Luận Ngữ 02
Vi nhân do kỉ, nhi do nhân hồ tai? [Luận Ngữ, Nhan Uyên]
為仁由己, 而由人乎哉?《論語·顏淵》
- Lời dịch (sưu tầm):
1. Làm điều nhân là do mình, chứ đâu có do người.
2. Làm việc thiện hoàn toàn là do mình, chứ đâu có do người khác.
3. Thực hành lòng nhân ái là do mình, lẽ nào do người hay sao?
4. Thực hiện đức nhân là do mình thôi, lẽ nào phải nhờ người khác sao?
5. Làm điều nhân là do ở mình, chứ có phải do ở người đâu?
- Lời dịch (tham khảo): Đức Khổng Tử nói rằng: “Người quân tử không vì (vài) lời nói* (khéo léo, khiến mình vừa ý,…) mà (vội vàng tín nhiệm,) đề cử người (khi chưa biết rõ họ: có tốt hay không, có năng lực hay không,…); không vì người (mình không thích, hoặc đã từng phạm lỗi lầm, hoặc có khuyết điểm,…) mà chê bỏ hết tất cả những lời nói (phải) của họ”.
- Nguyên văn: 子曰:「君子不以言舉人,不以人廢言。」(論語·衛靈公)
- Phiên âm: Tử viết: “Quân tử bất dĩ ngôn cử nhân, bất dĩ nhân phế ngôn.” (Luận Ngữ, Vệ Linh Công)
- Lời dịch (tham khảo): Đức Khổng Tử nói rằng: “Nếu không nắm giữ chức vụ đó, không đảm nhiệm nhiệm vụ liên quan đến chức vụ đó, không hiểu rõ về công việc ở vị trí đó,… thì không nên đàm luận việc chính sự của chức vị đó”.
子曰:「不在其位,不謀其政。」《論語·泰伯》
Tử viết: “Bất tại kỳ vị, bất mưu kỳ chính.” [Luận Ngữ, Thái Bá]
- Lời bàn (tham khảo):
1. Người ở cương vị nào thì để tâm lo toan làm tròn trách nhiệm ở cương vị ấy. Nếu như: dân bàn việc quan, quan bàn việc vua, cấp dưới tính việc của cấp trên,… trong khi không thật sự hiểu rõ công việc cùng những cuộc mưu tính, thì sẽ dễ xảy ra sai lầm hoặc nảy sinh tâm thái nghi ngờ, oán trách,… Sự mất đoàn kết, tâm chí phấn đấu… cũng từ đấy mà sinh ra.
2. Để tránh những kẻ có mưu đồ bất chính, hoặc người có tầm nhìn hạn hẹp,… dẫn dắt kích động làm hại nước, hoặc làm cản trở những công cuộc lợi ích dài lâu,…
3. Biết ta trong tình cảnh đó (tiếp xúc nhiều người, nhiều việc,…), ta có làm (được) tốt hơn không?
4. (Ngoại lệ) Nếu ta tuy không có nhiệm vụ liên quan, nhưng những cuộc mưu tính của ta có thể giúp đỡ đất nước, giúp đỡ nhân dân, thì hãy dùng cách thức hợp lý mà đàm luận, góp sức,...
5. …
- Lời dịch (tham khảo): Trên không còn giảng dạy,… đạo lý, mọi người [do không biết đạo lý,… nên] phóng túng buông thả đã lâu, như hiểu được tình cảnh đó thì [khi xét xử tội trạng] nên thương xót họ, chớ lấy [việc trừng phạt được người có tội] làm vui.
- Nguyên văn: 上失其道,民散久矣!如得其情,則哀矜而勿喜。《論語·子張》
- Phiên âm: Thượng thất kỳ đạo, dân tán cửu hỹ. Như đắc kỳ tình, tắc ai căng nhi vật hỷ. (Luận ngữ, Tử Trương)
- Lời dịch (tham khảo):
Đức Khổng Tử nói rằng: “Cung kính quá lễ, thành ra lao nhọc; cẩn thận quá lễ, thành ra nhát gan; dũng cảm quá lễ, thành ra loạn nghịch; ngay thẳng quá lễ, thành ra gắt gỏng;…”.
