"Mỗi năm hoa đào nở"
Không thấy ông cụ đồ
Nhìn cờ Hoa phất phới
Lòng bỗng nhớ quê hương
Những ngày còn gian khổ
Lận đận chốn lao tù
Hôm nay ngồi ôn lại
Những mùa Xuân trôi qua…
Sau một thời gian bị giam cầm và lao động cực nhọc trong các rừng tràm Kinh Năm, chúng tôi được đưa về nhốt ở khám lớn Sóc Trăng. Nơi đây không gian chật hẹp nhưng được cái là nằm trong thành phố, cạnh phi trường nên tương đối sạch sẽ. Khi về đây, trong những ngày đầu chúng tôi không làm gì hết, chỉ quanh quẩn trong bốn bức tường không nhận được tin tức gì từ bên ngoài. Phần đông anh em chỉ chụm lại kể cho nhau những chuyện đã qua trong quá khứ, trước năm 1975.
Một hôm vào khoảng tháng 2 năm 1976, tôi nhớ không lầm thì hôm đó là ngày mồng Bốn Tết âm lịch. Nhóm chúng tôi vào khoảng 30 người được gọi tên để đi lao động bên ngoài. Một anh bộ đội dẫn chúng tôi ra khỏi trại và đi về hướng vòng đai phi trường. Sau gần một năm bị nhốt trong bóng tối, đây là lần đầu tiên chúng tôi được nhìn thấy quang cảnh bên ngoài của một thị trấn. Điều đầu tiên tôi cảm nhận là hôm nay vẫn còn trong ngày Tết mà sao khung cảnh quá tiêu điều, không thấy cái sinh hoạt nhộn nhịp của ngày Tết. Lâu lâu có một vài chiếc xe lam chở quá tải chạy từ ngoại ô về tỉnh lỵ, bên hông xe vẫn còn hàng chữ "Chúc Mừng Năm Mới".
Vì lâu quá cặp giò chúng tôi không được tập luyện, phần do thiếu ăn, thiếu vitamin D cũng như thiếu ánh sáng mặt trời nên đi khoảng gần một cây số thì đôi chân người nào cũng bị run và yếu dần. Tuy nhiên chúng tôi vẫn gượng bước theo chân người bộ đội mà không biết đi đâu. Đi được chừng hơn một cây số thì anh bộ đội ra lịnh cho chúng tôi dừng lại tại một khu vườn, thuộc vòng đai phi trường Sóc Trăng. Anh ra lịnh cho người trưởng toán cho chúng tôi sắp hai hàng và báo cho chúng tôi biết là chúng tôi phải dọn dẹp sạch sẽ khu vườn hoang rộng khoảng 2000 mét vuông nầy trong vòng bốn tiếng đồng hồ. Không có đủ dụng cụ đào xới nên một số chúng tôi phải dùng tay nhổ những bụi cỏ nào có thể nhổ được.
