- Nhớ Lại Bài Học Xưa
- Vui Buồn Với Ban Biên Tập Online
- Thư Gởi Bạn
- Bạn Và Giấc Mơ Olympics
- Thư Gởi Bạn Nhân 30 Tháng Tư
- Có Phải Ngạc Nhiên?
- Con Rồng Đông Phương
- Giữa Hai Bờ Sinh Tử
Nhớ Lại Bài Học Xưa
Tác giả một mình vượt biển giữa thập niên 80’ khi còn tuổi học trò. Dự Viết Về Nước Mỹ từ năm đầu tiên, cô nhận giải danh dự 2001. Bốn năm sau, cô nhận thêm giải vinh danh tác phẩm 2005 với bài viết “Tháng Tư, Còn Đó Ngậm Ngùi,” kể về tình gia đình chung thuỷ của người Việt tị nạn tại Hoa Kỳ. Bài mới của cô cho năm thứ XV Viết Về Nước Mỹ là chuyện nóng thời sự.
* * *
Ruồi muỗi bắt đầu chết oan ức, tội nghiệp khi trâu bò húc nhaụ Thoạt đầu trâu bò vì hăng máu quá, vì là trâu bò nên còn nặng nợ sân si, hùng hổ giương sừng ăn thua đủ với đối phương không thấy ruồi muỗi rơi rụng tả tơi chung quanh đấu trường.
Cùng thân phận bọt bèo, những con ruồi, muỗi khỏe hơn còn cầm cự được trong trận chiến giữa trâu bò đã thấy đồng loại của mình bị "tên bay đạn lạc" ngay từ phút đầu tiên.
Ngày ngắn lại, đêm dài ra, lấn đất dành dân với ngàỵ Chỉ có hai mươi bốn tiếng đồng hồ mỗi ngày, bên này bành trướng thì bên kia phải nhún nhường. Đó cũng là lúc người ta nghĩ đến những người không nhà phải vất vả chống chọi với thời tiết lanh giá khắc nghiệt của vùng Bắc Mỹ. Nhiều tồ chức từ thiện đi quyên góp lòng hảo tâm của mọi người để giúp người không nhà có thêm áo khoác mùa đông, người nghèo có thêm thức ăn, đủ nhiệt lượng để chống lại cái lạnh của thiên nhiên.
Ở một ngôi chợ của Mỹ, có những tấm flyers quảng cáo đặt ở quầy tính tiền kêu gọi lòng từ thiện:
"1 đồng cho 9 bữa ăn,
5 đồng cho 45 bữa ăn,
10 đồng cho 90 bữa ăn"
Có người thắc mắc hỏi cô nhân viên thu ngân:
- Sao rẻ vậy cô?
Chừng như được huấn luyện từ trước, và đã được hỏi nhiều lần như vậy, cô thu ngân trả lời kèm theo một nụ cười rất tươi:
- Công ty của chúng tôi sẽ matching (bỏ ra một số tiền tương đương với đóng góp của người hảo tâm) với số tiền đóng góp từ public. Ngoài ra chúng tôi sẽ hiến tặng thực phẩm tươi cho các cơ sở từ thiện chuyên phục vụ các bữa ăn nóng cho người không maỵ
Với những người Mỹ bình thường, sống bằng "paycheck per paycheck", bằng tiền lương định kỳ hàng tuần hay hàng tháng, mười đồng thì "hơi nhiều nhiều, bằng hai lần ăn buổi trưa", năm đồng thì "cũng OK", một đồng thì là "chuyện nhỏ". Nên mỗi ngày trung bình có bao nhiêu lượt khách vào chợ là có bấy nhiêu đồng đóng góp, giúp cho người nghèo có bữa ăn nóng, đủ dinh dưỡng vào dịp thu sang đông về, và vào mùa lễ cuối năm ở Mỹ.
Cứ như vậy, ngày qua ngày, từ đầu mùa thu đến nay, mỗi một người dân bình thường, ngay cả những người phục vụ ở các quán ăn cũng góp một đồng từ mức lương tối thiểu và từ những đồng tiền tip hạn hẹp có thấm mồ hôi (và đôi khi cả nước mắt?) của mình khi trả tiền đi chợ. Quỹ giúp người không nhà tăng lên mỗi ngày nhờ những đồng tiền nhỏ nhoi “góp gió thành bão” của những người dân thường xuyên đóng góp cho các quỹ từ thiện mà chưa bao giờ nghĩ đến chuyện cuối năm khai chuyện đóng góp trên hồ sơ đóng thuế.
Khi "trâu bò húc nhau", ngay từ ngày đầu tiên ruồi muỗi đã rơi tơi tả.
Cô thu ngân viên ở chợ là một trong những người đầu tiên thấy ruồi muỗi rơi rụng xác xơ tội nghiệp.
Cô vẫn giữ nụ cười tươi vui vẻ mời gọi:
- Ông (bà) có vui lòng đóng góp một chút cho bữa ăn của người nghèo không ạ?
Không như mọi lần, hầu hết mọi người đóng thêm một đồng, lúc này thay vì nhận được tiền cô chỉ nhận được cái lắc đầu ái ngại, buồn xo:
- Để khi khác, xin lỗi là tôi không giúp được gì trong lúc này..
- Thành thật xin lỗi, để lúc khác...
Cuối giờ làm việc, cô giao quầy thu tiền cho đồng nghiệp, vào back office kiểm tiền, và buồn man mác vì hôm nay không có ai đóng góp cho quỹ từ thiện giúp những người khốn khó có thức ăn nóng đều đặn trong mùa đông; mặc dù cô cũng như mọi đồng nghiệp khác vẫn vui vẻ chào mời mọi người ủng hộ. Hôm nay là ngày 1 tháng 10 năm 2013, ngày đầu tiên chính phủ liên bang chưa được duyệt ngân sách hoạt động trong tài khóa mới 2013-2014, gần tám trăm ngàn công chức liên bang bị nghỉ việc không lương cho đến khi nào ngân sách được Quốc hội thông qua.
Như một hệ quả tất yếu, khi không biết ngày nào mình mới được đi làm lại, người ta đành "thắt chặt túi tiền", tiêu xài dè xẻn hơn, kể cả việc ủng hộ người homeless một đồng mỗi lần đi chợ.
Ảnh hường dây chuyền, quán hàng vắng khách hơn. Có những tiệm ăn gần các công sở sống nhờ các công chức liên bang đến ăn trưa mỗi ngày, khi "goverment shutdown" chỉ có những dãy bàn ghế trống rỗng buồn tênh như khuôn mặt các nhân viên của nhà hàng vốn dĩ sống bằng tiền tip nhiều hơn là bằng lương căn bản tối thiểu.
Rồi các tiệm giặt ủi cũng sẽ bị ảnh huởng tuần sau vì không đi làm thì đâu có cần phải ăn mặc trịnh trọng, đâu có phải tốn tiền giặt ủi. Những trạm bán xăng cũng giảm thu nhập, khi người ta không lài xe đi làm thì nhu cầu đổ xăng cũng giảm mạnh, và cũng không ai có lòng dạ nghĩ đền chuyện lái xe đi chơi khi không biết ngày nào công việc và paycheck mới trở lại bình thường với mình.
Nếu tình trạng này kéo dài lâu, tới phiên các nhân viên làm tư cũng bị "sent home" nghỉ việc không lương như gần tám trăm ngàn công chức liên bang vì không có một ông bà chủ nào muốn trả lương cho nhân viên đến chỗ làm ngồi chơi chờ việc.
Cả cơ quan không gian NASA (National Aeronautics and Space Administration) vốn âm thầm giúp nước Mỹ phát triển và giữ vững ngôi vị nhất nhì thế giới cũng bị đóng cửa gần như toàn bộ. Buổi chiểu đi làm về lái xe ngang qua trung tâm của NASA chạy dài rải rác từ Menlo Park đến Mountain View -ở miền Bắc California- người ta thấy bãi đậu xe ngày thường mà trống rỗng, vắng vẻ buồn tênh. Các nhà khoa học chắc đang nằm nhà nghĩ về một project đang trôi chảy của mình bỗng bị chận đứng ngang xương vì các ông bà chính trị gia không chịu nhường nhaụ
Các bệnh nhân không có tiền phải vào các trung tâm nghiên cứu của chính phủ liên bang thuộc NIH (National Institutes of Health) để "hai bên cùng có lợi": bệnh nhân được chữa bệnh miễn phí, các nhà khoa học nghiên cứu thuốc hoặc phương pháp chữa bệnh mới với con người bằng xương bằng thịt, có hiệu quả hơn làm trên chuột bạch. Vậy mà khi government shutdown, NIH tạm thời không nhận bệnh nhân mới như lịch trình đã hẹn trước. Không biết có bệnh nhân nào đang đứng giữa hai bờ sinh tử không kéo được đến ngày bệnh viện nghiên cứu thuộc liên bang được cấp ngân sách mớỉ
Các em bé nhỏ xíu tự dưng thành những nạn nhân đầu tiên khi ngân sách chưa được thông qua, chương trình dinh dưỡng đặc biệt WIC (Special Supplemental Nutrition Program for Women, Infants and Children) hoàn toàn ngưng. Biết đâu có một vài em bé mới ra đời không thể bú sữa mẹ vì một lý do nào đó, và nếu em sinh ra đời "dưới một ngôi sao xấu", gia đình nghèo, em không có đủ dinh dưỡng cần thiết, lớn lên em ốm yếu và phải trở thành một gánh nặng cho xã hội.
Rải rác trong toàn nước Mỹ 368 công viên quốc gia đóng cửa vì chính quyền liên bang chưa "funding", cung cấp ngân sách trả lương cho các nhân viên quản lý. Cả ngàn du khách mỗi ngày này cất công đến thăm các thắng cảnh thiên nhiên phải chạy vòng vòng ở ngoài nhìn vào, mặc dù họ vui lòng bỏ tiền ra mua vé để vào thăm những công trình tuyệt đẹp của đất trời như Yosemite ở miền Trung California. Chưa kể các du khách ngoại quốc có thể bỏ ý định đi thăm Mỹ vì họ không thể vào chiêm ngưỡng tượng nữ thần tự do ở New York hay nhà tù lịch sử Alcatraz ở ngoài khơi San Francisco. Không biết ai phải chịu trách nhiệm trong việc làm hao hụt ngân sách từ nguồn thu từ đất trời này?
Lịch sử lập lại lần thứ hai government shutdown kể từ 28 ngày tổng cộng của tài khóa 1995-1996. Thời đó, chúng tôi đang ở năm cuối Đại học, ông Giáo sư không biết theo trường phái bảo thủ cứng nhắc của phe Cộng hòa hay trường phái mị dân uyển chuyển của phe Dân chủ mà bắt chúng tôi làm research tối tăm mặt mũi. Đến lúc trả bài, thay vì phân tích ưu khuyết điềm của học trò như thông lệ, ông Thầy "nguyền rủa cả voi lẫn lừa" làm hại ngân sách quốc gia, làm mất lòng tin của dân với cả hai ngành hành pháp lẫn lập pháp.
