để lại trong chúng tôi những vết trầy, vết xướt trên tay chân, lành lặn sau một vài tháng, nhưng những vết hằn trong tâm hồn vẫn hiện hữu trong tâm tưởng chúng tôi mãi mãi không nhòa! Địa danh Khánh Sơn cũng lại trong mỗi chúng tôi những ký ức buồn nhiều hơn vui của thời mới lớn tuổi mười lăm, mười bảy; trong đó, có những đêm dưới ánh lửa bập bùng, nước mắt chúng tôi đã ứa ra khi nghĩ đến những ông bố đang bị đầy ải trong các trại cải tạo ở miền Bắc đầy âm u, chướng khí, chắc chắn là bi thảm gấp trăm lần chúng tôi, hay khi nghĩ đến tương lai của mình mịt mù như bóng đêm của núi rừng "kinh tế mới" Khánh Sơn.
Lần đó, hai người bạn quên uống thuốc ngừa sốt rét, bị sốt rét phải nằm nhà gần cả tháng vì thời đó "hệ thống y tế xã hội chủ nghĩa" không có thứ thuốc nào khác ngoài "xuyên tâm liên", một viên thuốc bột, không có chữ, ngây ngấy mùi lá khô, mùi cỏ mục, để chữa tất cả mọi bệnh tật trên đời. Các bác sĩ quân y và phần lớn bác sĩ dân sự đang bị "tập trung cải tạo", những người làm việc ở các phòng khám bệnh địa phương vừa thiếu trình độ.
Ở Mỹ, ngày nay, các em mới lớn được ăn uống đầy đủ, đến độ một phần ba các em có trọng lượng ở mức độ "overweight", có đủ phương tiện học hỏi, giải trí. Ở Việt Nam, sau năm 1975 chúng tôi luôn luôn đi học với cái bụng rỗng, không được ăn điểm tâm, ở tuổi "mươì ảy bẻ gãy sừng trâu", lâu lâu lại nghe tiếng sôi vì bụng đói của đứa bạn ngồi cạnh, chợt nhớ là mình cũng đang đói meo, vì từ bữa cơm bảy giờ chiều qua đến cuối buổi học sáng nay, gần mười hai giờ trưa mà không có thêm gì vào bao tử.
Ở Mỹ, các em có đủ loại đèn vừa với tầm mắt để học. Ở Việt Nam, một thời gian rất dài, nhiều năm sau tháng 4/1975, mỗi tuần ba đêm chúng tôi học bài dưới ánh đèn dầu, tù mù như tương lai, đưa đến hậu quả là hầu hết chúng tôi bị cận thị.
Ở Mỹ, trẻ em được bảo vệ tối đa, không ai làm tổn thương lòng tự trọng, nhân cách và niềm tin của các em, các em được phép nói lên điều mình nghĩ. Ở quê nhà, những ngày mới lớn, tuổi mười lăm, mười bảy của chúng tôi bị "công an khu vực" chỉ mặt mỗi ngày, nhắc cho chúng tôi nhớ là ba mình có 'nợ máu với nhân dân, bản thân phải lao động tích cực hơn"! Chúng tôi vẫn phải cúi đầu nhẫn nhục, cam chịu vì biết mình đang là cá nằm trên thớt.
Nhưng tất cả khó khăn đó chưa làm chúng tôi nản chí, cho đến khi chúng tôi thi đại học. Nhưng đứa có ba đang đi "học tập cải tạo" bị xếp vào thành phần thứ mười bốn, thành phần cuối cùng của "xã hội chủ nghĩa' dưới cả những người đâm thuê chém mướn, bị "công an phường" ghi vào bản khai lý lịch "Cha có nợ máu với nhân dân", vẫn cắm đầu học, nhưng biết thân biết phận, thay vì thi vào những trường Đại Học lớn ở Saigon, chúng tôi thi vào "Đại học Tây Nguyên" ở miền khỉ ho cò gáy. Năm đó, trường tuyển 150 sinh viên năm thứ nhất, chỉ có 120 thí sinh dự thi trong hai ngày. Ngày đầu tiên, một số đã bỏ cuộc, hình như họ là "bộ đội phục viên" vừa đọc xong đề, có lẽ không hiểu nổi đề thi, họ bỏ ra khỏi phòng thi. Ngày thứ hai, bốn phòng thi dồn lại chỉ còn hai, vì nhiều người bỏ cuộc, đến cuối ngày, chỉ còn khoảng hơn 50 học sinh cho một con số dự tuyển là 150. Vậy mà chúng tôi, những học sinh chuyên toán, tốt nghiệp Trung học với điểm cao gần như tuyệt đối vẫn không được nhận vào học ở khoa Toán của trường Đại học Tây Nguyên. Đó là một nghịch lý rất lớn có tác hại mãi đến bây giờ mà vì u tối và ấu trĩ, người ta không thấy được hậu quả! Từ đó chúng tôi bắt đầu tin vào những gì mình đã thấy, đã trải qua hơn là tin vào những gì mình đã được nghe trong giờ "chính trị" ở trường vào những năm học sau tháng 4.1975.
