Kinh điển - Thư Tịch
Trích Đoạn
Kinh điển - Thư Tịch
Trích Đoạn
01
- Lời dịch 01 (tham khảo):
Dựa vào lời nói để đánh giá hoặc lựa chọn người, thì người sẽ ra sức trau chuốc lời nói cho hay, cho khéo; dựa vào đức hạnh và xem việc họ làm để đánh giá hoặc lựa chọn họ, thì họ sẽ ra sức trau dồi và hoàn thiện năng lực, đức hạnh. [Có được người] chỉ lo trau chuốc lời nói mà không có tài đức, vô ích; [Có được người] ra sức trau dồi và hoàn thiện tài đức, ắt làm nên việc.
- Lời dịch 02 (tham khảo):
Nếu tài hùng biện trở thành tiêu chuẩn để đánh giá hoặc tuyển chọn người, thì người ta sẽ rèn luyện kỹ năng hùng biện; nếu xem đức hạnh và năng lực là tiêu chuẩn để đánh giá hoặc tuyển chọn người, thì người ta sẽ nỗ lực hoàn thiện năng lực và đức hạnh của mình. [Có được người] chỉ lo trau chuốc lời nói mà không có tài đức, vô ích; [Có được người] ra sức trau dồi và hoàn thiện tài đức, ắt làm nên việc.
- Nguyên văn:
以言取人,人飾其言;以行取人,人竭其行。飾言無庸,竭行有成。(周書)
- Phiên âm:
Dĩ ngôn thủ nhân, nhân sức kì ngôn; dĩ hạnh thủ nhân, nhân kiệt kì hạnh. Sức ngôn vô dung, kiệt hạnh hữu thành. (Chu Thư)
02
- Lời dịch (tham khảo):
Đức Khổng Tử nói rằng: “Thuốc hay tuy đắng miệng khó nuốt, nhưng lại có lợi cho việc chữa bệnh; lời khuyên thành thật thẳng thắn tuy nghịch tai, nhưng lại có lợi cho việc làm của ta. Vua Thương Thang, vua Vũ Vương vì biết mở lòng lắng nghe lời khuyên can ngay thẳng mà vận nước hưng thịnh; vua Hạ Kiệt, vua Thương Trụ vì thích nghe lời siểm nịnh, hãm hại trung lương, rốt cuộc đã chuốc lấy tai họa nước mất mạng vong.”
- Nguyên văn:
孔子曰:「藥酒苦於口而利於病,忠言逆於耳而利於行。湯武以諤諤而昌,桀紂以唯唯而亡。」(孔子家語)
- Phiên âm:
Khổng Tử viết: “Dược tửu khổ ư khẩu nhi lợi ư bệnh, trung ngôn nghịch ư nhĩ nhi lợi ư hành. Thang Vũ dĩ ngạc ngạc nhi xương, Kiệt Trụ dĩ dụy dụy nhi vong”. (Khổng Tử Gia Ngữ)
03
- Lời dịch (tham khảo):
Trong thiên hạ không có điều gì ngu xuẩn hơn việc: chỉ ham hố lợi ích trước mắt mà không thấy được hậu họa đằng sau đó.
- Nguyên văn:
天下之愚,莫過於斯,知貪前之利,不睹其後之患也。(吳越春秋)
- Phiên âm:
Thiên hạ chi ngu, mạc quá ư tư, tri tham tiền chi lợi, bất đổ kỳ hậu chi hoạn dã. (Ngô Việt Xuân Thu)
04
- Lời dịch (tham khảo):
Đức Khổng Tử từng nói rằng: “Một người, khi phụng dưỡng cha mẹ mà hết lòng hiếu thuận, thì khi ra làm quan họ cũng sẽ dùng tấm lòng chân thành và tận tâm đó để phụng sự đất nước, hết lòng với nhân dân.” Do vậy, muốn tìm kiếm một người làm quan hết lòng vì đất nước, vì nhân dân, hãy tìm đến gia đình có người con hiếu.
- Nguyên văn:
孔子曰:「事親孝,故忠可移於君。」是以求忠臣,必於孝子之門。(後漢書)
- Phiên âm:
Khổng Tử viết: “Sự thân hiếu, cố trung khả di ư quân”. Thị dĩ cầu trung thần, tất ư hiếu tử chi môn. (Hậu Hán Thư)
05
- Lời dịch (tham khảo):
Thần nghe nói, người lãnh đạo không có ai không thích người trung thành chánh trực mà ghét kẻ a dua nịnh nọt. Nhưng xem xét những họa hoạn trong lịch sử, nguyên nhân của nó không có gì ngoài việc những người trung thành chánh trực bị mắc tội, còn những kẻ a dua nịnh nọt lại được ưa thích. Đây thực sự là: tin nghe lời trung chính thì khó, nghe theo lời nịnh hót thì dễ.
- Nguyên văn:
臣聞人君莫不好忠正而惡讒諛,然而歷世之患,莫不以忠正得罪,讒諛蒙倖者。蓋聽忠難,從諛易也。(後漢書)
- Phiên âm:
Thần văn nhân quân mạc bất hiếu trung chính nhi ố sàm du, nhiên nhi lịch thế chi hoạn, mạc bất dĩ trung chính đắc tội, sàm du mông hãnh giả. Cái thính trung nan, tùng du dị dã. (Hậu Hán Thư)
06
- Lời dịch (tham khảo):
Niềm tin có được từ nhân dân, là tài sản vô cùng quý báu của Quốc gia.
- Nguyên văn:
夫信之於民,國家大寶也。(魏志上)
- Phiên âm:
Phù tín chi ư dân, quốc gia đại bảo dã. (Ngụy Chí Thượng)
07
- Lời dịch (tham khảo):
Tuyên dương người hiền đức là việc mà bậc minh quân chú trọng; hưng khởi điều tốt lành để giáo hóa dân chúng, đó là điều mà đức Khổng Tử thường khen ngợi.
- Nguyên văn:
顯賢表德,聖王所重;舉善而教,仲尼所美。(魏志下)
- Phiên âm:
Hiển hiền biểu đức, Thánh Vương sở trọng; cử thiện nhi giáo, Trọng Ni sở mỹ. (Ngụy Chí Hạ)
08
- Lời dịch (tham khảo):
Đạo làm con, không có điều gì quan trọng hơn việc trân quý thân thể và giữ gìn phẩm chất tốt đẹp của chính mình, để từ đó khiến cha mẹ vì có người con đức độ mà được vinh hiển.
- Nguyên văn:
夫人為子之道,莫大於寶身全行,以顯父母。(魏志下)
- Phiên âm:
Phù nhân vi tử chi đạo, mạc đại ư bảo thân toàn hạnh, dĩ hiển phụ mẫu. (Ngụy Chí Hạ)
09
- Lời dịch (tham khảo):
Thuở xưa, đời Hạ Kiệt và Thương Trụ bị diệt vong là do mê dâm và say đắm nữ sắc mà ra; động loạn phát sinh ở thời Chu U Vương và Chu Lệ Vương cũng bởi vì việc quá cưng chiều và sủng ái thê thiếp mà ra. Các vị tiên đế xem thấy những việc này mà rút ra bài học cảnh giác cho mình; vì vậy, họ không cho phép những nữ nhân gợi cảm dâm dục hầu cận bên cạnh, không nuôi chứa người nữ mà không có nhiệm vụ chính đáng ở trong hậu cung [để tránh đi theo vết xe đổ đời trước].