Lúc đó chúng tôi còn rất trẻ chưa có nhiều kinh nghiệm, chưa đủ sức thấy mọi chuyện trên đời, cứ nghĩ là ông Thầy lớn tuổi khó tính. Nhưng 17 năm sau, khi lịch sử lập lại, chúng tôi lớn khôn hơn, dở bài research năm xưa đọc lại, nhớ lại lời ông Thầy cũ, rồi nhớ câu ngạn ngữ Việt Nam "trâu bò húc nhau, ruồi muỗi chết" mà thương cho những người dân bình thường.
Hy vọng lần này thời gian "trâu bò húc nhau" ngắn hơn để con số "ruồi muỗi" bị thiệt hại ít hơn 17 năm trước, để nước Mỹ còn giữ nguyên được Credit với thương trường quốc tế. Và quan trọng hơn hết để niềm tin của chúng tôi với các chính trị gia nói riêng và với con người nói chung vẫn còn ở mức trên trung bình.
Santa Clara - Tháng 10/ 2013
Nguyễn Trần Diệu Hương
Vui Buồn Với Ban Biên Tập Online
Nguyễn Trần Diệu Hương
Thời còn là học trò Ngô Quyền, mỗi năm Khối Báo chí của trường đều phát hành một quyển báo xuân vào dịp Tết. Hơn ai hết, học trò lớp sáu, lớp bảy thường có "một thuở mơ làm văn sĩ” bắt đầu từ những bài viết cho báo trường nhà. Chưa có kinh nghiệm sống, chưa biết người biết ta, chúng tôi cặm cụi "sáng tác", viết văn làm thơ, rồi trịnh trọng mang bỏ vào thùng thơ nhận bài viết cho báo Xuân đặt ở một góc thư viện. Thời đó chưa có computer, mọi sáng tác đều viết tay, trên trang giấy đôi xé ra từ giữa quyển vở học trò có những dòng kẻ ô vuông quen thuộc. Thường thì chúng tôi phải xé cả chục tờ giấy đôi quẳng vào thùng rác trước khi hoàn thành được một “tác phẩm” gửi đến khối báo chí của trường.
Sau nhiều suy nghĩ, nhiều lần ngửa mặt nhìn trời xanh ban ngày, hay trời có trăng sao ban đêm để lấy cảm hứng, những “sáng tác” được viết ra. Tác giả còn ngây thơ cứ tưởng đã có công viết ra là thế nào cũng được đăng trên báo Xuân của trường. Đến ngày báo phát hành, chúng tôi là những người mua báo xuân đầu tiên, lật từ trang đầu đến trang cuối, rồi từ trang cuối đến trang đầu của quyển báo để hy vọng tìm thấy “sáng tác” cuả mình được đăng. Nhưng chẳng bao giờ tìm thấy, vì tuổi nhỏ, tài hèn sức mọn, chưa có ý tưởng rõ ràng, văn cũng vụng dại như người. Vậy mà những cô học trò nhỏ “mơ làm văn sĩ” cũng buồn cả một buổi học.
Lớn lên,“trăng đến rằm trăng tròn”, khôn hơn, nhiều kinh nghiệm sống hơn, viết văn dễ dàng hơn, nhất là vào những ngày mùa thu, sương mù gần như che kín cả nhân gian, lái xe khó khăn hơn, nhưng sáng tác dễ dàng hơn, chữ nghĩa trong đầu chừng như được khai thông, chảy cuồn cuộn từ đầu vào những ngón tay trên keyboard của computer, thông suốt hơn một thời tuổi nhỏ vẫn mơ ước có một bài văn được đăng báo.
Tôi đến với trường nhà qua lãnh vực báo chí bắt đầu từ Kỷ yếu NQ 2004, muộn màng hơn đến với một vài tờ báo Việt ngữ khác ở Mỹ. Rồi như một cái "nợ không vay mỉm cười xin cố trả" (như đàn anh Nguyễn Thy Ân đã viết thành thơ), từ bao giờ không nhớ, tôi bị cuốn hút vào việc làm báo online với các đàn anh đàn chị Ngô Quyền, đặc biệt là chị Võ Thị Ngọc Dung, đương kim Tổng Thư Ký của Hội chs NQ. Hai chị em ở hai đầu của tiểu bang California, khoảng cách gần bằng Hà Nội và Saigòn, nhưng cùng mê "viết lách lăng nhăng" nên được các đàn anh hướng dẫn và trao "trọng trách" làm báo online, phụ trách biên tập trang nhà NQ.
Lúc đầu, trang web còn sơ sài, chưa được nhiều người biết đến, chúng tôi phải post những bài cũ đã đăng trên các Đặc san Ngô Quyền những năm 2003, 2004 và 2006. Lâu lâu để có bài mới, BBT phải chịu khó “bao sân”, thức khuya dậy sớm, động não, gõ keyboard. Dần dần, “tiếng lành đồn xa”, các nhân tài Ngô Quyền về mọi lãnh vực: văn, thơ, nhạc, hội họa… từ khắp nơi trên thế giới lần lượt gửi bài về làm web mỗi lúc thêm khởi sắc. Thêm vào đó, “nghề dạy nghề”, “càng làm càng dẻo càng dai”, càng có kinh nghiệm, web nhà ngày một tiến bộ về cả nội dung lẫn hình thức. Đến lúc này, BBT phải trả lời Email gửi về từ khắp nơi trên thế giới với đủ mọi yêu cầu. Email không có tên người gửi rõ ràng , nhiều lúc BBT như lạc vào “mê hồn trận” vì không biết đó là Thầy, Cô, Anh hay Chị? Thế là có những trách móc xảy ra vì BBT đã “đoán” sai người gửi E mail là ai, dùng lời lẽ không thích hợp trong thư trả lời. Đó là một trong những “tai nạn nghề nghiệp” của chuyện làm báo online.
Có một thoáng buồn như vậy nhưng cũng có nhiều niềm vui, nên BBT mới có nghị lực miệt mài thức khuya dậy sớm làm báo online. Trong đó, niềm vui lớn nhất là có được tình bạn thời Trung học. Lần này không chỉ giới hạn trong khung cửa lớp như hơn 30 năm trước mà còn có bạn bè là chs NQ nhiều thế hệ đã ngồi ghế NQ trong 20 năm đầu tiên kề từ khi trường thành lập vào năm 1956. Nhờ NQ online mà bạn bè "thấy lại dung nhan xưa" dù mỗi người ở một góc địa cầu. Nhờ trang web NQ mà các đàn anh, đàn chị biết mặt đàn em vẫn còn đang ở "một cõi đi về" khi mình đã đĩnh đạc là học sinh Trung học. Tình thân NQ được nối lại bền chặt, thân quen như đã biết nhau "từ muôn kiếp trước". Để cảm nhận được điều này, tất cả chs NQ nên cùng "vác ngà voi" với BBT để tìm lại được tình bạn quý hiếm cùa thời mới lớn.
Những cái E mail nhỏ nhoi, nối kết được các chs NQ ở xa nhau cả một đại dương, nhiều khi đem lại nụ cười vô tư mở đầu một ngày mới vẫn còn phải miệt mài theo nợ áo cơm.
Chẳng hạn sáng ngày Noel, vẫn giữ thói quen dậy sớm đi tập thể dục mỗi sáng mặc dù là ngày lễ, gym đóng cửa, tôi ngồi vào bàn viết, gõ E mail nhắc nhở những cây bút, cây đàn, cây cọ... chuẩn bị bài cho "Tác Phẩm NQ 2011”. Vì là thư gởi ra đúng ngày lễ Giáng sinh nên cuối E mail có đùa:
- "Quà Noel của em đâu?"
Vài giây sau, E mail của đàn anh Ngô Càn Chiếu ờ Pháp trả lời chỉ vỏn vẹn một chữ "Nè!" kích thích trí tò mò của đàn em ở Mỹ. Thế là đàn em gác lại mọi chuyện đang làm,"mở quà" của anh Chiếu, thì đó là link đến bài hát "Ly cà phê buổi sáng" đã có hơn 2000 người nghe chỉ sau chưa đầy 3 tháng được post lên web. Chỉ có vậy nhưng cũng đem đến nụ cười hồn nhiên của thời đi học và tự dưng thấy ấm lòng như vừa uống một ly cà phê Starbucks nóng pha sữa low fat giữa thời tiết lạnh giá của mùa đông ở Bắc Mỹ.
Hay được nghe "lời tự thú" rất chân tình qua E mail của đàn anh Nguyễn Mạnh Dũng ở Việt Nam, một họa sĩ đã đóng góp rất nhiều tranh cho báo Ngô Quyền:
"Ai còn lưu luyến thuở học trò thì người ấy có đến hai lần kỷ niệm tuổi thơ! Tội gì không tham phải không Diệu Hương?
Nhận lời với Luân và em chẳng qua là do... lòng tham của mình đó em ạ!"
Đúng là một loại lòng tham rất hiền hòa, dễ thương mà người tham lam kiểu này không bao giờ phải sám hối với Phật hay xưng tội với Chúa.
Các đàn anh khóa 7 vẫn được "kính nhi viễn chi" một cách đặc biệt không phải chỉ vì lúc chúng tôi còn ở Tiểu học, các đàn anh đã thênh thang trong giảng đường Đại học ở quê nhà hay quê người, đã "nếm mật nằm gai", hoặc đã nằm xuống cho sự an bình của nhiều người trong đó có chúng tôi; mà còn là vì các đàn anh khóa 7 là bạn của thầy dạy Toán, Diệp Cẩm Thu. (Xin được “thành thật khai báo” đàn anh, đàn chị dẫu chỉ là bạn của Thầy, Cô vẫn được “ưu đãi” hơn các chs NQ lớp lớn khác). Trong số đó, đàn anh Nguyễn Ngọc Xuân từ Việt Nam đã giúp đỡ tích cực trong việc tìm kiếm tư liệu cho web nhà, đã giúp BBT thấy ấm lòng hơn qua những thư nhà gói được cả một góc quê hương đến người đọc ở năm châu bốn biển. Một dạo, anh Xuân vẫn gửi những chuyện cười ý nhị vừa để BBT thấy “may mà có các anh (chị) đời vẫn còn dễ thương”, vừa để đóng góp vào mục giải trí cuối tuần trên web nhà. Có lần anh Xuân còn làm thơ gởi tặng BBT cả một chữ “Tâm” làm đàn em bỗng nhớ đến lời dạy của cụ Nguyễn Du “Chữ tâm còn một chút này.”