Cũng như chúng tôi, những người bạn đã may mắn rời quê nhà từ cuộc di tản của tháng 4 năm 75 cũng có nhiều khó khăn của những ngày đầu lưu vong. Đến Mỹ, không còn giấy tờ gì mang theo ngoài khai sanh, bạn chúng tôi phải thi xếp lớp, và vì trình độ tiếng Anh rất hạn chế, nên hầu hết sinh viên Việt Nam di tản bị học lại một lớp, chậm nhất một năm. Ở trường, chưa quen với đới sống mới lối giao tiếp phóng khoáng của Mỹ, các bạn vẫn thơ thẩn ở một góc sân trường, phải tự điều chỉnh cách sống rất nhiều để hòa vào dòng sống của quê người. Ở nhà, cha mẹ của các bạn phải bươn chải để gầy dựng lại cơ nghiệp từ bàn tay trắng, từ số không của những ngày đầu lưu vong. Do vậy, các bạn cũng khôn ngoan hơn các bạn Mỹ cùng tuổi.
Ở hai phía của địa cầu, chúng tôi cũng chịu đựng nhiều hơn là tận hưởng thời mới lớn. Nhưng hơn hẳn chúng tôi là thấp thoáng trong ánh mắt các bạn lưu vong từ cuối tháng tư rất buồn của đất nước có tương lai màu hồng lạc quan hay màu xanh hy vọng, không phải là màu xám cùng quẫn hay màu đen mù mịt như chúng tôi ở trong nước.
Giữa thập niên tám mươi, những gói quà đầu tiên từ thế giới tự do gởi về kích thích đủ cả năm giác quan của những người dân miền Nam đã có thâm niên mười năm ngửi mùi của gạo mốc, của khoai sùng, của "dược phẩm trị bá bệnh: xuyên tâm liên": Cũng như nhiều người miền Nam nhận được những gói quà từ thân nhân, và cả từ bạn bè. Hầu hết quà đó được mang ra chợ trời bán để lấy tiền làm nhiều chuyện khác, kể cả chuyện tích lũy dần dần đủ để mua một chỗ ngồi nỏ nhoi trên chiếc ghế vượt biển mong manh, đầy tôi nghiệp.
Mãi cho đến bây giờ, mỗi lần thấy những gói kẹo chocolate MM hay Hersley, chúng tôi vẫn ngậm ngùi nhớ lại những gói kẹo ngày xưa được mang bán ở chợ trời,mặc dù đứa nào cũng thầm tưởng tượng đến vị ngọt của sữa, của đường, vị béo của đâu phụng sau lớp kẹo màu.
Mãi cho đến bây giờ, mỗi lần nghe giọng nói ở cùng địa phương với giọng nói của những người đã khủng bố tinh thần chúng tôi từ thời mới lớn, "cơn ác mộng" vẫn kéo về, không còn đau xót như thời mới lớn, nhưng vẫn đủ để nỗi ngậm ngùi nằm tận đáy lòng, dâng lên như nước thủy triều.
Cầu mong các em mới lớn bây giờ không bị những vết hằn buồn thảm trong tâm hồn non trẻ như chúng tôi ba mươi năm trước. Tâm hồn và đầu óc tinh khôi thời mới lớn của chúng tôi bị mỗi ngày từ trường, về nhà. Cầu mong các em mới lớn bây giờ ở quê nhà bên kia bờ đại dương có được tự do học hành, được tự do thực hiện mơ ước, và có đủ niềm tin để bước vào cuộc đời. Và cầu mong cho hơn tám mươi triệu đồng bào trogn nước có được tự do, được nói, nghĩ và làm bằng ý nghĩ của chính mình như cả triệu người khác ở Mỹ, ở các nước tự do.
(Viết cho 11C6 ngày xưa đang lưu lạc ở Mỹ, Pháp, Thụy Sĩ, Úc để nhớ một thời mới lớn cay đắng nhiều hơn ngọt bùi)
Một Lần Thử Sức
Giữa những người nấu ăn chuyên nghiệp với nhiều năm kinh nghiệm trong bộ đồng phục và cái mũ màu trắng của "chef cook" cô gái Việt Nam Jessica Đặng vẫn rất đầy tự tin trong nhóm 8 người vào vòng chung kết của cuộc thi nấu ăn, để được trở thành "The Next Food Network Star", chương trình vô tuyến truyền hình chuyên dạy nấu ăn cho những người đam mê bếp núc, yêu thích nồi niêu.