- Nguyên văn:
子曰:「恭而無禮則勞,慎而無禮則葸,勇而無禮則亂,直而無禮則絞。」《論語·泰伯》
-Phiên âm:
Tử viết: “Cung nhi vô lễ tắc lao; thận nhi vô lễ tắc tỷ; dũng nhi vô lễ tắc loạn; trực nhi vô lễ tắc giảo”. (Luận Ngữ, Thái Bá)
- Lời bàn:
Dù là những điều được cho là ‘tốt’, hoặc vốn dĩ ban đầu là ‘đúng’,… nhưng nếu mình làm thái quá, không phù hợp,… thì có thể điều đó sẽ trở nên không còn tốt nữa rồi!
- Lời dịch (tham khảo):
01. Thầy Tử Hạ nói rằng: “Người nào biết đổi bụng háo sắc ra thành bụng trọng người hiền; hết lòng hiếu thảo với cha mẹ, tận tâm với đất nước; giao thiệp với bạn bè thì giữ bề trung tín,… Người như vậy, dẫu ai nói họ không có học, chớ ta xem họ là người có học rồi”.
02. Thầy Tử Hạ nói rằng: “Người nào biết đổi bụng háo sắc ra thành bụng trọng người hiền; hết lòng hiếu thảo với cha mẹ, tận tâm với đất nước; giao thiệp với bạn bè thì giữ bề trung tín,… Người như vậy, dẫu họ nói bản thân không có học, nhưng tôi đã xem họ là người có học rồi”.
03. …
- Nguyên văn:
子夏曰:「賢賢易色,事父母能竭其力,事君能致其身,與朋友交言而有信。雖曰未學,吾必謂之學矣。」《論語·學而》
- Phiên âm:
Tử Hạ viết: “Hiền hiền dị* sắc, sự phụ mẫu năng kiệt kỳ lực, sự quân năng chí kỳ thân, dữ bằng hữu giao ngôn nhi hữu tín. Tuy viết vị học, ngô tất vị chi học hỹ”. (Luận Ngữ, Học Nhi)
- Dịch nghĩa (tham khảo):
Đức Khổng Tử lâm bệnh nặng. Tử Lộ xin được làm lễ cúng vái cầu phúc cho người.
Đức Khổng Tử hỏi: “Có việc đó sao?”
Tử Lộ trả lời: “Thưa có. Trong sách Lụy có viết[1]”.
Đức Khổng Tử nói: “Ta đã cúng vái cầu phúc từ lâu rồi!”
- Nguyên văn:
子疾病,子路請禱。子曰:「有諸?」子路對曰:「有之。誄曰:『禱爾于上下神祇。』」子曰:「丘之禱久矣。」《論語·述而》
- Phiên âm:
Tử tật bệnh, Tử Lộ thỉnh đảo. Tử viết: “Hữu chư?” Tử Lộ đối viết: “Hữu chi. Lụy viết: ‘Đảo nhĩ ư thượng hạ thần kỳ’[1]”. Tử viết: “Khâu chi đảo cửu hỹ”. (Luận Ngữ, Thuật Nhi)
- Lời bàn:
Thế thường, người ta thường hay mải mê chạy theo dục vọng, làm điều xấu, đến khi lâm vào cảnh ngặt nghèo, đau bệnh, sắp chết thì cầu khẩn thần minh để mong được gia hộ. Còn Đức Khổng Tử, người thường ngày dốc lòng giữ mình ăn ở hợp nghĩa, sửa đổi điều lỗi, chuyên tâm làm việc thiện lành. Theo lẽ nhân quả cảm ứng, thì việc ăn ở phải đạo chính là đã tránh nhân xấu, trồng nhân tốt, tự cầu phúc báo rồi, cho nên, Đức Khổng Tử mới nói rằng người đã cầu phúc từ lâu rồi.
- Ghi chú:
[1] Ở đây, Thầy Tử Lộ nêu ra một câu liên quan đến việc cầu khẩn thần minh trong sách Lụy mà thầy đã nói. Chúng tôi không dịch ra, cốt để người đọc tập trung vào ý chính mà kinh văn muốn truyền đạt hơn. Câu này vẫn được trích dẫn đầy đủ trong nguyên văn.
