"Long Vĩ Xà đầu khởi chiến chinh
Can qua xứ xứ khổ đao binh
Mã đề Dương cước, anh hùng tận
Thân Dậu niên lai kiến thái bình"
Theo hệ thống đánh số Can Chi và chu kỳ dịch chuyển của người Á Đông thì vận mệnh con người tùy thuộc vào 12 Chi gồm Tý, Sửu, Dần, Mão, Thìn, Tỵ, Ngọ, Mùi, Thân, Dậu, Tuất, Hợi và 10 Can gồm Giáp, Ất, Bính, Đinh, Mậu, Kỷ, Canh, Tân, Nhâm, Quý. Can nói về sự thay đổi của Trời và Chi là sự vận hành của Đất. Theo sự tính toán từ đời nhà Thương bên Tàu, cứ 60 năm thì chu kỳ dịch chuyển sẽ lập lại. Ngoài ra trong tướng mệnh học còn có sự kết hợp của Âm Dương, Ngũ Hành gồm Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ và thời gian là ngày, giờ năm tháng.
Can Chi
Giáp Tý
Ất Sửu
Bính Dần
Đinh Mão
Mậu Thìn
Kỷ Tỵ
Canh Ngọ
Tân Mùi
Nhâm Thân
Quý Dậu
Giáp Tuất
Ất Hợi
Bính Tý
Đinh Sửu
Mậu Dần
Kỷ Mão
Canh Thìn
Tân Tỵ
Nhâm Ngọ
Quý Mùi
Giáp Thân
Ất Dậu
Bính Tuất
Đinh Hợi
Mậu Tý
Kỷ Sửu
Canh Dần
Tân Mão
Nhâm Thìn
Quý Tỵ
Giáp Ngọ
Ất Mùi
Bính Thân
Đinh Dậu
Mậu Tuất
Kỷ Hợi
Canh Tý
Tân Sửu
Nhâm Dần
Quý Mão
Giáp Thìn
Ất Tỵ
Bính Ngọ
Đinh Mùi
Mậu Thân
Kỷ Dậu
Canh Tuất
Tân Hợi
Nhâm Tý
Quý Sửu
Giáp Dần
Ất Mão
Bính Thìn
Đinh Tỵ
Mậu Ngọ
Kỷ Mùi
Canh Thân
Tân Dậu
Nhâm Tuất
Quý Hợi
Nhâm Thìn 2012 thuộc Dương Thủy hợp cho nam, Quý Tỵ 2013 thuộc Âm Thủy hợp cho nữ.
Tính từ năm 1700 cho đến năm 2200, những năm sau đây là năm
Nhâm Thìn: 1712, 1772, 1832, 1892, 1952, 2012, 2072, 2032, 2092
Quý Tỵ: 1713, 1773, 1833, 1893, 1953, 2013, 2073, 2133, 2193
Hai năm Rồng Rắn nhằm vào Thiên Can Nhâm Quý thường có những việc xảy ra đặc biệt làm cho người Á Đông nói riêng và các đấng tiên tri nói chung tốn nhiều bút mực. Năm Thìn 2012 bước qua năm Tỵ 2013 hay nói rộng hơn là Thế Kỷ 21 là lúc mà các chiêm tinh gia trên thế giới bàn bạc rất nhiều, đề tài nổi bậc nhất là ngày tận thế. Dù thiếu cơ sở khoa học, nhưng cũng nên lượt qua các tiên đoán của các nhà tiên tri hay các truyền thuyết lan tràn trong dân gian.
1.Tiên đoán của người Maya
Cách đây hơn 5 nghìn năm, người Maya - một dân tộc ở Trung Mỹ - đã xây dựng nên một nền văn minh phát triển rực rỡ với nhiều thành tựu về cả khoa học và xã hội. Họ đã tính được độ dài của một tháng âm lịch là 29,53025 ngày, chênh lệch 34 giây so với con số mà khoa học ngày nay tính được và chính xác hơn nhiều so với hệ lịch Gregory mà chúng ta đã dùng 500 năm nay. Người Maya quan niệm, giống như vạn vật, thế giới loài người cũng hoạt động theo một chu kỳ, nghĩa là có khởi đầu thì sẽ có kết thúc. Và điểm kết thúc của thế giới loài người là ngày 21 tháng 12 năm 2012 - ngày cuối cùng của chu trình lịch thứ 13, kỷ thứ IV trong bộ lịch "Long Count" của họ. Tiên đoán của người Maya cho rằng, vào năm 2012, ban ngày sẽ kết thúc, bóng đêm bao trùm trái đất. Loài người sẽ trải qua một thảm họa nhưng không bị tiêu diệt hoàn toàn mà sẽ bước vào một thời kỳ phát triển mới, hưng thịnh và văn minh hơn.