- Nguyên văn:
昔桀紂滅由妖婦,幽厲亂在嬖妾。先帝覽之,以為身戒,故左右不置婬邪之色,後房無曠積之女。(吳志下)
- Phiên âm:
Tích Kiệt Trụ diệt do yêu phụ, U Lệ loạn tại bế thiếp. Tiên đế lãm chi, dĩ vi thân giới, cố tả hữu bất trí dâm tà chi sắc, hậu phòng vô khoáng tích chi nữ. (Ngô Chí - hạ)
10
- Lời dịch (tham khảo):
Ngụy Văn Hầu từng hỏi danh y Biển Thước rằng: ‘Ba anh em nhà khanh đều giỏi y thuật, người nào giỏi nhất?’
Biển Thước trả lời: ‘Y thuật của anh cả là tốt nhất, kế đến là anh thứ, còn tôi là kém nhất’.
Ngụy Văn Hầu hỏi tiếp: ‘Vậy sao ngươi lại được nổi danh nhất?’.
Biển Thước đáp: ‘Anh cả tôi trị bệnh trước khi bệnh phát tác, vì hầu hết mọi người đều không biết rằng anh ấy đã ngăn chặn bệnh từ khi mới phát sinh, cho nên danh tiếng của anh cả không được lan truyền rộng rãi, mà chỉ có những người trong ngành, có am hiểu, mới biết được. Anh thứ của tôi trị bệnh khi bệnh tình vừa phát tác thì đã trị xong, hầu hết mọi người đều cho rằng ông chỉ chữa được những bệnh nhẹ, cho nên danh tiếng của anh ấy chỉ lan đến xóm làng mà thôi. Còn tôi trị bệnh khi bệnh tình đã phát nặng, người thường thấy tôi làm những cuộc đại phẫu thuật, châm kim đả thông kinh mạch, kê thuốc liều mạnh, cắt bỏ chỗ hư hại,… nên cho rằng y thuật của tôi cao siêu, vì thế danh tiếng của tôi được vang khắp.’
- Nguyên văn:
[魏文侯問于扁鵲] 曰:『子昆弟三人,其孰最善為醫?』扁鵲曰:『長兄最善,中兄次之,扁鵲最為下也。』文侯曰:『可得聞耶?』扁鵲曰:『長兄於病視神,未有形而除之,故名不出於家。中兄治病,其在毫毛,故名不出於閭。若扁鵲者,鑱血脈,投毒藥,割肌膚,而名出聞於諸侯。』(鶡冠子)
- Phiên âm:
[Ngụy Văn Hầu vấn ư Biển Thước] viết: “Tử côn đệ tam nhân, kì thục tối thượng vi y?”. Biển Thước viết: “Trưởng huynh tối thiện, trung huynh thứ chi, Biển Thước tối vi hạ dã”. Văn Hầu viết: “Khả đắc văn da?”. Biển Thước viết: “Trưởng huynh ư bệnh thị thần, vị hữu hình nhi trừ chi, cố danh bất xuất ư gia. Trung huynh trị bệnh, kì tại hào mao, cố danh bất xuất ư lư. Nhược Biển Thước giả, sàm huyết mạch, đầu độc dược, cát cơ phu, nhi danh xuất văn ư chư hầu”. (Hạt Quán Tử)
11
- Lời dịch (tham khảo):
Họa ư, phúc tựa trong đó; phúc ư, họa ẩn trong đó. Ai có thể hiểu được thấu triệt việc này?
- Nguyên văn:
禍兮福之所倚,福兮禍之所伏,孰知其極?(老子)
- Phiên âm:
Họa hề, phúc chi sở ỷ; phúc hề, họa chi sở phục; thục tri kì cực? (Lão Tử)
- Lời bàn:
01. Người gặp tai họa mà có thể tự kiểm điểm bản thân, từ đó phấn chấn tinh thần, sám hối lỗi lầm, đoạn ác tu thiện, nổ lực học tập làm việc,… thì họa hết, phúc đến; nếu người có phúc báo mà lười biếng ỷ lại, hoặc lợi dụng nó đi làm việc ác,… thì phúc hết, họa sẽ đến.
02. Nội dung trong câu chuyện ‘Tái ông thất mã’ (Ông già ở biên giới mất ngựa) nói về lẽ họa phúc biến hóa xoay vần, cũng làm sáng rõ đạo lý trên. Người đọc có thể tìm hiểu thêm.
03. ….
12
- Lời dịch (tham khảo):
Đối với phương pháp của dưỡng sinh, điều tối thượng vẫn là ở việc tu dưỡng tinh thần, sau đó mới đến bảo dưỡng thân thể. Khi tinh thần trong sáng thư thái, ý niệm bình hòa, tự nhiên thân thể tự sẽ yên ổn, đây chính là đạo lý căn bản của dưỡng sinh; nếu chỉ lo béo đẹp vẻ bề ngoài, chú trọng việc ăn uống, làm thỏa mãn thị dục, đây chỉ là chú trọng vào việc nhỏ ở trên cành ngọn của dưỡng sinh mà thôi.
- 文:
治身,太上養神,其次養形。神清意平,百節皆寧,養生之本也;肥肌膚,充腹腸,開嗜欲, 養生之末也。(文子)
- Âm:
Trị thân, thái thượng dưỡng thần, kỳ thứ dưỡng hình. Thần thanh ý bình, bách tiết giai ninh, dưỡng sinh chi bổn dã; phì cơ phu, sung phúc tràng, khai thị dục, dưỡng sinh chi mạc dã. (Văn Tử)
13
- Lời dịch (tham khảo):
Từ xưa đến nay, khó có ai vẹn toàn tất cả mọi mặt, nên người quân tử sẽ không đòi hỏi sự hoàn hảo ở người. Ngay cả đồ dùng bằng ngọc bích của hoàng gia*[1] sử dụng, còn không tránh khỏi có tỳ vết; viên bảo châu tròn đẹp như trăng sáng, cũng không thể hoàn toàn không có vết ố. Người am hiểu bảo vật trong thiên hạ, sẽ không vì chút vết ố nhỏ mà phương hại đến tất cả giá trị và vẻ đẹp của nó. Nay, nếu ta cứ ưa soi mói đến chỗ yếu kém của người mà quên đi chỗ hay giỏi của người, như vậy thì việc cầu được người hiền*[2] trong thiên hạ là việc rất khó vậy.
- Nguyên văn:
自古及今,未有能全其行者也,故君子不責備於一人。夫夏后氏之璜,不能無瑕,明月之珠,不能無穢,然天下寶之者,不以小惡妨大美也。今志人之所短,忘人之所長,而欲求賢於天下,即難矣。(文子)
- Phiên âm:
Tự cổ cập kim, vị hữu năng toàn kỳ hạnh giả dã, cố quân tử bất trách bị ư nhất nhân. Phù Hạ Hậu thị chi hoàng, bất năng vô hà; minh nguyệt chi châu bất năng vô uế, nhiên thiên hạ bảo chi giả, bất dĩ tiểu ác phương đại mỹ dã. Kim chí nhân chi sở đoản, nhi vong nhân chi sở trường, nhi dục cầu hiền ư thiên hạ, tức nan hỹ. (Văn Tử)
- Ghi chú:
1. Nguyên văn nói đến họ Hạ Hậu, (có thể hiểu là ‘người’ có điều kiện nhất).
2. Người hiền minh hay hiền tài.
14
- Lời dịch (tham khảo):
Người không giỏi bắn cung, mà muốn dạy người khác bắn cung, thì không một ai chịu theo học; tự mình chẳng tu dưỡng đức hạnh, mà muốn chỉ bảo đạo đức cho người ta, thì chẳng có ai muốn nghe.