- Lời dịch (tham khảo):
01. Ông Tể Ngã hỏi Đức Khổng Tử: “Như có người đến báo với người nhân đức rằng: ‘Có kẻ té xuống giếng’, thì người nhân đức có nhảy xuống giếng không?”. Đức Khổng Tử đáp: “Sao lại vậy? Người quân tử nên đến đó tìm cách cứu, chớ chẳng nên tự hãm mình vào chỗ ngặt nghèo mà hại thân mạng mình. Người quân tử có thể bị gạt, nhưng chẳng nên để bị gạt bởi những điều vô lý, ngu xuẩn”.
02. Ông Tể Ngã hỏi Đức Khổng Tử: “Như có người đến báo với người nhân đức rằng: ‘Có kẻ té xuống giếng’, thì người nhân đức có nhảy xuống giếng không?”. Đức Khổng Tử đáp: “Sao lại vậy? Người quân tử sẽ đến đó tìm cách cứu, chớ chẳng tự hãm mình vào chỗ ngặt nghèo mà hại thân mạng mình. Người quân tử có thể bị gạt, nhưng chẳng thể bị gạt bởi những điều vô lý, ngu xuẩn”.
03. …
- Nguyên văn:
宰我問曰:「仁者,雖告之曰:『井有人*焉。』其從之也?」子曰:「何為其然也?君子可逝也,不可陷也;可欺也,不可罔也。」《論語·雍也》
- Phiên âm:
Tể Ngã vấn viết: “Nhân giả, tuy cáo chi viết: ‘tỉnh hữu nhân yên.’ kì tùng chi dã?”. Tử viết: “Hà vi kỳ nhiên dã? Quân tử khả thệ dã, bất khả hãm dã; khả khi dã, bất khả võng dã”. (Luận Ngữ, Ung Giã)
- Lời dịch (tham khảo):
Đức Khổng Tử nói rằng: “Làm con phải biết tuổi của cha mẹ mình. Nhớ biết như vậy, trước là để vui mừng vì biết rằng cha mẹ được sống lâu, sau là để khởi tâm cảnh giác lo sợ vì cha mẹ ngày càng già yếu”.
- Nguyên văn:
子曰:「父母之年,不可不知也。一則以喜,一則以懼。」《論語·里仁》
- Phiên âm:
Tử viết: “Phụ mẫu chi niên, bất khả bất tri dã. Nhất tắc dĩ hỷ, nhất tắc dĩ cụ.” (Luận Ngữ, Lý Nhân)
- Lời dịch (tham khảo):
Tử Hạ hỏi về đạo hiếu. Đức Khổng Tử đáp: “Giữ niềm hòa vui đối đãi Cha Mẹ mới khó. [Làm được thì đáng gọi là hiếu.] Chớ khi có việc, trò cũng chịu làm giúp Cha Mẹ [nhưng tỏ sắc giận, không hài lòng,…]; hay khi có đồ ngon, trò cũng mời đãi Cha Mẹ ăn uống [nhưng tỏ sắc giận, không vui,…]; như vậy mà đã xem là hiếu sao?
(Tử Hạ hay phụ giúp và đãi đằng Cha Mẹ, nhưng hay tỏ sắc giận*, cho nên khi giảng đạo hiếu cho ông, Đức Khổng Tử khuyên: nên giữ niềm hòa vui khi đối đãi Cha Mẹ).
- Nguyên văn:
子夏問孝。子曰:「色難。有事弟子服其勞,有酒食先生饌,曾是以為孝乎?」《論語·為政》
- Phiên âm:
Tử Hạ vấn hiếu. Tử viết: “Sắc nan. Hữu sự, đệ tử phục kỳ lao; hữu tửu thực, tiên sinh soạn, tằng thị dĩ vi hiếu hồ?” (Luận Ngữ, Vi Chính)
- Ghi chú: *Theo chú thích trong sách Tứ Thư, dịch giả Đoàn Trung Còn, NXB Thuận Hóa, 2020.