Tay chúng tôi làm không ngừng nghỉ nhưng mắt người nào cũng nhìn chung quanh để quan sát khung cảnh ngoài đời, mà đã lâu chúng tôi không thấy. Thiếu vắng tất cả mọi thứ, từ thực phẩm, không gian và con người ngoài xã hội... Làm cật lực hơn một giờ thì mặt trời cũng đã lên cao, mồ hôi chúng tôi nhễ nhại... thì bất ngờ từ trong căn nhà mái tôn, vách lá, cách chỗ chúng tôi làm khoảng chừng 80 mét - căn nhà duy nhất còn lại trong khuôn viên vòng đai phi trường nầy - một giai nhân trong chiếc áo màu xanh lam trạc 20 tuổi xuất hiện, nhìn về phía chúng tôi. Ba chục con người, sáu mươi con mắt, đã gần một năm chưa thấy bóng dáng phụ nữ. Tất cả đều đứng dậy và nhìn về cô gái nầy. Cô đứng ở tầm xa vừa đủ để chúng tôi nhận ra được dung nhan của nàng. Một cô gái đẹp, có nét duyên dáng thùy mỵ, rất hiền lành và phúc hậu. Cô đứng đó như một thiên thần…
Tim tôi run lên vì rung động. Cái rung động hồn nhiên của tuổi đôi mươi khi gặp người phụ nữ. Tôi nhớ lại cách đây không lâu, khi tôi còn ở ngoài đời, tôi cũng có người tình. Chúng tôi cũng có những đêm thơ mộng nhìn sông nước Hậu Giang trôi lững lờ cùng nhau thêu dệt những ước mơ trên chiếc ghế đá công viên tại Bến Ninh Kiều. Tôi cũng có những mối tình đầu thơ mộng đã đi qua tuổi học trò của mình... Rồi cuộc chiến đưa đẩy tôi vào bước đường cùng và tôi đã mất tất cả. Hiện giờ không gì còn lại trong tôi. Ngày xưa mọi thứ ở trong tầm tay nên tôi không có cảm giác như bây giờ. Nơi đây, hoàn cảnh nầy, tại khu vườn hoang lại có một giai nhân xuất hiện… Thật là kinh ngạc… Cô gái tiến tới gần chúng tôi hơn và đứng sát vào hàng rào kẽm gai ngăn cách chúng tôi với căn nhà duy nhất đó. Cô đưa hai tay lên miệng để làm chiếc loa cho tiếng nói phát ra được lớn hơn. Cô nói:
- Ba tôi đã đi tù, tôi không có gì để tặng cho các anh hết.
Nói xong cô đứng nghiêm mình và dơ tay lên chào chúng tôi theo kiểu nhà binh. Chúng tôi chưa hết bàng hoàng, xúc động thì bất ngờ cô gái cởi phăng chiếc áo ngoài… rồi chiếc quần… và sau cùng là chiếc áo ngực… Cô đã vứt bỏ mọi thứ trên người như vứt bỏ một sự che đậy đầy dối trá… Sau đó cô quay hai vòng mục đích để chúng tôi nhìn ngắm, rồi cô mặc lại áo quần, đứng nghiêm chào chúng tôi theo kiểu nhà binh một lần nữa và rút lui vào trong căn nhà xiêu vẹo đó.
Chúng tôi chưa kịp bừng tỉnh thì nghe tiếng la của anh bộ đội:
- Các anh nhìn gì thế? Các anh có biết căn nhà đó là của tay ngụy quân đầy nợ máu với nhân dân không? Chúng tôi đã đưa gia đình nầy đi kinh tế mới nhiều lần nhưng chúng nó vẫn chưa chịu thi hành.
Hết giờ lao động chúng tôi được đưa trở về khám lớn để tiếp tục sinh hoạt trong cái không gian đầy bóng tối và thiếu tình người.
Tết năm 1977, chúng tôi được chuyển trại về lao động tại một điểm cạnh quốc lộ thuộc Huyện Ô Môn. Doanh trại được dựng tạm trong một miếng vườn rộng khoảng bốn mẫu tây. Một số anh biết chuyện kể rằng đây là miếng vườn của Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu. Vào ngày 27 tháng Chạp, chỉ còn có ba ngày nữa là Tết mà lòng tôi buồn vời vợi. Vậy là đã hai cái Tết ở trong tù mà ngày về thì xa biền biệt, chẳng có tin tức gì. Lâu lâu lại nghe tin đồn Tết nầy sẽ tha rất nhiều người, ngày lễ nọ sẽ được thả hơn phân nửa. Cứ vậy mà nuôi hy vọng.
Hôm nay nhóm chúng tôi khoảng năm người được phân công làm cỏ và vun gốc các bụi chuối trong khu vườn nầy. Vì làm trong khuôn viên có hàng rào kẽm gai bao bọc nên không có bộ đội theo canh giữ. Trong lúc chúng tôi cặm cụi làm thì có một chị tay xách hai cái giỏ lác, bước xuống xe đến sát hàng rào kẽm gai và hỏi chúng tôi:
- Các anh ơi, các anh có biết một nhóm tù cải tạo từ tỉnh Ba Xuyên đưa lên ngày hôm qua và nhốt tại đây không?