Từ Châu Âu, đàn anh khóa 8 Trần Hữu Phúc ở Đức luôn tạo điều kiện cho BBT làm việc với hiệu quả cao nhất cho web nhà bằng các software gõ tiếng Việt đơn giản và dễ dàng nhất. Lâu lâu anh Phúc còn chịu khó gọi điện thoại xuyên đại dương, dù giờ giấc khác nhau, để yểm trợ tinh thần đàn em mỗi khi thấy “quân ta đang hao mòn nhuệ khí.” Cũng nhờ có ông anh “Chief Editor” của BBT mà chúng tôi biết link “Gõ tiếng Việt online” để có thể tự bỏ dấu tiếng Việt bất cứ ở đâu miễn là kết nối được với internet. Nhờ vậy anh cựu Trưởng khối Học tập Trương Đức Hoàng (nk 72-73) ở tận bên Úc đỡ bị BBT gõ cửa làm phiền anh tiếp tay bỏ dấu. Làm báo online nên “toà soạn” có thể làm ở tất cả mọi nơi, mọi lúc (chẳng hạn những dòng này đang được viết qua keyboard của laptop trên một chuyến bay xuyên đại dương dài 12 tiếng trên đường về thăm mẹ ở quê nhà.)
Hình như người Úc gốc Việt vốn tận tình với việc “vác ngà voi” nên anh Hoàng còn “volunteer” cả người bạn đồng môn NQ và Đại Học Khoa học, chị Phạm Thị Hạnh vừa cầm bút, vừa cầm cọ, “mở hàng” cho phần hội họa của web nhà vốn đồng không nhà trống từ lâu vì các hoạ sĩ Ngô Quyền còn “mai danh ẩn tích”, chưa chịu “xuống núi hành hiệp giúp…web nhà”. Cũng là người sinh hoạt tích cực trên website cuả Hội Cựu Sinh Viên Khoa Học Saigòn (trước 1975) nên chị Hạnh thông cảm cảnh “làm dâu trăm họ” của BBT, thường xuyên viết E mail yểm trợ tinh thần bạn bè và đàn em. Xin cảm ơn “cô Bắc kỳ nho nhỏ” cuả xứ Kangaroo.
Ở bên xứ hoa Tulip của trời Âu, cựu Trưởng khối Báo chí (nk 73-74) Phạm Kim Luân (cũng là cháu nội của vị Thầy quá cố dạy Pháp văn đầu tiên ở Ngô Quyền, Thầy Phạm Văn Tiếng), đã cố vấn người viết bài này từ bài viết vụng dại, non nớt đầu tiên của năm lớp sáu. Mãi đến bây giờ anh Luân vẫn tiếp tục góp ý cho chúng tôi trong việc “viết lách lăng nhăng”. Ý kiến của một đàn anh đã dày dạn kinh nghiệm trong việc làm báo luôn luôn được chúng tôi trân trọng lắng nghe. Cũng là họa sĩ của Ngô Quyền xưa, anh Luân đã mời gọi thêm đồng môn kiêm đồng nghiệp Nguyễn Mạnh Dũng góp “hoa tay” vào báo trường nhà, mặc dù hai người bạn cùng lớp ngày xưa đang ở hai phía của địa cầu. Mới E mail qua lại vài lần, BBT đã “đánh hơi” thấy hoạ sĩ còn có năng khiếu viết văn và rất nặng lòng với trường xưa, với thời làm học trò Ngô Quyền. Chúng tôi tin chắc phần hội hoạ của web nhà sẽ mỗi ngày một phong phú hơn nhờ sự cộng tác cuả chs Ngô Quyền khoá 13 Nguyễn Mạnh Dũng.
Có được sự kết hợp ở khắp nơi trên thế giới và của nhiều chs Ngô Quyền khoá 1 đến khóa 17 cùng góp tay vào thế giới ảo của trường xưa phải kể đến công đầu của anh Tô Anh Tuấn, Tổng Thư ký đầu tiên của Hội chs Ngô Quyền. Khi trường chưa có website, “tòa soạn báo giấy” những năm 2003, 2004, và 2006 vẫn đặt ở nhà anh chị Tuấn Hiền, hai đàn anh, đàn chị NQ trong số nhiều chs NQ bỏ rất nhiều công sức cho việc thành lập Hội chs NQ nói chung và việc làm báo nói riêng. Chỉ hai năm gần đây, sức khỏe không còn như thời “mười bảy bẻ gãy sừng trâu”, anh Tuấn chuyển gánh nặng qua vai chs NQ khóa 11, Võ Thị Ngọc Dung, đương kim Tổng Thư ký. Thấy chị Dung thức khuya dậy sớm, đàn anh Trần Ngọc Danh và tôi đưa tay “nâng ngà voi” phụ nhưng computer system chưa compatible, lại ở xa webmaster (chs NQ Phạm Luyến) nên chúng tôi chỉ “làm báo part time”, nhưng “có còn hơn không” phải không chị Dung?
Rất thầm lặng, và luôn nghe chị Dung "hát " câu "Đừng bỏ ... "tao" một mình", chị Nguyễn Thị Minh Thủy vẫn là "cô cò" cần mẫn edit các dấu hỏi ngã của tiếng Việt. Đặc biệt hơn hết, đã một thời "một duyên hai nợ âu đành phận" với thi sĩ Nguyễn Tất Nhiên , chị Thủy là nguồn cung cấp hầu hết các thi phẩm của nhà thơ quá cố trên thư quán Nguyễn Tất Nhiên của web nhà.
Các anh chị cả, khoá 1, lâu nay vẫn thầm lặng theo dõi, thấy em út nhiều khi cũng được việc nên lâu lâu cũng gửi E mail ở khắp nơi từ Biên Hòa, Kentucky, Massachusetts, Illinois… yểm trợ “tinh thần chiến sĩ”. Những lá thư của các anh chị cả bao giờ cũng như những ly nước mía mát lạnh giữa mùa hè, giúp “quân Ngô Quyền vẫn tiến bước đều đặn”… trên trang nhà. Đặc biệt là anh chị Đào Văn Công, Trần Kim Lan thường gởi những tấm hình đầu tiên thời mới thành lập trường nhà năm 1956. Đồ cổ bao giờ cũng có giá trị, vì đôi khi cả người và cảnh trong hình đều đã về với hư không.
Ngoài ra, đàn anh khóa 6 Nguyễn Anh Tuấn vẫn sẵn sàng góp vào web nhà “kho ký ức” ngọt ngào, ấm áp tình bạn Ngô Quyền của anh không những chỉ ở một góc Biên Hòa yêu dấu ngày xưa, mà còn qua đến Tokyo của xứ sở Phù Tang hay California ở ven biển miền Tây Hoa Kỳ.
Quý Thầy Cô ở năm châu bốn biển theo dõi trang nhà cũng thấy vui vì học trò xưa dù tóc đã đổi màu nhưng tấm lòng với trường cũ vẫn còn nguyên như một thời áo trắng. Cho nên có lần Thầy Hoàng Phùng Võ đã trực tiếp khen ngợi một thành viên của BBT qua điện thoại:
- “Website của trường nhà ngày càng khởi sắc, ngày càng hay hơn. Anh chị em cứ thế bảo nhau mà làm.”
Theo đúng lời Thầy, chị Tổng thư ký mỗi tối sau bổn phận đời thường, cặm cụi mở hộp thơ NQ trên không gian ảo, đọc thư góp ý, thư hỏi thăm lẫn thư phàn nàn. Đại loại như:
- Sao lâu quá không thấy đăng bài của tui?
- Ủa sao bài của tui “tự dưng biến mất” trên trang nhà?
Kể lại bạn nghe, không phải để nhắc đi nhắc lại chuyện “biết rồi khổ lắm nói mãi” của người làm báo online mà để thỉnh thoảng bạn cùng góp tay vào vác ngà voi với BBT để web nhà phong phú hơn. Và để cùng nhận ra rằng trên không gian ảo chuyện được “tắm lại trên cùng một dòng sông” nhiều lần trong đời vẫn xảy ra hàng ngày ở www.ngo-quyen.org
Nguyễn Trần Diệu Hương
Gần Tết quê nhà 1/2011
Thư Gởi Bạn
Bạn thân mến,
Lâu lắm rồi, mình không còn có dịp gặp lại nhau, mọi liên lạc bằng thư từ hay điện thoại cũng không có. Nhưng tôi biết chắc chắn bạn vẫn nhớ đến tôi, cô bạn thân từ trường Nữ Tiểu học lên Trung học Ngô Quyền. Cũng như tôi luôn liên tưởng đến bạn, nhất là dạo sau này khi trang web của Hội cựu học sinh Ngô Quyền phát triển, việc nối lại liên lạc không khó, nhưng sao mình chưa làm được?
Giống như từ thời thơ dại, tôi vẫn thường giao tiếp với các anh chị lớn hơn, chắc là vì tụi mình đọc khá nhiều sách nên đã già từ hồi còn nhỏ phải không bạn? Nên phải chơi với người lớn hơn để được nghe nhiều chuyện mà tụi bạn cùng lớp chưa hề biết đến. Hồi đó mình luôn có mặt bên nhau từ giờ học đến những sinh hoạt hiệu đoàn.
Tháng 4 năm 75, mọi thứ đều thay đổi, TL, NQ phiêu bạt quê người; BC,YN yên nghỉ ngàn đời ở một góc Biên Hòa có đầy kỷ niệm của cả lớp; tôi trôi dạt về Nha Trang, lơ ngơ, tội nghiệp một mình giữa biển trời bao la, giữa một lớp chuyên toán đa số là con trai, con gái rất hiếm hoi. Chuyện tìm được một người như bạn giống như chuyện tìm kim ở đáy biển. Bạn ở lại trường xưa với màu sắc mới, với gần một nửa bạn bè thân quen , mà vẫn không quên tôi, nên tôi vẫn nhận được đều đặn hàng tuần những lá thư viết trên giấy học trò kẻ ô vuông gởi qua đường bưu điện.
Bạn kể cho tôi nghe chuyện các cô đi dạy không còn mặc áo dài; các thầy giảng bài đôi khi không dám nhìn vào mắt học trò vì phải nói những điều nghe ra không đủ sức thuyết phục chính mình thì làm sao giảng cho học trò được? Điều đó tôi cũng nhận thấy ở trường mới. Nhiều buổi trưa tan học, đi ngang phòng giáo sư ngày trước (sau này gọi là phòng giáo viên) vẫn nghe đau lòng vì có tiếng một thầy cô nào đó, chắc mới đổi về từ phía bên kia vĩ tuyến 17, đang phàn nàn vì chuyện chia chát mấy miếng thịt tem phiếu, tiêu chuẩn của cán bộ. Nghe đến lạ tai, và chợt nhớ một lời khuyên của ông bà ngày xưa "miếng ăn là miếng nhục"! Đâu có giống thầy cô ở Ngô Quyền của mình hồi trước, phải không bạn?
Bạn có nhiều diễm phúc hơn tôi, không bị cuốn đi sau cơn "bão táp cách mạng" tháng 4 năm 1975. Bạn học hành cũng giỏi và sau khi tốt nghiệp Đại học, "hoạn lộ" thênh thang nhờ nhiều lý do. Đường học vấn của tôi bị cắt ngang ở lớp mười hai. Vả từ đó mình xa dần, xa dần nhau, rồi mất hẳn liên lạc mặc dù tôi biết ngày nào mình còn hoài niệm về Ngô Quyền và những năm đầu trung học, ngày đó mình vẫn còn nhớ đến nhau .