- Lời dịch (tham khảo):
Tử Du hỏi về đạo hiếu. Đức Khổng Tử đáp: “Ngày nay người ta cho hiếu là có thể nuôi Cha Mẹ. Nhưng đến chó, ngựa,… kia, người ta cũng nuôi, dưỡng được vậy. Nếu nuôi Cha Mẹ mà chẳng kính trọng thì có khác gì?”.
(Ông Tử Du là người biết nuôi Cha Mẹ mà chẳng biết kính*, cho nên khi giảng đạo Hiếu cho ông, đức Khổng Tử nói rằng: Người đời nay, xem việc hiếu thảo đơn giản chỉ là có thể nuôi được Cha Mẹ mà thôi, hễ thấy ai nuôi được Cha Mẹ thì họ cho đó là người có hiếu. Nhưng các con vật như: chó, ngựa,… người ta cũng nuôi được vậy. Nếu nuôi Cha Mẹ mà không kính trọng, thì so với việc nuôi những con vật ấy có khác biệt gì? Đức Khổng Tử nói lời này có ý khuyên: người làm con đối với Cha Mẹ phải có lòng kính trọng!)
- Nguyên văn:
子游問孝。子曰:「今之孝者,是謂能養。至於犬馬,皆能有養;不敬,何以別乎?」《論語·為政》
- Phiên âm:
Tử Du vấn hiếu. Tử viết: “Kim chi hiếu giả, thị vị năng dưỡng. Chí ư khuyển mã, giai năng hữu dưỡng; bất kính, hà dĩ biệt hồ?” (Luận Ngữ, Vi Chính)
- Ghi chú: *Theo chú thích trong sách Tứ Thư, dịch giả Đoàn Trung Còn, NXB Thuận Hóa, 2020.
- Lời dịch (tham khảo):
Mạnh Võ Bá hỏi về đạo hiếu, Đức Khổng Tử dạy: “Cha Mẹ chỉ lo con vướng phải tật ấy”. (Mạnh Võ Bá, con đại phu Mạnh Ý Tử, giàu có quyền thế. Mạnh Võ Bá chơi bời lêu lổng, hoang dâm vô độ,… không thận trọng lấy thân. Mà trong đó hại nhất là vướng phải sắc dục*. Bởi thế, khi ông hỏi Đức Khổng Tử, Đức Khổng Tử nhắc nhở: Cha Mẹ chỉ lo con vướng phải tật ấy. Chữ 其疾 chúng tôi dịch là ‘Tật ấy’ chính là nói về: sa đọa sắc dục, tà dâm, hoang dâm. Vậy nên, người làm con phải răn ngừa, cảnh giác việc này để tránh mắc phải tai hại, làm buồn Cha Mẹ.)
- Nguyên văn:
孟武伯問孝。子曰:「父母唯其疾之憂。」《論語·為政》
- Phiên âm:
Mạnh Võ Bá vấn hiếu. Tử viết: “Phụ mẫu duy kỳ tật chi ưu”. (Luận Ngữ, Vi Chính)
- Lời bàn & Phụ đính: *Vì sao nói hại nhất là vướng phải sắc dục?
01. Cái hại của nó thế này: 1. Đối với bản thân: hại cho sức khỏe, thanh danh,… 2. Đối với gia đình: Vợ chồng con cái không hòa thuận, hạnh phúc,… 3. Hại cho tương lai: không đủ tinh lực, sự tập trung,… để phát triển sự nghiệp hoặc kế tục gia nghiệp;… Vì thế, nếu con vướng phải việc này ắt song thân sẽ rất lo vậy.
02. Kinh Phật Thuyết Tứ Thập Nhị Chương 佛說四十二章經viết: “Đức Phật dạy: Trong các thứ ái dục, không gì đáng ngại bằng sắc dục. Lòng ham thích sắc dục to lớn không gì sánh bằng. May thay, chỉ có một mình nó mà thôi. Nếu có hai thứ như thế, thì khắp thiên hạ không ai có thể tu Đạo được cả!”.
…
- Lời dịch (tham khảo):
Đức Khổng Tử nói rằng: “Người quân tử chẳng phải như món đồ vật”.