Như tên gọi của nó, chương trình "Food Network" không phải là chương trình nổi tiếng trong cả trăm đài truyền hình ở Mỹ, đa số khán giả thường xuyên của chương trình là những "full time Mom" hay những người mới retired còn đầy sinh lực. Vậy mà có hơn mười ngàn người gởi tape vô dự thi. Qua bao vòng tuyển chọn và chấm điểm từ khán giả của đài truyền hình Food Network, những cuộc sơ tuyển trên online với sự tham dự của nhiều người ở khắp nơi trên thế giới thích nấu ăn, đến lần chấm điểm khắt khe của các tay đầu bếp chuyên nghiệp ở những nhà hàng "upscale" của Mỹ, cô gái Việt Nam Jessica Đặng được người Mỹ gọi bằng họ nghe như "Dan", (cách gọi tắt từ cái tên con trai Daniel) được vào vòng chung kết ở New York.
Mới vừa ra trường, làm công việc đầu tiên, chưa có vacation, Jessica xin nghỉ ba tuần không lãnh lương (leave of absence without pay) sau khi được "Food Network" báo tin cô được vào vòng chung kết, và phải có mặt khoảng hai mươi ngày ở New York để được thu hình "tapping the show".
Trên chuyến bay từ California qua New York, "hành trình về phương Đông" lần này không phải về thăm Bố Mẹ ở Maryland, cô gái Việt Nam sinh ra ở Mỹ có "sweet dream", trong đó cô được trở thành một người dạy nấu ăn chuyên nghiệp trên đài truyền hình theo bước chân của Rachel Ray, mà tên tuổi đã được gắn liền với một công ty sản xuất dụng cụ bếp núc rất nổi tiếng. Suốt cả hành trình bảy tiếng non stop fly có TV cá nhân giải trí hãng JetBlues trước mỗi ghế ngồi, Jessica nhìn vào màn ảnh truyền hình nhưng không cảm nhận được chương trình TV, mà đầu óc cô lần lượt quay lại những chặng đường đã đưa cô vào được "the 8 finalists".
Cô là người duy nhất trong tám người vào chung kết của cuộc thi nấu ăn không được đi học một ngày nào ở trường lớp dạy nấu ăn chuyên nghiệp "culinary school" của Mỹ. Tất cả những môn cô học được từ món thịt bò nấu rượu vang của Tây, món vịt Bắc kinh của Tàu, món mì sợi vuông fettuccine của Ý, món roasted turkey của Mỹ, món burrito của Mễ, đến món chạo tôm quấn quanh khúc mía hấp rất hấp dẫn của Việt Nam…Jessica đều học được từ bố mẹ, đều là những chef cook trong những nhà hàng sang trọng nổi tiếng, nơi người ta đến, trả rất nhiều tiền không phải chỉ để ăn bằng miệng mà còn để ăn bằng mắt với cách bài trí của món ăn rất hài hòa và đầy nghệ thuật.
Jessica là con lớn nhất trong gia đình, cô được bố mẹ dạy nấu ăn để tự nấu cho mình và cho em. Chắc là "khiếu nấu ăn" cũng di truyền từ DNA, nên Jessica càng lớn nấu càng ngon, và biết biến chế thêm nhiều món lạ từ các recipe cổ truyền của bố mẹ.
Năm học lớp chín, ở bài thi final của lớp "home economic", cả lớp phải nấu một món ăn tự chọn, Jessica lúc đó chỉ là "freshman" "lính mới tò te" ở trường trung học, High School của Mỹ đã nổi tiếng cả trường với món "phở áp chảo" cô đăt tên tiếng Mỹ là "Fried Noodle and Vegetables" chinh phục được khẩu vị đa dạng của đủ mọi sắc dân trong trường từ thầy cô đến học trò. Cô giáo đã khuyên Jessica lớn lên nên đi học sư phạm rồi về dạy lại lớp "Home Economic".
Jessica vẫn nhớ lời khuyên đó nhưng đến lúc vào Đại học cô lại theo ngành Business Management với ước vọng một ngày nào đó, cô sẽ mở một nhà hàng International Food có đầu bếp chuyên nghiệp thuê từ khắp nơi trên thế giới. Trong khu nội trú của trường đại học Stanford ở Palo Alto, California, cô được bạn bè gọi bằng nick name "the best chef of students" những kỳ nghỉ ngắn hạn, không đủ dài để bay về thăm nhà, cả khu nội trú sinh viên tụ họp lại ở căn phòng nhỏ của Jessica, tình nguyện rửa chén, dọn dẹp, làm phụ bếp để được Jessica nấu cho những món ăn vừa ngon miệng, vừa đẹp mắt, vừa đầy chất dinh dưỡng cần có mỗi ngày.