Hơn ba mươi năm trôi qua, nhanh hơn người ta tưởng, nhiều Thầy Cô trẻ trung năm xưa đã lần lượt về cõi vĩnh hằng. Thời gian tôi lưu lạc quê người dài hơn thời gian ở quê nhà. Nếp nghĩ không ít thì nhiều cũng bị ảnh hưởng. Ở quê nhà, bao nhiêu năm trôi qua, ngôn ngữ mới, suy nghĩ "thời mở cửa" chắc cũng đã thấm nhập vào bạn tự bao giờ. Tụi mình như một con sông tẻ thành hai nhánh.
Bây giờ có gặp lại nhau, cũng không còn được tâm trạng như chim liền cánh, như cây liền cành của ngày xưa. Lớn lên, khôn ra, tôi hiểu mình không thể giữ lại tất cả mọi thứ, mọi quan hệ như thời mười ba, mười bốn. Nhưng tôi vẫn hy vọng một ngày nào đó, mình gặp lại nhau, để thấy lại trong mắt nhau những cô học trò Ngô Quyền ngây thơ, bé bỏng chăm học năm nào. Ở khoảnh khắc đó, mình vẫn là bạn thân như xưa, vẫn còn ở một góc Biên Hỏa yêu dấu ngày nào, như dòng sông chưa chia thành hai nhánh.
Thêm vào đó, dù đã thật sự "nghìn trùng xa cách", cả bạn và tôi đều giống nhau ở chỗ mình muốn được thấy các em học sinh trung học bây giờ hiếu học, biết kính thầy yêu bạn như thế hệ các đàn anh, đàn chị, như thế hệ của tụi mình ngày xưa. Dù đang ở bất cứ một góc nào của địa cầu, mình vẫn mong đất nước Việt Nam của mình giàu mạnh, tự do. Chỉ cần một vài điểm tương đồng đó thôi, những dị biệt khác sẽ không ngăn mình thân nhau như xưa, như tụi mình đã không gián đoạn liên lạc trong ba mươi năm qua phải không bạn thân mến?
Nguyễn Đông Tường
Thư Trả Lời
một bức thư nhà trọn niềm thương
nhắn người viễn xứ sống tha hương
gửi chút hương lòng cho mây gió
góp lại tâm tình của bốn phương
dâu bể nhân sinh như giấc mộng
hợp tan kim cổ vẫn vô thường
xin hãy đừng nguôi niềm hy vọng
mai về trong nắng đẹp quê hương
Vương Trọng Thúy
Bạn Và Giấc Mơ Olympics
Có một lúc nào đó trong thời thơ dại, bạn tôi mơ trở thành vận động viên thể dục (gymnastics Olympian ) đi dự thi đại hội thể thao của thế giới được tổ chức mỗi bốn năm.
Bạn người tầm thước, không cao, mảnh khảnh. Trong đội múa của trường, bạn là người mềm mại, uyển chuyển nhất. Bạn có thể uốn cong người ra sau hoặc trước mà vẫn giữ chân rất thẳng. Cuối năm lớp bốn, bạn còn tập được động tác nhảy từ trên cao xuống, uốn người một vòng trong không trung trước khi chân chạm đất. Vì vậy bạn được cả trường gọi là "người cao su".
Thời đó, kỹ thuật truyền thông chưa phát triển như hiện nay, chúng tôi không được coi live trực tiếp thế vận hội Olympics trên TV màu HD màn ảnh phẳng như bây giờ. Lâu lâu mới được coi chiếu lại trên TV (màu sắc còn nhợt nhạt) một vài hình ảnh các cô vận động viên gymnasts biểu diễn. Mỗi lần như vậy, bạn vẫn quả quyết nói với chúng tôi, nghe rất là người lớn :
- Sẽ có một ngày tao được đi thi đấu như vậy. Lúc lên bục nhận huy chương được thấy cờ vàng ba sọc đỏ của mình tung bay và nghe quốc ca của mình trổi lên chắc là vừa vinh dự vừa cảm động lắm.
Chúng tôi chưa kịp có ý kiến,bạn lại tiếp với ý tưởng của một đứa con nít "miệng còn hôi sữa":
- Nếu được huy chương vàng tao sẽ có tiền “bao” cả lớp đi ăn đậu đỏ bánh lọt cả tháng luôn.
Tuổi thơ, nhìn đời toàn màu hồng, dễ mơ ước, dễ tin là đường đời khấp khuỷu, gập ghềnh với ai khác, với mình thì luôn bằng phẳng thênh thang, tất cả chúng tôi cùng khuyến khích bạn tập luyện trong phòng tập võ Judo của trường. Có lẽ vì "quyền lợi vật chất" : được ăn đậu đỏ bánh lọt free cả tháng; mà cũng có lẽ vì lúc đó chúng tôi vừa mới đọc "Bồn lừa" và "Mơ thành ngưòi Quang Trung" của nhà văn Duyên Anh. Tinh thần dân tộc dâng cao, và ước mơ của chúng tôi cũng dâng cao, cao ngất trời xanh. Cuộc đời dưới mắt tuổi lên mười, "muốn là được", còn hơn là câu ngạn ngữ “Vouloir c’est pouvoir” của Pháp.
Ước mơ được đi thi đấu ở thế vận hội và đạt huy chương vàng trong môn gymnastics của bạn, được cả lớp ủng hộ, và khuyến khích bạn. Tất cà chúng tôi đều ngây thơ không biết là để có ngày được vinh dự khoác áo quốc gia đi thi đấu, có ngày được lên bục cao, cúi đầu xuống được khoác huy chương lên cổ, được thấy cờ của quốc gia mình treo ở vị trí quan trọng nhất, tai được nghe điệu nhạc quen thuộc của bài quốc ca, mỗi vận động viên phải trải qua nhiều năm trường kiên trì tập luyện. Mồ hôi đổ ra vì vận động nhiều, nước mắt đổ ra vì đau nhức các bắp thịt. Và quan trọng hơn hết phải sống với một chế độ tập luyện gian lao ngay từ lúc còn rất nhỏ, nhất là đối với môn gymnastics.
®
Chẳng hạn cô bé Shawn Johnson, người Mỹ, từ lúc 3 tuổi đã Shawn được cha mẹ ghi danh vào học một lớp gymnastics khi họ thấy cô con gái nhỏ con của họ thường thích leo trèo và nhảy xuống từ bàn ghế trong nhà. Lúc mới tập, chưa quen, Shawn té ngã nhiều lần. Cô bé 3 tuồi khóc thành tiếng, bao giờ cô cũng được mẹ an ủi vỗ về. Vòng tay nâng đỡ của mẹ làm Shawn có nghị lực đứng lên tập tiếp dù đôi khi vẫn còn đau. Nhiều năm dài sau đó, hai mẹ con cùng đến phòng tập, con tập trên sàn, mẹ ngồi trên hàng ghế đầu tiên, luôn đưa mắt khuyến khích con. Nhiều hôm Shawn tập đến lúc bạn bè đã về hết, huấn luyện viên cũng rời phòng tập, chỉ còn hai mẹ con.
Hơn một thập niên trôi qua, dù nắng đổ lửa vào mùa hè hay tuyết ngập đường vào mùa đông, Shawn được mẹ chở đến phòng tập đều đặn ít nhất ba lần mỗi tuần. Bà mẹ như một nguồn năng lượng không bao giờ cạn cho cô vận động viên gymnastics . Ở thế vận hội Olympics 2008, Shawn được vinh dự trở thành nhà vô địch thế giới về World Artistic Gymnastics. Mồ hôi nước mắt cùa mười hai năm dài đem lại cho Shawn Johnson một huy chương vàng và một huy chương bạc ở tuổi mười sáu tại Bắc Kinh năm 2008.
Trả lời phỏng vấn ai là người giúp Shawn nhiều nhất trong thành công ờ Thế vận hội 2008, cô bé vô địch về gymnastics đáp ngay không cần phải suy nghĩ:
- Mẹ tôi đã dạy tôi từ lúc tôi còn nhỏ là tôi luôn phải giữ thăng bằng trong tập luyện cũng như trong đời sống. Nếu tôi muốn thành công trong bất cứ việc gì điều trước tiên tôi phải yêu thích việc đó.
Mùa hè năm 2012 đến Luân Đôn, nhưng không thể tham gia đội tuyển do đầu gối bị chấn thương trong quá trình tập luyên, Shawn tuyên bố retired (giải nghệ), chấm dứt sự nghiệp thi đấu của một vận động viên thế giới chuyên nghiệp ở tuồi hai mươi, thuộc loại "cao tuổi" đối với môn gymnastics. Shawn chấm dứt sự nghiệp với lời khuyên vàng ngọc của bà mẹ đã sát cánh bên con suốt từ năm cô lên 3 tuổi :
- Cuối cùng, khi con 50, 60 hay già hơn nữa, mọi người sẽ quên đi những cái huy chương, những cái bằng cấp, và những hào quang quanh nó nhưng người ta sẽ không bao giờ quên con như một con người.
®
Hay như Gabrielle Douglas lên 3 tuổi đã biết làm theo động tác của chị mình khi cô chị tập luyện trong phòng những động tác căn bản từ một lớp gymastics. Với thiên khiếu sẵn có, chỉ "học lóm" nhưng động tác cùa Gabby (cách gọi ngắn của tên Gabrielle) đã nhuần nhuyễn và mềm mại hơn chị. Vì vậy lên 6 tuổi, Gabby được cha mẹ gởi vào học ở một lớp chuyên huấn luyện cho các mầm non gymnasts. Nhiều năm học gymnastics, cô bé Gabby cũng nuôi ước vọng được tham dự Thế vận hội Olympics. Năm 2008, ờ tuổi 13, qua màn ảnh Tivi, thấy Shawn Johnson lên bục nhận huy chưong vàng, nhìn huấn luyện viên Yiang Chow tận tình với đội gymnasts của Mỹ, Gabrielle thuyết phục cha mẹ xin cho mình được qua Iowa học ở Chow’s Gymastics and Dance Institute nơi Shawn Johnson đã được đào tạo . Không ai muốn gởi cô con gái mới 14 tuổi đến sống với một gia đình lạ cách xa cha mẹ gần ba ngàn miles (khoảng 4.800 km) nhưng với ước vọng của con, cha mẹ của Gabrielle gởi con qua học trường gymnastics đã đào tạo rất nhiều nhà vô địch thế vận hội đem về cho Hoa Kỳ nhiều huy chương vàng.
Chìu con, Mẹ của Gabby đưa con từ Virginia qua Iowa, gởi con ở nhà một bà mẹ cũng có con gái học cùng lớp gymnastics với Gabby. May mắn là với kỹ thuật đưong thời, mỗi ngày mẹ của Gabrielle có thể nói chuyện và "nhìn" con qua webcam.