- Nguyên văn:
射不善而欲教人,人不學也;行不修而欲談人,人不聽也。(尸子)
- Phiên âm:
Xạ bất thiện nhi dục giáo nhân, nhân bất học dã; hạnh bất tu nhi dục đàm nhân, nhân bất thính dã. (Thi Tử)
15
- Lời dịch (tham khảo):
Muốn qua sông phải dựa vào thuyền bè, muốn đến phương xa phải dựa vào ngựa tốt, còn như muốn thành tựu nghiệp lớn thì phải dựa vào hiền tài.
- Nguyên văn:
絕江者託於船,致遠者託於驥,霸王者託於賢。(呂氏春秋)
- Phiên âm:
Tuyệt giang giả thác ư thuyền, trí viễn giả thác ư ký, bá vương giả thác ư hiền. (Lã Thị Xuân Thu)
16
- Lời dịch (tham khảo):
Thấy điềm lành xuất hiện lại đi làm chuyện càn quấy, thì điềm lành cũng trở thành tai họa!
- Nguyên văn:
見祥而為不可,祥必為禍!(賈子)
- Phiên âm:
Kiến tường nhi vi bất khả, tường tất vi họa! (Giả Tử)
17
- Lời dịch (tham khảo):
Lương thực (thức ăn, cái ăn) là gốc của nhân dân, nhân dân là gốc của quốc gia.
- Nguyên văn:
食者民之本也,民者國之本也。(淮南子)
- Phiên âm:
Thực giả dân chi bổn dã, dân giả quốc chi bổn dã. (Hoài Nam Tử)
18
- Lời dịch (tham khảo):
Đức Khổng Tử từng nói rằng: “Khi một người nào bị chúng ghét, mình nên quan sát coi người ấy có thật đáng ghét chăng. Khi một người nào được chúng ưa, mình cũng nên quan sát coi người ấy có thật đáng ưa chăng”. Như vậy, ta thấy khi Thánh nhân chọn lựa hay đánh giá người khác, người không nhất định sẽ nghe theo lời nghị luận của quần chúng, cũng không phải do chính mình độc đoán quyết định, mà người suy xét toàn diện, đối chiếu cách nhìn của mình và của người khác, đồng thời dùng những quy phạm đạo đức để so sánh đánh giá. Cho nên, khi tuyển chọn sẽ hạn chế bỏ sót người phù hợp mà dùng nhầm kẻ không xứng đáng, thì việc công cũng không vì đó mà bị ngưng trệ, hay rơi vào cảnh tha hóa, suy vong.
- Nguyên văn:
孔子曰:「眾好之必察焉,眾惡之必察焉。」故聖人之施舍也,不必任眾,亦不必專己,必察彼己之謂,而度之以義,故舉無遺失,而功無廢滅也。(潛夫論)
- Phiên âm:
Khổng Tử viết: “Chúng hiếu chi tất sát yên, chúng ố chi tất sát yên”. Cố Thánh nhân chi thí xả dã, bất tất nhiệm chúng, diệc bất tất chuyên kỉ, tất sát bỉ kỉ chi vị, nhi đạc chi dĩ nghĩa, cố cử vô di thất, nhi công vô phế diệt dã. (Tiềm Phu Luận)
19
- Lời dịch (tham khảo):
Điều hòa tinh thần và hơi thở; hạn chế lo âu; tránh những nhân tố gây bệnh: phong tà, ẩm thấp; ăn uống điều độ có chừng mực; tiết chế dục vọng. Đây chính là liều thuốc hay của sự trường thọ.
- Nguyên văn:
和神氣,懲思慮,避風濕,節飲食,適嗜欲,此壽考之方也。(昌言)
- Phiên âm:
Hòa thần khí, trừng tư lự, tị phong thấp, tiết ẩm thực, thích thị dục, thử thọ khảo chi phương dã. (Xương Ngôn)
20
- Lời dịch (tham khảo):
Suy ngẫm về phương diện tin dùng Hiền tài xem thấy có mười điều khó:
+ Một là không nhận biết được Hiền tài.
+ Hai là biết được người mà không cầu.
+ Ba là có được người mà không dùng.
+ Bốn là dùng người mà không tín nhiệm.
+ Năm là chỉ vì những hiềm khích nhỏ mà phủ định đi những phẩm đức đáng quý của người.
+ Sáu là vì những sai lầm nhỏ mà gạt bỏ đi những công lao khác của người.
+ Bảy là vì những khuyết điểm nhỏ mà che mất đi tất cả những điều thiện mỹ của người.
+ Tám là vì những lời nói khích bác, bới móc của kẻ gian tà mà tổn thương người trung chính.
+ Chín là vì những tà thuyết, học thuyết xằng bậy mà làm nhiễu loạn kỷ cương, phép tắc.
+ Mười là vì những lời nói gièm pha, đố kỵ mà phế bỏ người tài đức.
Đây chính là mười điều khó. Mười điều khó này không trừ bỏ, thì không thể có được hiền tài và những sự đóng góp của họ; không có hiền tài, thì đất nước cũng khó mà ổn định và phồn vinh được.
- Nguyên văn:
惟恤十難,以任賢能。一曰不知,二曰不求,三曰不任,四曰不終,五曰以小怨棄大德,六曰以小過黜大功,七曰以小短掩大美,八曰以干訐傷忠正,九曰以邪說亂正度,十曰以讒嫉廢賢能,是謂十難。十難不除,則賢臣不用;賢臣不用,則國非其國也。(申鑒)
- Phiên âm:
Duy tuất thập nan, dĩ nhiệm hiền năng. Nhất viết bất tri, nhị viết bất cầu, tam viết bất nhiệm, tứ viết bất chung, ngũ viết dĩ tiểu oán khí đại đức, lục viết dĩ tiểu quá truất đại công, thất viết dĩ tiểu đoản yểm đại mỹ, bát viết dĩ can kiết thương trung chánh, cửu viết dĩ tà thuyết loạn chánh độ, thập viết dĩ sàm tật phế hiền năng, thị vị thập nan. Thập nan bất trừ, tắc hiền thần bất dụng; hiền thần bất dụng, tắc quốc phi kì quốc dã. (Thân Giám)
21
- Lời dịch (tham khảo):
Người sáng tạo nội dung[1], không nên quá chú trọng vào việc trau chuốt câu cú cho văn vẻ bóng bảy, mà hãy xem trọng ý nghĩa chứa đựng bên trong có truyền tải được những đạo lý tốt đẹp, hữu ích hay không; không nên quá chú trọng vào sự tinh xảo cầu kì, chuộng lập dị, mà hãy lo lắng rằng liệu nội dung đó có làm tổn thương đạo nghĩa, gây ảnh hưởng xấu cho đời hay không.
- Nguyên văn:
作者不尚其辭麗,而貴其存道也;不好其巧慧,而惡其傷義也。(政要論)
- Phiên âm:
Tác giả bất thượng kỳ từ lệ, nhi quý kỳ tồn đạo dã; bất hiếu kì xảo huệ, nhi ố kỳ thương nghĩa dã. (Chính Yếu Luận)
*Ghi chú: 1. Chỉ những người theo nghiệp viết lách hoặc sáng tạo nghệ thuật.