Thú giải trí mỗi ngày của Jessica là coi những show dạy nấu ăn của các tay đầu bếp lẫy lừng ở Mỹ như Emeril, Rachel, Bobby….hàng ngày trước khi đi học, Jessica đặt tape vào TV, "set up" giờ để thu lại các show nấu ăn trong ngày. Mỗi ngày trôi qua, Jessica học được thêm một món mới, và càng nấu ăn thuần thục hơn.
Nhân một cuộc thi mở ra để tuyển lựa một người dạy nấu ăn cho chương trình "Food Network" Jessica ghi tên tham dự cuộc thi, không có ước vọng cao, chỉ để thử sức "self test trình độ nấu ăn của mình. Như đa số các cuộc thi mở rộng cho tất cả mọi người, mỗi ủng hộ viên phải gởi một video tape thu cảnh mình đang nấu một món ăn, với lời hướng dẫn giới thiệu món ăn mình đang làm, Jessica phải chạy đến thư viện mượn một cái camcorder có chân đứng, với microphone để tự thu hình của mình ngay trong căn bếp nhỏ chỉ bằng diện tích của hai chỗ đậu xe của loại xe compact. Đến ngày phải trả lại cái camcorder cho thư viện, chín giờ rưỡi tối thư viện đóng cửa, hơn tám giờ tối, Jessica vẫn còn loay hoay trong căn bếp nhỏ với món thịt gà tây cuốn bắp cải "Turkey pine nut cabbge wraps" tưởng đã không thực hiện kịp cho audition tape của chương trình dạy nấu ăn, nhưng bằng sự thuần thục và lòng đam mê với nghệ thuật nấu ăn, Jessica đã hoàn thành mọi thứ vào phút chót với đủ bốn yêu cầu: cách cắt thịt, cá đúng sớ, cách gọt rau cải đúng chỗ, Nghệ thuật trình bày thức ăn trên dĩa hài hòa, kích thích khẩu vị, vật liệu nấu ăn dinh dưỡng, không quá cầu kỳ, và quan trọng hơn hết cách hướng dẫn nấu ăn duyên dáng trước ống kính của một "live show" dạy về bếp núc.
Đầu tháng 11, "Food Network channel" gọi điện thoại đến nhà Jessica, báo tin cô được vào vòng chung kết, và được về New York dự thi vòng thi cuối cùng để chọn thêm một người dạy nấu ăn (Food Network Star) thường xuyên cho chương trình vô tuyến truyền hình. Mỗi người được vào vòng chung kết trước khi bay về studio của "Food Network" phải trả lời sáu mươi câu hỏi về tiểu sử của chính mình và trình độ, cùng năng khiếu nấu ăn. Thêm vào đó, mỗi thí sinh còn phải gởi 24 recipes dạy nấu ăn nguyên bản của chính mình, nghĩa là không được sao chép bất cứ một recipes nào của người khác, hay trong sách dạy nấu ăn, hoặc trên online. Dù là một người thích nấu ăn, và có trình độ đại học, Jessica vẫn mất bốn ngày để hoàn thành các yêu cầu cho một finalist. Tất cả những người vào vòng chung kết sẽ có dịp xuất hiện trước ống kính truyền hình toàn quốc ít nhất là hai tiếng đồng hồ.
Ngày đầu tiên ở Studio thâu hình, Jessica cùng bảy người khác được vào chung kết phải trải qua mười tám tiếng đồng hồ, thu đi thu lại vì hầu hết họ đều là những người lần đầu tiên diễn xuất trước ống kính truyền hình của "live show". Con đường đi đến thành công nào cũng trải qua rất nhiều gian nan mà chỉ có người trong cuộc mới biết cái giá phải trả! Suốt ba tuần, mỗi ngày đến studio, 8 người vào vòng chung kết được cung cấp một số vật liệu và vật dụng nấu ăn giống nhau để nấu một món theo ý riêng của mình. Đôi khi họ chỉ có ba mươi phút để chuẩn bị và mỗi người có mười phút để hướng dẫn nấu món mình vừa nấu trước ống kính thu hình trực tiếp. Cứ vài ngày lại có một người bị loại khỏi vòng chung kết. Không giống những "reality show" khác, những finalists của "Food Network" rất đoàn kết, và luôn giúp đỡ lẫn nhau. Khi chưa đến phiên mình thu hình, họ đứng phía sau ống kính, vỗ tay, ra dấu ủng hộ tinh thần người đang nấu ăn live trước ống kính. Có những giọt nước mắt thật chảy ra khi một người bị loại khỏi cuộc thi, đó là những giọt nước mắt rất thật, (không phải là những giọt nước mắt diễn xuất chảy ra nhờ có hóa chất kích thích tuyến nước mắt bôi vào bên ngoài mí mắt) chia xẻ nổi thất vọng của một người bạn đã nâng đỡ, cổ võ tinh thần của mình khi mình đang hướng dẫn nấu ăn trước ống kính.
