Viện Đại Học Đà Lạt theo thống kê năm 1967 có gần 2 ngàn rưởi sinh viên, trong đó sinh viên Trường Chánh Trị Kinh Doanh chiếm hơn phân nửa, còn lại là Khoa Học, Sư Phạm và Văn Khoa, trong đó Văn Khoa có 952 sinh viên.
Ngôi trường rất đẹp, những giảng đường một tầng được xây dựng rất gọn gàng, bố trí kiến trúc hài hòa với những bãi cỏ, vườn hoa và hàng thông nhỏ chạy dài từ cổng trường đến tận dòng suối dưới chân đồi. Phong cảnh Trường Đại Học mờ mờ trong sương mai, nhìn xuống là sân Cù, hồ Xuân Hương và vườn Bích Câu, khí hậu trong lành cùng cái mát lạnh của thành phố cao nguyên, đây quả là nơi học tập rất tốt và là môi trường lý tưởng cho những cặp tình nhân sinh viên.
Huy hiệu Viện Đại Học Đà Lạt
Phương châm Trường Đại Học Đà Lạt là:
“Nhất niên chi kế, mạc nhi thụ cốc
Thập niên chi kế, mạc nhi thụ mộc
Bách niên chi kế, mạc nhi thụ nhân”
(Kế hoạch một năm, không gì bằng trồng lúa
Kế hoạch mười năm, không gì bằng trồng cây
Kế hoạch trăm năm, không gì bằng trồng người)
Trường Thụ Nhân, Viện Đại Học Đà Lạt
Nói đến Viện Đại Học Đà Lạt mà không nói đến cảnh tuyệt diệu, yêu kiều, đầy mộng mơ là một thiếu sót như ta chưa biết ngỏ lời khen tặng một bông hồng đẹp đẽ duyên dáng trong dòng đời thanh xuân. Dầu khô khan cách mấy, thiết tưởng cũng nên theo dõi những dòng cảm nghĩ dưới đôi mắt của những nam nữ sinh viên ghi lại:
“Viện Đại Học Đà Lạt là một trường đại học được cho là đẹp nhất vùng Đông Nam Á lúc bấy giờ, dẫu rằng không phải là một trường lớn nhất, với nét đẹp thơ mộng, lãng mạn và rất thiên nhiên. Từng con đường, ngọn cỏ in dấu bước chân học trò, nó đã in sâu đậm trong ký ức tôi hôm nay và có lẽ mãi mãi ngàn sau!
Con dốc Kiêm Ái, đường dẫn đến đại học xá nữ, đưa tôi về những dãy phòng trọ, nơi tôi có nhiều niềm buồn vui với bạn bè, với tiếng cười rộn rã vô tư, với những đêm thức khuya học bài, cùng xúm nhau nấu mì gói. Nhớ nhiều buổi trốn học, tôi đi phố mua dâu tây, về đại học xá lặt rửa sạch sẽ, trộn đường cho lên men thành rượu, dành khi về Sài Gòn làm quà cho Má.”
“Viện Đại Học Đà Lạt rộng, cổ kính và quý phái, bốn mùa thắm sắc những loài hoa, mùa Xuân hoa anh đào nhuộm hồng phố xá, trên những lối nhỏ dẫn đến giảng đường, dọc bờ hồ Xuân Hương, thắm thềm bướm trắng”.
Những bạn nam sinh viên diễn tả vẻ đẹp của Viện Đại Học Đà Lạt dưới ngòi bút:
“Hoa không thua thắm, liễu hờn kém xanh!”
“Tôi quyết định về quê và xin phép gia đình đi học Trường Chánh Trị Kinh Doanh. Đây là quyết định quan trọng đầu đời của tôi, may sao lại là quyết định hoàn toàn đúng. Trường Chánh Trị Kinh Doanh có cuốn hút diệu kỳ bao hoài bão và ước mơ bay bổng của tôi. Hơn nữa Đà Lạt là thành phố đẹp nhất mà tôi từng được biết. Vì vậy bốn năm học ở Đà Lạt là thời tuổi trẻ tươi đẹp mà tôi chẳng thể nào quên. Buổi sáng tinh sương đi học, hòa vào dòng người bước chân đến trường mới tuyệt làm sao. Con dốc dưới chân đồi leo lên cổng viện, một bên có hàng mimosa nở hoa trắng xóa, từ nhóm bạn bè đi bên nhau nói cười vui vẻ, mưa bụi li ti bám trên tóc, trên vai, trên mặt các bạn nữ má đỏ môi hồng, nên thơ và đẹp đẽ làm sao.”
