Vụ án Lệ Chi Viên còn được gọi là vụ án vườn vải, vụ án mà đại thần Nguyễn Trãi bị vu oan và bị tru di tam tộc thời Lê sơ trong lịch sử Việt Nam.
Nhắc đến vụ án Lệ Chi Viên, trong dân gian có một truyền thuyết về sự báo oán của rắn. Chuyện kể rằng, một hôm Nguyễn Trãi cho học trò phát cỏ trong vườn để làm thêm chỗ dạy học. Đêm đến, ông nằm mơ thấy một người đàn bà dẫn bầy con dại tới khóc lóc xin ông đừng phá nơi ở của họ, xin hãy cho bà và các con được ở tạm ít hôm, vì bận con mọn nên chưa kịp dọn nhà. Đến khi học trò của ông phát cỏ, đập chết một bầy rắn con, ông mới hiểu ra ý nghĩa của giấc mơ... Một ngày kia khi ông đang ngồi đọc sách bên án thư, có con rắn bò trên xà nhà nhỏ một giọt máu thấm vào chữ "tộc" ("họ") qua ba lớp giấy ứng với việc gia tộc ông sẽ bị hại đến ba họ. Ngày sau con rắn mẹ hóa ra bà Nguyễn Thị Lộ để làm hại ba đời nhà ông.
Nguyễn Trãi sinh năm 1380 và mất vào năm 1442, quê ở làng Chi Ngại, huyện Phượng Sơn, lộ Lạng Giang (nay thuộc Chí Linh, Hải Dương). Nguyễn Trãi là con trai của ông Nguyễn Phi Khanh và bà Trần Thị Thái và là cháu ngoại của ông Trần Nguyên Đán.
Bà Nguyễn Thị Lộ sinh năm 1400 và mất năm 1442. Bà là vợ thứ của Nguyễn Trãi và là một nữ quan nhà Hậu Lê trong lịch sử Việt Nam. Tên tuổi bà từ lâu đã gắn liền với vụ thảm án Lệ Chi Viên xảy ra vào năm Nhâm Tuất (1442), dẫn đến cái chết của vợ chồng bà và cái án tru di tam tộc cho dòng họ.
Bà là người làng Hải Hồ (sau đổi là làng Hải Triều, tục gọi làng Hới), nay thuộc xã Tân Lễ, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình. Cha bà là Nguyễn Mỗ, làm nghề thầy thuốc. Nhờ tư chất thông minh lại được cha cho đi học nên bà sớm thông hiểu các kinh sách và lại biết làm thơ. Ngoài ra, bà còn nổi tiếng là một người xinh đẹp. Sau khi cha đi phu bị quân Minh giết chết, bà cùng mẹ tần tảo nuôi dạy các em. Trong một lần lên kinh thành Thăng Long bán chiếu (làng Hới có nghề dệt chiếu nổi tiếng), Nguyễn Thị Lộ đã gặp Nguyễn Trãi.
Tương truyền một hôm Nguyễn Trãi gặp một cô gái bán chiếu trẻ đẹp, và ông đã xướng mấy câu thơ ghẹo:
Ả ở nơi nào, bán chiếu gon?
Chẳng hay chiếu ấy hết hay còn?
Xuân xanh nay độ bao nhiêu tuổi?
Đã có chồng chưa, được mấy con?
Không ngờ cô này cũng làm thơ họa lại:
Thiếp ở Tây Hồ bán chiếu gon,
Cớ chi ông hỏi hết hay còn?
Xuân xanh vừa độ trăng tròn lẻ
Chồng còn chưa có, hỏi chi con!
Nguyễn Trãi yêu sắc, phục tài bèn dò hỏi gia cảnh rồi cưới cô gái ấy (tức Nguyễn Thị Lộ) làm thiếp.
****
Thời ấy, Lê Quý Ly được Thượng Hoàng Nghệ Tông sủng ái. Lê Quý Ly sàm tấu giết hại nhiều người, cả vua chúa vương thân cũng không trừ. Năm 1400, Quý Ly truất phế vua Trần Thiếu Đế, chiếm ngôi vua. Khi lên làm vua, Lê Quý Ly mở khoa thi Thái Học Sinh. Nguyễn Trãi thi đỗ ra làm quan được bổ làm Chánh Chưởng Đài Ngự Sử. Năm 1402, Ứng Long là cha của Nguyễn Trãi đổi tên là Phi Khanh, cũng ra làm quan với nhà Hồ, với chức Hàn Lâm Học Sĩ.
