Nhân dịp đón Xuân Quý Tỵ (2013), tôi muốn bàn cùng quý vị hai câu chuyện về Rắn trong văn học sử Việt Nam. Nếu chuyện thứ nhứt là chuyện thật, có liên quan đến thần đồng Lê Quý Đôn ở thế kỷ thứ 18 thì chuyện thứ hai là huyền thoại, dựng đứng ra để dễ bề giết hại vị trung thần Nguyễn Trãi ở giữa thế kỷ thứ 15.
1. Rắn Đầu Biếng Học
Tượng Lê Quý Đôn
Ông Lê Quý Đôn (1726-1784), thuở nhỏ nổi tiếng là thần đồng. Không những có trí nhớ rất dai mà lại giỏi tài ứng biến nhưng ông lại có tính rắn mày rắn mặt và thường tự cao tự đại. Có phải chăng những người có tài thường hay có tật. Một hôm, khi ông còn nhỏ tuổi, sau khi tắm sông xong ông ở truồng lên bờ. Có ông quan đi ngang hỏi ông nhà của Trung Hiếu Công Lê Phú Thứ (là cha của ông), ông liền đứng dạng hai chân, giang hai tay và bảo :
- Đố ông biết chữ nầy là chữ gì ? Nếu ông nói trúng tôi sẽ dẫn ông đến tận nhà.
Ông quan thấy đứa bé vào khoảng tám, chín tuổi có vẻ hỗn xược, không thèm nói gì, bỏ đi. Lê Quý Đôn thấy ông không trả lời, nghĩ ông không biết, vội cười vang và nói rằng :
- Chữ thái mà không biết! (Đứa con trai ở truồng, dạng hai chân, giang hai tay là chữ thái 太, khác chữ nhân 人).
Một lát sau, ông quan cũng lần mò tìm được nhà ông Lê Phú Thứ. Sau khi chủ khách vào nhà, ông quan thấy mặt Lê Quý Đôn mới vỡ lẽ ra và đem câu chuyện gặp đứa bé ở giữa đường thuật lại cho ông Thứ nghe. Ông Thứ rầy con:
- Con phải chừa tánh ngỗ nghịch, không biết kính trọng người lớn, con phải làm bài thơ tự răn mình. Nếu không làm được ba sẽ đánh đòn.
Ông Lê Phú Thứ hiểu rõ con mình hơn ai hết, vừa lên tiếng mắng rầy con vừa muốn cho ông bạn thấy rõ tài của con mình nên mới biểu con mình làm thơ. Lê Quý Đôn nghe cha răn dạy xong vội xuất khẩu thành thơ, làm bài thất ngôn bát cú "Rắn Đầu Biếng Học" như sau:
Chẳng phải liu điu vẫn giống nhà
Rắn mà biếng học chẳng ai tha
Thẹn đèn hổ lửa đau lòng mẹ
Nay thét mai gầm rát cổ cha
Ráo mép chỉ quen tuồng nói dối
Lằn lưng cam chịu dấu roi tra
Từ đây Trâu, Lỗ chăm nghề học
Kẻo hổ mang danh tiếng thế gia
Cái hay của bài “Rắn Đầu Biếng Học” của Lê Quý Đôn là vừa tự trách mình vừa nêu tên một loài rắn trong mỗi câu mà ta đọc thấy không có một chút gì gượng ép cả. Ông quan già thấy rõ tài của Lê Quý Đôn, không những đã quên giận mà còn tấm tắc khen ngợi mãi. Ông Lê Quý Đôn sau nầy làm quan đến Công Bộ Thượng Thư và mất năm 1784, hưởng thọ được 58 tuổi. Ông đã để lại rất nhiều sách, gần 100 quyển, phần lớn viết bằng chữ Hán. Rất tiếc chỉ có vài bài bằng tiếng quốc âm, trong đó có bài “Rắn Đầu Biếng Học”.
2. Rắn báo oán
Ông Nguyễn Trãi (1380-1442), đỗ Thái Học Sinh năm 1400 dưới trào Hồ Quý Ly. Lúc còn nhỏ mở trường dạy học ở Nhị Khê, ông là người văn hay chữ tốt nên học trò đến học rất đông. Vì trường sở còn quá nhỏ hẹp không đủ chỗ ngồi, ông dự định cất thêm một lớp học. Khi quan sát miếng đất quanh nhà, ông nhận thấy cạnh nhà có một gò đất trống. Ông liền bảo đám học trò ngày mai nên dọn sạch mảnh đất ấy để cất thêm lớp học. Đám học trò sau một thời gian ngồi chật chội, thấy được viễn ảnh thoải mái trong một lớp học rộng rãi, vội cùng nhau xách cuốc xẻng, ngay tối hôm đó đến dọn dẹp. Đêm ấy, sau một ngày dạy học, Nguyễn Trãi còn đọc sách đến khuya mệt quá, chợp mắt ngủ thiếp trên án thư, thấy một người đàn bà gầy ốm đến van xin ông:
- Tôi còn đang ốm yếu và mấy con còn nhỏ dại, di chuyển chưa được dễ dàng. Cúi xin ông nán lại vài ngày để chúng tôi có thì giờ dọn đi chỗ khác.
