“Rắn là một loài bò... sát không chân... sát không chân... sát không chân... Rắn là một loài bò... sát không chân... sát không chân...”
Tiếng học bài của “con nhỏ” hàng xóm sau nhà vang vang ... Kêu là “con nhỏ” có lẽ hơi ... không phải phép vì “con nhỏ” này lớn hơn tôi vài ba tuổi, học trên tôi vài ba lớp. Kêu “con nhỏ” là vì kêu theo ba má tôi. Không biết “con nhỏ” có thuộc và hiểu bài không, nhưng hồi nhỏ hầu như tôi không cần học bài gì cả, chỉ cần ... ngủ thôi cũng thuộc mấy bài này và nhờ tiếng học bài của “con nhỏ” này mà tôi thông hiểu trước nhiều chuyện được giảng dạy ở các lớp trên ...
Thú thật tôi không thích gì cái lối học từ chương, cứ việc đọc để rán thuộc lòng các bài giảng ở lớp mà không biết có hiểu thấu hay không, nhất là môn Vạn Vật Học ... Thí dụ câu này “con nhỏ” hàng xóm ngắt câu trật lất! Ai cũng biết con rắn đâu có phải là con bò! Nhưng dù sao câu học bài này cũng đã ăn sâu vào tiềm thức và cho đến nay tôi vẫn còn nhớ rõ.
Người viết không có chuyên môn gì về rắn cả nên không dám “múa rìu qua mắt thợ”, “múa rìu qua mắt” quý Giáo Sư Động Vật Học cũng như quý “Thầy Rắn” Herpetologists ở Đại Học (ở Đại Học, vị nào nghiên cứu chuyên ngành về một loài sinh vật nào thì gọi theo tên loài sinh vật ấy. Gọi bằng tiếng Anh thì không thấy gì, nhưng dịch nôm na ra tiếng Việt mà gọi thì tức cười lắm, như “Thầy Cá”, “Thầy Cóc”, “Thầy Kiến”, “Thầy Rắn”, “Thầy Rùa”, “Thầy Cây”, “Thầy Nấm”, “Thầy Rong Rêu”, v.v...), nhưng năm Quý Tỵ là năm con Rắn, người viết cũng xin ghi lại một vài đặc tính Động Vật Học của loài rắn.
Hình dáng bề ngoài
Trở lại bài Vạn Vật Học về rắn: “Rắn là một loài bò sát, không chân.” Ai cũng biết loài rắn có thân mình dài, không chân, mới nhìn thấy là đã phát sợ rồi ! Nhưng không phải loài động vật nào có thân mình dài và không có chân cũng đều là rắn cả!
Ai cũng biết con giun (trùn đất) và con lươn, những loài động vật này cũng có thân mình dài giống rắn, nhưng không phải là rắn. Giun là một loài động vật không xương sống thuộc Ngành Giun Đốt Annelida, thân có phân đốt và không có miệng, răng, lưỡi, ... Lươn, là một loài cá, có vi lưng và vi đuôi.
Nhưng dễ lầm lẫn nhất là những loài thằn lằn không chân (Limbless/Legless lizards), thoạt nhìn giống y như rắn vì cũng có thân mình dài và hoàn toàn không có tứ chi hoặc tứ chi đã bị thu nhỏ lại rất nhiều, nếu không để ý kỹ sẽ không nhận thấy. Những loài nầy có “bà con” với rắn, cùng thuộc Lớp Bò Sát (Reptilia hay Sauropsida) và cùng thuộc Bộ Squamata (Bộ Bò Sát Có Vảy).
Để phân biệt những loài thằn lằn không chân với rắn, cần quan sát những đặc điểm như đuôi, mắt, lưỡi và sự hiện diện của lỗ thính giác thông ra ngoài nằm sau hai mắt. Tuy nhiên, trên thực tế rất khó đến gần một động vật loại này để xác định, trừ phi con vật đã bị bắt hoặc đã chết.
1- Đuôi:
- Đuôi các loài thằn lằn thường có chiều dài gần bằng chiều dài của thân mình (đo từ chóp mõm đến hậu môn).
- Ở các loài rắn, chiều dài đuôi ngắn hơn chiều dài thân mình nhiều.
Tuy nhiên, đuôi các loài thằn lằn thuộc hai Họ Pygopodidae và Scincidae thường hay bị đứt. Ở một số loài thuộc Họ Pygopodidae, đuôi có thể bị đứt ở bất cứ khúc nào. Do đó rất khó phân biệt những loài thằn lằn không chân với rắn khi đuôi của chúng chưa mọc lại hẳn. Đuôi của các loài thuộc Giống Aprasia, Họ Pygopodidae cũng thường ngắn hơn chiều dài thân mình của chúng.
2- Đầu:
* Lỗ thính giác
- Ở các loài thằn lằn không chân, có thể thấy lỗ thính giác rất rõ sau hai mắt một khoảng, thí dụ ở các loài thuộc các Giống Delma, Lialis, Paradelma, ... thuộc Họ Pygopodidae.
- Rắn không có cơ quan thính giác nên không có lỗ thính giác thông ra bên ngoài.
Tuy nhiên, hầu như các loài thằn lằn không chân thuộc các Giống Aprasia, Họ Pygopodidae, lỗ thính giác hoàn toàn không thông ra ngoài. Ở loài Aprasia aurita, cũng như ở các loài thuộc Giống Ophidiocephalus, lỗ thính giác rất nhỏ và bị che khuất một phần hoặc toàn phần bởi một trong những phiến vảy phía sau mắt.
* Mắt:
- Ở hầu hết các loài thằn lằn, mí mắt dưới có thể cử động, nhắm mở được.
- Mắt rắn không có mí mắt nhắm mở mà được bảo vệ bởi một lớp kính dày trong suốt gọi là vảy mắt.
Tuy nhiên ở loài thằn lằn không chân Lerista apoda thuộc Họ Scincidae, mí mắt dưới không nhắm mở được và tạo thành một phiến trong suốt che chở mắt như ở rắn.
Mắt và lưỡi rắn Dendrelaphis punctulatus (Họ Colubridae)
Photo: Quan Tien
(Territory Wildlife Park, Darwin, 23 August 2010)
* Lưỡi:
- Lưỡi các loài thằn lằn dày và không chẻ đôi.