Có những lúc quá nhớ nhà, Gabby khóc lóc đòi về. Cũng đặt nhiều hy vọng vào khà năng gymnastics của con, và đã đầu tư quá nhiều tiền bạc vào cô con út, bà mẹ an ủi, vỗ về con :
- Cố gắng một chút nữa thôi, một ngày nào đó, con sẽ được lên bục nhận huy chương như cô Shawn Johnson, con có muốn vậy không? Cuộc đời không bao giờ dễ dàng, con phải chiến đấu và không bao giờ bỏ cuộc.
Cái hào quang của Shawn ở thế vận hội 2008 ở Bắc kinh làm Gabby tạm quên đi nỗi nhớ nhà, lao vào tập luyện.
Một ngày cuối thàng 7 năm 2012 ở thế vận hội Luân đôn, mọi cố gắng của Gabby và sự hy sinh của cha mẹ cô được đền bù xứng đáng. Cô bé Gabby nhỏ con, mảnh khảnh nhất đội tuyển Gymastics của Mỹ lên bục nhận huy chương vàng toàn đội.
®
Qua màn ảnh TV, nhìn khuôn mặt mới lớn của Gabby Douglas, khuôn mặt trưởng thành của Shawn Johnson, tôi bỗng nhớ khuôn mặt thanh tú còn nét trẻ thơ của bạn tôi và giấc mơ Olympics ngày chúng tôi còn học ở bậc Tiểu học.
Nếu không có biến cố tháng 4 năm 1975 có lẽ ở thế vận hội Olympics lần thứ 23 năm 1986 ở Los Angeles, có thể bạn tôi cũng đã được lên bục nhận huy chương vàng ,biến giấc "mơ thành người Quang Trung" và niềm tự hào Việt Nam thành hiện thực. Tôi tin như vậy khi nhìn bạn kiên trì tập luyện,có lúc ứa nứoc mắt vì đau, vì té ngã.
Buồn thay, vào mùa hè năm 1979, bạn cùng cả con tàu vượt biển chìm xuống đại dương trong một hành trình tìm tự do không bao giờ đến đích . Chắc là trước khi vĩnh viễn từ giã trần gian, bạn tôi vẫn thấy hình ành lá cờ vàng ba sọc đỏ bay phất phời giữa một rừng cờ ở thế vận hội, và có cái huy chương vàng tròn trĩnh đeo ở cồ bạn như giấc mơ của thời thơ dại...
Nguyễn Trần Diệu Hương
(Để tưởng nhớ NTBC của thời thơ dại)
THƯ GỞI BẠN NHÂN 30 THÁNG TƯ
Tờ lịch tháng 4 có các ghi chú "nợ áo cơm"của một người Mỹ gốc Việt theo
thứ tự :
- 1 tháng 4 : Nợ nhà đến hạn trả hàng tháng.
- 2 tháng 4 : Membership của AAA, bảo hiểm xe phải thanh toán.
- 5 tháng 4 : Citi Master Card đến hạn trà
- 7 tháng 4 : Nợ nhà thứ hai chi trả từ tài khoản ở Ngân hàng
-10 tháng 4: Trả nợ Discover Card.
-15 tháng 4: hạn chót nghĩa vụ khai thuế hàng năm của người dân Mỹ
-16 tháng 4: trả hóa đơn Internet.
-17 tháng 4: trả tiền cable TV hàng tháng
-20 tháng 4: tiền điện nước tháng 3 đến hạn trả.
-25 tháng 4: tiền HOA home association hàng tháng phải thanh toán
-27 tháng 4: hóa đơn Macys đến kỳ hạn.
-28 tháng 4: lệ phí hàng tháng của Fitness 24hrs due.
Ô thứ 30 của tờ lịch tháng không có ghi chú gì hết, chỉ có một vòng tròn
tô màu đen và hai giọt nước mắt.
Các ghi chú trên tờ lịch tháng 4 ngày càng dày đặc theo nhu cầu của nợ áo cơm, của
đời sống và có thay đổi tùy năm, nhưng vòng tròn tô đen và hai giọt nước mắt vẫn vậy từ 37 năm qua. Và cứ vào lúc 11 giờ sáng ngày 30 tháng 4 thì hai giọt nước mắt
nóng ấm vẫn lăn dài trên gò má của những em bé ngây thơ vào tháng 4 năm 1975. Nỗi đau vẫn còn đó, âm ỉ trong lòng, chợt nhói lên mỗi tuần lễ cuối cùng cùa tháng 4.
Tháng 4 năm nay, tôi nhận được E mail của người bạn học thời thơ dại từ Montreal, Canada. Mới nói chuyện với bạn vài ngày trước qua đường dây điện thoại miễn phí vùng Bắc Mỹ từ Google trên computer . Hôm nay nhận được thư bạn với subject line bằng tiếng Việt " Hết rồi H. ơi !". Thư bạn chỉ có hai dòng báo tin Mẹ của bạn qua đời ở tuổi 78. Nước mắt tôi chảy ra vì hai lý do. Thương bạn từ nay không còn Mẹ để được an ủi, được thương yêu vô điều kiện. Mà cũng khóc vì đó cũng là câu nói Ba của bạn đã nói với Ba tôi ngày 30 tháng tư năm 1975. Bây giờ cả hai ông bố đã về với hạc nội mây ngàn để lại nỗi ngậm ngùi cho thế hệ thứ hai.
Bạn sinh đúng ngày 30 tháng 4, là con nhà khá giả, nên có tiệc mừng sinh nhật mỗi năm. Tháng 4 năm 75, người ngoài Bắc vô Nam tay không, chuyến về tay xách nách mang, lưng đeo , bao nhiêu là đồ đạc.
Như nguyên tắc bình thông nhau, nhà cửa ngưòi trong Nam ngày càng trống vì đồ đạc trong nhà lần lượt nối đuôi nhau ra chợ trời, rồi… Bắc tiến. Từ đó tiệc sinh nhật dù chỉ có cái bánh bông lan có hàng chữ sinh nhật … trở thành mơ ước viễn vông. Những cô cậu bé mắt nai vào tháng tư năm 1975 vẫn còn cái bề ngoài ngây thơ, non trẻ nhưng tâm hồn đã trưởng thành, cằn cỗi từ lúc nào không biết. Thương nhất là các em bé còn nằm trong bụng mẹ , đã ra đời trong chia lìa mất mát như câu hát " Ngày con ra đời núi rừng cha sống lưu đày ".
Học xong Trung học, đường tương lai bị bít lối vì quan niệm "hồng thắm chuyên sâu", vì chủ nghĩa lý lịch, là con trai ở "tuồi 17 bẻ gãy sừng trâu" , bạn bị lùa đi thanh niên xung phong, sống chơ vơ giữa rừng già đào kênh, đốn rẫy mặc dù không mang lại một ích lợi cụ thể hay một hiệu quả kinh tế nào. Mỗi lần bạn về , khuôn mặt đen sạm, già cỗi dù bạn chưa đến hai mươi.
Về nhà thấy Mẹ vất vả, một nắng hai sương, các em ngơ ngác tự lo cho nhau, lôi thôi lếch thếch như một đàn gà con lạc cả cha lẫn mẹ.. Ra đường , thành phố vắng hơn vì dạo đó "trại học tập cải tạo" mọc lên như nấm từ Bắc vào Nam. Người ta kiếm sống bằng một cái nghề khác xa chuyên môn của mình. Ở một góc phố, ông Thầy dạy Tóan ngày xưa ngồi bên lề đường vá xe đạp. Ghé thăm Thầy, Thầy trò ngồi trên lề đường, dưới bóng cây, không phài trong khung cửa lớp nhưng tình nghĩa Thầy trò vẫn như xưa. Thầy kể cho bạn nghe Thầy dạy Triết ngày xưa đang xuôi ngược đường Nha Trang Saigon làm nghề lơ xe. Nhìn quẫn nhìn quanh, cuộc sống từ lúc nào đang trở thành một dấu “^” trên môi, trên mắt mọi người .
Bị đẩy đến ngõ cụt của đời sống, bạn ra đi, không phải trở lại rừng già với cái "mũ tai bèo che kín tương lai" mà bạn băng qua đại dương trên một chiếc ghe mong manh để hy vọng được học hành đàng hoàng, được thay Ba Mẹ nuôi em.
Từ đó mình lạc nhau vì "đời cua cua máy, đời cáy cáy mò".
Từ một gia đình đông anh chị em ở quê mình, bạn bắt đầu lưu lạc quê người ờ tuổi
mười tám một thân một mình, học bốn lớp, làm hai job part time trong nhiều năm dài, vững vàng thành công nhờ bài học "anh phải sống" của nhà văn Khái Hưng mình học từ thủa nào xa lắc xa lơ . Hình như mùa đông ở Michigan chưa đủ đông đá cả trời và đất, bạn qua Montreal , gặp được "cái xương sườn đánh mất từ thời ông Adam", và từ người Mỹ gốc Việt, bạn thành Canadian gốc Việt.
Rồi có một dạo, bạn được gởi qua làm việc ở thung lũng điện tử" , California , vẫn hay vô tiệm bán bánh mì ở downtown San Jose , gần trường tôi theo học lúc đó. Tụi mình lại "đuổi bắt nhau " như trò chơi trốn tìm hồi nhỏ, vì cà hai đứa cùng thích ăn bánh mì Việt Nam kẹp chả lụa, rắc muối tiêu , không có mayonnaise như bánh mì Mỹ, không có fromage "con bò cười” như bánh mì Tây. Cùng ờ một thành phố, cùng mua bánh mì ở một tiệm fast food nhỏ của người Việt Nam nhưng chưa có cơ duyên hạnh ngộ , mình vẫn chưa gặp nhau.
Gần 20 năm sau, nhờ internet, nhờ các đàn anh, đàn chị trong ngôi trường Trung học ngày xưa, mình tìm lại được nhau, mói biết mình đã cùng dừng chân ờ trại tỵ nạn Pulau Bidong , (và cả ở tiệm bán bánh mì) ở hai thời điểm khác nhau.
Nhiều người không tin là có một tình bạn trong sáng chân thành giữa hai người khác phái. Nhưng hơn ai hết, mình hiểu tình bạn đó tồn tại , ít nhất là đối với những người đã cùng trải qua một cơn "shock thời cuộc" như tụi mình, phải không bạn?
Vài ba năm, bạn vẫn vể thăm quê hương một lần. Mỗi lần về , lại buồn thêm vì con nít bây giờ không được học Công dân giáo dục, không biết gì về lễ nghĩa đạo đức. Vì vậy mà T. ở Mỹ , rồi A. ở Pháp đã có “lời nguyền” không về lại quê nhà khi nào vẫn còn nhiều nghịch lý ở nơi mình mở mắt chào đời.
Bây giờ đang là những ngày cuối tháng 4, tôi biết ở Pháp, A. đang nuốt nước mắt vào lòng, ở Mỹ T. nước mắt lưng tròng, và ở Canada, bạn đang khóc cả tang chung lẫn tang riêng . Hèn chi ở nơi tôi ở, mấy hôm nay bầu trời vần vũ mây đen dù đang là giữa mùa Xuân vùng Bắc Mỹ. "Người buồn thì cảnh có vui đâu bao giờ" phải không bạn?