2. Truyền thuyết về Ragnarök của người Bắc Âu
Không giống như người Maya, tương lai trong tín ngưỡng Bắc Âu khá u tối. Theo truyền thuyết của họ, sẽ tới một thời điểm các lực lượng bóng tối thoát khỏi xiềng xích, chiếm lấy thế giới của các vị thần đại diện cho trật tự (được gọi là sự kiện Ragnarök). Thế giới sẽ chìm trong chiến tranh, loạn lạc, thiên tai liên miên và dần dần bị nhấn chìm trong biển nước. Tuy nhiên, cũng có những dị bản cho rằng, sau thảm họa, vẫn còn một số vị thần sống sót và bắt tay xây dựng lại một thế giới mới tốt đẹp hơn.
3. Ngày Phán Xét trong Kinh Thánh
4. Lời tiên đoán từ Kinh Dịch
Sách Khải Huyền 16:13-16 trong Kinh Thánh đã đề cập đến một trận chiến được gọi là Ngày Phán Xét. Trận chiến này diễn ra giữa một bên là những người chấp nhận Chúa Jesus và một bên không chấp nhận Chúa. Đây được miêu tả là cuộc chiến một mất một còn với kết thúc là một trận đại hồng thủy. Tuy nhiên, Kinh Thánh không đề cập một cách trực tiếp đến thời gian cụ thể của ngày tận thế.
Gần đây, dựa trên một nghiên cứu của ba nhà toán học Do Thái về việc phân tích các ký tự trong Sách Sáng Thế đăng trên một tạp chí khoa học rất uy tín, kết luận của cuốn sách bán chạy nhất thế giới "Mật Mã Kinh Thánh II" của M.Drosnin là: "Thiên Chúa sẽ hủy diệt trái đất vào năm 2012".
Kinh Dịch của Trung Quốc là đại diện cho một trong những hệ tư tưởng lớn nhất thế giới từ thời cổ đại và vẫn được áp dụng đến ngày nay. Nhiều nhà nghiên cứu đã bỏ công sức tìm tòi và lý giải những điều viết trong Kinh Dịch. Trong đó, nhà nghiên cứu T. McKenna tin rằng, Kinh Dịch biểu diễn dòng chảy thời gian và 64 quẻ của Văn Vương tương ứng với bộ lịch âm 384 ngày đã từng được người Trung Quốc sử dụng. Mỗi quẻ có 6 hào, lấy 64 quẻ nhân với số hào sẽ ra số 384. Số này chính là tích của 29,53 (số ngày trong một tháng âm lịch) nhân với 13 (số tháng trong một năm âm lịch). Ông thấy rằng, các điểm lồi lõm của "sóng thời gian" xuất hiện lặp đi lặp lại tuy nhiên tần số của chúng tăng dần chứ không phải cố định. Dựa trên các phân tích đó, McKenna đưa ra giả thiết về ngày kết thúc của thế giới vào ngày 22 tháng 12 năm 2012, chậm hơn 1 ngày so với dự đoán của người Maya.
5. Dự đoán của Thần Học Ấn Độ
Dựa vào hoạt động của sao Kim, Kalki Bhagavan - một nhà hoạt động tôn giáo nổi tiếng người Ấn Độ - đã tiên đoán rằng năm 2012 sẽ là năm khổ đau và nhiễu nhương của loài người mà đỉnh điểm sẽ là ngày 6 tháng 6 năm 2012, khi sao Kim cắt ngang Mặt Trời. Trong thần học Hindu, sao Kim quản số 6, do đó, việc sao Kim cắt ngang Mặt Trời vào ngày 6 tháng 6 năm 2012 (chú ý: 12 = 6 + 6) sẽ gây biến cố lớn cho nhân loại. Tuy nhiên, Bhagavan cho biết, thế giới sẽ không bị hủy diệt hoàn toàn mà bước sang một thời kỳ mới, con người và các sinh vật sẽ tồn tại ở một cách thức khác.
