“MÙI VỊ” CỦA VĂN NGÔN
Tôi còn nhớ hồi mười sáu, mười bảy tuổi, một buổi trưa hè bác tôi dắt tôi đi thăm ngôi mộ một ông nghè giữa cánh đồng Phú Xuyên (Sơn Tây).
Mộ nằm dưới một gốc đa cổ thụ, giữa một cái gò rộng khoảng dăm sào, nhìn ra một cánh đồng chiêm mùa đó loang loáng nước, xa xa bên mặt là núi Hùng và bên trái là núi Tản. Ngôi miếu ở trước mộ đã thấp lại hẹp, tường và mái đen những rêu, đôi câu đối chữ còn chữ mất. Hỏi thì bác tôi đáp rằng chỉ biết cụ nghè họ Nguyễn, sống vào cuối đời Lê, ở nơi khác lại miền này dạy học, họ hàng không có ai, khi mất dân làng nhớ ơn mà lập miếu.
Tôi bùi ngùi. Hiển đạt như ông nghè hồi xưa là tột bực, thế thì vì lẽ gì phải bỏ quê quán, lại nơi thô lậu này để gõ đầu dăm ba đứa trẻ rồi gởi luôn tàn cốt ở gò này?
Khi đứng dậy ra về, bác tôi ngâm một câu mà đến nay tôi còn nhớ:
Phú quý mạc cầu, nhất phiến băng tâm cư loạn
Tôi xin được nghe tiếp, người đáp:
- Ngẫu hứng mà nên, không có ý đối.
Khoảng mươi năm sau, khi lõm bõm đọc bộ “Cổ văn Quan Chỉ”, tôi thường thấy thấp thoáng hiện trên trang giấy hình ảnh ngôi mộ cụ nghè giữa cánh đồng bát ngát đó; dường như văng vẳng có cả tiếng sáo diều và thoang thoảng có cả hương lúa cấy nữa.
Và tôi có cảm tưởng rằng nắm xương dưới mồ kia với những danh thơm trong sách này tất cùng chung một tâm sự, một hoài bão. Đều là những bậc thông minh, tài đức siêu quần, mà đều bất đắc chí và đều coi phú quí như phù vân, trọng khí tiết hơn sinh mạng; chỉ khác, người thì giãi bày tâm sự trên giấy, kẻ thì không; nhưng đã là chung một tâm sự thì người giãi bày chẳng phải chỉ giãi bày riêng cho mình mà kẻ không giãi bày cũng như đã giãi bày rồi vậy. Cho nên tập cổ văn này chẳng phải chỉ là tiếng “kêu” của riêng dăm ba chục nhà mà còn là tiếng “kêu” của cả một thời cổ dài mấy nghìn năm nữa, của cả thời đại chúng ta và những thời đại sẽ tới nữa. Nếu không phải vậy thì tại sao sinh sau cổ nhân mà đọc văn cổ nhân ta cũng thấy muốn gào lên với cổ nhân, nhỏ lụy với cổ nhân?
Tuy nhiên tâm sự tuy chung mà tâm hồn thì xưa và nay dường như có hơi khác. Thời nay chắc vẫn còn những vị như Khuất Nguyên, Giả Nghị, như Đào Tiềm, Phương Hiếu Nhụ..., lẽ nào lại không? Vậy mà mỗi khi muốn có cái cảm giác nhẹ nhàng như người mới tắm dưới suối lên rồi đứng hóng gió trên ngọn đồi thì chúng tôi cứ phải lật bộ Cổ văn ra chứ không tìm được trong một tác phẩm hiện đại nào cả. Thật là công hiệu, chỉ đọc mươi hàng chúng tôi đã được thở cái không khí của cổ nhân. Đó là cái lợi lớn nhất của Cổ văn đối với chúng tôi.
Còn như cái lợi về luyện văn: nghị luận thì chặt chẽ mà đột ngột, tự sự thì giản lược mà linh hoạt, miêu tả thì tài hoa mà gợi hình, lời văn thì hàm súc và cảm động vì luôn luôn thành thực; cái lợi đó chúng tôi khỏi phải bàn tới, mà chắc Cổ nhân cũng chẳng muốn cho chúng ta bàn tới.
Sài-gòn, ngày 15-5-1965
NGUYỄN HIẾN LÊ
Bài tựa sách Cổ Văn Trung Quốc, NXB Tao Đào, 1966.
...............
Ghi chú: Văn Ngôn hay Văn Ngôn Văn còn gọi là Cổ Văn hoặc Hán Cổ.