Anh Long nhìn quanh không thấy anh bộ đội nào nên nhanh miệng trả lời:
- Chị ơi, ngày hôm qua các anh đó được chuyển đến đây nhốt tạm và sáng nay trại đã chuyển họ đi nơi khác. Nghe phong phanh hình như họ chuyển đi Chi Lăng thì phải.
Mặt chị rũ xuống với bao nỗi thất vọng chán chường. Chị để hai giỏ đồ thăm nuôi xuống đường và nói:
- Vậy thì tôi tặng các anh hai xách đồ thăm nuôi nầy. Có anh nào đại diện nhận không?
Anh Long mừng ra mặt và anh nói nhỏ vừa đủ cho chị nghe:
- Chị đem lại trạm canh ở đằng kia. Chị nói chị là vợ của Trần Quang Lang và gởi cho anh ấy. Thành thật cảm ơn chị.
Long phản ứng quá nhanh làm tôi chưa kịp đính chính thì chị ấy đã đi về phía trạm gác ở đầu doanh trại cách chúng tôi chừng 200 mét. Tôi lo lắng không biết chuyện gì sẽ xảy ra khi chị đến trạm canh và nói chị là vợ của tôi vì trong lý lịch của tôi, tôi khai là vẫn còn độc thân. Riêng Long thì vui vẻ nói với tôi:
- Bạn chia cho mình phân nửa nhé…
Chuyện gì đến thì cũng đến… Khoảng 30 phút sau có hai anh bộ đội đi về phía chúng tôi. Anh đi trước súng cầm tay còn người đi sau cầm xâu chìa khóa. Tôi hồi hộp lo sợ và tiên liệu chắc có chuyện chẳng lành. Tim tôi muốn nhảy ra ngoài khi anh bộ đội cầm xâu chìa khóa gọi đích danh tên tôi và ra lịnh theo anh về văn phòng. Anh đưa tôi vào trình diện viên Thượng Úy an ninh trại. Vừa vào tới nơi tôi đã nhìn thấy hai giỏ đồ thăm nuôi của người khách lạ được đặt ở trên cái bàn. Gương mặt lạnh lùng, anh ta ra lịnh cho tôi ngồi đối diện với anh ta và hỏi lớn:
- Vợ anh tên gì?
Tôi trả lời:
- Tôi chưa có vợ nhưng đã có người yêu và gần một năm nầy cô ta không đi thăm tôi nữa.
- Thế người đàn bà tên Lê Thị Thắm vừa mới gởi đồ cho anh thì quan hệ thế nào?
- Thưa cán bộ tôi không biết. Có lẽ bà ta đã gọi nhầm tên.
Gần nửa tiếng đồng hồ ông quát tháo tôi đến lã mồ hôi nhưng tôi vẫn giấu sự thật là chuyện nầy do anh Long gây nên vì sợ khai ra thì liên lụy tới anh, thà một mình tôi chịu. Sau cùng ông dịu giọng và nói với tôi:
- Anh coi lại những thứ đó có phải là của người thân anh không?
Tôi mở cái giỏ ra xem thì thấy phần nhiều là đường thẻ, một keo muối, một chai nước mắm và có một gói được bọc ny-lông thơm mùi thịt kho mắm ruốc. Tay tôi run lên một phần còn đang lo sợ, một phần đã từ lâu chưa có một miếng ăn ngon nào vô bụng nên nghe mùi thơm của mắm và thịt thì bụng đã cuộn lên và nước miếng cứ trào ra khỏi miệng (nghĩ lại thật là xấu hổ !!). Tôi nói:
- Thưa cán bộ, những món nầy thường thì gia đình nào thăm nuôi cũng có nên tôi không xác định là có phải của người thân tôi không.
Viên Thượng Úy hỏi tiếp:
- Thế thì hai xách đồ ăn nầy anh ăn được mấy ngày?