Một cảm nghĩ khi lần đầu đến học tại Đà Lạt:
“Đêm nay mới thật là đêm
Bao năm lạc bước êm đềm về đây
Về đây sau những tháng ngày
Đau thương phúc lạc tràn đầy cả hai
Bắt đầu tất cả đêm nay:
Bình an, phúc lạc, an bình, bình an.” (Vô danh)
Điều đặc biệt của Trường Đại Học Đà Lạt là có tổ chức ăn ở cho sinh viên xa nhà, tuy nhiên số phòng có hạn cho nên phần đông sinh viên thuê các phòng trọ ở bên ngoài. Đại học xá cho nam sinh viên có từ niên học 1957-1958, gồm ba khu A, B và C nằm trong khuôn viên của Viện. Lúc đó chỉ có khoảng 100 nam sinh viên, gọi là đại học xá Bình Minh, dầu là những dãy nhà trệt nhưng được gọi là lầu 1, lầu 2 và lầu 3, sau này tăng thêm lầu 4, lầu 5 và lầu 6. Nữ sinh viên có hai ký túc xá. Ký túc xá thứ nhất là ký túc xá Trương Vĩnh Ký, nằm gần phố được thành lập năm do các nữ tu dòng Mến Thanh Giá Thanh Hóa trông coi. Ký túc xá thứ hai nằm trong khuôn viên trường mang tên Kiêm Ái, ngày trước ký túc xá này dành riêng cho nữ sinh nguyên là nữ tu, ở phía Tây đồi Năng Tĩnh đủ chỗ sinh hoạt cho khoảng 80 nữ sinh viên.
Cuộc sống sinh viên đại học xá rất đơn giản. Khi muốn dùng nước nóng để tắm hay nấu mì gói họ thường nhúng dây điện trở vào nước hay dùng bếp dầu hôi. Còn việc nấu ăn chung đều do các nữ tu Tu Hội Tận Hiến phụ trách. Thực đơn được lặp lại nhiều lần gồm những món giản dị như canh khoai môn nấu với tôm khô có rau thì là, cá nục kho tanh rình, rau muống xào tỏi. Khi số sinh viên ngày càng đông thì hai học xá dần dần dành hết cho các nữ sinh viên lưu trú. Còn các nam sinh viên được chuyển đến cư xá Trương Vĩnh Ký, cư xá cũ của nữ sinh viên, ở gần khu chợ Đà Lạt. Nguyên do chính của việc hoán chuyển này là bắt đầu từ câu chuyện “ma”. Hôm đó là một đêm học mùa thi năm 1970, không trăng, không sao, một nhóm “ma” sinh viên hiện hình làm “ma cà kheo”. Từ cư xá nữ sinh viên, “mấy con ma” rủ nhau ẩn núp thấp thoáng trong những lùm cây trên dốc đồi, khuất hẳn giữa hai hàng cây ven đường. Thế rồi, đợi mấy cô sinh viên lên trễ hay đi học khuya từ trên thư viện trở về Kiêm Ái, mải mê nói chuyện, “ma cà kheo” lênh khênh chợt hiện ra … Mấy cô chạy ù té, thất kinh hét lên “ma, ma, ma…”. Đám sinh viên nữ đang cười nói bị một phen … kinh hoàng … vì gặp ma.
Trông coi đại học xá nam sinh viên có Sư Huynh Giám Đốc Trần Văn Nghiêm và Sư Huynh phụ tá Théophane Kế. Vì đám sinh viên đực rựa này quậy quá, các Sư Huynh mới tìm ra được một chân lý vững chắc muôn đời: “Thằng con trai thì luôn luôn vẫn là thằng con trai”. Các Sư Huynh thường điên đầu, mất ăn mất ngủ vì bọn trẻ. Cứ khoảng 12 giờ đêm, các sinh viên học khuya kéo nhau từ thư viện về phòng trọ, đi ngang qua phòng của các Sư Huynh, đám sinh viên nghịch ngợm đủ trò, muôn hình vạn trạng. Có tối vừa đi vừa rao to “Phở! Phở!”, có tối lại thay bằng món “Gà!”, hay có đêm vừa chạy vừa hát to: “Cái nhà là nhà của ta, Frère Kế Frère Nghiêm làm ra…”. Có khi cả toán dậm bước theo nhịp quân hành. Sinh viên diễn đủ trò cho khuây khỏa trước khi yên thân ném xác vào giường đi ngủ, “Nhất quỷ, nhì ma, thứ ba sinh viên đại học”. Một buổi tối khuya, một đám sinh viên đi chơi ở phố về cư xá trong Viện, đi ngang qua nhà Cha Viện Trưởng, thấy trong nhà đèn tắt tối thui, chúng bèn hè nhau vào thăm mấy con gà trong chuồng của Cha. Một chàng nhanh tay vào bóp mỏ mấy con gà bắt về phòng làm thịt nấu cháo ăn đêm cho đỡ đói lòng trước khi đi ngủ. Hôm sau Cha Viện Trưởng biết chuyện, Cha nói tỉnh bơ: “Gà mình mua về chưa được ăn, chúng nó đói thì cho chúng xơi, chúng ăn sau này chúng sẽ nhớ trả.”