- Lưỡi loài rắn thon mỏng, đầu lưỡi chẻ đôi thành hình như cái nỉa. Khi di chuyển, lưỡi rắn thè ra và đưa qua lại để “ngửi” mùi vị là những phân tử hóa học trong không khí, nhằm phát hiện những con mồi hoặc những hiểm nguy chung quanh. Lưỡi chính là giác quan khứu giác và vị giác của rắn.
Tuy miệng rắn ngậm lại nhưng lưỡi rắn vẫn thè ra được qua một khe hình chữ V gọi là “lingual fossa” nằm phía dưới vảy sừng ở đầu mõm của rắn (rostral scale). Đây là một trong những điểm đặc trưng để xác định một động vật có thân mình dài không chân là một loài rắn.
Mô hình đầu rắn Vipera berus thuộc Họ Viperidae (Họ Rắn Lục) cho thấy loại lưỡi chẻ đôi tiêu biểu của các loài rắn và răng nọc tiêu biểu cho các loài rắn có nọc độc
Photo: Quan Tien - 13 August 2012
(Charles Darwin University – Material used for teaching)
Những loài thằn lằn không chân thuộc hai Họ Pygopodidae và Scincidae
- Họ Pygopodidae
Hầu hết những loài thuộc Họ này không có tứ chi. Ở một số loài, chi trước hoàn toàn biến mất, chi sau thu nhỏ lại thành một cặp vi nằm gần trước hậu môn.
Có thể liệt kê một số Giống (Chi – Genus) gồm nhiều loài không có tứ chi: Aclys, Aprasia, Delma, Lialis, Ophidiocephalus, Paradelma, Pletholax, Pygopus, ...
- Họ Scincidae (Họ Thằn Lằn Bóng)
Nhiều loài thuộc Giống Anomalopus, tứ chi hoàn toàn biến mất hoặc được thu nhỏ rất nhiều, nếu có thì tứ chi chỉ có 3 ngón.
Một số loài thuộc Giống Lerista hoàn toàn không có tứ chi, nếu có thì tứ chi được thu lại rất nhỏ, nếu không quan sát kỹ sẽ không nhận ra. Loài Lerista apoda (“a” nghĩa là không, “poda” là chân) hoàn toàn không có tứ chi, mí mắt dưới lại không nhắm mở được, chỉ là một vảy trong suốt che chở cho mắt, nên rất dễ lầm lẫn loài thằn lằn không chân này với rắn. Loài Lerista ameles tuy không có tứ chi nhưng mí mắt dưới nhắm mở được, nhờ đó có thể xác định loài thằn lằn này không phải là rắn.
Nhiều Giống khác thuộc Họ này cũng gồm nhiều loài hoàn toàn không có tứ chi như Ophioscincus cooloolensis, O. ophioscincus, ...
Thằn lằn không chân Delma australis
(Họ Pygopodidae)
(Photo: Interne
Thằn lằn không chân Lerista apoda
(Họ Scincidae)
(Photo: Internet)
Trên thế giới có khoảng từ 2.500 đến 3.400 loài rắn, được xếp vào khoảng 500 Giống, từ 11 đến 20 Họ, tùy theo hệ thống phân loại. Rắn là loài động vật máu lạnh, sinh sống ở nhiều môi trường khác nhau: trên cạn, dưới đất, trên cây, dưới nước và các loài rắn biển hoàn toàn sống ở biển.
Kích thước rắn từ 10cm (4in), thân mình mỏng manh như cọng chỉ đến hơn 8m (29ft) ở một số loài trăn. Một loài trăn hóa thạch Titanoboa cerrejonensis được ghi nhận có chiều dài hơn 15m (49ft).
Để xác định một loài rắn, cần phải khảo sát kỹ lưỡng sự sắp xếp của các vảy trên thân rắn, nhất là các vảy ở đầu. Rất dễ nhầm lẫn nếu chỉ nhìn thoáng qua, vì hai con rắn có hình dạng, màu sắc rất giống nhau nhưng có thể là hai loài khác nhau ; hoặc ngược lại có khi cùng một loài nhưng hình dạng và màu sắc khác nhau hoàn toàn.
Vảy rắn
Cũng như ở những loài thuộc Bộ Phụ Sauria (Thằn Lằn), để phân loại cũng như xác định tên những loài rắn thuộc Bộ Phụ Serpentes (Rắn), người ta khảo sát các vảy ở đầu cũng như ở khắp thân mình rắn. Nhất là ở đầu, mỗi vảy đều có tên riêng, kích thước, hình dạng, vị trí và sự sắp xếp của những vảy, cũng như sự hiện diện hay không của một vảy nào đó, ... là những đặc tính đặc trưng của một loài rắn.
Da rắn luôn luôn khô ráo. Khắp thân mình rắn được bao phủ bởi những lớp vảy sừng được xếp chồng lên nhau tương tự như cách lợp ngói, phần rìa của vảy trên che phủ phần gốc của vảy dưới.
Ở những loài rắn sống trên cạn, vảy bụng có chức năng như những bàn chân dùng để rắn di chuyển. Nhiều loài rắn có thể phóng xa trong không khí đến hơn 13m.
Lột da sống đời
Trong quá trình tăng trưởng, rắn cần phải lột da. Vì toàn thân mình được bao bọc bởi những vảy cứng làm cản trở sự tăng trưởng của cơ thể, rắn cần lột da để loại bỏ những lớp vảy và da khô, đồng thời cũng loại bỏ những ký sinh trùng bám trên vảy và da. Rắn đang trưởng thành có thể lột da nhiều lần trong một năm, có khi vài tuần lột da một lần. Rắn càng trưởng thành thì tốc độ trưởng thành càng chậm lại nên số lần lột da càng ít đi.
Nhiều loài rắn lột da bằng cách cạ mõm vào một vật cứng như cục đá, cành cây, ... cho phần da chỗ này rách đi rồi lận nguyên lớp da ra lần lần tương tự như người ta cởi chiếc vớ. Nhiều loài trăn lột từng mảnh da lớn. Sau khi lột da, rắn bị mất màu sắc đặc trưng trước đó.