22
- Lời dịch (tham khảo):
Thánh nhân dùng binh là để làm lợi cho vạn vật, không phải tàn hại vạn vật; để cứu vãn mối hiểm nguy cho nhân dân, không phải gây thêm nguy nan cho nhân dân.
- Nguyên văn:
聖人之用兵也,將以利物,不以害物也;將以救亡,非以危存也。(政要論)
- Phiên âm:
Thánh nhân chi dụng binh dã, tương dĩ lợi vật, bất dĩ hại vật dã; tương dĩ cứu vong, phi dĩ nguy tồn dã. (Chính Yếu Luận)
23
- Lời dịch (tham khảo):
Hiếu chiến[1] chắc chắn sẽ bị diệt vong; nhưng nếu lơ là việc phòng bị nhất định sẽ gặp nguy hiểm.
- Nguyên văn:
好戰者亡,忘戰者危。(卷四十七·政要論)
- Phiên âm:
Hiếu chiến giả vong, vong chiến giả nguy. (Quyển 47, Chính Yếu Luận)
- Ghi chú:
1. Hiếu chiến: thích gây chiến tranh, dùng bạo lực để giải quyết mọi xung đột.
24
- Dịch nghĩa (tham khảo):
Theo lời dạy của các bậc tiên vương, người tiến cử hiền tài phải được trọng thưởng và kẻ cố ý vùi dập hiền tài phải bị trừng trị nghiêm khắc.
- Nguyên văn:
先王之教,進賢者為上賞,蔽賢者為上戮。(傅子)
- Phiên âm:
Tiên vương chi giáo, tiến hiền giả vi thượng thưởng, tế hiền giả vi thượng lục. (Phó Tử)
25
- Lời dịch (tham khảo):
Khi tiếp nhận thông tin ngôn luận mà chưa tìm hiểu, kiểm chứng rõ ràng, đã vội vàng nhận định tốt xấu thiện ác, như vậy đúng sai phải trái sẽ dễ bị đảo lộn, trào lưu tranh luận hơn thua sẽ theo đó mà trỗi dậy.
- Nguyên văn:
聞言未審而以定善惡,則是非有錯,而飾辯巧言之流起矣。(傅子)
- Phiên âm:
Văn ngôn vị thẩm nhi dĩ định thiện ác, tắc thị phi hữu thác, nhi sức biện xảo ngôn chi lưu khởi hĩ. (Phó Tử)
26
- Lời dịch (tham khảo):
Người có thể đem lại lợi ích cho người trong thiên hạ, thì người trong thiên hạ cũng đem lại lợi ích cho họ; kẻ gây nguy hại cho người trong thiên hạ, thì người trong thiên hạ cũng sẽ gây nguy hại cho kẻ ấy.
- Nguyên văn:
利天下者,天下亦利;害天下者,天下亦害之。(傅子)
- Phiên âm:
Lợi thiên hạ giả, thiên hạ diệc lợi; hại thiên hạ giả, thiên hạ diệc hại chi. (Phó Tử)
27
- Lời dịch (tham khảo):
Dụng binh, là việc hết sức hệ trọng có liên quan đến sự tồn vong (sinh tử của quân lính, sống-chết của nhân dân và sự tồn vong của đất nước), một khi tử trận thì không thể cứu sống lại (do vậy phải vô cùng thận trọng). Cho nên có câu nói: việc khó trong thiên hạ chính là việc dụng binh.
- Nguyên văn:
兵者存亡之機,一死不可復生也 。故曰:天下難事在於兵。(袁子正書)
- Phiên âm:
Binh giả tồn vong chi cơ, nhất tử bất khả phục sinh dã. Cố viết: Thiên hạ nan sự tại ư binh. (Viên Tử Chính Thư)
28
- Lời dịch (tham khảo):
Trụ vương đời Thương, làm vua cai quản cả thiên hạ, nhưng tàn ác vô đạo, cho nên bị gọi là “độc phu” (kẻ độc tài, chuyên quyền); trong khi Đức Khổng Tử chỉ là một đại phu của nước chư hầu, nhưng lại được suy tôn là “tố vương” (Vua không ở ngôi vị). Điều này cho thấy, người được nhân dân ca ngợi và tôn kính, tuyệt đối không phải do sự giàu có và quyền thế của người đó.
- Nguyên văn:
紂為無道,見稱獨夫;仲尼陪臣,謂為素王。即君子不在乎富貴矣。(抱朴子)
- Phiên âm:
Trụ vi vô đạo, kiến xưng độc phu; Trọng Ni bồi thần, vị vi tố vương. Tức quân tử bất tại hồ phú quý hĩ. (Bão Phác Tử)
29
- Lời dịch (tham khảo):
Vinh hay nhục, đều do mình tự chuốc lấy, không phải do người khác.
- Nguyên văn:
榮辱之責在乎己,而不在乎人。(韓子)
- Phiên âm:
Vinh nhục chi trách, tại hồ kỷ, nhi bất tại hồ nhân. (Hàn Tử)
30
- Lời dịch (tham khảo):
Thiên tai có bốn loại, đó là: lũ lụt, hạn hán, mất mùa, thất thu*[1]. Chúng đến mà không báo trước, cũng không có kỳ hạn, nếu không lo dự trữ lương thực, không có sự chuẩn bị trước, thì lấy gì để đối phó đây? […]*[2] Phải cảnh giác chứ! Nếu không suy ngẫm về những việc này, đến khi tai họa xảy ra, thời gian sẽ chẳng có đủ [để canh tác, lo liệu,…] nữa.
- Nguyên văn:
天有四殃:水、旱、饑、荒。其至無時,非務積聚,何以備之?[…] 戒之哉,不思禍咎無日矣。(周書)
- Phiên âm:
Thiên hữu tứ ương: thủy, hạn, cơ, hoang. Kỳ chí vô thời, phi vụ tích tụ, hà dĩ bị chi? […] Giới chi tai, bất tư họa cữu vô nhật hỹ. (Chu Thư)
- Ghi chú:
*[1] Do thiên tai mà ngũ cốc, hoa màu, trái cây,… thu hoạch kém hoặc không thể thu hoạch được. Theo [Nhĩ Nhã, Thích Thiên] viết: “Lương thực, ngũ cốc mất mùa gọi là ‘cơ’; rau mất mùa gọi là ‘cận’; trái cây mất mùa gọi là ‘hoang’.” 《爾雅‧釋天》:「穀不熟為饑,蔬不熟為饉,果不熟為荒。」(Nhĩ Nhã, Thích thiên: “Cốc bất thục vi cơ, sơ bất thục vi cận, quả bất thục vi hoang.”)
*[2] Diễn ý đoạn […]: Nếu lương thực không đủ dùng trong thời gian dài, xã hội sẽ xảy ra nhiều chuyện bi thương: gia đình tan vỡ, sản nghiệp tiêu tán, đất nước loạn lạc,…
- Nguyên văn đoạn […]:《夏箴》曰:『小人無兼年之食,遇天饑,妻子非其有也;大夫無兼年之食,遇天饑,臣妾輿馬非其有也;國無兼年之食,遇天饑,百姓非其百姓也。』
31
- Lời dịch (tham khảo):
Mục đích của việc ban thưởng là khuyến khích con người sống tử tế, mang lại cuộc sống tốt đẹp hơn; còn mục đích của hình phạt là để ngăn con người phạm tội, nhằm tránh những bi thương cho con người. Bởi vậy, dùng sự thưởng phạt đan xen kết hợp để trị vì nhân dân sẽ khiến cho thiên hạ trở nên tốt lành.