Giật mình thức dậy, ông vội ra ngoài quan sát thì thấy miếng đất đã được dọn dẹp sạch sẽ. Đám học trò cho ông biết đã bắt gặp một ổ rắn, phảng đứt đuôi con rắn mẹ và nó đã chạy thoát nhưng đã giết chết mấy con rắn con. Ông bàng hoàng trong giây phút rồi sau đó lãng quên trong việc cất trường, dạy học. Một đêm ông ngồi đọc sách một mình trước án thư, nghe tiếng động trên trần nhà, ông ngẩng mặt lên nhìn thấy một con rắn dài cụt đuôi chưa lành nhìn ông với cặp mắt giận dữ. Một giọt máu từ cái đuôi con rắn rơi xuống cuốn sách ông đang đọc, đúng vào chữ Đại và thấm ướt đủ ba trang, rồi con rắn trườn đi mất.
Người kể chuyện cho rằng rắn quyết tình báo oán, báo hiệu sẽ trả thù đến ba đời của Nguyễn Trãi. Con rắn sau đó biến thành người đàn bà trẻ đẹp là Nguyễn Thị Lộ để gia hại Nguyễn Trãi. Đến đây trước khi nói về Nguyễn Thị Lộ và vụ án Lệ Chi Viên, tưởng cũng nên bàn thêm rằng chuyện khẩn hoang cất trường dạy học là chuyện có thật và trong lúc san bằng cái gò trống gặp phải ổ rắn cũng là chuyện thường xảy ra. Nhưng chuyện rắn biến thành Nguyễn Thị Lộ chỉ là một huyền thoại. Tất cả được dựng ra để gia hại Nguyễn Trãi mà thôi.
Nguyễn Thị Lộ là người có thật, không biết sanh năm nào nhưng chết cùng một lúc với Nguyễn Trãi, năm 1442. Bà là con của một ông đồ. Trong những năm đầu của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn (bắt đầu từ năm 1418), ít nhứt trong 5 năm sau cùng (từ năm 1423 đến năm 1427, trước khi đuổi được đoàn quân thống trị nhà Minh), Nguyễn Thị Lộ đã cùng với Nguyễn Trãi tham gia kháng chiến. Điều đó cho thấy không phải Nguyễn Trãi gặp Nguyễn Thị Lộ khi đã về già. Trước khi vua Lê Thái Tổ (tức Lê Lợi) mất năm 1433, Nguyễn Thị Lộ đã được phong làm Lễ Nghi Học Sĩ để dạy cung nữ và chỉ bảoThái Tử Lê Nguyên Long, lúc ấy mới 10 tuổi, sau nầy là vua Lê Thái Tông.
Trong bốn năm đầu vua Lê Thái Tông có hai bà phi (mà tôi được biết): Ngọc Dao (con Lê Sát) và Nhật Lệ (con Lê Ngân), lần lượt dưới quyền nhiếp chánh của Lê Sát và Lê Ngân, thường lấn áp quyền vua. Sau khi loại trừ Lê Sát cùng Lê Ngân và tự mình nắm quyền cai trị, nhà vua cũng phế bỏ luôn Ngọc Dao và Nhật Lệ (chưa có con) và lập năm bà phi mới: Dương Thị Bí mẹ của Thái Tử Nghi Dân (sanh năm 1439) được phong làm Hoàng Tử năm 1440 ; Lê Thị Mai, mẹ của Khắc Xương, nhu mì không tham dự sự tranh chấp quyền hành; Nguyễn Thị Anh mẹ của Bang Cơ (sanh năm 1441) được phong Hoàng Tử sau khi chào đời được vài tháng và sau khi Nghi Dân bị truất phế; Ngô Thị Xuân và Ngô Thị Bính tự Ngọc Dao là hai chị em.