Khi sắp lột da, mắt rắn trở nên đục, đó là lớp vảy mắt khô. Đôi khi sau khi lột da, vảy mắt khô này vẫn còn sót dính lại trên mắt.
Khi độ ẩm trong không khí quá thấp tức không khí khô hạn, thì sự lột da gặp khó khăn hơn. Trong những điều kiện khí hậu này, da rắn vừa lột khô và có vẻ nhăn nheo. Đôi khi lớp da khô dính vào lớp da non bên dưới rất khó lột ra.
Phân loại
Giới Animalia Động Vật
Ngành Chordata Động Vật Có Xương Sống
Lớp Sauropsida (hay Reptilia) Lớp Bò Sát
Bộ Squamata Bộ Bò Sát Có Vảy,
bao gồm thằn lằn, cắc ké, rắn, trăn
Bộ Phụ (Phân Bộ) Serpentes trăn, rắn
Bộ Phụ Serpentes còn được chia làm hai Phân Thứ Bộ (Infraordo):
- Phân Thứ Bộ Alethinophidia, gồm 15 Họ: Acrochordidae, Aniliidae, Anomochilidae, Atractaspididae, Boidae, Bolyeridae, Colubridae, Cylindrophiidae, Elapidae, Loxocemidae, Pythonidae, Tropidophiidae, Uropeltidae, Viperidae, Xenopeltidae.
- Phân Thứ Bộ Scolecophidia, gồm các loài rắn giun hay “rắn mù” (blind snakes), gồm 3 Họ: Anomalepidea, Leptotyphlopidae và Typhlopidae.
Nhiều hệ thống phân loại khác xếp Họ Boidae và Họ Pythonidae vào cùng một Họ Boidae.
Giải phẫu
Vì thân mình dài và hẹp nên những bộ phận trong nội tạng rắn thường cũng bị kéo dài ra. Những bộ phận được cấu tạo từng cặp như hai quả thận, cặp tinh hoàn, không nằm ở hai bên thân mình như ở các loài động vật khác mà được sắp xếp cái nầy nằm phía trước cái kia.
Hầu hết các loài rắn chỉ có một lá phổi hoạt động. Nhiều loài rắn vẫn còn dấu tích lá phổi bên trái, tương tự như khúc ruột thừa ở người.
1. Thực quản
2. Khí quản
3. Đoạn phổi ở khí quản
4. Dấu tích lá phổi trái
5. Lá phổi phải
6. Tim
7. Gan
8. Bao tử
9. Túi không khí
10.Túi mật
11.Tụy tạng
12. Lá lách
13. Ruột
14. Tinh hoàn
15. Thận
Thoạt nhìn bên ngoài có lẽ khó phân biệt được giới tính của loài rắn. Thường đuôi rắn cái tương đối ngắn, từ hậu môn đến phần sau nhỏ dần lại ; còn đuôi rắn đực khá to, phần sát hậu môn phình to do bộ phận sinh dục đực gọi là “bán dương vật” nằm ở hai bên vùng hậu môn (tiếng Anh gọi là “hemipenes” – số nhiều hay “hemipenis” – 1 bán dương vật).
Bán dương vật (hemipenes)
loài rắn Stegonotus cucullatus (Họ Colubridae)
Photo: Quan Tien - 13 August 2012
(Charles Darwin University – Specimen used for teaching)
Bán dương vật (hemipenes)
loài rắn Pseudonaja textilis (Họ Elapidae)
Photo: Quan Tien - 13 August 2012
(Charles Darwin University – Specimen used for teaching)
Thức ăn, con mồi
Tất cả các loài rắn đều thuộc loài động vật ăn thịt. Con mồi gồm nhiều loài từ những động vật không xương sống như trứng các loài sâu bọ cho đến những loài thú hữu nhũ to lớn. Thông thường con mồi là những động vật nhỏ như chuột, chim, ếch nhái và những loài bò sát khác như thằn lằn, ... kể cả những loài rắn khác.
Thị giác của rắn rất kém nhưng rắn có những cơ quan có chức năng phát hiện những động vật máu nóng. Cơ quan này tiếng Anh gọi là “pit” nằm ở hai bên đầu, khoảng giữa mũi và hai mắt, rất nhạy cảm với nhiệt độ, độ nhạy cảm giúp rắn có thể phân biệt được sự khác biệt nhiệt độ chưa đến 1 độ C và có thể phát hiện những chấn động có tần số rất nhỏ truyền từ mặt đất.
Một số loài rắn nuốt trộng con mồi. Những loài trăn siết chặt con mồi cho đến nghẹt thở, gãy xương mà chết, thân mình mềm nhũn ra ... rồi mới nuốt trộng. Ở những loài rắn có nọc độc thường có hai răng nọc ở hàm trên, có chức năng đưa nọc độc vào cơ thể con mồi làm con mồi tê liệt và chết.
Nhiều loài trăn và rắn có thể nuốt trọn những con mồi có kích thước to lớn hơn nhiều so với đường kính thân mình của chúng. Những xương hàm dưới của những loài này không gắn liền với nhau và được nối với nhau bằng những dây chằng rất đàn hồi, do vậy những loài trăn và rắn này có thể mở hàm rộng theo hai chiều trên dưới và hai bên để nuốt dễ dàng những con mồi to lớn.
Nọc rắn và răng nọc
Hầu hết những loài rắn có nọc độc thuộc các Họ Colubridae (Họ Rắn Nước), Elapidae (Họ Rắn Hổ), Hydrophiidae (Họ Rắn Biển) và Viperidae (Họ Rắn Lục), chiếm khoảng hơn 1/4 tổng số các loài rắn.
Những loài rắn thuộc những Họ này, ngoài những răng thường còn có thêm hai răng nọc to lớn hơn.
Có hai loại răng nọc:
- Răng nọc trước hàm (Front-fanged snake) nằm ở hàm trên ngay phía trước. Những răng nọc này thường rỗng, bên trong là ống dẫn nọc nối từ tuyến nọc. Những loài rắn có loại răng nọc này đều là những loài rắn độc thuộc các Họ Elapidae, Hydrophiidae và Viperidae.
