Hôm nay trời Sydney thật đẹp, bầu trời xanh trong, mây trắng lững lờ, không khí thật dễ chịu, không nóng gắt như những ngày cuối năm cũ.
Tôi vẫn thích đi làm vào mùa holiday này, trừ những ngày quan trọng được nghỉ, vì tôi thích cái yên tĩnh của thành phố Sydney. Tôi cảm thấy thoải mái nhẹ nhàng hơn so với hằng ngày, với tiếng người xôn xao, vội vã cho kịp con tàu ở sân ga của thành phố bận rộn này.
Sáng nay trước khi tới chỗ làm, tôi ghé tiệm bán vật liệu xây cất ở gần nhà để mua thêm ít gạch và xi măng cho thợ sửa lại cái vườn sau nhà trong dịp nghỉ tới. Bà chủ tiệm bán vật liệu xây cất nhìn tôi và nói rằng tôi không có vẻ giống người làm nghề xây dựng, vì lúc ấy tôi đang mặc đồ lịch sự để đi làm việc. Tôi mỉm cười cám ơn bà chủ và khen bà giỏi quá vì bà lái được cái xe “forklift” vì những loại xe này tôi chỉ thấy đàn ông lái mà thôi. Tôi nghĩ vơ vẩn, đúng là cái áo làm nên thầy tu thật. Thế mà ngày xưa, tôi mặc áo bà ba, đội nón lá để đi vượt biên mà cũng bị nhận dạng không phải người của địa phương...
Nhìn những viên gạch đỏ đang được chất vào xe, tôi lại nhớ đến những viên gạch đỏ năm nào ở miền quê xa xôi Việt Nam, thuở mà tôi đã phải làm lao động, làm ra từng cục gạch đỏ như thế này với chính đôi bàn tay của tôi, không phải là bàn tay với “năm ngón kiêu sa”. Và tôi đã bị ăn cái Tết đầu tiên trong cái chốn lao tù đó.
Thời gian trôi qua thật nhanh. Mới đó mà thoắt đi 30 năm. Cái năm định mệnh, tôi đã bị dính vào cái tổ chức lừa đảo đưa người đi vượt biên, vừa bị mất tiền vừa bị vào tù, bị đày làm lao động vất vả khổ sở, được thấy nhiều cảnh đời trong cái không gian nhỏ nhoi này. Thế mà tôi lại được gặp được "người ấy", người của trăm năm về đâu trong tù!
Mặc dù được may mắn định cư ở Úc, xứ sở thiên đàng nhưng tôi vẫn không làm sao quên được những ngày tháng cũ, sau biến cố 1975. Tôi đã sống dật dờ không định hướng. Các chị Tổ Trưởng trong Khoa Sinh, chắc rầu tôi lắm, cho nên "đì" tôi hoài. Chị T. nói rằng tôi là mẫu người "luyến tiếc quá khứ, nghi ngờ hiện tại và lo âu tương lai". Tôi luyến tiếc quá khứ là phải rồi vì người thân và bạn bè Hướng Đạo thân yêu thời thơ ấu của tôi, đa số đã thoát khỏi đến vùng trời tự do. Hiện tại thì phải nghi ngờ rồi vì có gì là chắc đâu, sống trong lo âu từng giờ từng ngày, nhà thì từng món và từng món đi ra chợ trời, còn tương lai thì mờ mịt.
Trong những ngày đen tối đó, phong trào vượt biên gia tăng thật sốt dẻo. Gặp nhau hôm nay nhưng ngày mai ra đi không một lời giã từ, ra đi âm thầm trong bóng tối. Giảng đường lâu lâu vắng bóng người, đến trường ghi bài học nhưng hồn phách để đâu đâu. Tôi cũng cố gắng hết sức tìm đủ mọi cách để ra đi nhưng số tôi không được may mắn. Trong khi ông bà ngoại của tôi gần 70, đi vượt biên một lần thôi là đến bến bờ tự do, còn tôi sao mà long đong quá?
Đi hoài và đi hoài. Đi lên đi xuống cái bến phà Cần Thơ không biết bao nhiêu lần. Cứ mỗi lần đi ngang bến phà này là mỗi lần tôi cầu nguyện xin Trời Phật cho tôi đi một chiều thôi vì tôi sợ trở về nhà quá rồi. Nhưng mà ông Trời đâu có chìu lòng mình đâu. Nếu ra đi không được mà trở về yên ổn thì cũng còn đỡ, đằng này khi trở về lại còn bị bắt bỏ vào tù. Lần đầu vào tù tôi sợ ghê lắm, lần thứ nhì, rồi đến lần thứ ba … Tôi chán thật! Thôi thì cứ để theo dòng đời trôi, trôi đâu thì trôi, theo ý của trời vậy, nhưng tôi nhất định phải đi.