- Nguyên văn:
賞在於成民之生,罰在於使人無罪,是以賞罰施民而天下化矣。(六韜)
- Phiên âm:
Thưởng tại ư thành dân chi sinh, phạt tại ư sử dân vô tội, thị dĩ thưởng phạt thi dân nhi thiên hạ hóa hỹ. (Lục Thao)
32
- Lời dịch (tham khảo):
Người mưu cầu lợi ích cho thiên hạ, sẽ lấy được thiên hạ; người giúp cho thiên hạ được yên ổn, sẽ có được thiên hạ; người thương yêu bảo hộ thiên hạ, sẽ có thể trị vì thiên hạ được bền lâu; người ban nhân đức khắp thiên hạ, sẽ có thể cảm hóa được thiên hạ.
- Nguyên văn:
利天下者取天下,安天下者有天下,愛天下者久天下,仁天下者化天下。(六韜)
- Phiên âm:
Lợi thiên hạ giả thủ thiên hạ, an thiên hạ giả hữu thiên hạ, ái thiên hạ giả cửu thiên hạ, nhân thiên hạ giả hóa thiên hạ. (Lục Thao)
33
- Lời dịch (tham khảo):
Ngạn ngữ có câu: “Không có gì hữu hiệu bằng việc mặc thêm mấy tấm áo da dày để tránh khỏi giá lạnh, không có gì tốt bằng việc lấy sự tu dưỡng bản thân để ngăn chặn những lời nói xấu.” Lời này quả không sai!
- Nguyên văn:
救寒莫如重裘,止謗莫如自修,斯言信矣。(魏志下)
- Phiên âm:
Cứu hàn mạc như trọng cừu, chỉ báng mạc như tự tu, tư ngôn tín hỹ. (Ngụy Chí - Hạ)
34
- Phóng dịch (tham khảo):
Nông nghiệp, là ngành căn bản quan trọng nhất trong thiên hạ, tất cả mọi người đều dựa vào lương thực để sống, để sản xuất, làm việc,... Một khi phần lớn nhân dân từ bỏ sản xuất nông nghiệp, khiến cho lương thực bị thiếu hụt, không đủ dùng, sẽ ảnh hưởng đến mọi mặt trong xã hội, đời sống của nhân dân sẽ không được đảm bảo.
- Nguyên văn:
農,天下之大本也,民所恃以生也,而民或不務本而事末,故生不遂。(漢書)
- Phiên âm:
Nông, thiên hạ chi đại bổn dã, dân sở thị dĩ sinh dã, nhi dân hoặc bất vụ bổn nhi sự mạt, cố sinh bất toại. (Hán Thư)
35
- Lời dịch (tham khảo):
Điều tối kỵ của con người là biết được sai lầm của mình mà không chịu sửa, để đến nỗi những sai lầm đó gây hại cho bản thân, thậm chí phải trả giá bằng cả tính mạng.
- Nguyên văn:
大忌知身之惡而不改也,以賊其身,乃喪其軀。(鬻子)
- Phiên âm:
Đại kỵ tri thân chi ác nhi bất cải dã, dĩ tặc kỳ thân, nãi táng kỳ khu. (Dục Tử)
36
- Lời dịch (tham khảo):
Sách xưa có nói: “Khi có bậc lãnh đạo kiệt xuất, người tất sẽ tin dùng những đại thần kiệt xuất. Khi những đại thần kiệt xuất được trọng dụng, tất sẽ có thể tạo nên những thành tích phi phàm.”
- Nguyên văn:
書曰:有不世之君,必能用不世之臣。用不世之臣,必能立不世之功。(魏志下)
- Phiên âm:
Thư viết: “Hữu bất thế chi quân, tất năng dụng bất thế chi thần. Dụng bất thế chi thần, tất năng lập bất thế chi công”. (Ngụy Chí - Hạ)
37
- Lời dịch (tham khảo):
Những viên quan nhỏ muốn tận trung với đất nước, nhưng nếu chỉ biết yêu nước suông, mà không trừ bỏ lòng đố kị của mình, vậy thì làm sao có thể mở lòng tôn trọng những bậc trung lương, hiền sĩ [để đề bạt họ, hay đồng lòng cùng họ giúp đất nước,…], làm đúng như chí nguyện của mình là trở thành những bậc hiền thần như ông Tắc, ông Tiết* đây?
- Nguyên văn:
夫小臣之欲忠其主也,知愛之而不能去其嫉妒之心,又安能敬有道,為己願稷契之佐哉。(劉廙政論)
- Phiên âm:
Phù tiểu thần chi dục trung kỳ chủ dã, tri ái chi nhi bất năng khứ kỳ tật đố chi tâm, hựu an năng kính hữu đạo, vi kỷ nguyện Tắc, Tiết chi tá tai. (Lưu Dực Chính Luận)
- Ghi chú: *Ông Tắc, Tiết là hai vị hiền thần giúp vua Nghiêu, vua Thuấn trị vì thiên hạ. Thời đại Nghiêu Thuấn là thời đại thái bình thịnh trị được nhân dân ca ngợi đời đời. Cho nên ở đây có thể hiểu là: ‘Ước nguyện của người làm quan là muốn làm nhiều việc tốt đẹp cống hiến cho đất nước, giúp ích cho nhân dân, trở thành những bậc hiền thần chân chính, được nhân dân yêu quý, kính mến, lưu danh thiên cổ,…’.
38
- Lời dịch (tham khảo):
Đức Khổng Tử nói rằng: “Nhìn vào những việc mà họ làm; xét xem lý do, động cơ khiến họ làm như vậy (họ làm vì điều gì?); điều gì khiến họ thích thú an vui. Xét được như vậy, thì sẽ biết được họ là người như thế nào. Họ là người thế nào làm sao mà che giấu được”.
- Nguyên văn:
子曰:「視其所以,觀其所由,察其所安,人焉廋哉! 人焉廋哉!」《論語》
- Phiên âm:
Tử viết: “Thị kỳ sở dĩ, quan kỳ sở do, sát kỳ sở an, nhân yên sưu tai? Nhân yên sưu tai?” (Luận Ngữ)
39
- Lời dịch (tham khảo):
Những kẻ gièm pha, nói xấu, (lừa gạt xảo trá,…) lời nói và biểu hiện của hắn cũng giống như thật, [hắn cũng có thể làm việc thiện, nói lời tốt,…] lời lẽ lại khéo léo mê hoặc người nghe[1]. Ôi! Họa hay phúc, thành hay bại,… phải xem bản thân ta có năng lực nhận biết được đâu mới thật sự là thiện, đâu mới thật sự là lời nói thật hay không?! [Để không trao nhầm niềm tin cho kẻ giả dối].
- Nguyên văn:
夫讒人似實,巧言如簧[1],使聽之者惑,視之者昏。夫吉凶之效,在乎識善;成敗之機,在於察言。(後漢書)
- Phiên âm:
Phù sàm nhân tự thực, xảo ngôn như hoàng, sử thính chi giả hoặc, thị chi giả hôn. Phù cát hung chi hiệu, tại ư thức thiện; thành bại chi cơ, tại ư sát ngôn. (Hậu Hán Thư)
- Ghi chú:
[Kinh Thi 詩經] Sảo ngôn như hoàng 巧言如簧: nói khéo như rót vào tai, lấy lời đường mật mà làm cho người ta mê hoặc.