- Răng nọc sau hàm (Rear-fanged snake) nằm sâu trong miệng rắn và cong về phía trong cổ họng. Loại răng nọc sau hàm thường ngắn hơn loại răng nọc trước hàm và không có ống rỗng bên trong, nọc từ tuyến nọc được dẫn theo một rãnh dọc theo phía sau răng nọc. Những loài rắn có loại răng nọc sau hàm thuộc Họ Colubridae.
Nọc độc được đưa vào cơ thể con mồi qua răng nọc. Tác dụng của nọc rắn là làm tê liệt con mồi và giúp cho sự tiêu hóa con mồi.
Thành phần hóa học của nọc rắn gồm hỗn hợp nhiều độc tố khác nhau gồm nhiều loại diếu tố (enzyme), nhiều loại protein và amino acid, được phân loại tùy theo tác động của nọc trên con mồi.
- Độc tố máu gây đông máu (coagulant)
- Độc tố làm cho loãng máu (anticoagulant) và gây xuất huyết nội (haemorrhage)
- Độc tố làm hủy hoại hồng huyết cầu (haemotoxin)
- Độc tố làm hủy diệt các mô trong cơ thể con mồi (cytotoxin)
- Độc tố có tác dụng lên hệ hô hấp làm cho con mồi bị suy hô hấp, khó thở hay không thở được
- Độc tố thần kinh (neurotoxin), có tác dụng trực tiếp đến trung tâm não bộ, gây tê liệt hệ thần kinh của con mồi, do đó làm tê liệt chức năng điều khiển các bắp cơ co thắt theo ý muốn của con mồi
- Loại diếu tố (enzyme) làm gia tăng tốc độ khuếch tán của nọc trong cơ thể con mồi (Hyaluronidase activity).
Nọc rắn con và nọc rắn trưởng thành đều có độc tính và tác động như nhau.
Câu tục ngữ “Mái gầm tại chỗ, rắn hổ về nhà” hay “Rắn mai tại lỗ, rắn hổ về nhà” (Mái gầm cắn nằm chết tại chỗ, rắn hổ còn đem về nhà) cho thấy kinh nghiệm dân gian về độc tính và sự nguy hiểm của một số loài rắn.
Có tài liệu cho rằng rắn mai gầm (hoặc mái gầm) còn được gọi là rắn cạp nia hay cạp nong tên khoa học là Bungarus fasciatus. Theo tài liệu khác thì rắn cạp nia (Bungarus didus) và cạp nong hay mai gầm (Bungarus rasciatus) là hai loài khác nhau và có tên khoa học khác nhau. Còn rắn hổ, theo các tên thông thường thì có nhiều loài: hổ chúa, hổ đất, hổ hành, hổ hèo, hổ lửa, hổ mang, hổ mây, hổ ngựa, hổ trâu, v.v... thuộc nhiều Giống khác nhau: Naja, Ophiophagus, v.v... nhưng tựu trung đều thuộc Họ Rắn Hổ Elapidae.
Để đánh giá một loài rắn có nguy hiểm hay không, người ta dựa vào nhiều yếu tố:
- độc tính của nọc
- liều lượng nọc do rắn tiết ra
- kích thước của răng nọc
- “tính khí” của cá thể rắn khi cắn
- số trường hợp bị rắn cắn do cùng một loài rắn xảy ra có thường xuyên hay không
- v.v...
Huyết thanh kháng nọc rắn hay kháng độc tố (Antivenom)
Để chửa trị rắn cắn, hiệu quả nhất là dùng loại huyết thanh kháng độc tố đặc trưng cho loài rắn đã cắn nạn nhân. Do đó, nếu bắt được con rắn đã cắn thì không nên đập nát đầu rắn theo thói quen. Những vảy trên đầu rắn là những đặc tính đặc trưng của mỗi loài rắn, dựa vào đó người ta có thể xác định loài rắn và dùng loại huyết thanh kháng nọc thích hợp. Tuy nhiên, hầu hết trường hợp rất khó bắt được con rắn đã cắn, do đó người ta thường dùng loại huyết thanh kháng độc tố tổng quát.
Một lượng nhỏ nọc rắn được chích vào ngựa. Cơ thể ngựa sẽ tạo ra kháng thể làm vô hiệu hóa những độc tố trong nọc rắn. Liều lượng nọc rắn được chích vào ngựa tăng dần, theo đó lượng kháng thể do cơ thể ngựa tạo ra cũng tăng dần theo. Máu ngựa có chứa kháng thể được ly tâm để trích huyết thanh. Huyết thanh này được dùng làm thuốc kháng nọc hay kháng độc tố chữa trị rắn cắn, làm vô hiệu hóa những độc tố trong nọc rắn.
Sinh sản
Tùy theo cách sinh sản, rắn có thể được chia làm hai loại chính:
1. Loại đẻ trứng (oviparous), chiếm 70% tổng số các loài rắn.
Trứng rắn thuộc loại trứng da, mềm, không có vỏ vôi như trứng của các loài chim.
Ở nhiều loài rắn, thường sau khi đẻ trứng rắn mẹ rời bỏ trứng và không chăm sóc cho trứng. Ở những loài khác như rắn hổ, rắn bảo vệ trứng rất kỹ. Ở loài trăn, trăn nằm khoanh và quấn chặt các trứng để ấp.
Ở nhiều loài rắn, rắn mẹ có thể di chuyển đến một nơi rất xa để tìm chỗ giấu trứng. Đôi khi trứng của nhiều con rắn mẹ cùng loài được giấu chung cùng một chỗ.
2. Loại đẻ con
Còn phân biệt loại rắn đẻ con:
- loại đẻ con không hình thành trứng (viviparous)
- loại đẻ trứng nhưng giữ trứng trong bụng cho đến khi trứng nở (ovoviviparous). Vì theo cách sinh sản loại này, rắn mẹ cũng đẻ ra rắn con, không đẻ trứng, nên rất dễ lẫn lộn với những loài rắn chỉ đẻ con.