Tôi định bụng nói với cán bộ là tôi sẽ chia ra ăn trong vòng một tháng, với hy vọng nói như vậy người cán bộ sẽ nghĩ rằng tôi là người tiết kiệm vì với thời điểm lúc bấy giờ tiết kiệm là tốt và đúng chính sách của đất nước. Tuy nghĩ vậy nhưng may thay tôi lại nói:
- Nếu cán bộ cho tôi nhận thì tôi sẽ chia cho bạn bè phân nửa. Còn lại tôi sẽ chia ra ăn khoảng hai tuần.
- Được rồi tôi sẽ cùm chân anh hai tuần để anh ăn hết phần ăn nầy!
Sau đó người cán bộ ra lịnh cho anh bộ đội đưa tôi vào cái “coneck” mà trước đây quân đội Mỹ dùng để chở hàng rồi lấy sợi dây xích dài khoảng hai mét cùm một chân của tôi vào thành của "coneck". Xong anh lùi ra và khóa cửa lại… Mải mê suy nghĩ hết chuyện nầy đến chuyện khác, chợt nhìn lại hai cái giỏ lác đựng quà thăm nuôi hai dòng lệ tôi chảy dài xuống má từ lúc nào không hay! Rồi tôi tự an ủi mình: “Trên đời nầy còn có những người quá tốt như người phụ nữ nầy. Sự cao thượng quý giá đó so ra với 14 ngày mình bị cùm chân thật không thể so sánh bằng…”
Vào đầu năm 1978 chúng tôi được chuyển về Xã Mỹ Tú, Huyện Đại Ngãi, Tỉnh Sóc Trăng. Nhiệm vụ chúng tôi là đào đất do xáng thổi lên đắp một con đường dài khoảng 15km đi ngang một cánh đồng. Khi chúng tôi đến thì nghe nói ở đầu con kinh đào có một cây cổ thụ và dưới gốc cây có một ngôi miễu rất linh thiêng. Chủ nhân chiếc xáng cạp chịu trách nhiệm mở đường đặt điều kiện là bộ đội phải phá cái miếu đó và dọn trống bãi thì ông ta mới thực hiện hợp đồng cho xáng cạp. Giằng co một thời gian thì cuối cùng người Đại Đội Trưởng thuộc Ban Quân Quản đã cho lịnh sang bằng ngôi miếu và khi chúng tôi được điều đến thì gốc cây đã được đào và cái miếu cũng không còn. Sau này nghe dân ở đây nói người Sĩ Quan Đại Đội Trưởng chịu trách nhiệm phá cái miếu đó bị điên và đã giải ngũ.
Sau khi kinh đã đào xong chúng tôi được chuyển đến và đã được gởi ở tạm nhà dân, dọc theo hai bờ sông. Mỗi gia đình nhận khoảng bốn người tù cải tạo. Các anh bộ đội thì được phân công ở hai tuyến đầu, chúng tôi ở khoảng giữa. Tôi được gởi vào ở nhà dì Hai. Chồng của dì làm Trưởng Ban Nông Hội Xã, gia đình dì thuộc diện có công với cách mạng. Dì Hai có hai người con, cô Hương 19 tuổi và cậu em tên Thành 16 tuổi. Chúng tôi làm việc sáu ngày được nghỉ ngày Chủ Nhật. Vì nhà dì Hai có con gái nên chúng tôi đi chặt cây vụn và mỗi người che một cái chòi tạm ở ngoài vườn. Một hôm tôi lên cơn sốt và khai bịnh không đi làm, người y tá đến khám và xác nhận là tôi bịnh thiệt nên được phép nghỉ. Khoảng 10 giờ sáng, trong không gian yên lặng của vùng quê vì giờ nầy tất cả đều đi lao động, chỉ còn lại mình tôi nằm ở căn chòi. Tôi vừa chợp mắt thì có ba người lính súng đạn đầy đủ đè tôi xuống và quát:
- Đây là nhà của chúng tôi sao anh lại vào chiếm ở.
Tôi cố gắng vùng vẫy vì bị ngộp thở. Cuối cùng tôi cũng tỉnh lại. Quá sợ nên tối đó tôi hỏi dì Hai thì được dì kể lại:
- Ngay chỗ cháu nằm có ba anh bộ đội chết tại đó. Thôi cháu vô đây ở với gia đình dì.