Live show thu hình xong cuối tháng 11, nhưng sẽ chiếu lên màn ảnh truyền hình toàn nước Mỹ vào cuối tháng 3 năm tới (hình như tháng 3 là đầu mùa xuân ở Mỹ, trời ấm dần, hoa trái bắt đầu khoe sắc sau một mùa đông dài rét mướt sẽ góp phần thúc đẩy người ta chịu khó nấu nướng, chịu khó vào bếp hơn thay vì đi ăn tiệm hoặc lót dạ bằng đồ frozen đã nấu chín, vừa tiện lợi vừa rẻ tiền (mặc dù giá trị dinh dưỡng không được các chuyên viên về sức khỏe cho điểm cao).
Dĩ nhiên, sau ba tuần lễ thu hình (tapping the show) Jessica cùng bảy người finalists già dặn hơn cô nhiều, cả về kinh nghiệm, lẫn về tuổi tác, đã biết ai là người thắng cuộc cuối cùng trong cuộc thi và sẽ được ký hợp đồng, trở thành "Star of Food Network" dạy nấu ăn ít nhất là một năm với một thù lao không nhỏ. Nếu may mắn hơn, sau đó còn nhận được thêm nhiều hợp đồng quảng cáo, và chính tên tuổi của mình sẽ vĩnh viễn trở thành brand name của một công ty sản xuất dụng cụ nấu ăn nổi tiếng ở Mỹ. Nhưng tất cả mọi "reality show" khác, tất cả finalists phải ký một cam kết không được hé môi cho ai biết kết quả, ngay cả những người thân yêu nhất.
Hầu hết họ đều ở tuổi từ 30 đến 40, chỉ có Jessica vừa bứơc vào tuổi 24 và một thí sinh khác người New York mới 26 tuổi nhưng đã có bảy năm thâm niên trong nghề "catering", chuyên cung cấp những bữa ăn vừa ngon miệng vừa tươi tốt theo hợp đồng ngắn hạn cho các công ty, đoàn thể….cô gái Việt Nam, thế hệ thứ 2 ở Mỹ, vừa nhỏ nhắn, vừa có một tiểu sử bản thân không dính dáng một chút gì đến việc kiếm tiền nhờ tài nấu ăn đã gây cho ban giám khảo và khán giả một ấn tượng sâu sắc bằng sự tự tin của cô trước ống kính truyền hình, bằng đôi tay nhuần nhuyễn trong các thao tác nấu nướng. Một finalists khác, Guy Fieri, người có mái tóc trắng màu bạch kim, làm chủ bốn nhà hàng ở miền Bắc California, trông già dặn hơn rất nhiều so với số tuổi 38 đã tròn mặt ngạc nhiên khi biết Jessica chỉ là một người nấu ăn tài tử, chưa bao giờ được đội cái mũ màu trắng của "chef cook". Bộ đồng phục màu trắng của những người đầu bếp chuyên nghiệp lần đầu tiên Jessica được mặc là cái blouse trắng có thêu logo màu xanh của Food Network bên tay trái, bên tay phải là cái tên Jessica Đặng được thêu bằng chỉ xanh rất rõ ràng, giúp tôi nhận ra đó là cô gái Việt Nam và theo dõi chương trình Food Network suốt hai tuần lễ cuối của tháng 3.
Vừa tự hào, vừa tội nghiệp cô nhỏ đồng hương mảnh mai, tầm thước bên cạnh những người đầu bếp chuyên nghiệp cao lớn, tròn trĩnh sau bao nhiêu năm kinh nghiệm với nồi niêu dao thớt, nhưng tôi không làm được gì để giúp Jessica, như tôi đã sử dụng tất cả những số điện thoại mình có thể dùng để bầu bằng phone cho Đạt Phan trong cuộc thi "The Last Comics Standing" dạo nào.
Khi cuộc thi "Food Network Star" được trình chiếu rộng rãi trên đài truyền hình ở Mỹ thì kết quả đã có từ năm tháng trước.
Jessica Đặng là người thứ ba trong 8 người ở vòng chung kết bị loại. Khi Jessica không còn trong cuộc thi, tôi không còn cảm hứng thu xếp thời giờ (rất là quý hiếm ở Mỹ) để theo dõi đến lúc cuối cùng xem người thắng cuộc là ai, như đã từng là một người ủng hộ rất thầm lặng của Đạt Phan mấy năm trước. Tôi không biết cả Đạt Phan lẫn Jessica Đặng, và có thể sẽ chẳng bao giờ tôi có dịp gặp Jessica Đặng hay Đạt Phan, nhưng nhớ lời dạy ngày xưa của ông bà và thầy cô "bầu ơi thương lấy bí cùng, tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn", bất kỳ một người Mỹ gốc Việt nào tham dự một cuộc thi có tính cách toàn quốc đều được sự ủng hộ nhiệt tình của chúng tôi với tất cả sự cảm thông và khích lệ từ tấm lòng của một người Việt lưu vong.