Điều thuận lợi cho những loài rắn đẻ con là rắn mẹ có thể kiểm soát được nhiệt độ cho trứng và bảo vệ trứng không bị tác động của những điều kiện khắc nghiệt của môi trường bên ngoài. Ở những loài rắn biển, rắn mẹ nhờ đẻ con nên không cần phải di chuyển xa hằng dặm để sinh sản trên cạn. Rắn con đã biết bơi ngay từ khi mới sinh. Nhiều loài rắn sống trên cây cũng không đẻ trứng, ngay từ khi lọt lòng, rắn con có thể bò khắp cùng các nhánh cây.
Số rắn con mỗi lứa tùy theo loài, thí dụ loài rắn rung chuông Crotalus mỗi lứa sinh được từ 5 đến 20 rắn con.
Đặc biệt loài rắn Ramphotyphlops braminus thuộc Họ Rắn Giun Typhlopidae, tên tiếng Anh là “Flowerpot snake”, sinh sản không cần rắn đực. Kiểu sinh sản này gọi là “sinh sản đơn tính”, “đơn tính sinh thực” hay “xử nữ sinh” (parthenogenesis). Những cá thể của loài này gồm toàn rắn cái. Rắn đẻ trứng, trứng nở cũng toàn là rắn cái.
Rắn giun Ramphotyphlops braminus
(Họ Typhlopidae)
(Photo: Internet)
http://en.wikipedia.org/wiki/File:Ramphotyphlops_braminus.jpg
Ngay sau khi sinh hoặc ngay sau khi trứng nở, rắn con đã phát triển đầy đủ và có thể sẵn sàng để săn mồi và tự bảo vệ. Những rắn con sống độc lập và rắn cha mẹ không còn canh giữ hay lo lắng cho chúng nữa.
*********
Mô tả một số Họ rắn và một vài loài rắn ở vùng Darwin, Bắc Úc
Cũng như ở nhiều nơi khác trên thế giới, vùng Darwin, Bắc Úc có nhiều loài rắn gồm những loài rắn độc cũng như những loài rắn vô hại. Khi gặp rắn trong khuôn viên nhà hay khu vực, tốt hơn là gọi nhân viên chuyên môn đến bắt đi, vì ta không biết con rắn có phải là rắn độc hay không.
Ở vùng Darwin gọi số miễn phí 1800 453 210
Họ Acrochordidae (Họ Rắn Rầm Ri)
Đây là Họ rắn chỉ gồm có một Giống duy nhất – Giống Acrochordus và chỉ gồm có 3 loài. Trong đó chỉ có 1 loài Acrochordus javanicus được phân bố từ Đông Nam Á Châu đến các quần đảo thuộc Mã Lai, Nam Dương, Phi Luật Tân cho đến Úc Châu. Ở vùng Bắc Úc có 2 loài: Acrochordus arafurae (Arafura File Snake – Tên loài rắn này được đặt theo tên vùng biển phía trên Bắc Úc “Arafura sea”) và A. granulatus (Little File Snake).
Như tên gọi tiếng Anh “File Snake”, file là cái giũa, da rắn được bao bọc bởi những vảy có gai nhỏ, khi sờ ta có cảm giác nhám như sờ lưỡi của các cây giũa dùng để giũa sắt, v.v... Kích thước vảy đồng đều trên cùng khắp thân rắn, không có những vảy bụng có kích thước lớn.
Loài Acrochordus arafurae là loài rắn nước ngọt rất phổ biến ở sông ngòi, ao hồ và những vùng đầm lầy nước đọng. Thuộc loài rắn ăn đêm, thức ăn chủ yếu của loài rắn này là cá. Rắn không có nọc độc và hoàn toàn vô hại. Người thổ dân Úc (người Việt gọi là Úc đen) thường săn bắt loài rắn này để dùng làm thức ăn. Kích thước trung bình khoảng 1,5m, tối đa là 2,5m.
Loài Acrochordus granulatus có vảy nhỏ hơn loài A. arafurae, như tên gọi “granulatus”, vảy có kết cấu như có những hạt nhám. Loài này sống ở những vùng nước mặn ven biển và cửa biển. Thức ăn gồm những loài cá và cua nhỏ. Kích thước trung bình từ 60cm đến 1,2m.
Những loài rắn thuộc Giống Acrochordus không đẻ trứng. A. arafurae có thể đẻ đến 40 rắn con mỗi lứa, còn A. granulatus được ghi nhận mỗi lứa đẻ được từ 6 đến 12 rắn con.
Acrochordus arafurae (Họ Acrochordidae)
Photo: Quan Tien - 13 August 2012
(Charles Darwin University – Specimen used for teaching)
Họ Boidae (Họ Trăn)
Trăn là những loài rắn thuộc Họ Boidea có kích thước lớn nhất trong các loài rắn thuộc Bộ Phụ Serpentes. Hầu hết các loài trăn thường có thân mình kềnh càng, di chuyển chậm chạp.
Đặc biệt ở các loài trăn còn có một cặp móng hay cựa nhỏ ở hai bên vùng gần hậu môn. Cặp móng ở trăn đực thường lớn hơn cặp móng của trăn cái. Đó là dấu tích của một phần hai chi sau và rìa của khung xương chậu.
Trăn thường kiếm ăn ban đêm. Con mồi của trăn thường là những loài chim, những loài thú hữu nhũ và những động vật có xương sống khác. Nhiều loài trăn cũng ăn những động vật thuộc Lớp Bò Sát, bao gồm cả một số loài rắn độc. Cũng như ở nhiều loài rắn khác, hàm của trăn có thể mở rất rộng để có thể nuốt trọn những con mồi có kích thước to lớn gấp nhiều lần đường kính thân mình của trăn. Các loài trăn không có răng nọc và nọc độc, trăn thường quấn và siết chặt con mồi cho đến nghẹt thở và chết.
Trăn đẻ trứng. Sau khi đẻ, trăn ấp trứng bằng cách quấn chung quanh các trứng cho đến khi trứng nở. Nhiều loài như Liasis fuscus có thể đẻ đến 22 trứng mỗi lứa.
Ở Úc Châu chỉ có khoảng 10 loài trăn, trong đó có loài Rock Python được ghi nhận có kích thước tối đa đến 8m.
Ở Bắc Úc có những loài trăn như:
- Aspidites melanocephalus (Black-Headed Python), đầu trăn đặc biệt có màu đen và A. Ramsayi.