6. Nhà tiên tri Nostradamus
Michel de Nostredame, được biết đến với cái tên Nostradamus, sinh ngày 14 tháng 9 năm 1503 tại tỉnh St. Remy, miền Nam nước Pháp, là con trai của một nhà buôn lúa mì gốc Do Thái nhưng gia đình ông đã cải sang đạo Thiên Chúa. Ngay từ khi còn nhỏ, Nostradamus đã bộc lộ năng khiếu toán học, thiên văn và chiêm tinh. Năm 1555, ông đã cho ra đời cuốn "Lời Tiên Tri", tập hợp những lời sấm truyền của mình dưới hình thức các bài thơ ngắn và trở thành những lời sấm truyền nổi tiếng. Trong số những lời sấm truyền, ông đã dự báo về những sự kiện nổi tiếng diễn ra sau này như cái chết của vua Henry II năm 1559, vụ hỏa hoạn ở London năm 1666, các phát kiến khoa học của Louis Pasteur, sự trỗi dậy và thất bại của Napoléon và Hitler. Nostradamus đã có một lời tiên tri về “một thế lực vĩ đại và đáng sợ sẽ xuất hiện trên bầu trời” vào những năm 2000.
7. Dự đoán của Isaac Newton
Isaac Newton - nhà vật lý học, nhà toán học, thiên văn học, triết học, nhà giả kim và thần học nổi tiếng người Anh, cha đẻ của Định Luật Vạn Vật Hấp Dẫn - đã dự đoán rằng thế giới sẽ trải qua một cuộc biến động lớn vào năm 2060. Dù không phải là một tín đồ mê muội của Thần Học nhưng ông đã dành thời gian cuối đời để giải mã lời tiên tri trong Kinh Thánh. Ông đưa ra nhiều con số xác định thời điểm hình thành quyền lực Giáo Hội (năm 609, 774, 788 và 841), và thời gian tồn tại của họ (1260, 1290, 1335, 1869, 1899 và 1944); nhưng không có kết luận nào với các con số này và chỉ trong những dòng chữ run rẩy cuối đời, Newton mới miễn cưỡng viết ra con số 2060. Điều đáng chú ý là Newton không nói trái đất bị hủy diệt hoàn toàn, mà sau những biến động (trước hoặc sau năm 2060), một thiên đường mới, một trái đất mới sẽ hình thành và tồn tại đến một ngàn năm.
8. Vanga - nữ tiên tri kỳ lạ Thế Kỷ 20
Bà Vanga tên thật là Vagelia (1911 - 1996 ) không biết chữ, bị mù từ năm 12 tuổi và suốt cuộc đời không ra khỏi thành phố Petrich thuộc vùng Rupit, Bungari. Tuy nhiên, với những tiên đoán chính xác về nhiều sự kiện nổi tiếng, bà đã trở thành nhà tiên tri được biết đến nhiều nhất trong Thế Kỷ 20. Lời tiên tri nổi tiếng nhất diễn ra năm 1980, khi bà khẳng định: "Trên ngưỡng cửa thiên niên kỷ, vào tháng 8/1999 hoặc năm 2000, Kursk sẽ bị nhấn chìm trong nước và cả thế giới sẽ cùng trục vớt nó". Rất ít người nhớ tới những câu nói định mệnh đó, phải đợi 20 năm sau, đúng vào tháng 8 năm 2000, thế giới ngỡ ngàng trước việc tàu ngầm hạt nhân Kursk của Nga bị chìm tại biển Bắc. Năm 1989, bà nói: "Kinh hoàng, kinh hoàng! Những người anh em Mỹ ngã xuống vì bị các con chim sắt tấn công. Lũ sói đang tru lên trong bụi cây, còn máu của những người vô tội đang chảy". Hơn 10 năm sau, sau ngày 11 tháng 9 năm 2001, khi tòa tháp đôi lớn nhất nước Mỹ bị đánh sập, người ta mới giật mình vì lời tiên đoán của bà Vanga. Nhưng có lẽ tiên đoán đáng quan ngại nhất của bà là về Chiến Tranh Thế Giới Thứ 3. Nhiều lời tiên tri của bà liên quan tới xung đột vũ trang tại Nam Ossetia và trong thế giới của những người Hin-đu, những vụ mưu sát các nhà lãnh đạo các quốc gia... để rồi dẫn tới Chiến Tranh Thế Giới Thứ 3 sẽ xảy ra vào khoảng đầu thập niên thứ hai của Thế Kỷ 21.