Tờ lịch tháng tư của bạn, cũng đầy dẫy bills của nợ áo cơm như của tôi và cùa bạn bè ở Mỹ, nhưng ngày 23 tháng 4 , bạn sẽ chú thích "ngày mất cả bầu trời" . Còn nhớ hồi nhỏ mình đã đọc ở đâu đó "mất mẹ là tai nạn lớn nhất trong đời". Cùng tất cả bạn bè ở khắp nơi trên thế giới, xin chân thành chia buồn với bạn vể "tai nạn lớn nhất trong đời". Cứ khóc như ngày xưa bạn khóc giữa rừng già Xuyên Mộc, khóc như ngày xưa mình bỏ xứ lưu vong một mình. Và cứ khóc như tụi mình cùng nhỏ lệ vào ngày cuối tháng tư mỗi năm.
Tôi tin bạn, tin thế hệ của mình đủ sức làm được một điều gì đó cho đất nước mình. Để thế hệ đàn em không phải tô đen ô cuối cùng của tờ lịch tháng 4, đề thế hệ con cháu được học Công dân giáo dục, biết kính già yêu trẻ, biết ơn cha mẹ và thầy cô, biết ngã mũ chào khi một đám tang đi qua, biết đặt quyền lợi của Tổ quốc lên trên quyền lợi của cá nhân, biết thương yêu người khốn khó, bất hạnh… Và biết có nhiều hạnh phúc tinh thần khác lớn hơn ăn ngon mặc đẹp , lớn hơn những lạc thú vật chất khác của đời thường...
Bạn bè vẫn nhắc nhau một ngày nào đó, tờ lịch 30 tháng 4 không còn bị tô đen, ngày đó bạn sẽ được "tổ chức sinh nhật bù trừ" cho từ 37 năm qua, đã không có một ngọn nến nào thắp sáng ngy 30 tháng 4 của bạn, của đất nước…
Nguyễn Trần Diệu Hương
(Gởi đến L. , T. và A.- cuối tháng 4/ 2012)
Có Phải Ngạc Nhiên?
Đầu mùa Thu, lá trở vàng như quy luật thiên nhiên. Ở quê nhà, Cô giáo Việt văn ngày xưa là một trong những chiếc lá vàng lìa cành đầu tiên.
Cô về hưu gần hai mươi năm và sống quạnh quẽ ở một góc Saigon , nhưng lúc nào Cô cũng rạng rỡ nụ cười trên môi. Vì bên cạnh Cô có đồng nghiệp, và học trò cũ. Một vài người trông còn đứng tuổi hơn Cô, nhưng có dịp gặp Cô họ vẫn cung kính như xưa.
Ngày Cô trở bệnh nặng, Cô nhắn tin cho thân nhân ờ Pháp về. Người thân của Cô vội vã về ngay nhưng đường xa ngàn dặm, cũng phải mất hai ngày mới đến. Đồng nghiệp cũ, học trò xưa, người nhỏ nhất tóc cũng chớm đổi màu, tận tình chăm sóc Cô từ nhà vào bệnh viện. Rồi bệnh viện bó tay, Cô trờ về nhà. Ngôi nhà không còn trống vắng, vì đầy tình nghĩa ngày xưa. Học trò ờ VN gởi E mail cho bạn học ở khắp nơi từ Châu Úc, Châu Âu, qua Châu Mỹ báo tin "Cô chỉ xin Phật cho Cô được sống thêm một ngày để gặp được cháu Cô từ Pháp về".
Học trò xưa lưu lạc quê người, mờ mắt chạy đua theo kim đồng hồ vì nợ áo cơm , nhưng vẫn nhạt nhòa nước mắt thương Cô.
Ngày đưa tang Cô, hàng xóm kinh ngạc vì đó là đám ma lớn nhất vùng. Không có lễ truy điệu cùa nhà nước, không có kèn trống xênh xang, nhưng có những con mắt đỏ hoe cùa "học trò già”, có nỗi ngậm ngùi của đồng nghiệp. Những tràng hoa phúng điếu đến từ khắp nơi trên thế giới, không rực rỡ màu sắc mà chì mỗi một màu trắng như màu áo học trò.
Học trò ờ VN đọc điếu văn ,thay mặt bạn bè khắp thế giới , dù ở góc nào trên địa cầu cũng chân thành thương Cô, một nhà giáo mẫu mực.
Tình nghĩa thầy trò còn thấy ở một lề đường bụi bặm của Tây Ninh 30 năm trước. Có người học trò cũ trong y phục chỉnh tề của nhà giáo đi chấm kỳ thi tốt nghiệp Trung học. Một khoảnh khắc tình cờ, từ cửa sổ phòng coi thi nhìn ra lề đường, người học trò xưa , lúc đó là phó chủ khảo của Hội đồng chấm thi, chợt nhận ra bóng dáng ông Thầy dạy Toán của mình năm lớp 9 ở Biên Hòa ngồi ở lề đường bên kia đối diện trước cổng trường, đang lui cui sửa một đôi giày cũ.
Lòng chùng xuống, nhưng nhà giáo trẻ đành phải đợi đến cuối buổi thi. Trưa hôm đó, xong mọi công việc, thay vì đi ăn trưa, anh băng qua đường đến chào Thầy:
- Thưa Thầy, em chào Thầy.
Ông vá giày, đen đủi vì nắng mùa hè, nhem nhuốc vì bụi đường (và cả "bụi đời" sau biến cố tháng 4/75) nhưng đôi mắt vẫn sáng, điềm tĩnh như phong cách nhà giáo trước tháng 4/75, ngước lên ngạc nhiên lẫn vui mừng:
- A! Thanh đó hả? Làm gì ở đây? Chờ Thầy một chút, phài vá xong đôi giày này để một giờ người ta đến lấy.
Người học trò cũ ngồi xuống lề đường, bên cạnh chiếc thùng gỗ đựng đồ nghề sửa giày, nhem nhuốc vì bụi đường, đứng chơ vơ bên lề đường như người chù cùa nó.
Anh thương Thầy lắm, cứ áy náy không làm gì được để giúp Thầy. Cái chemise trắng cùa anh nổi bật giữa màu sắc xám xịt trong "gian hàng lưu động" ở lề đường của ông Thầy cũ.
Chì tám năm trước, Thầy và anh cùng mặc áo trắng. Trong lớp học, Thầy đứng trên bục giảng, anh ngồi ở bàn đầu nghe Thầy dạy cách giải phương trình bậc hai. Bây giờ Thầy mặc cái áo kaki màu olive sờn cũ bạc màu, cũng thay đổi như xã hội đương thời. Duy có đôi mắt vẫn tinh anh, vẫn còn là đôi mắt của một nhà mô phạm. Bụi đường bay tung tóe không làm đôi mắt Thầy vẫn đục.
Khi người khách đến lấy giày, ông ta tưởng anh là khách hàng, khuyên anh bằng một thứ ngôn ngữ mới du nhập vào miền Nam:
- Này, ngồi đợi như thế thì chỉ có "rách việc". Vừa phí thì giờ vừa không được vá giày kỹ lưỡng.
Anh nhũn nhặn trả lời:
- Thưa không, tôi ngồi đợi Thầy tôi làm việc xong để được thăm Thầy.
Ông khách tròn mắt ngạc nhiên và nhận xét thật lòng:
- Thầy trò miền Nam các anh quý hóa thật!
Hôm đó khi Thầy làm xong công việc, anh chì còn kịp cầm tay Thầy ân cần thăm hỏi. Không dám dốc nửa tháng tiền lương của một "giáo viên Toán cấp 3" đặt vào tay Thầy vì Thanh biết Thầy sẽ không bao giờ nhận.
Ba mươi năm sau ngày gặp Thầy ờ lề đường Tây Ninh, Thanh vẫn dạy Toán cho học trò lớn hơn ở bậc Đại học. Và Thầy tóc đã ngã màu sương khói, được hệ thống an sinh xã hội ở Mỹ chu cấp trong giai đoạn hoàng hôn của cuộc đời.
Thanh kề chuyện cho một người học trò cũ nghe. Cô đã so sánh nỗi kinh ngạc của người khách hàng ở lề đường của Thầy năm xưa với sự ngạc nhiên của cả xóm ngày tang lễ Cô giáo dạy Việt văn thời Trung học.
Nếu người ta biết đến những câu nói truyền miệng ngày xưa "Nhất tự vi sư, bán tự vi sư" hay "Trọng Thầy nới được làm Thầy" thì trong cá hai trường hợp đều không có sự ngạc nhiên. Chuyện bình thường trong xã hội này không dưng trở thành nỗi ngạc nhiên trong một thể chế khác. Hình như có những chiếc lá vàng may mắn đã bay lượn trong hoan ca trước khi về với đất...
Nguyễn Trần Diệu Hương
Con Rồng Đông Phương
Rồng thật ra không phài là một con vật có thật. mà là một con vật hình thành trong óc tường tượng của con người từ Đông sang Tây. Và vì chỉ là sản phẩm của tường tượng nên rồng giống như một con thằn lằn hay thằn lằn rắn khổng lồ có chân và biết bay. Vậy mà không hiểu tại sao với người Đông phương ở chùa hay các lăng miếu đền thờ đều có hình tượng của rồng. Mặc nhiên hình ảnh con rồng cũng gắn với chùa chiền, đạo Phật và từ tâm. Ngược lại với các nước Tây phương, con rồng là biểu tượng của bạo lực, và sự hung dữ. Vậy mà nhiều em trai Á Đông mới lớn cứ theo truyền thống phương Đông, xâm một con rồng lên cánh tay với hy vọng mình cũng bay như rồng(?) , rất dễ bị ngộ nhận dưới cái nhìn của các thiếu niên Tây phương hay cái nhìn của những ông cảnh sát không biết cảm quan của người Đông phưong về con rồng. Cũng cùng là một con vật hình thành từ tưởng tượng, nhưng ở hai phương trời Đông, Tây, con rồng được nhìn dưới hai lăng kính trái ngược nhau.