Tuy nhiên trong cái thời buổi nhiễu nhương, người ta lợi dụng lòng tin của con người mà nghĩ ra chuyện lừa đảo và giật dọc. Trong chuyến đi đó, họ đã bỏ rơi chúng tôi vì đồng tiền. Họ đã bỏ những thanh niên thiếu nữ tuổi thanh xuân trong rừng sâu nước độc của Sông Đốc tỉnh Cà Mau. Và cuối cùng bị bắt giải về đến trại cải tạo Cây Gừa, tỉnh Cà Mau.
Cây Gừa là một trại cải tạo rất lớn, nhốt những người lính cải tạo và nhốt cả người đi vượt biên. Chia ra hai khu nam nữ riêng biệt. Mỗi buổi sáng ra tập họp không biết bao nhiêu người, từng đoàn người bước ra khỏi cổng trại đến chiều mới trở về lại. Tối thì phải tự canh gác trong phòng suốt cả đêm, để đến khuya, mỗi khi cán bộ đi qua phải "Báo cáo cán bộ, phòng số 12 đủ".
Cũng may là lần vượt biên đó tôi đi với bà chị họ. Các em của tôi không đi vì họ nói có dư hai chỗ thôi. Cậu tôi thì tin tưởng tôi lắm nên gửi gấm chị cho tôi chăm sóc. Tuy vai chị nhưng chị nhỏ hơn tôi 6 tuổi. Theo kinh nghiệm mấy lần tù trước, nếu 16 tuổi thì được thả về sớm và biết bề ngoài của mình nhìn trẻ hơn số tuổi một chút cho nên tôi đã liều mạng khai sụt đi 9 tuổi để còn có 16 tuổi; chị họ tôi thì khai 15 tuổi. Nhưng hỡi ơi, trại tù này chỉ thả trẻ em tuổi 15 mà thôi! Thế là tôi bị ở chốn này đúng 6 tháng. Cũng may là nhờ lo hối lộ đúng đường dây, chứ nếu không chắc tôi còn phải ở trong trại giam dở lịch dài dài.
Vì "may mắn" ở trong tù cải tạo, chúng tôi phải "sản xuất" bằng lao động sức người, chỉ được ngày Chủ Nhật ở nhà đợi chờ người nhà gởi giỏ thăm nuôi, còn ngày thường thì... sáng hừng đông phải đi cày bừa. Nghĩ đến hai chữ "cày bừa" mà tôi sợ quá. Hai tháng đầu, bọn con gái chúng tôi phải xuống sông, móc đất sét dẻo đem lên bờ. Tôi là dân Sài Gòn, tiểu thơ của Mẹ, nấu cơm Mẹ tôi còn không cho nấu nữa. Đằng này dưới ánh nắng chói chang, giữa trời cao đất rộng tôi phải cùng mọi người chuyền từng cục đất và từng cục đất. Tôi đã muốn ngã nhào theo từng cục đất màu đen đó. Mắt tôi hoa lên và muốn xỉu mấy lần nhưng phải cố gắng vì đằng kia, cán bộ đang cầm cây đánh chị Lan, một tiểu thơ ở Cư Xá Lữ Gia, vì chị không chịu làm. Bị họ đánh hoài, có khi chị xỉu lên xỉu xuống.
Tôi thì sợ roi đòn cho nên phải cố gắng làm nhưng nắng và khát làm cho tôi gần như gục ngã. Đang đứng giữa trời nắng chang chang tôi bỗng nhắm mắt lại để nhớ về Sài Gòn, nhớ gia đình của tôi, làm cho người đứng cạnh phải kêu tên tôi vì họ đang chờ chuyền cục đất sang. Trong giây phút bối rối gần gục ngã thì bỗng dưng có đôi bàn tay đỡ cục đất đen, đôi cánh tay thiên thần của chị Trần Thị Bé Tư. Thấy tôi yếu đuối quá nên chị đã trườn người qua lãnh cục đất và nhẹ nhàng giao cho người kế tiếp.
Chị Bé Tư, ân nhân của tôi, trông đôn hậu và chất phác nhà quê như tên gọi của chị. Người vạm vỡ, nước da rám đen, mái tóc búi và nụ cười thật hiền hậu với hàm răng vàng. Chị đã đi vượt biên chung chuyến tàu với tôi và chị là ân nhân của tôi. Tôi như được sự che chở của chị cho nên có bao nhiêu thức ăn tôi đều chia cho chị để hai chị em ăn cơm chung với nhau cho đến ngày tôi rời trại.