9. Lời tiên đoán trong Thế Kỷ 21 của Juselino
Ông Juselino sinh năm 1960, sống cùng vợ và bốn người con gái tại thành phố Maringa thuộc tiểu bang Parama của Brazil. Ông là giáo sư dạy Anh Văn nhưng đã có khả năng tiên tri qua các giấc mộng từ năm lên 9 tuổi (1969). Ông từng dự đoán nhiều sự kiện và các thảm họa lớn đã xảy ra trên thế giới bao gồm: sự kiện 11-9-2001 tại Mỹ; chiến tranh Iraq năm 2003 và sự bại trận của Tổng Thống Saddam Hussein cùng kết cục bị bắt giữ và xử tử, trận động đất gây ra sóng thần tại quần đảo Indonesia năm 2004, cái chết thảm thương của Công Nương Diana, sự ra đi của Đức Giáo Hoàng John Paul Đệ Nhị năm 2005. Theo các dự đoán của ông, từ năm 2008, thế giới sẽ liên tiếp xảy ra các thiên tai (núi lửa, sóng thần, nhiệt độ tăng vọt, các tiểu hành tinh va vào trái đất), dịch bệnh và đến năm 2026, một thảm họa lớn sẽ xảy ra cho toàn thể loài người.
10. Sấm Trạng Trình - Nguyễn Bỉnh Khiêm
Sống cùng thời đại với Nostradamus, Nguyễn Bỉnh Khiêm của Việt Nam cũng có những bài sấm ký mà tiêu biểu có đoạn sau đây được bàn cải nhiều khi năm Thìn bước qua năm Tỵ, kéo dài cho đến năm Ngọ, Mùi, Thân, Dậu.
"Long Vĩ Xà đầu khởi chiến chinh
Can qua xứ xứ khổ đao binh
Mã đề Dương cước, anh hùng tận
Thân Dậu niên lai kiến thái bình"
Theo nhiều nhà diễn giải, bốn câu trên ám chỉ khoảng thời gian từ năm 2012 đến năm 2017. Long vĩ là đuôi rồng, tức cuối năm Nhâm Thìn (2012) sẽ bắt đầu có chiến tranh. Xà đầu là đầu năm Tỵ (2013) xảy ra đại chiến, năm Mùi (2015) thì các anh hùng đều hy sinh và đến năm Dậu (2017) thế giới mới trở lại hòa bình.
Theo quẻ của Quỷ Cốc Tiên Sinh thì Nhâm và Quý thuộc bộ Thủy, vận dịch chuyển cho rằng hai năm này liên quan nhiều đến tai ương, nước nôi và sẽ xảy ra nhiều lụt lội. Hơn nữa Thìn là rồng, rồng xuất hiện thì phun nước tạo mưa bão lụt lội. Năm 2012 là năm kết hợp hai bộ Thủy đó là Rồng (Thủy) và Nhâm (Thủy). Ngược thời gian để xem năm Rồng và Can nào tạo bão lụt kinh hồn. Thống kê từ năm 1904 đến 2012 có 10 năm Thìn:
1904 Giáp Thìn
1916 Bính Thìn
1928 Mậu Thìn
1940 Canh Thìn
1952 Nhâm Thìn
1964 Giáp Thìn
1976 Bính Thìn
1988 Mậu Thìn
2000 Canh Thìn
2012 Nhâm Thìn
Không kể đến trận lụt năm Giáp Thìn (1904) thì năm Nhâm Thìn (1952) đa số người Việt Nam vẫn còn ghi nhớ đó là trận lụt rất lớn. Cũng vì lý do đó, 60 năm sau cũng Nhâm Thìn (2012), người ta cho rằng đây cũng là năm có nhiều tai ương như chiến tranh, lụt lội.
Năm Thìn trời bão thình lình
Kẻ trôi người nổi, hai đứa mình còn đây
Gặp anh đây mới biết anh còn
Hồi năm Thìn bão lụt, em khóc mòn con ngươi!