Ngô Ngọc Dao trẻ nhứt vào cung để giúp đỡ người chị là Ngô Thị Xuân nhưng khi nhà vua thấy được nét mặt trái xoan với cặp mắt trong sáng, tánh tình dịu hiền rộng lượng, vua tuyển luôn làm thứ phi. Ngọc Dao thuộc dòng giỏi của Ngô Quyền, đang có thai và được sự che chở của Nguyễn Trãi cùng Nguyễn Thị Lộ. Sự tranh giành ảnh hưởng trong hoàng cung đã đến hồi gay cấn mà người chủ chốt là Nguyễn Thị Anh, một người đàn bà đẹp sắc sảo nhưng sâu hiểm tàn ác. Bà Anh dựa vào sự kiêu căng ngạo mạn của Dương Thị Bí sau khi Nghi Dân được phong làm Hoàng Tử, thỏ thẻ cùng nhà vua rằng người mẹ như Thị Bí sẽ làm mất lòng nhiều người, không xứng đáng làm mẫu nghi thiên hạ. Nhà vua đang say đắm Thị Anh, dựa vào những lời bất nhã của Thị Bí, truất phế Nghi Dân và phong Bang Cơ lên làm Hoàng Tử.
Vừa tỉa được mũi dùi Thị Bí, Thị Anh liền hướng tất cả mũi nhọn về phía Ngô Ngọc Dao vì Ngọc Dao cũng được vua say mê mà còn được lòng những người trong thân tộc như Nguyễn Xí, Đinh Liệt và Nguyễn Trãi. Nhứt là Nguyễn Thị Lộ đang ở trong cung, dạy cung nữ, gần gũi với Ngọc Dao. Để chia cách Nguyễn Trãi với Nguyễn Thị Lộ, Thị Anh cho người phao truyền ở ngoại thành và nhứt là ở Côn Sơn nơi Nguyễn Trãi đang về hưu (vì bất đồng ý kiến với hoạn quan nịnh thần Lương Đăng về vụ Lễ Nhạc) rằng nhà vua đang dan díu với Thị Lộ, nhưng cố tránh không cho tin nầy truyền đến tai nhà vua. Biết rằng Ngọc Dao không thể sống yên ổn ở trong cung, Đinh Liệt, Nguyễn Trãi và Nguyễn Thị Lộ bí mật đưa Ngọc Dao đang có mang ra trốn ở chùa Huy Vân. Theo một số sách bà Ngọc Dao sanh Thái Tử Tư Thành (năm 1442), sau nầy là vua Lê Thánh Tông, ở nơi đây. Bà Thị Anh đã ghét Nguyễn Trãi và Nguyễn Thị Lộ lại càng hận hai người hơn nữa vì bà Ngọc Dao đã thoát khỏi tầm tay của bà và cái họa dành ngôi sau nầy vẫn còn đó.
Trở về với tin đồn nhằm mục đích ly tán hai người, Nguyễn Trãi nghe được tin trên, mặc dầu thương và tin vợ nhưng cũng bán tín bán nghi, đau khổ viết cho vợ những câu như sau (1):
Lời thề khắc Nam Sơn, sừng sững Nam Sơn còn đó
Lời nguyền ghi Đông Hải, bao la Đông Hải còn đây
Lòng ta đã không sờn
Chí nàng ắt không đổi...
Rồi kết thúc bức thư bằng bài thơ bát cú:
Trời cao đất thấp bốn mùa thành
Đáng trách ai kia đạo chẳng minh
Mặt kính tuy trong bụi đã nhiễm
Lòng nhân vừa nhóm dục còn ganh
Đời Chu bắt chước đời trung hậu
Thuở Hán nên theo nghĩa trọn tình
May gặp trời, người cung giúp rập
Kìa xem xã tắc lại xuân xanh
Bà Lễ Nghi Học Sĩ, nhận được thư của chồng vừa giận vừa thương. Giận vì chồng không trọn lòng tin, thương vì biết chồng thương nên mới ghen như vậy, bà mới viết bức thư trả lời, từng chữ từng câu:
Mối tình muộn màng nào quên, núi tuy khuyết mà lòng thiếp không khuyết
Lời thề đinh ninh khó nhạt, sông dù vơi mà ý thiếp không vơi
Còn gì liệu đáng băn khoăn
Phải chăng tự mình chuốc lấy...