Năm 1407, quân Minh mượn cớ phù Trần diệt Hồ để xâm chiếm nước ta. Hồ Quý Ly bị thua. Cuối tháng sáu năm 1407, giặc Minh bắt được cha con Hồ Quý Ly và một số quan, tướng trong đó có Phi Khanh, cha của Nguyễn Trãi, giải về Kim Lăng. Nguyễn Trãi theo cha đến điếm Vạn Sơn (tỉnh Hồ Bắc), rồi tuân lời cha trở về nước lo "trả thù nhà, rửa nhục nước", để em là Phi Hùng ở lại nuôi cha.
Thi đỗ Thái Học Sinh năm 1400, Nguyễn Trãi từng làm quan dưới triều Hồ. Sau khi đất nước bị rơi vào tay nhà Minh, Nguyễn Trãi tham gia vào cuộc khởi nghĩa Lam Sơn do Lê Lợi lãnh đạo để chống lại ách Minh thuộc. Ông trở thành mưu sĩ của nghĩa quân Lam Sơn trong việc bày tính mưu kế cũng như soạn thảo các văn thư ngoại giao với quân Minh. Ông là khai quốc công thần và là văn thần có uy tín ở thời đầu nhà Hậu Lê.
Vua Lê Thái Tông vốn là người ham sắc, có nhiều vợ, chỉ trong 2 năm sinh liền 4 hoàng tử. Các bà vợ tranh chấp ngôi Thái Tử cho con mình nên trong triều xảy ra xung đột. Vua truất phế Hoàng Hậu Dương Thị Bí và thái tử Lê Nghi Dân là của con bà mới lên 2 tuổi để lập bà Nguyễn Thị Anh làm Hoàng Hậu và cho con của bà này là Lê Bang Cơ chưa đầy 1 tuổi làm Thái Tử. Cùng lúc đó một bà vợ khác của vua là Ngô Thị Ngọc Dao lại sắp sinh, bà Nguyễn Thị Anh sợ đến lượt mẹ con mình bị phế nên tìm cách hại bà Ngọc Dao. Nguyễn Trãi cùng Nguyễn Thị Lộ tìm cách cứu bà Ngọc Dao đem nuôi giấu.
Nguyễn Trãi bảo Thị Lộ khuyên Thái Tông đừng nghe lời xúc xiểm mà làm việc thất đức. Vua đồng ý, cho phép Thị Lộ đem Ngọc Dao giấu ở chùa Huy Văn. Vài tháng sau, bà Ngọc Dao sinh ra một người con trai, vua đặt tên là Tư Thành (vua Lê Thánh Tông sau nầy). Để tránh khỏi Nguyễn Thị Anh mưu hại, Nguyễn Trãi đưa hai mẹ con bà Ngọc Dao ra A Bang (Quảng Ninh ngày nay).
Ngày 4 tháng 8 năm Nhâm Tuất (27 tháng 7 năm 1442), vua Lê Thái Tông đi tuần ở miền Đông. Nguyễn Trãi đón vua về ngự ở chùa Côn Sơn, là nơi ở của mình. Rời Côn Sơn để về lại Thăng Long, ngày 4 tháng 8 âm lịch nhà vua và đoàn tùy tùng đến Lệ Chi Viên (Gia Bình, Bắc Ninh). Theo sử cũ, nhà vua đã thức đêm với Nguyễn Thị Lộ rồi băng hà. Liền sau đó, bà Lộ bị triều đình (do Hoàng Hậu Nguyễn Thị Anh cầm đầu) sai người bắt giam và tra khảo.
Có sách chép rằng khi biết mình bị kết tội, Thị Lộ chạy gieo mình xuống nước. Nhưng cũng có người cho rằng vì chịu không nổi cực hình nên Nguyễn Thị Lộ phải khai nhận tội giết vua. Sau khi nhận tội, Nguyễn Thị Lộ bị bỏ vào cũi sắt dìm xuống sông cho chết. Còn phần Nguyễn Trãi, ông bị kết tội đồng chủ mưu giết vua và bị kết án tru di tam tộc. Ông và cả ba họ ông bị xử chém vào ngày 16 tháng 8 năm Nhâm Tuất (19 tháng 9 năm 1442).
Đến năm 1464, đời Lê Thánh Tông (1460-1497), vua xuống chiếu tẩy oan cho Nguyễn Trãi.
Trần Thi
Nguồn từ Internet