Từ ngày bão lụt năm Thìn
Đến nay trôi nổi mới nhìn được em
Sau những biến động tai ương của trời đất xảy ra cho dân tộc Việt, căn cứ vào những câu sấm của Trạng Trình, người ta tìm cách chú giải những lời sấm này. Do cuộc sống khó khăn vô định, người ta càng dựa vào những lời chú giải Sấm Trạng để nuôi hy vọng, để mong có được một tương lai tươi đẹp, một thế giới thanh bình, no ấm. Tuy nhiên sấm là những câu nói đầy bí ẩn, nó giống như người bàn số đề, chờ kết quả ra rồi thì lời bàn làm sao sai trật được. Lời sấm cũng thế, nếu hiểu nôm na là “Thiên cơ bất khả lậu” thì làm sao biết trước được. Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm viết Sấm Ký Bạch Vân Thi Tập vào năm Nhâm Tý 1552, Bạch Vân Thi Tập gồm 487 câu, chia làm hai tập. Tập một có 280 câu mô tả lịch sử nước Việt Nam. Tập hai có 207 câu nói về chiến tranh hòa bình và tiên đoán ai là người ra đời cứu thế, tựu trung tập trung vào bốn câu sấm sau:
"Long Vĩ Xà đầu khởi chiến chinh
Can qua xứ xứ khổ đao binh
Mã đề Dương cước, anh hùng tận
Thân Dậu niên lai kiến thái bình"
Một khi năm Thìn chuyển qua năm Tỵ thì bốn câu sấm trên được đem ra bàn cãi, nhưng sự bàn cãi ồn ào nhất khi Thìn vào Can Nhâm và Tỵ vào Can Quý. Nhâm Thìn và Quý Tỵ 1952-1953, sự việc xảy ra không đúng theo lời chú giải. 60 năm sau cũng Nhâm Thìn, Quý Tỵ 2012-2013, các nhà chú giải giản lược bắt đầu ồn ào trở lại. Trước khi đi sâu vào cái huyền thoại của Sấm Trạng Trình, chúng ta ngược thời gian để tìm hiểu Trạng Trình là ai và tại sao người đời rất tin tưởng vào những lời sấm của ông.
Nguyễn Bỉnh Khiêm
Nguyễn Bỉnh Khiêm nguyên có tên khai sinh là Nguyễn Văn Đạt, sinh năm Tân Hợi, niên hiệu Hồng Đức thứ 22 dưới triều Lê Thánh Tông (1491), ở thời kỳ được coi là thịnh trị nhất của nhà Lê sơ. Ông sinh tại làng Trung Am, huyện Vĩnh Lại, phủ Hạ Hồng, trấn Hải Dương (nay thuộc xã Lý Học, huyện Vĩnh Bảo, thành phố Hải Phòng). Thân phụ của ông là Giám Sinh Nguyễn Văn Định, đạo hiệu là Cù Xuyên, nổi tiếng hay chữ nhưng chưa hiển đạt trong đường khoa cử. Thân mẫu của ông là bà Nhữ Thị Thục, con gái út của quan Tiến Sĩ Thượng Thư Bộ Hộ Nhữ Văn Lan triều Lê Thánh Tông. Bà là người phụ nữ có bản lĩnh khác thường, học rộng biết nhiều lại giỏi tướng số, nên muốn chọn một người chồng tài giỏi để sinh ra người con có thể làm nên đế nghiệp sau này, nhưng kén chọn mãi đến khi luống tuổi bà nghe lời cha mới lấy ông Nguyễn Văn Định (người huyện Vĩnh Lại) là người có tướng sinh quý tử.
Theo các tài liệu nghiên cứu đến nay những giai thoại về bà Nhữ Thị Thục vẫn chưa kiểm chứng được. Trong dân gian kể rằng bà chê ông Nguyễn Văn Định không biết cách dạy con nên đã bỏ về nhà cha mẹ đẻ ở làng An Tử Hạ (bởi với biệt tài lý số của mình, bà Nhữ Thị Thục đã tiên đoán nhà Lê sơ 40 năm sau thời thịnh trị của Lê Thánh Tông sẽ đi vào suy tàn nên bà muốn dạy Nguyễn Văn Đạt học cách làm vua để có thể giành được ngôi vị đế vương về sau, điều này trái với ý muốn của ông Nguyễn Văn Định). Ước vọng của bà là lấy chồng làm vua hoặc có con làm vua. Do đó trong quá trình dạy dỗ, bà đã truyền cho ông Nguyễn Bỉnh Khiêm niềm mơ ước ấy, thí dụ:.