- Nguyên văn:
子曰:「君子不器。」《論語·為政》
- Phiên âm:
Tử viết: “Quân tử bất khí”. (Luận Ngữ, Vi Chính)
- Lời bàn (tham khảo):
01. Người quân tử chẳng phải như món đồ vật vô tri vô giác, không biết phân biệt suy xét đúng sai, phải trái…
02. Người quân tử chẳng phải như món đồ vật. Người biết ứng phó linh hoạt,…
03. Người quân tử chẳng phải như món đồ vật vô tình. …
04. Người quân tử chẳng phải như món đồ vật. Người biết sửa sai, tránh sai, đem lại kết quả tốt cho mình và người,…
05. …
- Lời dịch (tham khảo):
Đức Khổng Tử nói rằng: “Chớ lo mình không có chức vị, chỉ lo mình chẳng đủ tài đức để lãnh lấy chức vị mà thôi. Chớ lo người ta chẳng biết mình, chỉ cầu cho mình có đủ tài đức để đáng cho người ta biết đến vậy thôi”.
- Nguyên văn:
子曰:「不患無位,患所以立;不患莫己知,求為可知也。」《論語·里仁》
- Phiên âm:
Tử viết: “Bất hoạn vô vị, hoạn sở dĩ lập. Bất hoạn mạc kỉ tri, cầu vi khả tri dã”. (Luận Ngữ, Lý Nhân)
- Lời dịch (tham khảo):
Đức Khổng Tử nói rằng: “Khi một người/việc nào bị chúng ghét, mình nên xét coi người/việc ấy có thật đáng ghét chăng. Khi một người/việc nào được chúng ưa, mình cũng nên xét coi người/việc ấy có thật đáng ưa chăng”.
- Nguyên văn:
子曰:「眾惡之,必察焉;眾好之,必察焉。」《論語·衛靈公》
- Phiên âm:
Tử viết: “Chúng ố chi, tất sát yên; chúng háo chi, tất sát yên”. (Luận Ngữ, Vệ Linh Công)
- Lời dịch (tham khảo):
Đức Khổng Tử nói rằng: “Cổ ngữ có câu: ‘Nếu bậc thiện nhân nối nhau trị nước được trăm năm, thì đủ khiến những kẻ tàn bạo hóa ra hiền lương, và [luật pháp] cũng chẳng cần dùng đến hình phạt tử hình nữa’. Lời ấy đúng lắm thay!”.
- Nguyên văn:
子曰:「『善人為邦百年,亦可以勝殘去殺矣。』誠哉是言也!」《論語·子路》
- Phiên âm:
Tử viết: “‘Thiện nhân vi bang bách niên, diệc khả dĩ thắng tàn khứ sát hĩ’. Thành tai thị ngôn dã”. (Luận Ngữ, Tử Lộ)
- Lời dịch (tham khảo):
Đức Khổng Tử nói rằng: “Làm con thờ cha mẹ, như thấy cha mẹ lầm lỗi thì nên tìm cơ hội mà can gián một cách dịu ngọt. Như thấy ý tứ cha mẹ chẳng thuận theo lời khuyên của mình, thì mình vẫn một lòng cung kính và chẳng trái nghịch ngang ngược xúc phạm cha mẹ. Như cha mẹ giận mà khiến mình làm công việc cực khổ, chớ có đem dạ oán hờn”.
- Nguyên văn:
子曰:「事父母幾諫,見志不從又敬不違,勞而不怨。」《論語·里仁》
- Phiên âm:
Tử viết: “Sự phụ mẫu cơ gián, kiến chí bất tòng hựu kính bất vi, lao nhi bất oán”. (Luận Ngữ, Lý Nhân)
- Lời dịch (tham khảo):
Đức Khổng Tử nói rằng: “Trong khi cha mẹ còn sinh tiền, phận làm con chớ có vô cớ đi đâu lâu xa. Như có đi đâu lâu xa, thì phải thưa cho cha mẹ biết, để cha mẹ an tâm”.