40
- Lời dịch (tham khảo):
Các vị Thánh vương thời xưa, khen ngợi người con hiếu thảo để khuyến khích người dân phụng dưỡng cha mẹ; tôn trọng bậc hiền đức để khuyến khích người dân làm việc tốt lành; ban hành hiến pháp luật lệ để giáo hóa nhân dân; thiết lập thưởng phạt để khuyến thiện, ngăn ác. Được như vậy, xã hội hỗn loạn cũng có thể chuyển thành thịnh trị, cục diện hiểm nguy cũng có thể chuyển thành an định.
- Nguyên văn:
古之聖王,舉孝子而勸之事親,尊賢良而勸之為善,發憲布令以教誨,賞罰以勸沮。若此則亂者可使治,而危者可使安矣。(墨子)
- Phiên âm:
Cổ chi Thánh vương, cử hiếu tử nhi khuyến chi sự thân, tôn hiền lương nhi khuyến chi vi thiện, phát hiến bố lệnh dĩ giáo hối, thưởng phạt dĩ khuyến trở. Nhược thử tắc loạn giả khả sử trị, nhi nguy giả khả sử an hỹ. (Mặc Tử)
41
- Lời dịch (tham khảo):
Khi đáng được thưởng mà không thưởng, như vậy người làm việc tốt sẽ mất đi ước vọng tốt đẹp vốn có ban đầu mà hoài nghi việc làm của mình liệu có ý nghĩa hay không, [có nên tiếp tục làm việc tốt nữa chăng?]. Khi đáng bị trừng phạt mà không trừng phạt, như vậy người làm việc xấu ác sẽ coi thường quốc pháp, [coi thường quy định của đoàn thể,… cho rằng: bản thân làm việc ác mà chẳng ai có thể trừng phạt được. Ắt] sẽ tiếp tục gây thêm tội ác [mà không có sự dè dặt, kiêng nể gì].
- Nguyên văn:
夫當賞者不賞,則為善者失其本望,而疑其所行;當罰者不罰,則為惡者輕其國法,而怙其所守。(中論)
- Phiên âm:
Phù đáng thưởng giả bất thưởng, tắc vi thiện giả thất kì bổn vọng, nhi nghi kỳ sở hành; đáng phạt giả bất phạt, tắc vi ác giả khinh kỳ quốc pháp, nhi hỗ kỳ sở thủ. (Trung Luận)
42
- Lời dịch (tham khảo):
Sai lầm của con người là quá bi ai đối với người đã mất nhưng lại không trân quý người còn sống, hối hận về những chuyện trong quá khứ nhưng lại không cẩn trọng lo nghĩ cho tương lai; thích đàm luận chuyện dĩ vãng, tranh biện việc đã qua, hôm nay chán nản ngày mai bạc nhược, cứ như vậy mãi cho đến khi già yếu.
- Nguyên văn:
民之過在於哀死而不愛生,悔往而不慎來。善語乎已然,好爭乎遂事,墮今日而懈於後旬,如斯以及於老。(中論)
- Phiên âm:
Dân chi quá tại ư ai tử nhi bất ái sinh, hối vãng nhi bất thận lai; thiện ngữ hồ dĩ nhiên, háo tranh hồ toại sự, đọa kim nhật nhi giải ư hậu tuần, như tư dĩ cập ư lão. (Trung Luận)
43 - Lời dịch (tham khảo):
Vua Vũ Vương hỏi Khương Thái Công: “Ta mong giảm thiểu hình phạt mà vẫn tăng sự uy nghiêm, ban thưởng ít mà vẫn khuyến khích được nhiều người hướng thiện, giản lược chính lệnh mà đại chúng vẫn được hưởng sự giáo hóa, thì phải làm thế nào?”.
Thái Công nói: “Nếu trừng trị* một người [cực ác, tội lỗi to lớn,…] mà khiến ngàn người sợ hãi [không dám phạm tội đó nữa,…] thì nên trừng trị kẻ ấy; nếu trừng trị hai người [xấu ác, phạm tội lỗi nặng,…] mà khiến vạn người sợ hãi [không dám làm việc ác đó nữa,…] thì nên trừng trị những kẻ đó; nếu trừng trị ba người [có tội đáng phải trị,…] mà chỉnh đốn được tam quân, [an định được đoàn thể, xã hội,…] thì nên trừng trị những kẻ đó đi.
Nếu khen thưởng cho một người [hiền đức/có công lớn,…] mà khiến ngàn người hân hoan [hướng về điều tốt lành,…], thì nên khen thưởng cho người ấy; nếu ban thưởng cho hai người [hiền đức/có công to,…] mà khiến vạn người mừng vui [làm theo điều tốt lành,…] thì nên ban thưởng cho họ; nếu khen thưởng cho ba người [hiền đức/có công đáng phải thưởng,…] mà khiến tam quân [đoàn thể, xã hội,…] vui mừng hớn hở [trở nên thiện lành, an định,…] thì nên khen thưởng cho họ đi.
Khích lệ một người mà khiến ngàn người được lợi ích thì nên khích lệ người ấy; răn cấm hai người mà khiến vạn người không dám làm chuyện ác, thì nên răn cấm hai người ấy. Giáo dục ba người mà chỉnh đốn được tam quân [chỉnh đốn được phong tục, đoàn thể, xã hội…], thì nên giáo dục ba người ấy,...
Trừng trị một người để cảnh cáo vạn người, khen thưởng một người để khích lệ vạn người,… Đây chính là đạo thưởng-phạt của bậc minh quân”.
- Nguyên văn:
武王問太公曰:「吾欲輕罰而重威,少其賞而勸善多,簡其令而衆皆化,爲之何如?」太公曰:「殺一人(而)千人懼者,殺之;殺二人而萬人懼者,殺之;殺三人(而)三軍振者,殺之。賞一人而千人喜者,賞之;賞二人而萬人喜者,賞之;賞三人(而)三軍喜者,賞之。令一人(而)千人得者,令之;禁二人而萬人止者,禁之;教三人而三軍正者,教之。殺一以懲萬,賞一而勸眾,此明君之威福也。」《陰謀》
- Phiên âm:
Vũ Vương vấn Thái Công viết: “Ngô dục khinh phạt nhi trọng uy, thiểu kỳ thưởng nhi khuyến thiện đa, giản kỳ lệnh nhi chúng giai hóa, vi chi hà như?”. Thái Công viết: “Sát nhất nhân (nhi) thiên nhân cụ giả, sát chi; sát nhị nhân nhi vạn nhân cụ giả, sát chi; sát tam nhân (nhi) tam quân chấn giả, sát chi; Thưởng nhất nhân nhi thiên nhân hỉ giả, thưởng chi; thưởng nhị nhân nhi vạn nhân hỉ giả, thưởng chi; thưởng tam nhân (nhi) tam quân hỉ giả, thưởng chi; Lệnh nhất nhân (nhi) thiên nhân đắc giả, lệnh chi; cấm nhị nhân nhi vạn nhân chỉ giả, cấm chi; giáo tam nhân nhi tam quân chính giả, giáo chi. Sát nhất dĩ trừng vạn, thưởng nhất nhi khuyến chúng, thử minh quân chi uy phúc dã”. [Âm mưu]
- Ghi chú:
* Ở đây chúng tôi dịch thoát nghĩa so với nguyên văn.