Tôi vẫn tự hỏi không biết có bao nhiêu em nhỏ người Mỹ gốc Việt Nam theo dõi chương trình TV dạy nấu ăn và đã được Jessica chắp thêm cánh cho ước mơ của các em sau này. Cũng có thể các em không nhận ra họ "Đặng" là họ của người Việt Nam như tôi và những người ở thế hệ lớn hơn. Nhưng được may mắn sinh ra ở Mỹ, mỗi một ước mơ dù lớn hay nhỏ đều có khả năng thành hiện thực. Hy vọng các em có nhiều mơ ước hơn, kể cả ước mơ làm được một điều gì đó cho quê hương tội nghiệp ở bên kia bờ đại dương, nơi nhiều em chưa bao giờ được nhìn thấy….
(Mừng ngày 18 của M&N)
Niềm Tin Còn Đó
Đầu tháng Bẩy, mùa hè, từ miền Bắc, tôi bay về miền Nam California dự ngày hội ngộ của các cựu học sinh trung học Ngô Quyền. Từ phi trường LAX, tôi được hai anh chị bạn đón về vùng Little Saigon và nửa đường thì phát giác ra là cái bóp đeo vai của mình đã bị bỏ quên lại đâu đó. Kết quả là hai anh chị đi đón lại phải chở tôi quay trở lại phi trường tìm cái bóp bị bỏ quên.
Ở một phi trường lớn và tấp nập nhu LAX, tôi không hy vọng tìm lại được bóp, nhưng phải quay trở lại để xin Report của Cảnh sát phi trường để có thể qua được hệ thống kiểm soát an ninh của phi trường khi bay lại nhà ở miền Bắc CA.
Mất cái bóp đeo vai với hai cái Credit Cards số tiền limit cao đến có thể mua một chiếc xe Lexury mới, một thẻ ATM, bằng lài xe, hai chìa khóa nhà, một thẻ bảo hiểm sức khỏe, và một ít tiền mặt, tôi chợt nhận ra rằng "lịch sử đã lập lại" khi mình giống hệt lúc mới đến Mỹ từ trại tỵ nạn hai mươi năm trước, không một đồng dính túi, trở thành dân "chuyên chính vô sản" thứ thiệt! May mắn là các khoản chi phí của chuyến đi từ vé máy bay, tiền khách sạn và chi phí tiệc tùng đã được trả trước đó cả tháng như lối sống " reservation" rất có hiệu quả của người Mỹ.
Lần đầu tiên mất giấy tờ, tôi lo lắng bồn chồn vô cùng, nhưng cũng đủ tĩnh táo để nghĩ đến cách đối phó. Tôi quay trở lại cái băng ghế mình đã ngồi ở phi trường trong lúc chờ người ra đón. Cái ghế dĩ nhiên vẫn còn đó, trống trơn, như cái hy vọng rất mong manh của tôi. Không biết văn phòng Cảnh sát phi trường LAX ở đâu, tôi hỏi những nhân viên an ninh phi trường, họ rất ân cần:
- Chúng tôi không giu’p gì được cho cô vì chúng tôi chỉ lo về an ninh nhưng chúng tôi sẽ gọi Cảnh sát phi trường đến giúp cô.
Vài phút sau, hai người Cảnh sát của phi trường LAX xuất hiện, tướng họ cao, lưng thẳng, hình như có mặc áo giáp chống đạn bên trong. Nhìn bộ mặt hết sức thiểu não của tôi, người Cảnh sát nhận ra ngay "khổ chủ" trong số hai người Mỹ gốc Việt đứng trước mặt mình. Ông ta móc từ ngực áo ra một cái Clipboard có mẫu đơn khai báo với ba màu trắng hồng vàng kẹp sẵn trên đó. Chỉ sau mười phút làm việc (điền đơn và trả lời những câu hỏi cần thiết) ngay ở một nơi tấp nập như lối ra của phi trường LAX< giấy tờ làm xong, người Cảnh sát cho tôi giữ copy mầu hồng của Report, ông ta giữ bảng chính màu trắng và một copy màu vàng, và dặn dò tôi cẩn thận nên gọi những số điện thoại nào để nếu cần tôi có thể liên lạc lại. Ông ta cũng nhắc nhỡ tôi cancel các thẻ Credit Cards ngay lập tức. Bằng phong cách rất lịch sự, và chuyên nghiệp, ông ra bắt tay tôi từ giã với lời an ủi ân cần:
- Rất tiếc là cô bị mất bóp. Hy vọng chúng tôi sẽ tìm lại được cho cô.
- Nếu có bất cứ một Fraud nào trên các Credit Card, cô có thể liên lạc với chúng tôi để tránh bị trả nợ trên những khoản chi tiêu cô không hề biết.