(Làm cha mẹ, ai ai cũng lo cho con, nếu không biết con ở đâu, thì lòng cha mẹ sẽ lo lắng: sợ con gặp phải tai nạn chẳng lành, hoặc sợ con theo bạn xấu mà làm chuyện phi pháp mắc vòng tù tội,… Cho nên, người làm con, chớ có vô cớ rời xa cha mẹ, như có đi đâu lâu xa, thì nên cho cha mẹ biết , phòng khi gặp chuyện gì thì cha mẹ tiện liên lạc, hoặc biết con giao du với kẻ chẳng xứng đáng thì cha mẹ khuyên can,…)
- Nguyên văn:
子曰:「父母在,不遠游,游必有方。」《論語·里仁》
- Phiên âm:
Tử viết: “Phụ mẫu tại, bất viễn du. Du tất hữu phương*”. (Luận Ngữ, Lý Nhân)
*‘Hữu phương’: có lý do chính đáng, hoặc có địa điểm rõ ràng,… cốt là để cha mẹ biết đặng yên tâm, hoặc dễ bề liên lạc,...
- Lời dịch (tham khảo):
Tử Hạ làm quan tể, ở ấp Cử Phủ nước Lỗ, hỏi Đức Khổng Tử về chính trị. Đức Khổng Tử đáp: “Đừng hấp tấp muốn mau thành, đừng chỉ nhìn cái lợi nhỏ. Hấp tấp muốn mau thành, thì công việc không được chu đáo; chỉ nhìn cái lợi nhỏ, thì việc lớn không thành”.
- Nguyên văn:
子夏為莒父宰,問政。子曰:「無欲速;無見小利。欲速則不達;見小利則大事不成。」《論語·子路》
- Phiên âm:
Tử Hạ vi Cử Phủ tể, vấn chính. Tử viết: “Vô dục tốc, vô kiến tiểu lợi. Dục tốc tắc bất đạt. Kiến tiểu lợi tắc đại sự bất thành”. (Luận Ngữ, Tử Lộ)
- Lời dịch (tham khảo):
Đức Khổng Tử nói rằng: “Thôi Thôi! Ta chưa thấy ai háo đức bằng háo sắc”.
- Nguyên văn:
子曰:「已矣乎!吾未見好德如好色者也!」《論語・衛靈公》
- Phiên âm:
Tử viết: “Dĩ hĩ hồ! ngô vị kiến hiếu đức như hiếu sắc giả dã”. (Luận Ngữ, Vệ Linh Công)
- Lời bàn:
Câu ‘ngô vị kiến hiếu đức như hiếu sắc giả dã’ đã xuất hiện hai lần trong Luận Ngữ (ở chương 9 - Tử Hãn và chương 15 - Vệ Linh Công). Trong lần hai này, lại có thêm ba chữ ‘dĩ hĩ hồ’ càng biểu thị nỗi lòng và sự cảm thán của Đức Khổng Tử, ắt có dụng ý nhắc nhở ta về sự ảnh hưởng to lớn của sắc dục, vậy ta phải nên chú ý cảnh giác, phòng ngừa.
- Lời dịch (tham khảo):
Đức Khổng Tử nói rằng: “Chớ lo người ta không biết đến mình, hãy lo rằng mình chẳng có tài đức để người biết đến mà thôi”.
- Nguyên văn:
子曰:「不患人之不己知,患其不能也。」《論語·憲問》
- Phiên âm:
Tử viết: “Bất hoạn nhân chi bất kỉ tri, hoạn kì bất năng dã”. (Luận Ngữ, Hiến Vấn)
- Lời dịch (tham khảo):
Thầy Tăng Tử nói rằng: “Người quân tử nhờ văn chương học vấn mà hội hiệp, kết giao bằng hữu; và nhờ bằng hữu giúp sức mà tiến thêm lên đức nhân”.
(Những người cùng chí hướng, sở thích thường hay qua lại với nhau, cũng vậy, những người mến mộ đạo lý, học vấn Thánh Hiền thường hay qua lại, trau đổi học tập với nhau, nhơn đó mà trở nên bầu bạn. Nhờ việc thường xuyên cùng những bằng hữu trau đổi học tập mà đức hạnh, chí hướng mình thường được nuôi dưỡng; và lại nhờ bạn lành tương trợ, khuyến khích, mà đức nhân ngày một tiến bộ thêm lên).