Một hôm khi bà đi vắng, ông Định ở nhà với con và tình cờ hát:
"Nguyệt treo cung, nguyệt treo cung"
Không ngờ Nguyễn Bỉnh Khiêm nhanh nhảu ứng đối lại ngay:
"Vịn tay tiên, nhè nhẹ rung"
Khi bà về đến nhà, ông Định rất tâm đắc kể lại chuyện ấy thì bị bà trách chồng là nuôi con mong làm vua làm chúa cớ sao lại mong làm bầy tôi (nguyệt chỉ bầy tôi). Có lần khác bà dạy Nguyễn Bỉnh Khiêm câu hát:
"Bống bống bang bang, ngày sau con lớn con tựa ngai vàng"
Ông Định hoảng sợ vì nếu triều đình hay được sẽ mất đầu về tội khi quân nên sửa lại:
"Bống bống bang bang, ngày sau con lớn con vịn ngai vàng"
Nhiều lần như vậy, bà rất bất bình chồng nên bỏ đi, giao Nguyễn Bỉnh Khiêm lại cho chồng. Tương truyền sau đó bà lấy một người họ Phùng và sinh ra Trạng Bùng Phùng Khắc Khoan (người làng Bùng, xã Phùng Xá, huyện Thạch Thất, trấn Sơn Tây thuộc tỉnh Hà Tây cũ). Phùng Khắc Khoan là em cùng mẹ khác cha với Nguyễn Bỉnh Khiêm, hai người cách nhau 37 năm, sau này trở thành học trò của Nguyễn Bỉnh Khiêm. Nhưng nhiều nghiên cứu cho rằng điều này rất khó xảy ra bởi bà Nhữ Thị Thục khi sinh ra Nguyễn Văn Đạt đã luống tuổi (ngoài 20 tuổi) trong khi Phùng Khắc Khoan sinh sau Nguyễn Bỉnh Khiêm (Nguyễn Văn Đạt) tới 37 năm, như vậy khi sinh Phùng Khắc Khoan bà đã vào lứa tuổi trên 57. Sau khi có người con thứ hai, bà Nhữ Thị Thục vẫn không thỏa chí vì cho rằng Phùng Khắc Khoan cũng không có chí làm vua. Mãi sau này bà Nhữ tình cờ gặp một trang nam nhi làng chài đang kéo lưới nhưng có nghiệp đế vương, bà lấy làm tiếc nuối vì lúc này tuổi bà đã cao, mộng có chồng hay có con làm vua đã quá trễ. Người nam nhi làng chài đó chính là Mạc Đăng Dung, vị vua khai triều của nhà Mạc.
Thuở nhỏ, Nguyễn Bỉnh Khiêm rất thông minh, học đâu nhớ đó, lớn lên được theo học với quan Bảng Nhãn Thượng Thư Lương Đắc Bằng. Tương truyền rằng trong một lần đi sứ, quan Thượng Thư mang về bộ sách Thái Ất Thần Kinh, nhưng đọc cũng không hiểu hết. Thấy Nguyễn Bỉnh Khiêm đặc biệt thông minh hơn người, quan Thượng Thư bèn trao lại cuốn sách quý ấy cho học trò. Truyền thuyết nói rằng nhờ hiểu được cuốn sách ấy mà Nguyễn Bỉnh Khiêm đã viết ra được những lời tiên tri cho hàng trăm năm sau. Những lời tiên tri cho hậu thế ấy chính là tập Sấm Ký mà dân gian quen gọi là Sấm Trạng Trình.
Nguyễn Bỉnh Khiêm là nhà tiên tri thứ hai, xuất hiện đúng 500 năm sau nhà tiên tri đầu tiên là Thiền Sư Vạn Hạnh (938 - 1025) với những câu sấm về việc xuất hiện nhà Lý. Vô số giai thoại được dân gian truyền nhau về những lời tiên đoán của Trạng Trình trước khi sự việc xảy ra. Có giai thoại kể rằng: Tổng Đốc Hải Dương có lần về thăm quê Trạng Trình, trong lúc đi dọc sông Tuyết Giang, thấy có ngôi mộ lớn đang có nguy cơ sụp lở, quan xem xét cẩn thận mới biết là mộ của thân phụ Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm. Vị quan Tổng Đốc hết sức ngạc nhiên bởi Trạng Trình là thầy lý số hàng số một mà sao lại đặt mộ bố ở chỗ thế này. Ông bèn bàn bạc với con cháu Trạng Trình và quyết định di dời lại ngôi mộ vào chỗ khác, ngầm ý muốn sửa lại lỗi xưa của Trạng Trình. Nào ngờ khi đào đến gần hộp quách, phát hiện thấy có tảng đá lớn, lật lên xem thì thấy tấm bia khắc hai dòng chữ: “Bát thập niên tiền khi chung vũ tả / Bát thập niên hậu khí nhập ư trung”, nghĩa là: Tám mươi năm trước khí tốt bên trái / Tám mươi năm sau khí tốt rời vào trong!