Tôi quay về khách sạn với các anh chị cùng bay về từ miền Bắc như tôi, túi trống rỗng, lòng buồn tênh, mặc dù sắp được gặp lại nhiều thầy cô và các bạn học cũ. Không thể cancel Credit Cards bằng cell phone, tôi phải dùng điện thoại của khách sạn để báo cho các Công ty Credit Card thẻ của mình đã mất, để họ vô hiệu hóa hai thẻ Credit Cards đã bị mất của tôi.
Không muốn làm mọi người bận tâm, tôi cố giữ vẽ "trong héo ngoài tươi" trong những ngày họp mặt với rất nhiều thế hệ của ngôi trường Trung học thân yêu thời mới lớn.
Ngày vui bao giờ cũng qua mau. Tôi bay về lại miền Bắc, biết thân biết phận mình mất bằng lái xe, không còn giấy tờ tùy thân, ngòi copy report của Cảnh sát phi trường LAX, tôi đến phi trường sớm hơn gần hai tiếng.
Đến phiên tôi bước vào hệ thống kiểm soát của phi trường, tôi báo cho họ biết mình không còn ID, nhân viên an ninh phi trường đưa tôi qua một hệ thống khác, chỉ có vái người (cũng mật hết giấy tờ như tôi). Không hiểu vì mặt mày tôi đầy vẻ "ngây thơ vô tội" hay đầy vẻ thiểu não của một người không còn "một mãnh giấy lận lưng", tôi không bị kiểm soát nhiều, chỉ có cái suitcase nhỏ bị mở ra, rà soát kỹ lưỡng bằng cả máy dò vũ khí lẫn bằng mắt và tay của ông nhân viên an ninh. Một bà nhân viên an ninh khác cao to gần 6 feet (khoảng hơn 1.8 thước) chuyên khám nữ hành khách chỉ rà các túi quần jeans của tôi, không bắt tôi phải vào phòng kín kiểm soát như một vài người khác ở cửa kiểm soát đặc biệt dành cho hành khách không có giấy tờ tùy thân.
Tôi về đến nhà, chạy ngay ra DMV làm lại bằng lái xe khác. Không có thì giờ để làm hẹn online, tôi đành phải dậy sớm xếp hàng ngay lúc DMV vừa mở cửa, trình độ trong héo ngoài tươi" của tôi đã đạt đến mức độ cao, người nhân viên hướng dẫn ở DMV cười với tôi:
- Cô có một nụ cười rất tươi và rất lịch sự "You make my day"!
Thủ tục của DMV rất hiệu quả, bảng điện tử hường dẫn điều động thứ tự rất chính xác, tôi ra khỏi DMV trong vòng 10 phút với bằng lái tạm có giá trị trong 3 tháng.
Tuần lễ sau đó, giống như một người kinh doanh online chuyên nghiệp tôi check các account ngân hàng và Credit Cards của mình hàng giờ. Các Công ty Credit Cards đã gởi thẻ mới đến cho tôi bằng phương tiện nhanh nhất, Fedex overnight, dĩ nhiên là tôi không bị trả đồng lệ phí nào đúng như kuểu kinh doanh của Mỹ "khách hàng là vua". Công ty bảo hiểm sức khỏe cũng gởi đến cho tôi thẻ mới bằng express mail với lời "chia buồn" về việc mất "tài sản" của tôi, lời lẻ rất chân thành, mà nếu mới đến Mỹ, hẳn là tôi rất cảm động, nhưng sau gần hai thập niên ở Mỹ với kiến thức của một lớp "Marketing Strategy" hồi còn ở Đại học, lòng tôi vẫn bình yên, "trơ gan cùng tuế nguyệt" không có một sự xúc động nào!
Đời sống vẫn bình thường trôi qua, nỗi lo lắng của tôi cũng giảm dần theo ngày tháng, chưa có một account nào của tôi bị thất thoát đồng nào. Chắc là người lượm được cái ví của tôi là một người chưa đến nỗi mất hết lương tâm. Mỗi lần bước vào closet nhìn chỗ mình vẫn đặt cài bóp nay đã bỏ trống, tôi vẫn tự trách mình quá đổi vô ý vô tứ.
Ba tuần sau một buổi sáng ở sở, chuông điện thoại reo vang, đầu dây bên kia là một người tôi không hề tưởng tượng đến, nhân viên của South West Airline, không phải để quảng cáo mà là để hỏi tên tôi, và báo cho tôi biết họ tìm được cáo bóp của tôi. Đúng là "không ai học đươc chữ ngờ", đời số`ng đôi khi đầy dãy ngạc nhiên. Tôi đã bỏ quên cái bóp đeo vai của mình trên máy bay chứ không phải ở ghế ngồi của phi trường LAX. Cảnh sát phi trường chỉ theo lời khai của tôi, không làm việc với South West Airline, hãng máy bay tôi đã đi hôm đó. Lúc phát hiện ra mất bóp trên đường từ phi trường về khách sạn, tôi nghỉ là mình đã bỏ quên bóp ở phi trường, thật ra tôi đã nghi~ sai về nơi chốn mà mình đã bỏ quên cái bóp đeo vai.