Trong kho tàng truyện cổ của những ai từng sống trong Viện Đại Học Đà Lạt là chuyện sinh viên ăn cắp hoa hồng đem biếu người yêu, bẻ hoa “chùa” đem hiến cho người tình. Sư Huynh Théophane Kế phải tuyên bố: “Anh chàng hay cô nàng sinh viên si tình nào đó chỉ có tim mà không có óc (Le coeur a des raisons que la raison condamne). Người tình mà nhận của gian thì không phải là người tình đáng yêu. Con trai nào mà trao nhận của gian là những gã si tình hèn mạt hạng bét.”
Thời buổi loạn lạc, nhiều khi có những sinh viên phải rời trường, xa người yêu để dấn thân vào đời sống quân ngũ. Ba tháng quân trường, chờ cuối tuần mong gặp người yêu, ôi thấm thía làm sao!
"Sao em không đến chiều nay thứ Bảy.
Sao em không lại cho áo ai bay.
Sao em không lại
Sao em không lại
Quân trường riêng anh đứng đây đếm từng chiếc lá mưa bay
Sao em không đến
Sao em không đến
Để nắng chiều tắt trên cây xoan già
Để bước mình anh bâng khuâng mong chờ
Những chiều mong em đến thăm
Vì anh biết anh còn có em.”
(Sao Em Không Đến - Anh Bằng)
Đôi lúc đi xa cũng nhớ về Đà Lạt, nhớ về chuỗi ngày còn cắp sách, nhớ lại cảnh cũ người xưa:
Tháng Mười thu nhẹ đến bên ta
Buộc áng mây xa chở trăng về
Cam Ly thác gọi đời dâu bể
Ta đã ra đi lỗi câu thề
Gió thu nhập thể hoài thương cảm
Đà Lạt mù sương núi Langbiang
Suối Vàng thả tóc dài Vạn Kiếp
Xuân Hương – Than Thở - bóng chiều loang
Ba cây đồi vắng cảnh rừng hoang
Phố ngả lưng đau giữa điêu tàn
Lối xưa lạc bước vờn sương khói
Thầm gọi tên quen lệ tuôn hàng
Lá vàng rũ cánh chờ tri kỷ
Đào hồng khép nụ đợi tri âm
Lâm Viên gió lặng chiều thăm thẳm
Tình Xanh sóng dậy đắm bạc lòng
Che kín niềm đau phận lưu vong
Ngơ ngác đời nhau giữa phong trần
Thu ơi! Ta khắc tình trên đá
Nhớ mãi ngàn thông giữa ngàn thông.
(Đêm Thu Nhớ Đà Lạt - Hạ-Đỗ Chung-Bích Phương)
Sinh viên Viện Đại Học Đà Lạt đa phần là những cô cậu tú lần đầu tiên xa nhà, xa cha mẹ cho nên hụt hẫng tình thương. Trong cái không khí hữu tình của vùng cao nguyên sương mù, thiếu tình cảm lại thêm có nhiều sinh hoạt ngoài trời giúp họ rất dễ đến gần nhau, Vì thế mỗi năm, trường mãn khóa thì sau đó có nhiều cặp đồng môn mà“Ngựa anh đi trước, võng nàng theo sau”.