- Liasis childreni (Children’s Python) sống trên cạn, thường quấn trên những cành cây hoặc ở trong những hốc đá, ... thuộc loài ăn đêm. L. fuscus (Water Python), “Trăn nước” sống ở những vùng có nước: đầm lầy, ao hồ, sông suối, ... thuộc loài ăn ban đêm, con mồi gồm nhiều loài động vật có xương sống.
- Morelia oenpelliensis chỉ được phân bố trong khu vực Oenpellie (còn được biết qua địa danh Gunbalanya), miền Tây vùng Arnhem Land thuộc Bắc Úc, cách Darwin khoảng 240Km về phía Đông.
- Morelia spilota (Carpet Python, Diamond Python) có kích thước trung bình 2m và có thể tăng trưởng đến 4m.
Trăn Liasis fuscus (Họ Boidae)
Photo: Quan Tien - 13 August 2012
(Charles Darwin University – Specimen used for teaching)
Họ Colubridae (Họ Rắn Nước)
Hầu như các loài rắn thuộc Họ này đều có mặt khắp nơi trên thế giới, chúng có nhiều đặc tính rất phong phú. Họ này còn được chia thành nhiều Họ Phụ. Ở Úc có nhiều loài rắn thuộc 2 Họ Phụ: Họ Phụ Colubrinae gồm những loài rắn không độc và rắn độc và Họ Phụ Homalopsinae gồm những loài rắn nước độc.
Các loài rắn độc thuộc Họ Colubridae đều có răng nọc thuộc loại răng nọc sau hàm (Rear-fanged snake).
Những loài rắn Họ Colubridae ở Bắc Úc thuộc nhiều Giống như Boiga, Cerberus, Dendrelaphis, Enhydris, Fordonia, Myron, Stegonotus, Tropidonophis.
Họ Phụ Colubrinae
Giống Dendrelaphis
Ở vùng Bắc Úc, loài rắn Dendrelaphis punctulatus thường ở trong những kẽ lá các bụi dứa dại Pandanus spiralis. Như tên gọi tiếng Anh là Golden Tree Snake, thân và đuôi loài rắn này có màu vàng đậm lợt thay đổi rất nhiều tùy theo vùng. Ở vùng Darwin rắn có màu vàng kim, đầu và cổ màu xanh xám nhạt, bụng màu trắng.
Loài rắn này không có nọc độc và vô hại đối với người.
Rắn kiếm ăn vào ban ngày trong những bụi cây, đôi khi cũng kiếm ăn trong những lớp lá khô dưới đất. Con mồi chủ yếu là các loài ếch nhái. Rắn đẻ mỗi lứa khoảng từ 5 đến 12 trứng. Kích thước rắn trưởng thành có thể dài đến 2m.
Dendrelaphis punctulatus (Họ Colubridae)
Photo: Quan Tien
(Territory Wildlife Park, Darwin, 23 August 2010)
Dendrelaphis punctulatus (Họ Colubridae)
Photo: Quan Tien
(Territory Wildlife Park, Darwin, 23 August 2010)
Họ Phụ Homalopsinae
Giống Cerberus
Những loài rắn thuộc Giống Cerberus là những loài rắn nước, thường được phân bố ở những vùng rừng nước mặn ven biển và cửa biển (mangrove). Đôi khi rắn sống thành từng nhóm. Đầu những loài rắn này tương đối to và rộng. Hai mắt hình hạt chuỗi hướng lên phía trên thay vì hai mắt nằm hai bên như ở những động vật khác. Hai lỗ mũi cũng nằm phía mặt trên của mõm, mũi có các van đóng mở, khi rắn lặn xuống nước, các van đóng lại để nước không tràn vào khoang mũi. Mặc dù có nọc độc nhưng vì răng nọc nằm ở sau hàm (Rear-fanged snake), nên loài rắn này được coi như vô hại đối với người. Con mồi chủ yếu là cá thòi lòi (Periophthalmodon spp.), nhiều loài cá nhỏ và tôm cua. Những loài rắn thuộc Giống Cerberus không đẻ trứng. Rắn đẻ mỗi lứa khoảng từ 8 đến 26 rắn con. Kính thước rắn trưởng thành có thể dài đến 1,2m.
Cerberus australis (Họ Colubridae)
Photo: Quan Tien
(Rapid Creek, Darwin, 16 September 2008
Cerberus australis (Họ Colubridae)
Photo: Quan Tien
(Rapid Creek, Darwin, 16 September 2008)
Họ Elapidae (Họ Rắn Hổ)
Họ Elapidae là một Họ gồm hầu hết những loài rắn độc nguy hiểm nhất trên thế giới. Nọc độc các loài rắn Họ này thuộc loại neurotoxin, tác dụng gây tê liệt hệ thần kinh của con mồi.
Răng nọc ở hàm trên nằm phía trước, thuộc loại răng nọc trước hàm (Front-fanged snake). Răng nọc rỗng, tương đối ngắn hơn răng nọc của những loài thuộc Họ Colubridae.
Ở Úc Châu, Họ Elapidae là Họ rắn được phổ biến nhất, có khoảng 65 loài, gồm nhiều loài đẻ trứng cũng như nhiều loài đẻ con, trong đó có những loài giữ trứng trong bụng đến khi trứng nở (ovoviviparous).
Những loài ở Bắc Úc: Acanthophis praelongus, Demansia atra, D. olivacea, D. papuensis, Furina ornata, Oxyuranus scutellatus, Pseudechis australis, Pseudonaja nuchalis, Rhinoplocephalus pallidiceps, Simoselaps semifasciatus, Suta punctata, Vermicella annulata, V. Multifasciata.
Nhiều loài được coi là nguy hiểm đối với người.
Giống Acanthophis
Như tên gọi tiếng Anh “Death Adders”, những loài thuộc Giống này đều là những loài rắn độc, được coi như là những loài rắn độc nhất ở Úc và trên thế giới. Răng nọc tương đối to lớn, thuộc loại răng nọc trước hàm (Front-fanged snake).