Dù cùng là rồng Đông phương nhưng rồng Việt Nam khác với con rồng của các nước khác ở chỗ rồng Việt Nam ngậm viên ngọc trong miệng chứ không cầm ngọc bằng chân trước như rồng của Tàu, Nhật, hay Đại hàn…
Chi tuổi Bính Thìn, nói theo tử vi là cầm tinh con rồng. Lúc nhỏ, Chi là con rồng Đông phương, thùy mị, trang nghiêm, vẫn được đươc đưa ra làm khuôn mẫu cho con gái trong xóm. Các bà mẹ trong xóm dùng Chi làm gương sáng cho con gái mình cũng đúng vì đó là một cô gái ngoan hiền, học giỏi. Một trong những thói quen xấu của Chi, có từ hồi chưa đi học, là ăn rất chậm , vừa thong thả nhai, vừa ngước mắt nhìn trời xanh như.... rồng tìm đường phó hội. Vì là rồng sinh ra sau năm 1975 nên lớn lên đi học, Chi cùng cả “bầy rồng Bính Thìn” phải mang khăn quàng đỏ, và đã biết giúp việc nhà từ lúc còn học Tiểu học. Lâu lâu, Chi được sai đi chợ để mua những thứ lặt vặt còn thiếu, nhất là vào tháng chạp ta, khi theo truyền thống Việt Nam, giàu hay nghèo ai cũng chuần bị nhiều thức ăn cho dịp Tết. Mang tính chất con rồng Đông phương, nên Chi thường giúp một vài nhà trong xóm mua giúp những thứ lặt vặt họ còn thiếu. Thoạt đầu, họ rất mừng vì đỡ được công đi chợ. Nhưng chỉ được duy nhất một lần rồi không ai dám nhờ Chi mua giùm đồ từ chợ nữa. Lý do đơn giàn là không giống đàn bà con gái thường tình đi chợ tìm mua những thức ăn cón tươi tốt, những món hàng giá hời, Chi đi chợ theo kiểu "nhìn mặt chứ không nhìn hàng ". Nghĩa là Chi chỉ mua hàng của những em bé bán hàng, mặt mày non nớt, nhiều khi tuổi đời mới chỉ một con số; hay mua hàng của những bà cụ già tóc trắng như cước. Mua không trả giá, nhiều khi còn vừa mua vừa cho, hay biếu. Thế nên sau khi đựơc Chi mua giùm một bó ngò héo quắt queo, một nhúm ớt tươi sắp thành...ớt khô, hay vài trái chanh xanh đã ngã màu vàng nâu, vỏ thì dày, nước thì ít; cả xóm đều từ chối khi được Chi hỏi có muốn mua gì thêm ở chợ để Chi mua giùm.
Với cà nhà, không ai phiền hà gì về cá tính "đi chợ mua hàng nhìn mặt người bán chứ không nhìn hàng" cho đến một lần Chi được sai đi chợ vào ngày ba mươi Tết, ngày của những phiên chợ "được ăn cả ngã về không" , nhất là với các hàng tươi như hoa, quả...
Như truyền thống Việt Nam, các món ăn cho ngày Tết được chuẩn bị dần dần từ đầu tháng chạp ta. Vì niềm tin cổ truyền của người Việt Nam, không ai muốn làm lụng, nấu ăn trong ba ngày Tết, để được an nhàn cả năm. Thế nên, khởi đầu là dưa món, củ kiệu, dưa hành, rồi các món mứt gừng, mứt dừa, mứt khoai..., đến các món mặn như : tré, thịt kho nước mắm, thịt đông, bành chưng, bánh tét... lần lượt được hoàn thành trong tuần lễ giáp Tết. Ngày tư, ngày Tết chỉ việc đưa lên bàn thờ mời tổ tiên, ông bà, ngưòi quá cố về ăn Tết với gia đình. Tàn hết một cây nhang, thức ăn được hạ xuống, cá nhà cùng ăn uống, những bà nội trợ trong gia đình được thong dong hơn trong dịp Tết. Khách đến thăm, cũng có đồ ăn làm sẵn, nếu không phải là cổ bàn thì cũng là một mâm cơm tươm tất.
Ngày ba mươi Tết thường chỉ có hai món sau cùng được nấu là một nồi chè , vừa để rước (mời) ông bà, người thân quá cố về nhà ăn Tết, vừa để cả năm mọi chuyện được "ngọt như.. đường nấu chè"; và nồi canh mướp đắng dồn thịt- vì mướp đắng được người Nam gọi là "khổ qua"- với niềm tin dân gian miền Nam ,(đặc biệt là sau 30 tháng 4/1975) mọi cực khổ sẽ qua trong năm mới. Nghe cũng có lý và món khổ qua của người Nam hay mướp đắng của người Trung rẽ tiền, dễ nấu, dễ ăn cho cả người già lẫn con nít nên từ sau Tết năm 1976 trở về sau, món canh khổ qua dồn thịt của người Nam trở thành món ăn truyền thống của ngày Tết cho cả Nam, Trung , Bắc.
Tết năm đó , trong nhà ai cũng bận rộn. Chi còn nhỏ chưa được "tín cẩn" đề nấu nướng món gì nên được sai đi phiên chợ cuối cùng trong năm ngày 30 Tết đề mua mướp đắng về nấu canh. Dù đã được dặn dò kỹ lưỡng là phải lựa mua khổ qua trái suông, dài, "mắt to" và còn xanh tươi để canh sẽ xanh tươi, ngọt hơn . Thế mà như thông lệ ngày thường, Chi lại mang về hơn một chục trái mướp đắng héo vàng , với lời biện luận rất "rồng Đông phương" :
- Con nhỏ bán mướp đắng bị ế hàng mời con mua mở hàng. Con nhỏ chắc độ mười tuồi, ốm nhom tội nghiệp lắm.Thôi kệ, con mua giùm nó. Mính ăn dở dở một chút cũng được.
Tết năm đó cũng là Tết con Rồng, Chi vừa mười hai tuổi, vẫn còn nhỏ nhưng đến bây giờ Chi còn nhớ là nồi canh mướp đắng năm đó không ngon, nước không trong nên chỉ để trong nhà ăn, không dám mời khách. Cũng không dám cúng tổ tiên, sợ ông bà "quở" con gái vụng về! Biết "tội" mình, mấy ngày Tết, Chi ăn toàn canh khổ qua nhưng lòng vẫn vui khi nghĩ đến đôi mắt mừng rỡ của con bé bán mướp đắng tuổi còn nhỏ hơn Chi. Trong thâm tâm, Chi không tin là ăn canh khổ qua ngày Tết thì mọi khổ đau sẽ qua hết. Con bé bán mướp đắng, quanh năm phải đi bán khồ qua, nhưng cái khổ vẫn đeo đẳng triền miên từ tháng giêng đến tháng chạp , từ năm này qua năm khác.
Sau này lớn lên, phải sống đời lưu lạc, mặc dù , không tin là ăn khồ qua vào ngày Tết thì "cái khồ sẽ qua hết" nhưng Chi vẫn nấu một nồi canh mướp đắng dồn thịt (hay dồn đậu hủ trộn bún tàu và nấm) đề nhớ đến bà Nội và những cái Tết có đủ hương vị quê hương, có đủ truyền thống Việt Nam dù lúc đó đang là những năm tháng khốn khó cuối thập niên 80.
Có thể con rồng không có thật trên đời, mà chỉ được dựng nên qua trí tưởng tượng. Nhưng dù sao, con rồng vẫn là một trong số mười hai con giáp. Chi sinh năm rồng, và chỉ muốn mãi mãi mình là một con rồng Đông phương. mà phải là một con rồng ngậm châu ngọc trong miệng chứ không giữ lấy bằng chân trước.
Bây giờ, ở quê người có muốn tìm một người già, hay một em bé ngây thơ phải buôn thúng bán bưng vất vả kiếm sống cũng không có. Ờ cửa chợ Việt Nam nơi xứ người thỉnh thoảng có một hai bà cụ ngổi bán những ly chè đậu ván , chè hoa cau… Trong các khu phố mua bán của cộng đồng Việt Nam thảng hoặc có vài bà cụ bán dăm bó diếp cá, húng quế xanh tươi , hay mấy cọng bạc hà mập tròn tự trồng lấy ở nhà. Có cụ còn vấn khăn nhung đen rất Bắc kỳ, hay đội nón lá cùa miền Nam mưa nắng hai mùa. Cũng như ngày xưa còn nhỏ, Chi cũng ghé lại mua hàng giùm các cụ chỉ để được thấy một khoảnh khắc rạng rỡ của những "cây cổ thụ Việt Nam" bị bứng gốc trồng trên xứ người vì vận nước. Mặc dù Chi biết các cụ bán "hàng" chỉ để cho vui, để có thêm vài ba chục gởi về giúp người thân ở quê nhà , khác với những bà cụ buôn gánh bán bưng một nắng hai sương , vất vả kiếm sống ở Việt Nam. Tuyệt nhiên không có một em bé nào bưng những rỗ chanh ớt, khổ qua.. đi bán như mùa Xuân con rồng năm xưa lúc Chi tròn mười hai tuổi .
Nhiều lúc vào chợ Mỹ mua những trái mướp đắng to xanh, tươi tốt mà người Mỹ vẫn gọi là bitter melon, Chi vẫn bồi hồi nhớ lại con bé gầy còm có đôi mắt sáng mừng rỡ khi Chi mua mở hàng cho nó. Rỗ mướp đắng héo vàng đã bán hết rất nhanh sau đó. có lẽ những người lớn đi chợ thấy một con bé mười hai tuổi mua giùm hàng cho một con bé mười tuổi vào một phiên chợ cuối năm không so đo, lợi hại, được mất , thì đôi lúc những tính toán thiệt hơn của cuộc đời cũng không đàng kể nữa…
Nguyễn Trần Diệu Hương
(Viết cho sinh nhật tháng Giêng và Na)
GIỮA HAI BỜ SINH TỬ
Nguyễn Trần Diệu Hương
Lâu lâu nhận được những cái E mail của Ông, nhìn giờ gởi là hai hay ba giờ sáng, không nói ra nhưng chúng tôi đều hiểu Ông vẫn còn giữ thói quen thức dậy mỗi hai tiếng mỗi đêm check up tình hình sức khỏe của Bà. Chỉ cần khoảng ba tháng liên tục làm một hoạt động nào đó, đúng giờ, đồng hồ sinh học trong cơ thể con người quen với một thời khóa biểu cố định, Trong trường hợp này, Ông đã chăm sóc Bà, triền miên trong bệnh Alzheimer từ cả thập niên thì chắc hẳn là giấc ngủ của ông tự động chỉ kéo dài mỗi hai tiếng, ông bật dậy, tỉnh táo đi quanh trong nhà, dù là không còn có Bà để được chăm sóc nhau ở đoạn cuối cuộc đời.
Ông đã dốc hết tâm trí vào việc chăm sóc Bà, từ việc đọc những tài liệu về bệnh Alzheimer (đến bây giờ Y học vẫn thua cuộc trước căn bệnh mất trí nhớ này) đến việc dành hết thì giờ ở cạnh Bà, lo từng muỗng cháo đến từng hớp nước. Mỗi năm vài lần, ghé qua thăm Ông, nhìn cảnh Ông vào ra trong căn nhà tĩnh lặng, không có tiếng nói, không có tiếng cười, dù vẫn thường xuyên có hai vợ chồng, nhìn Bà gầy như chiếc lá trên giường bệnh, rồi nhìn những hình ảnh của Ông trong quân phục thời còn nổi trôi trên các chiến trận từ Cà Mâu đến Bến Hải, tôi vẫn tự hỏi ông đã lo cho hàng ngàn binh sĩ Thủy Quân Lục Chiến ngày trước và lo cho Bà bây giờ, nỗi lo nào lấy đi nhiều tâm lực của ông hơn?