Mang danh là thành phố của tình yêu, do vậy có nhiều địa danh trước đó hay sau này do các sinh viên đặt thêm đã đưa Đà Lạt đi vào huyền thoại, thành phố trữ tình: Đồi Thông Hai Mộ, hồ Xuân Hương, hồ Than Thở, khách sạn Mộng Điệp, Đường Vào Tình Yêu, Thung Lũng Tình Yêu, Rừng Ái Ân, Vườn Tao Ngộ. Những địa danh và khung cảnh hữu tình này đã làm cho Trường Đại Học Đà Lạt phá kỷ lục về số lượng cặp tình nhân rồi sau đó tiến tới hôn nhân khi họ ra trường. Hôm nay để thực hiện lời hứa của mấy mươi năm về trước, đồng thời nhớ Xuân Đà Lạt và cũng do ngày Xuân sắp đến của dân xa nhà, làm tôi nhớ lại có một mối tình gây cho tôi nhiều xúc cảm.
Thành phố Đà Lạt có đầy đủ những loại hoa muôn màu muôn sắc, hoa đào, hoa hồng, hoa anh đào nở rộ đầu Xuân nhưng nói đến loài hoa kỷ niệm thuở học trò là hoa phượng mùa Hè thì lại không có. Sau này có nhiều người cho rằng ở Đà Lạt có phượng nhưng là phượng tím, nhưng đây không phải là màu hoa kỷ niệm của thời đi học và đây cũng là điều thiếu sót lớn của Đà Lạt, một thành phố không “phượng”. “Tiếc ơi là tiếc !!vì không phượng, không có kỷ niệm của tuổi học trò.”
Anh, PTPS, rời Thành Đô ra Đà Lạt ghi danh học Chính Trị Kinh Doanh khóa 2, vào ký túc xá, ở lầu 2, khu đại học xá Bình Minh dưới sự bảo bọc của hai Sư Huynh Nghiêm và Kế. Anh có nhiều tài, chơi bóng chuyền, bóng rổ, đá banh, đờn ca, kịch nghệ, nơi nào có mặt anh thì nơi đó không khí sôi động hẳn lên. Thời gian này là lúc cực thịnh của đời sống sinh viên Đà Lạt, phong trào du ca, ca nhạc bùng lên, nào là Nguyễn Đức Quang, nào là Trịnh Công Sơn, Khánh Ly, Lê Uyên Phương tụ tập ở quán cà phê gần Viện Đại Học Đà Lạt. Cùng lúc, ban kịch nghiệp dư được thành lập dưới sự bảo trợ của Cha Viện Trưởng và Vũ Khắc Khoan. Cũng lúc này, đám sinh viên vừa học, vừa sinh hoạt tình cảm vừa yêu đương mê mệt và tận dụng tối đa chữ tình.
Chị, TTKP, nữ sinh của một trường nữ ở Gia Định, bỏ mẹ cha, bỏ những hàng quà vặt, bò bía, me chua, xoài cát, ôm hành trang nhập vào đời sống sinh viên Đà Lạt. Chị cũng là sinh viên của Chính Trị Kinh Doanh, khóa 2, cũng vào nội trú đại học xá nữ Kiêm Ái. Chị cũng theo bè bạn ca hát, cắm trại, du ngoạn và rồi cũng vì không gian, thời gian hợp cho sự phát triển nguồn cảm hứng, chị đã yêu, chị đã gặp anh.
Anh và chị đã chung vui một mối tình trọn vẹn trong bốn năm theo học ở trường với đầy đủ hương vị của những tối ở cà phê Tùng, cà phê Nhà Thủy Tạ, những buổi du ngoạn ở Rừng Ái Ân, Thung Lũng Tình Yêu, thác Datanla, Prenn, những tối nắm tay nhau dạo phố Hòa Bình với bắp nướng, đậu phụng rang hay mía hấp, hay thưởng thức những chén chè đêm bên hông trường Đoàn Thị Điểm. Những chiều mưa lất phất ngồi chồm hổm ăn bánh xèo Tăng Bạc Hổ, mì Quảng Phan Đình Phùng, hay những sáng mờ sương bên cạnh bát phở Đắc Tín - Phan Bội Châu, phở Bằng - Hàm Nghi, phở bến xe đò liên tỉnh, những đêm thả hồn trong các rạp xi-nê Ngọc Lan, Hòa Bình, Ngọc Hiệp.