Trong Sấm Ký, Trạng ghi rõ về những biến thiên trong lịch sử Việt Nam từ thời Hồng Bàng cho đến hôm nay. Và cả cái thời khắc “trở lại” của ông cũng được ghi rõ trong những lời sấm truyền, Trạng viết rằng tên tuổi của ông chỉ “sống lại” với hậu thế sau đúng 500 năm. Hậu vận này được chính ông viết trong lời sấm: “Bao giờ Tiên Lãng xẻ đôi / Sông Hàn nối lại thì tôi lại về”. Lời sấm này có nghĩa là bao giờ vùng đất Tiên Lãng bị xẻ làm đôi ra và con sông Hàn được nối lại thì tên tuổi của Nguyễn Bỉnh Khiêm sẽ vang dội trở lại. Quả đúng như lời sấm, vào năm 1991 Tiên Lãng bị xẻ đôi ra vì có công trình đào con sông để làm kênh thủy lợi. Thời điểm ấy cũng vào đúng 500 năm sau thời đại của ông. Cùng lúc ấy thì có cây cầu được xây dựng nối sông Hàn từ quê Vĩnh Bảo của cụ sang Thái Bình. Cũng từ năm ấy trở đi, tên tuổi, danh tiếng, tài năng kiệt xuất của cụ được sống lại. Lễ kỷ niệm 500 năm ngày sinh của cụ được tổ chức lọng trọng tại Văn Miếu - Quốc Tử Giám.
Nhờ học tính theo Thái Ất, ông tiên đoán được biến cố xảy ra 500 năm sau này. Người Trung Hoa khen Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm là "An Nam Lý Số Hữu Trình Tuyền". Ông tinh thông về thuật số, được dân gian truyền tụng và suy tôn là "nhà tiên tri" số một của Việt Nam. Ông đã để lại cho hậu thế bao nhiêu lời sấm nhưng chưa có lời giải đáp.
Tương truyền, ông là người đã đưa ra nhiều lời khuyên giúp các nhà Nguyễn, Mạc, Trịnh, Lê. Trong “An Nam Lý Số Hữu Trình Tuyền”, Nguyễn Bỉnh Khiêm đưa ra lời sấm cho nhà Nguyễn. Nhờ đó nhà Nguyễn mới tiến vào Nam mở rộng bờ cõi để đất nước ta có hình thái như ngày hôm nay. Năm 1568, khi Nguyễn Hoàng thấy anh là Nguyễn Uông bị Trịnh Kiểm giết, bèn sai người đến hỏi Trạng, khi ấy đã 77 tuổi đang ở ẩn tại Am Bạch Vân. Trạng Trình không nói không rằng, cầm tay sứ giả dắt ra hòn non bộ, chỉ vào đàn kiến đang bò và bảo:“Hoành sơn nhất đái khả dĩ dung thân”, nghĩa là một dải Hoành Sơn có thể dung thân được. Hiểu được ngầm ý ấy, Nguyễn Hoàng bèn nhờ chị xin với anh rể là Trịnh Kiểm cho vào trấn thủ đất Thuận Hóa từ đèo Ngang trở vào, nhờ đó mà dựng nên nhà Nguyễn ở phương Nam. Sau này, nhà Nguyễn đã đổi câu sấm của Trạng thành“Hoành sơn nhất đái vạn đại dung thân” hy vọng sẽ giữ được cơ nghiệp mãi mãi nhưng quả đúng như lời sấm ban đầu của Trạng, nhà Nguyễn chỉ có thể dung thân ở dải Hoành Sơn chứ không thể tồn tại mãi mãi, nên triều đại nhà Nguyễn đã chấm dứt vào năm 1945.
Ngay từ lúc sinh thời, ông đã dùng tài lý số của mình “cứu vãn” cho triều nhà Mạc tồn tại được một thời gian khá dài. Dưới thời nhà Mạc, năm 45 tuổi ông mới đi thi và đậu Trạng Nguyên. Vua Mạc Đăng Doanh cất ông lên làm Tả Thị Lang Đông Các Học Sĩ. Nhưng sau khi dâng sớ hạch tội 18 lộng thần không được vua nghe, ông đã cáo quan về ở ẩn. Thời ấy, đất nước đang trong giai đoạn hỗn loạn, có tới ba triều đại cùng tồn tại là nhà Mạc, nhà Nguyễn, nhà Trịnh. Lúc nhà Mạc sắp mất liền sai người đến hỏi ông. Ông đã đưa ra lời sấm cho nhà Mạc rằng:“Cao Bằng tàng tại, tam đại tồn cô”. Nghĩa là nếu chạy lên Cao Bằng thì sẽ tồn tại được ba đời. Quả nhiên, nhà Mạc lên Cao Bằng tồn tại được thêm ba đời. "Cao Bằng tuy thiển, khả diên số thể" (tức Cao Bằng tuy nhỏ, nhưng có thể giữ được). Nhà Mạc theo lời ông và giữ được đất Cao Bằng gần 80 năm nữa.