Chỉ ở cách nhà ông khoảng 30 miles nhưng tôi được tin Bà vào bệnh viện (và mãi mãi không bao giờ về) qua đường dây điện thoại viễn liên từ Đông sang Tây của nước Mỹ từ một đồng đội của Ông ngày xưa (và là một người bạn tù của Ba từ thời gian khổ ở trại tù Nam Hà ngoài Bắc cuối thập niên 70).
Chúng tôi vào bệnh viện thăm Bà và để hỗ trợ tinh thần cho Ông trong những ngày Bà đứng giữa hai bờ sinh tử. Tôi vốn sợ không khí thoang thoảng mùi Ethanol của bệnh viện, sợ nhìn nỗi đau đớn thể xác của giai đoạn thứ ba trong chu kỳ “sinh lão bệnh tử” của loài người, nên bao giờ vào bệnh viện, dù là đi thăm ai, tôi cũng thường nhờ người “escort” để hỗ trợ tinh thần. Lần vào bệnh viện thăm Bà mùa Đông 2007, có hai người bạn đi cùng đều quý Ông như tôi, và đều là “chuyên gia bệnh viện” nên tôi thấy “ấm lòng chiến sĩ’ hơn, mùi Ethanol dường như bớt nồng nặc hơn. Còn hơn thế, tôi không phải đi lòng vòng tìm chỗ đậu xe như những lần đi thăm người bệnh khác vì một trong hai người bạn có thời làm ở bệnh viện nơi Bà đang điều trị, biết rất rõ “sweet spot”, để đậu xe, và đi tắt vào bệnh viện qua cửa phòng cấp cứu để tôi đỡ bị thấy những nơi đau đớn thể xác rất thật của con người.
Vì vậy, nên đến lúc đứng cạnh giường bệnh của Bà, tôi vẫn còn “bình tĩnh”, đầy đủ tinh thần để quan sát và thấy rõ tình nghĩa phu thê của Ông đối với Bà cảm động, và sâu xa hơn tình nghĩa “một duyên hai nợ âu đành phận” nhiều. Ở cái bảng nhỏ cuối giường có tên người bệnh, có tên Bác Sĩ, Y tá trực trong ngày, Ông viết thêm tên của Ông và số điện thoại liên lạc trong trường hợp khẩn cấp. Ở tuổi ngoài 70, Ông vẫn túc trực ở Bệnh viện bên cạnh Bà từ sáng đến tối, thường là chỉ được ngồi nghỉ chân trên cái ghế nhỏ ở cuối phòng. Ông chỉ chạy về nhà để ăn uống qua loa và làm vệ sinh cá nhân, chợp mắt vài tiếng rồi, lại chạy vào bệnh viện, dù là chỉ để được nhìn bà đã chìm vào hôn mê, mắt luôn nhắm nghiền, đang mỏi mòn thoi thóp giửa hai bờ sinh tử Cô Y tá trực người Phi Luật Tân vào check up Bà vài lần trong ca trực, luôn thấy Ông quẩn quanh bên giường bệnh, chốc chốc lại nhìn cái máy chuyển chất dinh dưỡng lỏng vào cơ thể Bà ở đầu giường, cũng cảm kích trước tinh nghĩa vợ chồng của Ông đối với người bệnh nên chăm sóc Bà chu đáo hơn bệnh nhân ở giường bên kia, cùng phòng với Bà. Người y tá cũng để cho Bà mặc quần áo như ở nhà ( bộ đồ lụa mầu hồng) thay vì yêu cầu Ông đổi quần áo bệnh viện cho Bà. Nguyên tắc của Bệnh viện sau chín giờ tối, thân nhân phải ra về, cần gì thì người bệnh bấm chuông gọi y tá, nhưng vì bà là bệnh nhân Alzheimer nên y tá trực cho các cô con gái của Ông Bà thay phiên nhau ở lại bệnh viện với Mẹ. Ban ngày khi các chị đi làm thì Ông và cô điều dưỡng, người vẫn đến giúp Ông chăm lo cho Bà từ nhiều năm nay ở nhà, vẫn túc trực bên Bà.
Chúng tôi đến thăm Ông Bà, lần này ở Bệnh viện thay vì ở nhà như lần trước, vừa quý Ông về những đóng góp của Ông cho cuộc chiến tranh bảo vệ tự do mà cuối cùng “kẻ xấu đã thắng” như ý kiến của Thượng nghị sĩ John McCain, vừa cảm kích tình nghĩa vợ chồng của Ông Bà, nên đã mang vài thứ thức ăn nhẹ cho Ông, nhưng xem chừng trên giường, người bệnh không ăn uống được vì yếu sức, ở góc chân giường, người trông bệnh cũng chẳng nuốt trôi được thức ăn nào vì lo lắng.
Trong lúc chúng tôi nghe ông kể lại thời khóa biểu thường nhật của ông đảo lộn kể từ ngày Bà vào Bệnh viện, người bạn là Bác sĩ lặng lẽ đến đầu giường, cạnh bên những dây nhỏ chằng chịt, và những biểu đồ bệnh lý để đọc những con số chi chít trên đó, thỉnh thoảng lại nâng tấm mền mỏng của Bệnh viện quan sát những mạch máu trên tay Bà. Anh không nói gi, nhưng chúng tôi có linh cảm những ngày cuối đời của Bà đang được đếm từng ngày.
Còn nhớ hôm đó, giữa mùa Đông, trời mưa tầm tã, tôi phải tập trung tinh thần lái xe, không dám nói chuyện, không dám nghe soft-rock music trên băng tần FM96.5 quen thuộc. Lúc rời bệnh viện, trời đã sụp tối, mặc dù chỉ mới gần sáu giờ chiều. Không phải là dân địa phương, vừa không quen đường, trời vừa tối, lại mưa như trút nước, trời xui đất khiến làm sao thay vì quẹo vào freeway, xe của tôi lại chạy vào ……. một cái nghĩa trang ở ven xa lộ 101, mà tôi cũng không biết cho đến lúc thấy cái bệ nổi, nơi người ta vẫn để quan tài làm lễ trước khi đưa người quá cố về với lòng đất. Cả ba chúng tôi đều thấy đó là “điềm gở” nhưng không dám kể lại cho Ông.
Y như rằng sau đó vài ngày, chúng tôi được tin Bà không còn bị dăng co giữa hai bờ sinh tử mà về hẳn với cõi vĩnh hằng. Tối hôm đó, có dịp nói chuyện với một người bạn rất thân của Ba từ Dallas, cũng là một cựu Sĩ Quan QLVNCH cùng thời với ông, tôi kể cho Bác nghe về chuyện chăm sóc Bà rất tình nghĩa, rất thủy chung của Ông từ cả thập niên qua. Mặc dù không quen Ông, Bác cũng xin số điện thoại của Ông để gọi là chia xe nỗi mất mát không cùng với một người cùng thời, cùng mặc áo lính, cùng một bên chiến tuyến ngày xưa. Mới thấy tình “huynh đệ chi binh” vẫn còn mặc dù hàng ngũ oai hùng của QLVNCH ngày xưa đã bị "xẩy đàn tan nghé" từ một ngày cuối tháng Tư rất buồn của đất nước.
Chúng tôi đặt một vòng hoa gởi đến phúng điếu, mong mầu sắc tươi thắm của những bông hoa sẽ giúp Ông và con cháu thấy cuộc đời đỡ ảm đạm trước đại tang trong đời. Lúc đến viếng Bà lần cuối ờ nhà quàn, chúng tôi mới thấy cả một rừng hoa đến từ những đồng đội ngày xưa, nhất là những người cùng sát cánh bên ông giữa bom đạn năm nào. Có cả những người đích thân bay đến thăm ông từ rất nhiều tiểu bang khác nhau của nước Mỹ rộng lớn. Họ là bạn vong niên, là đồng đội, cùng đơn vị với ông. Có những người không biết nhiều về Ông, nhưng biết đến tiếng tăm của Ông qua chiến thắng hào hùng của QLVNCH nói chung và Sư đoàn Thủy Quân Lục Chiến nói riêng ở Cổ thành Đinh Công Tráng, Quảng Trị năm xưa, cũng đến thăm Ông và tiễn Bà lần cuối đúng với câu “nghĩa tử là nghĩa tận”. Dĩ nhiên, cũng như Ông, đa số họ đều đã bước vào hoàng hôn của đời người, nhưng vẫn không quản ngại thời tiết mùa Đông đang làm băng giá hơn một nửa nước Mỹ, không ngần ngại bỏ ra một số tiền không nhỏ, đối với thu nhập của một “senior citizen”, cho một cái vé máy bay round trip chỉ mua trước giờ bay không đến một ngày. Tất cả những điều đó hẳn đã an ủi Ông rất nhiều, đã đền bù cho Ông về những gian khổ, những hiểm nguy ông đã chịu đựng ở chiến trường năm xưa.
Giữa những tràng hoa phúng điếu tươi thắm, Bà nằm an nghỉ trong chiếc áo dài Nhung mầu tím đỏ, mà Bà rất thích thuở còn khỏe mạnh, mặt cũng tươi thắm hồng hào như vẫn nằm thiêm thiếp ở nhà từ bao năm qua.
Ngày đưa Bà về lòng đất, chúng tôi phải đậu xe rất xa, và đi bộ giữa trời lấm tấm mưa phùn mùa đông vì đồng đội Ông, những cựu chiến sĩ TQLC mắt sáng, môi tươi ngày xưa, bây giờ gối đã mỏi, chân đã mòn, tóc đã điểm mầu sương khói, vẫn tụ tập về rất đông đủ, như họ vẫn sát cánh bên Ông giữa bom đạn năm xưa. Tôi tự nghĩ nếu tất cả họ đều mặc quân phục, chắc là rất giống cảnh đám tang ở Nghĩa Trang Quân đội Biên Hòa thời trước tháng 4 năm 1975. Nhưng điều làm chúng tôi cảm động nhất là Ông, người Sĩ quan QLVNCH năm xưa trong mầu áo hoa rừng, bây giờ trong mầu áo đen của tang phục, đã nghẹn ngào nấc lên nhiều lần khi đọc điếu văn tiễn người bạn đời về bên kia thế giới.
Chúng tôi vẫn tự hỏi, phải chăng ngoài nước mắt khóc thương Bà vĩnh viễn ra đi, còn có nước mắt Ông đã nén vào lòng năm xưa khi thấy đồng đội của mình bị dằng co giữa hai bờ sinh tử, giữa súng đạn vô tình ở chiến trường dạo trước? Dù là nước mắt nào đi nữa, bên cạnh mất mát không thể nào bù đắp được của ông, tình đồng đội là một niềm an ủi rất lớn giúp Ông đứng vững được trong quảng đời còn lại một mình, vĩnh viễn không còn có Bà bên cạnh…..
Nguyễn Trần Diệu Hương
Santa Clara, tháng 3/09