Vậy là tôi có dịp gần gũi để tâm tình với người con gái yêu quý của dì. Hương kể tôi nghe trước năm 1975 cô học lớp 12 Trường Hoàng Diệu, Sóc Trăng. Sau ngày 30 tháng Tư thì ba không cho cô đi học nữa và đưa vào làm thơ ký của xã để mỗi tháng có thêm phần gạo lo cho gia đình. Những ngày ở đây chúng tôi được phân phát cơm nhưng đồ ăn thì phải tự túc. Nhà Hương vì nghèo xơ xác nên cũng không hơn gì chúng tôi. Mỗi đêm khoảng bốn giờ, Hương thức dậy ra vườn đào lên chừng bốn củ khoai mì (cái thứ cây duy nhất có thể chịu đựng được vùng đất phèn nầy), đem vào lột vỏ cắt nhỏ để nấu canh và nêm với muối. Hôm nào Hương cũng giấu má và các bạn của tôi cho tôi một lon guigoz canh khoai mì để mang theo ăn trưa tại công trường.
Mỗi ngày cứ như vậy, nàng đào cho hết đám khoai mì. Lao động được chừng ba tháng thì chúng tôi được lịnh thu dọn để chuẩn bị ngày mai chuyển trại. Hương nghe tin như vậy nàng vô cùng buồn bã. Hôm đó Hương không đi làm, giả bộ nói với ba má là nàng bịnh, và chúng tôi cũng được nghỉ làm để lo thu xếp đồ đạc. Khi gia đình đi hết, Hương kề tai nói nhỏ với tôi:
- Anh vào phòng của má, em có chuyện nói với anh.
Tôi nhìn quanh thấy không có ai nên bước theo Hương vào phòng. Nàng nhẹ nhàng khép cánh cửa phòng, hai dòng nước mắt của em chảy dài. Không thấy chiếc khăn nào tôi phải dùng vạt áo của mình để lau nước mắt cho Hương. Tôi hỏi em:
- Hương có gì định nói với anh?
Hương trả lời:
- Anh ơi đáng lẽ là phận gái em không nên nói ra điều nầy. Em biết anh cũng có cảm tình với em nhưng vì mặc cảm của một người bại trận mà anh không dám mở lời. Những ngày tháng ở đây em thật ân hận không lo gì được cho anh. Chỉ có tô canh khoai mì là em có thể làm được để giúp anh đỡ lòng. Em không biết mai nầy khi được tự do anh có còn nhớ tới em không? Anh có còn nhớ mỗi đêm em thức dậy vào lúc bốn giờ khuya, dưới ánh đèn dầu leo loét em cố bới cho được bốn củ khoai mì để có được tô canh cho anh kịp mang đi làm.
Tôi xúc động đến nghẹn ngào. Lấy lại bình tĩnh tôi nói với Hương:
- Anh rất mang ơn em. Anh hứa khi được tự do người đầu tiên anh tìm đến báo tin sẽ là em.
Nhưng ngày ra tù, tôi chỉ được phép đi từ trại về thẳng nhà ba tôi và phải trình diện địa phương để thi hành lịnh quản chế, tôi không có dịp trở lại vùng quê xa xôi nầy để báo tin cho Hương như lời tôi hứa.
Hương ơi! Đã gần 34 năm kể từ lúc chia tay với em năm đó, anh không lúc nào không nghĩ đến em, nghĩ đến tô canh khoai mì đầy tình nghĩa. Anh không xem em như là người tình của anh mà lòng anh luôn tri ân em vì em là người đã giúp cho anh vượt qua những ngày khốn khổ trong chốn lao tù.
"Mỗi năm hoa đào nở"
Không thấy ông cụ đồ
Lòng buồn cho số phận
Một kẻ sống ly hương
Tình xưa tôi chưa trả
Trông lại mình đã già
Thôi xin đành kiếp khác
Lạy tạ kẻ tri ân...
Mùa Xuân 2013
Trần Quang Lang