Với nhà Trịnh, khi vua Lê Trung Tông mất không có người nối dõi, Trịnh Kiểm định soán ngôi nhà Lê nhưng chưa dám quyết nên đã sai người tới hỏi Nguyễn Bỉnh Khiêm. Ông cũng không nói năng gì mà dẫn sứ giả ra chùa thắp hương bảo:“Mấy năm nay mất mùa, nên tìm giống cũ mà gieo”. Rồi Trạng lại sai chú tiểu quét dọn chùa sạch sẽ và ông nói với chú tiểu, nhưng thực ra là nói với bề tôi họ Trịnh: "Giữ chùa thờ Phật thì ăn oản" (ý nói làm bề tôi của các vua Lê thì lợi hơn). Trịnh Kiểm nghe theo, sai người tìm người tôn thất nhà Lê thuộc chi Lê Trừ (anh Lê Lợi) đưa lên ngôi, tức là vua Lê Anh Tông. Họ Trịnh mượn tiếng nhà Lê nhưng thực chất nắm quyền điều hành chính sự, hai bên cùng tồn tại tới hơn 200 năm. Vì thế mà có câu: Lê tồn, Trịnh tại.
Một loạt các mốc lịch sử khác cũng được Trạng tiên đoán từ 500 năm trước. Tất cả các sự kiện đó đều ứng vào câu sấm:
“Long vĩ xà đầu khởi chiến chinh
Can qua xứ xứ khổ đao binh
Mã đề Dương cước anh hùng tận
Thân Dậu niên lai kiến thái bình”.
Câu này dịch nôm na nghĩa là cuối năm Thìn đầu năm Tỵ sẽ khởi đầu có chiến tranh, ứng vào sự kiện từ cuối năm 1976 (Thìn), đầu năm 1977 (Tỵ) cuộc chiến tranh giữa Việt Nam và Campuchia đã bùng nổ. Rồi đến câu “Mã đề Dương cước anh hùng tận”, nghĩa là Trạng Trình tiên đoán nạn can qua phải trải qua cả năm Ngọ nữa. Quả nhiên là đúng hết năm Ngọ, đầu năm Mùi Việt Nam diệt Pôn Pốt. “Thân Dậu niên lai kiến thái bình”, tức là chiến tranh còn xảy ra cho đến khi qua năm Thân tới năm Dậu mới có thái bình được.
Lời sấm còn ứng đúng với hai cục diện trên thế giới. Cục diện thứ nhất là cuộc Đại Chiến Thế Giới lần thứ II. Đại Chiến Thế Giới khởi đầu từ khi Phát Xít Đức tấn công Ba Lan, từ năm 1940 đã bắt đầu rục rịch (cuối năm Thìn - Long vĩ) khởi đầu chiến tranh, đến năm 1941 (đầu năm Tỵ - Xà đầu) Hitler tấn công Liên Xô. Qua cuối năm 1942, giữa năm 1943 (Mã đề Dương cước) thì đến năm 1944 - 1945 (Thân Dậu niên lai kiến thái bình) mới qua khỏi nạn chiến tranh. Thứ hai là cuộc chiến tranh Iraq cũng xảy ra vào cuối năm Thìn (2000), đầu năm Tỵ (2001) rồi kéo dài đến hết năm Thân - Dậu mới ổn.
Một số ý kiến lại cho rằng đến cuối năm 2012, đầu năm 2013 sẽ lặp lại chu kỳ xảy ra loạn lạc đao binh. Cuối năm Thìn 2012, đầu năm Tỵ 2013, trên thế giới sẽ xảy ra chiến tranh và qua năm Mùi, năm Ngọ đến năm Thân, năm Dậu thiên hạ mới lại thái bình. Có điều có người lý giải rằng hai chữ “can qua” là dịch từ chữ Koran, tiếng Tàu Can Qua là Koran (?), ý nói chiến tranh bắt nguồn từ Trung Đông?
Nhà tiên tri số một của Việt Nam trong lời cảm đề đã viết: “Bí truyền cho con cháu - Dành hậu thế xem chơi”. Cho nên mọi ý nghĩa sâu xa về bốn câu Sấm của Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm xin để độc giả tự suy ngẫm!
Tháng Chạp năm 2012
Sưu tầm bởi TSN
Ghi chú:
- Vì dựa vào hàng trăm tài liệu cho nên mạn phép không thể ghi hết các nguồn tham khảo. Xin thông cảm.
- Nếu cuối năm 2012 có biến chuyển thì đầu năm 2013 tôi sẽ bàn tiếp về lời Sấm này.