Và bà cũng kết thúc bằng bài thơ bát cú :
Lòng son khẩn khoản việc mau thành
Ai bảo cương thường đạo chẳng minh
Ngày nắng lo chi mây chút gợn
Cây cao há phụ sắn bìm tranh
Anh hùng gắng sức: anh hùng chí
Phận gái đào tơ: phận gái tình
Phúc đượm duyên trời cầm sắt hợp
Nguyện sinh con cháu thánh hiền sinh
Nguyễn Trãi nhận được thư vợ, sau khi đọc xong vừa mừng rỡ vừa hân hoan. Mừng vì vợ vẫn chung tình mặc dầu sống trong cung vàng điện ngọc, hân hoan vì thấy rõ biệt tài của vợ nhưng rất tiếc là đàn bà nên không được dịp thi thố tài năng trong thời buổi mà đàn ông hưởng được mọi quyền lợi.
Sau khi lo tổ chức kỳ thi Hương vào mùa thu năm Tân Dậu (1441) và kỳ thi Hội vào mùa xuân năm Nhâm Tuất (1442) gặt hái được kết quả mỹ mản với 3 nhân tài: Nguyễn Trực đỗ Trạng Nguyên, Nguyễn Như Đỗ, Bảng Nhãn và Lương Nhữ Học, Thám Hoa, Nguyễn Trãi cùng vợ về Côn Sơn nghỉ ngơi. Ta có thể bảo khoảng thời gian ngắn ngủi nầy là những giờ phút hạnh phúc nhứt của Nguyễn Trãi và Thị Lộ. Vì sau mười năm kháng chiến với bao cảnh nằm gai nếm mật, ngày thành công chưa hưởng được bao lâu thì vua Lê Thái Tổ nghe lời tâu của con cháu nịnh thần, không những đành tâm giết hại những bầy tôi trung thần có công lớn với công cuộc đánh đuổi nhà Minh như Trần Nguyên Hãn, anh em cô cậu với Nguyễn Trãi, và Phạm Văn Xão mà còn bắt nhốt Nguyễn Trãi. Nhưng vì không có chứng cớ để giết và sau nhờ những lời can xin của những trung thần như Đinh Liệt, Nguyễn Mộng Tuân, Lý Tử Tấn ... Nguyễn Trãi mới được tha nhưng bị truất gần hết tước quyền.
Mấy tháng sau vào đầu mùa thu, vua Lê Thái Tông đi kinh lý vùng Chí Linh, trước để thăm viếng dân tình, sau gây hứng khởi trong lòng quân đội vì Chí Linh là nơi tiêu biểu cho sức kháng chiến và lòng yêu nước của toàn dân lúc bấy giờ. Nhà vua được hoan hô nhiệt liệt vì sự thành công của kỳ thi Hội vừa qua và được sự ủng hộ nồng nhiệt của dân chúng. Sau ngày kinh lý nhà vua trên đường về ghé Côn Sơn trước để viếng thăm Nguyễn Trãi, sau nhà vua nhờ Nguyễn Trãi giới thiệu những người có tài để ra giúp nước. Vua tôi uống trà đàm đạo một cách tương đắc đến khuya và nhà vua cao hứng ứng khẩu tặng Nguyễn Trãi bài thơ thất ngôn bát cú như sau:
Thuyền trận duyệt xong buổi thoái hồi
Côn Sơn xe ngựa ruỗi qua chơi
Thăm nền Lục Dã nhìn mây rỗi
Nhớ thuở Lam Sơn trổ phượng tài
Trong động riêng trời quên tuổi giáp
Bên non hiếm đất dựng lâu đài
Đan thanh nét vẽ nhờ ai tá
Tô điểm sông hồ cảnh liễu mai
Nguyễn Trãi cung kính nhận bài thơ lòng rất cảm kích, nguyện chép vào giấy hảo hạng cất giữ và kính họa nguyên vận:
Mộng tưởng trời cao những mấy hồi
Cả mừng xe ngọc kíp lên chơi
Đội ơn Thánh Đế thương tôi cũ
Muốn giúp triều cương thẹn bất tài
May được nhàn thân bên suối động
Dám đâu riêng đất dựng lâu đài
Nước non hội ngộ chờ long giá
Mưa móc đầm đìa nhuận liễu mai
Ngày hôm sau, nhà vua từ giã Nguyễn Trãi trở về cung. Nguyễn Thị Lộ vì chức Lễ Nghi Học Sĩ cũng theo thuyền rồng hộ giá và trở về nhiệm sở trong khi Nguyễn Trãi đi duyệt quân ở vùng Đông Bắc. Chiều ngày mùng 4 tháng 8 thuyền rồng mới đến Trại Vải. Trước cảnh hoàng hôn tuyệt vời với nhiều màu sắc, nhà vua hân hoan hứng khởi ngồi ngắm cảnh, uống rượu ngâm thơ. Bỗng nhiên nhà vua hắt hơi nhảy mũi liên hồi, đầu óc choáng váng. Sau đó thuyền cặp bến, lương y, hoạn quan và cung nữ đưa nhà vua vào Lệ Chi Cung. Ngự y và Nguyễn Thị Lộ cho vua uống thuốc nhưng sau đó nhà vua băng hà. Tạ Thanh một hoạn quan thân tín của Thị Anh, được cử đi theo nhà vua để quan sát tình hình và để canh chừng động tĩnh của vợ chồng Nguyễn Trãi, sai người về mật báo cho Thị Anh biết trước nên khi đoàn long xa chở thi hài nhà vua về đến thành đô chiều ngày mùng 6, triều thần làm lễ phát tang và chuẩn bị an táng. Tạ Thanh tố cáo Thị Lộ a tòng với Nguyễn Trãi giết vua nên Thị Lộ bị tống giam liền tại chỗ.