Những loài rắn thuộc Giống này kiếm ăn từ lúc chạng vạng tối cho đến hừng sáng. Điểm đặc biệt được ghi nhận ở Giống rắn này là khả năng nhử mồi. Tuy kiếm ăn vào ban đêm nhưng ban ngày chúng lẩn trốn trong đất cát, dưới các lớp lá khô hoặc dưới gốc những bụi cây cỏ. Khi có một động vật như chuột hay thằn lằn gần nơi ẩn núp, rắn nhút nhích chót đuôi để dụ con mồi đến mà chụp lấy, vì chót đuôi động đậy của rắn làm con mồi tưởng là một động vật có thể ăn được. Khác với những loài rắn thuộc Họ Elapidae khác, những loài rắn thuộc Giống này được ngụy trang lẫn với nơi ẩn núp nhờ màu sắc của chúng.
Loài rắn Acanthophis praelongus có thân mình to, dày và tương đối ngắn, đầu rộng có hình tam giác, cổ nhỏ hơn thân mình, phần đuôi nhỏ lại dạng như đuôi chuột, cuối đuôi có một gai mềm. Kích thước tối đa của rắn trưởng thành là 80cm. Loài rắn này không đẻ trứng, mỗi lứa khoảng 20 rắn con.
Acanthophis praelongus (Họ Elapidae)
Photo: Quan Tien - 13 August 2012
(Charles Darwin University – Specimen used for teaching)
Giống Vermicella
Đặc điểm của Giống rắn này là có những vạch ngang màu trắng và đen xen kẽ nhau. Đuôi thường ngắn. Giống rắn này được phân bố trên toàn lục địa Úc Châu. Ở Bắc Úc có những loài Vermicella annulata (Bandy-Bandy) và V. multifasciata (Northern Bandy-Bandy).
Loài Vermicella annulata sống ở nhiều môi trường khác nhau từ những cánh rừng ven biển, đến những đồng cỏ và sa mạc.
Rắn thuộc loài ăn ban đêm, con mồi chính là những loài “rắn mù” (Blind snakes) thuộc Họ Typhlopidae.
Rắn thuộc loài đẻ trứng. Kích thước từ 60cm đến tối đa 1m.
Vermicella annulata (Họ Elapidae)
Photo: Quan Tien - 13 August 2012
(Charles Darwin University – Specimen used for teaching)
Họ Hydrophiidae (Họ Rắn Biển)
Có khoảng 70 loài rắn biển, còn gọi là “con đẻn”, trong đó hơn 50 loài thuộc Họ Hydrophiidae.
Những đặc điểm của rắn biển là đầu nhỏ, có thân thuôn dài, thích nghi với đời sống ở biển, đuôi dẹt theo chiều đứng có hình mái chèo, dùng để di chuyển trong môi trường nước. Các loài rắn biển không có vảy bụng như các loài rắn sống trên cạn. Lỗ mũi của các loài rắn biển có van đóng mở, các van đóng lại khi rắn lặn xuống nước để nước không tràn vào khoang mũi. Vì rắn biển không phải là loài cá, không có mang, phải thường xuyên trồi lên mặt nước để thở, nên các loài rắn biển được phân bố ở những vùng biển cạn.
Hầu hết vảy của các loài rắn biển có kích thước tương đối đồng đều, nhất là không có vảy bụng to lớn như ở các loài rắn sống trên cạn, do đó khi lên cạn chúng hầu như bất động. Tuy nhiên loài Astrotia stokesii có những vảy bụng to lớn hơn những vảy trên khắp thân mình.
Kích thước của các loài rắn biển thường từ 50cm đến 2m, tùy theo loài, trung bình khoảng 1m.
Các loài rắn biển có lá phổi to và có thể dài đến tận đuôi. Ngoài chức năng hô hấp, phổi còn là một phao nổi và là một khoang chứa không khí giúp các loài rắn biển lặn sâu dưới nước được lâu hơn. Nhiều loài rắn biển có thể lặn sâu đến 300m.
Rắn biển Hydrophis elegans
(Họ Hydrophiidae)
Photo: Quan Tien - 13 August 2012
(Charles Darwin University – Specimen used for teaching)
Đuôi dẹt theo chiều đứng có hình mái chèo
Hydrophis elegans
Photo: Quan Tien - 13 August 2012
(Charles Darwin University – Specimen used for teaching)
Rắn biển có một số đặc tính tương tự như các loài rắn trên cạn Họ Elapidae, có nọc độc, răng nọc nằm phía trước hàm (Front-fanged snake). Hầu hết các loài rắn biển đều là rắn độc, nguy hiểm. Tuy nhiên các loài rắn biển chỉ thường sinh sống ngoài khơi nên ít có trường hợp gây nguy hiểm cho người. Loài Aipysurus laevis được nhiều thợ lặn ghi nhận là có tính rất hung hăng.
Trừ loài Emydocephalus annulatus là một loài rắn biển không nguy hiểm, không có nọc độc, răng nọc, tuyến nọc và các bộ phận tiết nọc bị teo nhỏ lại và không hoạt động.
Nọc của rắn biển được xem là một trong những loại nọc độc nhất trong các loại nọc của các sinh vật thuộc Giới Động Vật.
Rắn biển thuộc Họ này kiếm ăn cả ban ngày lẫn ban đêm. Thức ăn chính của rắn biển là cá và lươn biển. Loài Emydocephalus annulatus chỉ thích ăn trứng cá, chủ yếu là trứng các loài cá thuộc Họ Cá Bống Trắng Gobiidae và Họ Blenniidae.
Tất cả các loài rắn biển đều đẻ con. Rắn con mới sinh khá lớn, kích thước có thể gần 1/2 kích thước của rắn mẹ. Tùy theo loài, rắn có thể đẻ mỗi lứa từ 2 đến 5 rắn con. Loài Acalyptophis peronii có thể đẻ đến 10 rắn con mỗi lứa.
Một số loài rắn biển ở Bắc Úc:
Acalyptophis peronii, Aipysurus duboisii, A. eydouxii, A. laevis, Astrotia stokesii, Disteira kingii, D. major, Emydocephalus annulatus, Enhydrina schistosa, Hydrelaps darwiniensis, Hydrophis atriceps, H. elegans, H. macdowelli, H. ornatus, Lapemis hardwickii, Parahydrophis mertoni, Pelamis platurus.