- Nguyên văn:
曾子曰:「君子以文會友;以友輔仁。」《論語·顏淵》
- Phiên âm:
Tăng Tử viết: “Quân tử dĩ văn hội hữu, dĩ hữu phụ nhân”. (Luận Ngữ, Nhan Uyên)
- Lời dịch (tham khảo):
Đức Khổng Tử nói rằng: “Người quân tử buồn vì mình không đủ tài đức, chứ chẳng buồn vì người ta không biết tới mình”.
子曰:「君子病無能焉,不病人之不己知也。」《論語·衛靈公》
Tử viết: “Quân tử bệnh vô năng yên, bất bệnh nhân chi bất kỉ tri dã”. (Luận Ngữ, Vệ Linh Công)
- Lời dịch (tham khảo):
Tử Cống hay soi mói, chỉ trích… người. Đức Khổng Tử (vời Tử Cống lại,) nói: “Anh Tứ, anh giỏi vậy ư? Ta thì không rảnh làm những chuyện như vậy”.
子貢方人。子曰:「賜也,賢乎哉?夫我則不暇!」《論語·憲問》
Tử Cống phương nhân. Tử viết: “Tứ dã, hiền hồ tai? Phù ngã tắc bất hạ”. (Luận Ngữ, Hiến Vấn)
- Lời dịch (tham khảo):
Có người hỏi rằng: “Như có người oán ghét mình, đối đãi mình rất không đúng, hoặc cố ý hãm hại mình,… mình lại còn lấy đức mà đáp lại người ấy, như thế có nên chăng?” Đức Khổng Tử đáp: “Vậy người thi ân với mình, thì mình lấy gì để báo đáp? (Hãy) lấy điều ngay đáp lại sự oán nghịch, lấy ân đức báo đáp ân đức”.
- Nguyên văn:
或曰:「以德報怨,何如?」子曰:「何以報德?以直報怨,以德報德。」《論語·憲問》
- Phiên âm:
Hoặc viết: “Dĩ đức báo oán, hà như?”. Tử viết: “Hà dĩ báo đức? Dĩ trực báo oán, dĩ đức báo đức”. (Luận Ngữ, Hiến Vấn)
- Lời bàn (tham khảo):
‘Dĩ trực báo oán’ có thể hiểu là lấy điều ngay, lấy điều công chính, đúng đắn,… mà đáp lại điều oán nghịch, thù ghét,…
Đức Khổng Tử bình thường giảng nhân, giảng thứ, nên nay có người đến hỏi: “Như có người đối đãi ta không tốt, khiến ta oán hận mà ta lại còn dùng ân đức để mà báo đáp họ, việc ấy có nên không?”
‘Lấy đức báo oán’ cố nhiên là tốt, nhưng nếu ta hiểu đoạn kinh văn theo cách dịch vừa rồi, sẽ khiến cho đoạn này ở vào trường hợp: có thể người hỏi đang trong cảnh ngộ có kẻ oán ghét người ấy, đối đãi người ấy không tốt, khiến người ấy khó chịu trong lòng,… Vì vậy, Đức Khổng Tử trả lời: “Nếu có người đối đãi với bạn rất tốt, thì bạn lấy gì để báo đáp họ? Hãy lấy điều ngay mà đáp lại sự oán nghịch, lấy ân đức báo đáp ân đức.”
Xét thấy, câu trả lời này rất thiết thực, có thể xoa dịu nỗi lòng của người hỏi, giải quyết được vấn đề của người hỏi. Các bậc Thánh nhân nào cũng khuyên dạy không nên lấy oán báo oán. Có người cho rằng ‘dĩ trực báo oán’ chẳng bằng ‘dĩ đức báo oán’, nhưng xét lại ‘dĩ trực báo oán’ cũng chẳng phải là điều xấu, chẳng phải là điều sai lầm gì cả. Ở vào một số trường hợp, chúng ta lấy điều công chính đối đãi điều oán thù,… thì trong đó đã bao hàm đức nhân và lượng thứ rồi! …
- Lời dịch (tham khảo):
Đức Khổng Tử nói rằng: “(Nếu chỉ) chuyên dùng pháp chế, cấm lệnh mà dắt dẫn dân chúng; chuyên dùng hình phạt mà trị dân; thì dân sợ mà chẳng phạm pháp đó thôi, chớ họ không biết hổ thẹn. Dùng đức để dẫn dắt dân chúng; dùng lễ để đưa dân vào khuôn phép, thì chẳng những dân biết hổ thẹn, họ lại còn cảm hóa mà trở nên tốt lành”.