Nhân viên South West Airline tìm thấy cái bóp của tôi trên máy bay, và không có ai khai mất đồ trên chuyến bay hôm đó nên cái bóp được gởi về headquarter "Lost and Found" của hãng máy bay ở Phoenix, Arizona. Ở đó, sau hai tuần không có ai khai báo về cái bóp, nhân viên "Lost and Found" của South West mở bóp tôi ra để kiểm kêvà họ tìm thấy Business Card của tôi ở bên trong với số điện thoại ở văn phòng làm việc của tôi.
Cô nhân viên South West Airline chỉ hỏi tôi vài câu hỏi để chắc chắn tôi là "khổ chủ" của cái bóp:
- Chuyến bay của tôi hôm đó, từ đâu đến đâu, giờ bay"
- Cái bóp hiệu gì, màu gì, trong bóp có gì"
Dĩ nhiên, chuyện ba mươi năm trước xảy ra khi còn thơ dại tôi còn chưa quên thì chuyện xảy ra ba tuần trước tôi trả lời rất chính xác. Cô nhân viên của South West Airline hỏi tôi muốn nhận lại cái bóp ở phi trường nào" Họ sẽ cho chuyển đến phi trường đó cho tôi ngay chiều hôm đó.
Tôi rất vui không những vì "của đi rồi của lại về" mà vui vì niềm tin của mình ở cuộc đời vẫn còn đó, không bị sứt mẻ chút nào! Buồn nhiều, sau giờ làm việc, tôi lái xe đến phi trường San Jose nhận lại bóp của mình. Cái bóp được đặt trong tủ sắt của South West Airline, bộ phận "Disclaimed luggage". Tôi mở bóp ra kiểm lại, mọi thứ vẫn còn nguyên, kể cả $76.75 cents hình như đã được mở ra kiểm, cuộn lại có chữ ký ở bên ngoài.Tất cả giấy tờ tùy thân của tôi, cùng một thỏi son còn mới, và một thỏi dầu thơm hiệu Ester Lauder vừa mới dùng 2 lần vẫn còn nguyên, không sứt mẻ.
Điều buồn cười nhất là miếng bánh khoai mì nướng một chị bạn đã ưu ái mang cho tôi như là Breakfast hôm đó ở phi trường, tôi bỏ vào trong bóp vẫn còn nguyên dù đã đổi từ màu vàng sang xanh lá cây vì bị lên "mốc" sau ba tuần với thời tiết mùa hè.
Tối hôm đó trước giấc ngủ tôi có lời cảm ơn Trời Phật, và trong giấc ngủ, tôi có đầy hoa và bướm như thủa nào còn cột hai đuôi tóc nơ đỏ đi học.
Và kể từ hôm đó, tôi có hai bằng lái xe, hai thẻ bảo hiểm sức khỏe và một niềm tin ở con người ngày càng vững chắc.
Chuyện chưa ngừng ở đó, hai tuần sau khi "cái gì của Cesar lại về với Cesar", một buổi sáng thứ Bảy, 5 tuần sau khi cái bóp bị bỏ quên trên chuyến bay của South West từ SJC về LAX, chuông điện thoại nhà tôi reo vang, đầu dây bên kia là một nhân viên Cảnh sát của phi trường LA, ông ta báo cho tôi biết cảnh sát phi trường LAX vừa tìm lại được ba cái bóp hiệu "Nine West", cùng hiệu tôi đã khai báo, ông ta hỏi tôi có muốn nhận diện không" Tôi vừa cảm động vừ ân hận mình đã không báo lại cho Cảnh sát LAX khi mình đã tìm lại được bóp. Tôi kể lại chuyện tìm được bóp và xin lỗi đã không báo lại, người Cảnh sát rất lịch sự:
Never mind, by the way, Congratulation, you're the lucky one. (xin chúc mừng, bạn là một người may mắn).
Tôi bỏ phone xuống, vừa bồi hồi, vừa cảm nhận được niền tự hào của người Mỹ "we're proud to be Americans". Với một người công dân bình thường như tôi, với một chuyện mất mát nhỏ nhoi của đời thường, mà còn được lo đến nơi đến chốn như vậy thì niềm tin ở một xã hội văn minh và giàu mạnh vẫn còn đó, vững vàng hơn bao giờ hết.
Và khi niềm tin vẫn còn thì như một hệ quả tất nhiên, hạnh phúc và lòng nhân ái vẫn tồn tại song song.
(Kính tặng anh chị Sinh Dung, Anh chị Đại Nam, và chị Hảo với lời cảm ơn chân thành - Santa Clara, tháng 10/2006)