Lúc còn ở Việt Nam, tôi cũng đã có lần tìm đến quê của chị ở Thốt Nốt để thăm nhưng vì ở nhà quê đâu có địa chỉ. Cho nên khi đến Úc tôi không làm sao liên lạc được với chị. Đường vào nhà chị phải qua mấy con đò. Lâu quá rồi không biết chị giờ ra sao? Đã có gia đình chưa hay vẫn là cô gái quê hiền lành, an phận như những người dân quê hiền lành không tên tuổi.
Ngoài chị Bé Tư ra, tôi còn có quen với một người. Nếu ở Sài Gòn, chắc không bao giờ tôi có những người bạn này đâu. Người bạn này làm nghề không được tốt lắm cho nên bị bắt ở tù dài hạn, không cho đi lao động. Cô ta trông mặt dữ dằn vì là dân đầu đường xó chợ lại mang chứng bệnh giang mai. Mỗi lần đến thăm tôi, cô không dám ngồi vì sợ lây bệnh cho người khác. Thế mà Thủy, tên cô bạn, lại đặc biệt tốt với tôi. Cô ta đã xách nước giùm cho tôi tắm, gần như hằng ngày. Mỗi ngày sau khi đi lao động về chúng tôi phải chen chúc nhau để lấy nước ở dưới sông lên để tắm rửa. Tôi cầm bút thì hay nhưng xách thùng nước không xong, cho nên nhờ những người bạn này tôi đã được tắm gội mỗi ngày để không mang sình lầy vào giấc ngủ. Vì vận nước nổi trôi mà tôi cũng trôi nổi về tận đến mũi Cà Mau để có cơ hội quen biết với những người dân nghèo, tính tình chân chất. Tôi quý trọng họ lắm và vẫn mong có một ngày tao ngộ để trả món nợ tình nghĩa này.
Trở lại với chuyện làm gạch. Sau hai tháng lấy đất dưới sông, họ chuyển chúng tôi qua làm gạch. Lần này thì thoải mái hơn, chắc tại tù lâu? Họ phát cho mỗi người một cái khuôn to bằng gỗ, giống như khuôn để làm bánh Trung Thu, bánh dẻo, nhưng to gấp mấy lần. Vật liệu bỏ vào không phải là bột làm bánh thơm tho mà là đất sét nặng nề, màu đen sậm. Ngoài cái khuôn, họ còn đưa cái đồ đập và cây cung để cắt đất sét. Công dụng của cái đồ đập là làm cho đất nén chặt vào cái khuôn để khi nung, viên gạch không bị nứt. Nếu như hôm nào toán nung gạch báo cáo gạch nứt nhiều thì chúng tôi sẽ bị về trễ, phải in gạch lại.
Gạch in xong, sẽ được chuyển qua lò nung. Nung với nhiệt độ cao, cục đất sét trở thành viên gạch màu đỏ. Tôi đã phải làm suốt 4 tháng trời ròng rã, mỗi ngày phải in ra 200 viên nên tay của tôi cũng muốn chai, nhưng đỡ hơn là ngoài nắng bưng đất. Trong lúc làm gạch, thỉnh thoảng không thấy cán bộ, các bạn tù của tôi khe khẻ hát "Giờ này có thể trời đang nắng? Em rời thư viện đi rong chơi". Trời ạ! Không được rời thư viện đi rong chơi mà lại phải ngồi trong mái nhà tranh heo hút, chung quanh chỉ có những cây súng sẵn sàng nả đạn nếu có em nào muốn ra ngoài rong chơi…
Chiều nay ở Sydney, trong căn nhà nhỏ, "người ấy" và tôi nhắc lại chuyện xưa. Nhớ rừng sông Đốc kỷ niệm. "Người ấy" chối là đã không nhìn tôi với ánh mắt "đắm đuối" lúc tôi bị đạp gai trong rừng. Gai đã đâm vào chân tôi thật sâu, máu chảy dầm dề, trong lúc chạy trốn hay khi nghe tiếng người đến. Và tôi cũng chối là không để ý gì hết anh chàng mặc áo ka ki màu Hướng Đạo của Kha ngồi dựa gốc cây mà không nói câu nào. Chúng tôi đã là bạn đồng hành, có duyên với nhau không phải từ Sài Gòn hoa lệ mà từ cái rừng sông Đốc tận cùng mũi Cà Mau của Việt Nam.
"Nhớ ơi là nhớ, nhớ bất tận em ơi".
Lệ Chi
Sydney 1 tháng 1 2013