- Nguyên văn:
子曰:「道之以政,齊之以刑,民免而無恥;道之以德,齊之以禮,有恥且格。」《論語·為政》
- Phiên âm:
Tử viết: “Đạo chi dĩ chính, tề chi dĩ hình, dân miễn nhi vô sỉ. Đạo chi dĩ đức, tề chi dĩ lễ, hữu sỉ thả cách”. (Luận Ngữ, Vi Chính)
- Lời bàn (tham khảo):
Trên đời, luôn có rất nhiều người có chí hướng, ước nguyện giúp đỡ xã hội, mong muốn xã hội giảm bớt đi cái xấu cái ác,… Song, tùy vào phương pháp, đường lối,… mà chúng ta theo đuổi, thi hành,… đều sẽ có những hệ quả, kết quả của nó. Vì vậy, đoạn kinh văn này rất nên tham khảo.
…
- Lời dịch (tham khảo):
Đức Khổng Tử nói rằng: “Thấy điều hay, giỏi, tốt,… của người, thì mình nên tư tưởng sao cho bằng người về điểm tốt ấy; còn như thấy chỗ không tốt của người, thì mình nên tự xét”.
- Nguyên văn:
子曰:「見賢思齊焉;見不賢而內自省也。」《論語·里仁》
- Phiên âm:
Tử viết: “Kiến hiền, tư tề yên; kiến bất hiền, nhi nội tự tỉnh dã”. (Luận Ngữ, Lý Nhân)
- Lời bàn (tham khảo):
Ít có ai hoàn hảo và cũng không có người nào hoàn toàn xấu. Khi thấy điều hay, giỏi, tốt của người, thì mình tư tưởng, mong sao cho bằng người về điều tốt ấy. Thấy điều không tốt của người thì mình nên phản tỉnh, tự xét lại mình: 1. vì có thể nhận định lúc đó của ta là chưa đúng, 2. Xét xem bản thân ta có mắc phải điều không tốt đó không, có khi ta phạm vào điều ấy mà chẳng biết, nếu có thì mình nên sửa, nếu không thì mình nên cảnh giác, đừng làm theo, 3. …
- Lời dịch (tham khảo):
Đức Khổng Tử nói rằng: “[Gặp việc chẳng như ý, mình nên] tự trách bản thân mình nhiều, trách người ít, thì tránh được sự oán hận”.
- Nguyên văn:
子曰:「躬自厚而薄責於人,則遠怨矣。」《論語·衛靈公》
- Phiên âm:
Tử viết: “Cung tự hậu nhi bạc trách ư nhân, tắc viễn oán hỹ”. (Luận Ngữ, Vệ Linh Công)
- Lời dịch (tham khảo):
Đức Khổng Tử nói rằng: “Mẫn Tử Khiên thật là người hiếu thuận! Cha mẹ anh em trong nhà đều khen anh là người có hiếu, mà người ngoài cũng như vậy”.
- Nguyên văn:
子曰:「孝哉閔子騫!人不間於其父母昆弟之言。」《論語·先進》
- Phiên âm:
Tử viết: “Hiếu tai Mẫn Tử Khiên! Nhân bất gián ư kì phụ mẫu côn đệ chi ngôn”. (Luận Ngữ, Tiên Tấn)
Đức Khổng Tử nói rằng: “Có lỗi mà chẳng chịu sửa, như vậy mới thật là lỗi”.
子曰:「過而不改,是謂過矣。」《論語·衛靈公》
Tử viết: “Quá nhi bất cải, thị vị quá hỹ”. (Luận Ngữ, Vệ Linh Công)