44 - Lời dịch (tham khảo):
Người mưu cầu lợi ích cho thiên hạ, thì thiên hạ sẽ hoan nghênh, mở cửa đón tiếp họ; kẻ gây hại cho thiên hạ, thì thiên hạ sẽ phản kháng, đóng cửa cự tuyệt kẻ đó; Người cứu giúp thiên hạ, thì thiên hạ sẽ cảm kích ân đức và báo đáp người đó; kẻ bức hại thiên hạ, thì thiên hạ sẽ căm ghét và làm hại kẻ đó; người giúp thiên hạ gỡ bỏ khó khăn, thiên hạ sẽ quy thuận họ; kẻ khiến thiên hạ trở nên bế tắt, thiên hạ sẽ coi họ như kẻ thù; người khiến thiên hạ được an định, người trong thiên hạ sẽ tin tưởng và nương tựa vào họ; kẻ khiến thiên hạ rơi vào nguy nan, người trong thiên hạ sẽ khiến họ gặp cảnh hoạn nạn;….
Thiên hạ không phải của riêng một người nào, chỉ người có đạo nghĩa mới có được thiên hạ!
- Nguyên văn:
利天下者,天下啓之;害天下者,天下閉之;生天下者,天下德之;殺天下者,天下賊之;徹天下者,天下通之;窮天下者,天下仇之;安天下者,天下恃之;危天下者,天下災之。天下者非一人之天下,唯有道者得天下也。(六韜)
- Phiên âm:
Lợi thiên hạ giả, thiên hạ khải chi; hại thiên hạ giả, thiên hạ bế chi; sinh thiên hạ giả, thiên hạ đức chi; sát thiên hạ giả, thiên hạ tặc chi; triệt thiên hạ giả, thiên hạ thông chi; cùng thiên hạ giả, thiên hạ cừu chi; an thiên hạ giả, thiên hạ thị chi; nguy thiên hạ giả, thiên hạ tai chi. Thiên hạ giả phi nhất nhân chi thiên hạ, duy hữu đạo giả đắc thiên hạ giả. (Lục Thao)
45 - Lời dịch 01 (tham khảo):
Người xưa từng nói, có hai việc mà con người khó làm được: một là vui mừng khi nghe người khác chỉ ra lỗi lầm của mình, hai là nói với người khác lỗi lầm của mình.
- Lời dịch 02:
Người xưa có câu: ‘có hai việc mà con người khó làm được: vui mừng khi nghe người khác chỉ ra lỗi lầm của mình, đây là việc khó làm được; nói với người khác lỗi lầm của mình, đây cũng là việc khó làm được’.
- Nguyên văn:
先民有言,人之所難者二,樂知其惡者難, 以惡告人者難。(中論)
- Phiên âm:
Tiên dân hữu ngôn, nhân chi sở nan giả nhị, lạc tri kì ác giả nan, dĩ ác cáo nhân giả nan. (Trung Luận)
46 - Lời dịch mở rộng (tham khảo):
Tục ngữ có câu: “Trên đời, chỉ có con người (đức độ, hiền minh,…) mới có thể xử lý các vụ việc của con người một cách hợp tình hợp lý nhất, chứ không có một hệ thống luật pháp, hay phương pháp cụ thể, (công nghệ, trí tuệ nhân tạo,)… nào có thể thay thế hoàn toàn con người hoặc dựa vào đó để xử lý tất cả các vụ việc của con người một cách hợp tình hợp lý được cả”. Nếu chỉ cần dựa vào pháp luật, hay khuôn phép,… nào đó mà có thể xử lý được tất cả các vụ việc của con người, vậy thì Vua Nghiêu hay Vua Thuấn đã không cần đến sự phò tá của người hiền như: ông Tắc, ông Tiết,…; vua Ân, vua Chu cũng đã không cần phải coi trọng sự giúp đỡ của người tài như: Y Doãn hay Lã Thượng,… nữa rồi.
- Nguyên văn:
語曰:『世有亂人,而無亂法。』若使法可專任,則唐、虞可不須稷、契之佐,殷、周無貴伊、呂之輔矣。(魏志上)
- Phiên âm:
Ngữ viết: “Thế hữu loạn nhân, nhi vô loạn pháp.” Nhược sử pháp khả chuyên nhiệm tắc Đường, Ngu khả bất tu Tắc, Tiết chi tá; Ân, Chu vô quý Y, Lã chi phụ hỹ. (Ngụy Chí Thượng)
47 - Lời dịch (tham khảo):
Trước khi làm điều gì, hãy suy xét, tìm hiểu kỹ càng rồi mới làm, tiến lui thận trọng, lấy bài học lịch sử đã qua làm điều răn cho tương lai. Những lời này tuy rất đỗi bình thường, nhưng sức ảnh hưởng đối với sự thành bại lại rất lớn lao.
- Nguyên văn:
動則三思慮而後行,重慎出入,以往鑒來。言之若輕,成敗甚重。(魏志下)
- Phiên âm:
Động tắc tam tư lự nhi hậu hành, trọng thận xuất nhập, dĩ vãng giám lai. Ngôn chi nhược khinh, thành bại thậm trọng. (Ngụy Chí Hạ)
48 - Lời dịch (tham khảo):
Thưởng - phải đủ để khiến người ta cảm thấy vinh hiển [hân hoan làm việc tốt], phạt - phải đáng để khiến người ta cảm thấy kinh sợ [không dám làm việc ác], thì những người có trí sẽ biết rằng: sự vinh hay nhục tất có liên hệ với hành vi của mình, tùy theo việc làm tốt-xấu, thiện-ác của bản thân mà đến. Do vậy, cái tâm hướng về điều lành được nảy sinh, ý niệm gian dối làm loạn sẽ dừng lại.
- Lời dịch 02 (tham khảo):
Thưởng - phải đủ để khiến người ta cảm thấy vinh hiển [hân hoan làm việc tốt], phạt - phải đáng để khiến người ta cảm thấy kinh sợ [không dám làm việc ác], thì những kẻ biết suy nghĩ sẽ tự hiểu rằng: sự vinh hay nhục tất có liên hệ với hành vi của mình, tùy theo việc làm tốt-xấu, thiện-ác của bản thân mà đến. Do vậy, cái tâm hướng về điều lành được nảy sinh, ý niệm gian dối làm loạn sẽ dừng lại.
- Chánh văn:
賞足榮而罰可畏,智者知榮辱之必至。是故勸善之心生,而不軌之奸息。(袁子正書)
- Phiên âm:
Thưởng túc vinh nhi phạt khả úy, trí giả tri vinh nhục chi tất chí. Thị cố khuyến thiện chi tâm sinh, nhi bất quỹ chi gian tức. (Viên Tử Chính Thư)
49 - Lời dịch (tham khảo):
Khi việc ban thưởng không vì mục đích phát huy tác dụng khuyến khích con người làm việc tốt, đây cũng như ‘ngăn cản điều thiện’; khi việc xử phạt không vì mục đích phát huy tác dụng ngăn chặn việc làm xấu ác, đây cũng như ‘dung túng cho điều ác’.
- Nguyên văn:
賞不勸,謂之止善;罰不懲,謂之縱惡。(申鑒)
- Phiên âm:
Thưởng bất khuyến, vị chi chỉ thiện; phạt bất trừng, vị chi túng ác. (Thân Giám)
50 - Lời dịch (tham khảo):
Giáo hóa đạo đức là công việc thường làm của các bậc Quân vương, còn hình phạt chỉ là phương tiện để trợ giúp cho việc giáo hóa đạo đức mà thôi.