Ngày hôm sau triều thần tấn phong Hoàng Tử Bang Cơ chưa đầy hai tuổi lên làm vua lấy niên hiệu là Thái Hòa, tức vua Lê Nhân Tông, và Hoàng Thái Hậu Nguyễn Thị Anh nắm quyền nhiếp chánh. Nguyễn Trãi đang duyệt quân ở vùng Đông Bắc nghe được hung tin vội sửa soạn về kinh đô chịu tang. Người lão bộc theo ông lâu đời khuyên ông nên chờ đợi vì lành ít dữ nhiều. Ông khẳng khái nói:
- Thà để người phụ ta chớ ta không phụ người.
Ông vừa về đến kinh thành thì bị bắt nhốt. Thị Anh và đồng bọn không để mất một dịp may hiếm có để nhổ cái gai trước mắt, nhưng cái độc ác của họ mà đời sau không thể quên được là từ một cái chết bình thường, bất ngờ và không chứng cớ họ nỡ giết ba đời của nhà họ Nguyễn Trãi. Sau nầy còn có người thêu dệt thêm là nhà vua đắm mê tửu sắc vì thấy Thị Lộ nhan sắc mặn mòi nên thông dâm với Thị Lộ quá sức mà chết.
Tất cả những sự kiện trước khi nhà vua băng hà cho thấy vua tôi làm việc một cách tương đắc, khó lòng mà tin rằng Nguyễn Trãi có tình ý riêng để ám hại nhà vua hay nhà vua tư thông với vợ của một công thần mà vua kính phục, nhứt là người đàn bà tuổi ngang với tuổi của mẹ vua Lê Thái Tông. Người ta chỉ dựa vào lúc Thái Tông còn nhỏ ham chơi háo sắc (nên nhớ Thái Tông mồi côi mẹ và cha từ lúc 2 và 10 tuổi) nhưng khi Thái Tông khôn lớn tự nắm quyền cai trị đã hiểu thế nào lễ nghĩa của Nho Học và nhứt là không có một chứng cớ nào chỉ rõ ông có bệnh thông dâm với người lớn tuổi như mẹ mình và cũng có thể xem như thầy học của mình. Việc ông Nguyễn Trãi bị hàm oan, hơn hai chục năm sau (năm 1465) vua Lê Thánh Tông chánh thức ban chế tẩy oan và phong tước Trụ Quốc Công cho Nguyễn Trãi. Nhưng danh tiết của Thị Lộ vẫn còn bị bôi nhọ qua giai thoại về rắn báo oán và sự thông dâm của nhà vua với Thị Lộ vẫn còn bị nhiều tác giả vô tình hay vô ý thức sao chép lại. Thông cảm với nỗi khổ đau của người xưa và phục tài của bực anh thư sanh không nhầm thời, tôi có vài câu để khóc bà Lễ Nghi Học Sĩ :
Bên vầng dương sáng, bóng giai nhân
Tranh đấu xông pha lướt bụi trần
Kháng chiến bao năm nêu tích sử
Lễ Nghi một thuở giúp minh quân
Đông triều(2) manh chiếu hương thơm nhẹ
Trại Vải ly cung tiếng lạnh dần
Khí tiết sắc tài ai dám sánh?
Sao làm hoen ố kiếp hồng nhan!
Nguyễn Hữu Tính
(1) Những câu thơ của Nguyễn Trãi, Nguyễn Thị Lộ và của vua Lê Thái Tông viết bằng chữ Hán, do Vân Trình dịch ra tiếng Nôm (trích từ cuốn Truyện Nguyễn Trãi của Bùi Văn Nguyên)
(2) Có sách ghi là Tây Hồ