Tình yêu và hy vọng giúp anh chị hoàn tất chương trình học, hai người trở về Đô Thành, chuẩn bị cho tương lai. Đúng vào mùa Xuân sau khi nộp luận án ra trường, họ chính thức tuyên bố cùng hai họ là anh chị sẽ tay trong tay để đi trọn đường tình, đó cũng là mùa Xuân mà Phượng đã đến với anh. Xuân Phượng đến là do chính tôi đặt ra cho cặp uyên ương này nhân ngày mà hai anh chị nắm tay nhau e lệ trước hai họ. Xuân có Phượng vì cô sinh viên của Viện Đại Học Đà Lạt ngày nào tên là TTK Phượng.
Chưa trọn niềm vui Phượng đến, đầu Xuân anh nhận được lệnh nhập ngũ. Sau khi qua tập huấn Quang Trung anh chính thức theo khóa đào tạo sĩ quan ở trường Bộ Binh Thủ Đức. Yêu nhau rồi xa nhau cho nên chị mong cho đến cuối tuần phóng xe từ Sài Gòn lên Thủ Đức để thăm anh, để trút nỗi nhớ nhung:
“Xa anh một nửa hồn em chết
Một nửa hồn kia em vẫn chờ”
Phải nói rằng cuộc đời của anh nhận quá nhiều bằng cấp, nào là bằng Tiểu Học, bằng Trung Học Đệ Nhất Cấp, bằng Tú Tài I, Tú Tài II, Cử Nhân Chính Trị Kinh Doanh, bằng nhập ngũ của Nha Động Viên và bằng Chuẩn Úy của Trường Bộ Binh Thủ Đức. Mùa Hè năm đó, anh chính thức mang lon Chuẩn Úy, được điều về Chương Thiện và bắt đầu cuộc sống của trai thời loạn. Mười hai năm của Tiểu -Trung học, bốn năm Đại Học, nửa năm Quân Trường và sau ba ngày trình diện đơn vị, anh đi hành quân vướng phải mìn Claymore, anh bị thương được chuyển về Bệnh Viện Cộng Hòa và cuối cùng anh nhận được bằng giải ngũ.
Từ mặt trận Pleiku, nhận được tin anh, tôi xin được Đơn Vị Trưởng cho phép tháp tùng trên chuyến tải thương về Bệnh Viện Cộng Hòa. Tôi đến thăm anh và gặp chị Phượng, trông anh không có vẻ gì bị thương nhưng chị Phượng thì lại đượm buồn. Cuộc đời éo le, khắc nghiệt cho anh, chỉ có một viên đạn nhỏ của mìn Claymore tựa vào cột xương sống làm cho hai chân anh không cử động được. Bác sĩ không mổ để lấy viên đạn mà cho rằng lâu ngày viên đạn sẽ được đội ra ngoài cột xương sống, anh có thể trở lại bình thường. Anh được cho ra viện và bắt đầu cuộc sống với hy vọng mới. Ban đầu anh được cung cấp một người lính phục dịch để giúp đi đứng, thêm sự chăm sóc của gia đình và chị Phượng. Niềm hy vọng cứ tan dần theo thời gian, mùa Hè năm sau gặp lại anh, tình trạng đi đứng của anh cũng không khả quan gì. Anh nhờ tôi nói chuyện với chị Phượng, mong chị Phượng rời anh, quên anh để lập cuộc đời mới. Mùa Hè kế tiếp, chị Phượng gặp tôi và xin tôi báo lại với anh, chị xin giã từ. Chính tôi lại là người chứng kiến mùa Hè Phượng đi.
Cái hậu của Xuân Phượng đến, Hè Phượng đi là không hiểu phép lạ nào trong khi anh vẫn ngồi xe lăn, anh lại lập gia đình và có được hai đứa con. Người vợ của anh lại là người bạn gái rất là thân thiết của tôi, thân đến độ tôi nghĩ có lẽ cô ta hy sinh vì tôi chăng? Tới giờ anh vẫn ngồi xe lăn. Vì anh, vì Phượng, vì Hằng mà câu chuyện này tôi để bụng mấy mươi năm, hôm nay thực hiện lời hứa tôi mới dám đặt bút ghi lại.
Ghi lại bởi Lâm Viên, Canada, mùa Giáng Sinh 2012-12-20
- Xin tặng anh Sơn, chị Phượng, anh Nhơn, chị Hải, Hằng, những người liên quan đến mối tình này.
- Tặng các bạn ban Chính Trị Kinh Doanh Viện Đại Học Đà Lạt khóa 1 đến khóa 6.
- Tặng Tuấn, Hùng, Nhàng, Hảo, ban Khoa Học.
- Và tất cả ... những người đi qua đời tôi tại Đà Lạt mến yêu.