Loài Pelamis platurus (Yellow-bellied Sea Snake) có màu sắc đặc biệt: nửa thân trên và nửa thân dưới có màu khác nhau: lưng có màu đen hoặc nâu, bụng màu vàng kem hay màu nâu nhạt, như tên gọi tiếng Anh.
Rắn biển Pelamis platurus
(Họ Hydrophiidae)
(Photo: Internet)
Họ Laticaudidae
Một số hệ thống phân loại trước kia xếp các loài rắn thuộc Họ này chung với Họ Rắn Biển Hydrophiidae (hoặc có khi Họ Elapidae) vì chúng có chung nhiều đặc tính của những Họ này. Nay, các loài rắn này được xếp vào một Họ riêng vì có nhiều đặc tính khác với những loài thuộc Họ Hydrophiidae:
- Các loài rắn thuộc Họ này có thể vừa sống dưới biển, vừa sống trên cạn, thường được tìm thấy trong những hốc đá dọc bờ biển hay những vùng rừng nước mặn ven biển
- Vảy bụng to như vảy bụng của các loài rắn sống trên cạn
- Rắn thuộc Họ này đẻ trứng trên cạn
- Hầu hết kiếm ăn ban đêm
- Lỗ mũi nằm ngang hai bên, khác với lỗ mũi hướng lên phía trên như ở các loài thuộc Họ Hydrophiidae
Thân rắn có những vạch ngang màu đen xen kẽ với những vạch màu sáng vòng quanh thân rắn, kể cả một phần bụng, như tên gọi tiếng Anh là “Black-banded sea krait” (nhiều tên khác như “Blue-ringed sea krait”, “Blue-lipped sea krait”, “Large-scaled sea krait”, ...).
Tuy có nọc khá độc và rất nguy hiểm, nhưng những loài rắn này thường sống ẩn trong các hốc đá và ít khi tấn công loài người.
Những loài thuộc Họ này được phân bố ở những vùng biển thuộc Ấn Độ, Mã Lai, Nam Dương, ...
Những vùng biển ở Úc Châu có 2 loài:
- Laticauda colubrina: kích thước trung bình từ 1m đến 1,4m
- L. laticaudata, tiếng Việt gọi là đẻn bùn hay đẻn sình: kích thước trung bình từ 80cm đến 1m.
Laticauda laticaudata (Họ Laticaudidae)
(Photo: Internet)
Họ Typhlopidae (Họ Rắn Giun)
Tiếng Anh gọi là “Rắn mù” (Blind snakes).
(Ở Việt Nam hình như các loài rắn thuộc Họ này được gọi là “rắn trun” hay “rắn liu điu”, nhưng người viết chưa quả quyết vì chưa tìm được tài liệu xác nhận điều này. Gọi các loài sinh vật bằng tên thông thường không chính xác lắm, mỗi địa phương có thể gọi một loài sinh vật bằng nhiều tên thông thường khác nhau ; ngược lại, một tên thông thường có thể chỉ nhiều loài sinh vật khác nhau tùy theo địa phương.)
Giống Ramphotyphlops
- Thân mình tương tự như những con giun, đường kính thân mình đồng đều suốt từ đầu đến đuôi. Đuôi rất ngắn và có vảy gai hình chóp mũ ở chót đuôi. Kích thước tối đa khoảng 20cm.
- Vảy láng và sáng bóng, kích thước vảy đồng đều trên khắp thân rắn, không có những vảy to ở bụng như những loài rắn thuộc những Họ khác.
- Mắt những loài rắn này bị thu lại rất nhỏ, có loài chỉ còn hai chấm nhỏ nằm dưới những vảy ở đầu.
- Những loài rắn này không độc và vô hại.
- Con mồi chính thường là kiến và mối, nên thường được phân bố ở những vùng có gò mối.
- Thường có thể thấy những loài rắn này khi chúng bò lên mặt đất vào ban đêm, chủ yếu vào những lúc sau khi mưa hoặc những khi thời tiết nóng ẩm.
- Nhiều loài sinh sản đơn tính (parthenogenesis) như loài Ramphotyphlops braminus đã được mô tả ở phần “Sinh sản” trên.
Ở Bắc Úc có những loài: Ramphotyphlops affinis, R. braminus, R. broomi, R. diversus, R. guentheri, R. ligatus, R. tovelli, R. unguirostris, R. wiedii.
Rắn giun Rhamphotyphlops (Họ Typhlopidae)
Photo: Quan Tien - 13 August 2012
(Charles Darwin University – Specimen used for teaching)
Một số tài liệu tham khảo chính
Cogger, Harold G. (2000). Reptiles and Amphibians of Australia (6th Edition).
Reed New Holland – New Holland Publishers (Australia) Pty. Ltd.
http://en.wikipedia.org/wiki/Snake
http://vi.wikipedia.org/wiki/Rắn
http://vi.wikipedia.org/wiki/Serpentes
http://vi.wikipedia.org/wiki/List_of_Serpentes_families
http://en.wikipedia.org/wiki/Snake_venom
http://www.whatsnakeisthat.com.au/index.php?option=com_content&view=article&id=1529&Itemid=275
http://www.whatsankeisthat.com.au/venom.html
http://www.whatsankeisthat.com.au/antivenom.html
http://www.pilbarapythons.com/shedding.htm
http://www.ehow.com/how-does_4569450_snakes-lay-eggs.html
Bài viết này chỉ là một bài biên khảo về các loài rắn và một số đặc tính Động Vật Học cũng như Sinh Học của rắn. Nội dung bài viết chỉ để tham khảo. Độc giả cần thận trọng tham khảo thêm nhiều tài liệu khác, nhất là những thông tin về những loài rắn độc hay rắn không có nọc độc, được coi là vô hại đối với người. Người viết không chuyên môn về Herpetology, môn học về rắn và các loài bò sát, nên không chịu trách nhiệm về những trường hợp nguy hiểm, thí dụ khi độc giả gặp phải một loài rắn có thể là một loài rắn độc nhưng lầm tưởng là một loài vô hại vì đã đọc qua bài viết này. Độc giả cần tham khảo thêm nhiều tài liệu chuyên ngành cũng như tiếp xúc với những nhà chuyên môn về rắn để xác định một loài rắn có nguy hiểm hay không khi gặp phải rắn.