- Chánh văn:
德教者,人君之常任也,而刑罰為之佐助焉。(昌言)
- Phiên âm:
Đức giáo giả, nhân quân chi thường nhiệm dã, nhi hình phạt vi chi tá trợ yên. (Xương Ngôn)
51 - Lời dịch (tham khảo): Những bậc Quân vương thời xưa, không ai là không đặt sự nghiệp giáo dục làm nhiệm vụ trọng yếu trong việc trị nước. Lập nên Thái Học[1] ở kinh đô để thực hiện và thúc đẩy việc giáo dục trong cả nước, lập ra Tường Tự[2] để triển khai việc giáo dục ở địa phương. [Lại dùng những đức hạnh tốt đẹp (nhân, lễ, nghĩa,…) để giáo hóa nhân dân][3]. Do vậy, dù hình phạt rất nhẹ, cũng không có người vi phạm, [đó là vì] nền giáo dục (tốt đẹp) được thực thi rộng rãi thì phong tục trở nên tốt lành.
- Nguyên văn: 古之王者,莫不以教化為大務。立大學以教於國,設庠序以化於邑,[漸民以仁,摩民以義,節民以禮]。故其刑罰甚輕而禁不犯者,教化行而習俗美也。(漢書)
- Phiên âm: Cổ chi vương giả, mạc bất dĩ giáo hóa vi đại vụ. Lập thái học dĩ giáo ư quốc, thiết tường tự dĩ hóa ư ấp, tiệm dân dĩ nhân, ma dân dĩ nghĩa, tiết dân dĩ lễ. Cố kỳ hình phạt thậm khinh nhi cấm bất phạm giả, giáo hóa hành nhi tập tục mỹ dã. (Hán Thư)
- Ghi chú:
1.Chữ đại 大, xưa dùng như chữ Thái 太. Thái Học là nơi dạy học cấp cao nhất của cả nước.
2.Tường Tự: Trường học cấp địa phương thời xưa.
3. Đoạn dịch trong [], chúng tôi dịch thoát ý, và có đánh dấu lại trong nguyên văn.
52 - Lời dịch (tham khảo): Các vị Thánh (vương) đời trước, không phí/ra sức quản lí tất cả các sự việc của dân, mà dốc lòng chỉnh đốn nội tâm của họ. Bởi thế, đức Khổng Tử đã từng nói rằng: “Việc xử lý các vụ án, ta cũng làm được như người khác, nhưng điều ta muốn làm hơn là: [dạy dân những đức hạnh tốt đẹp] để khiến cho các vụ tố tụng không nảy sinh nữa”, “dùng đạo đức để dẫn dắt muôn dân, dùng lễ nghĩa để chấn chỉnh nhân dân”. Khi người dân thương yêu lẫn nhau sẽ không nghĩ cách tổn hại nhau, nếu làm việc gì cũng nghĩ đến đạo nghĩa sẽ không sinh lòng gian trá xấu ác. Những điều này, không phải là do dùng pháp luật chi phối hoàn toàn mà được, cũng không phải do việc dùng hình phạt nghiêm khắc bắt ép mà được, mà chính là thành tựu của nền giáo dục (đạo đức tốt đẹp) đem lại.
- Nguyên văn: 上聖不務治民事,而務治民心。故曰:『聽訟,吾由人也,必也使無訟乎』;『導之以德,齊之以禮』。民親愛則無相害傷之意,動思義則無奸邪之心。夫若此者,非法律之所使也,非威刑之所強也,此乃教化之所致也。(潛夫論)
- Phiên âm: Thượng Thánh bất vụ trị dân sự, nhi vụ trị dân tâm. Cố viết: “Thính tụng, ngô do nhân dã, tất dã sử vô tụng hồ”, “đạo chi dĩ đức, tề chi dĩ lễ”. Dân thân ái tắc vô tương hại thương chi ý, động tư nghĩa tắc vô gian tà chi tâm. Phù nhược thử giả, phi pháp luật chi sở sử dã, phi uy hình chi sở cưỡng dã, thử nãi giáo hóa chi sở trí dã. (Tiềm Phu Luận)
53 - Lời dịch (tham khảo): Trước kia, khi Trọng Cung đã là quản gia cho nhà Quý Thị và Tử Du đã làm quan ở Vũ Thành, Đức Khổng Tử vẫn còn căn dặn họ phải trọng dụng người có đức có tài, và luôn dò hỏi xem họ đã dùng người xác đáng hay chưa. Điều này cho thấy, việc chính sự dẫu lớn hay nhỏ, đều phải xem việc dùng người là gốc.
- Nguyên văn: 昔仲弓季氏之家臣,子游武城之小宰,孔子猶誨以賢才,問以得人。明政之小大,以人為本。(後漢書)
- Phiên âm: Tích Trọng Cung Quý thị chi gia thần, Tử Du Vũ Thành chi tiểu tể, Khổng Tử do hối dĩ hiền tài, vấn dĩ đắc nhân. Minh chính chi tiểu đại, dĩ nhân vi bổn. (Hậu Hán Thư)
54 - Lời dịch (tham khảo): Hình phạt mà các vị Thánh nhân sử dụng, vốn dĩ đã rất công bằng rồi, nhưng người vẫn lo rằng sẽ có việc chưa được phân xử thích đáng. Có câu: “Thà làm lợi cho kẻ có tội, còn hơn làm hại người vô tội”. Người hiểu sâu sắc rằng: việc phân xử có được thích đáng hay không, rất khó có thể khẳng định, thế nên người dùng việc giáo hóa (đạo đức tốt đẹp) để bổ cứu. Đây chính là điều mà các bậc Thánh nhân trước đây đã dốc sức thực hiện.
- Nguyên văn: 聖人之於法也已公矣,然猶身懼其未也。故曰:『與其害善,寧其利淫。』知刑當之難必也,從而救之以化,此上古之所務也。(體論)
- Phiên âm: Thánh nhân chi ư pháp dã dĩ công hỹ, nhiên do thân cụ kỳ vị dã. Cố viết: “Dữ kỳ hại thiện, ninh kỳ lợi dâm.” Tri hình đáng chi nan tất dã, tòng nhi cứu chi dĩ hóa, thử thượng cổ chi sở vụ dã. (Thể Luận)
55 - Lời dịch (tham khảo): Đức Khổng Tử nói rằng: “Các vị Thánh nhân, dùng giáo dục để cải hóa và trị yên thiên hạ, cũng (phải) kết hợp sử dụng hình phạt và pháp lệnh. Cách tốt nhất là dùng những đạo đức tốt đẹp giáo hóa nhân dân, dùng lễ ràng buộc họ để họ không sa vào những thói xấu. Kế đến, dùng pháp lệnh để dẫn dắt người dân vào khuôn phép và dùng hình phạt để nghiêm cấm người dân phạm tội. Nếu đã giáo hóa mà người không thay đổi tốt, đã chỉ bảo mà người không nghe theo điều lành, lại đi làm những việc thương thiên hại lý, trái với đạo nghĩa, bại hoại phong tục, gây ảnh hưởng xấu đến xã hội, thì phải dùng hình phạt để trừng trị.”
- Nguyên văn: 孔子曰:『聖人之治化也,必刑政相參焉。太上以德教民,而以禮齊之。其次以政導民,以刑禁之。化之弗變,導之弗從,傷義敗俗,於是乎用行矣。』(孔子家語)
- Phiên âm: Khổng Tử viết: “Thánh nhân chi trị hóa dã, tất hình chính tương tham yên. Thái thượng dĩ đức giáo dân, nhi dĩ lễ tề chi. Kỳ thứ dĩ chính đạo dân, dĩ hình cấm chi. Hóa chi phất biến, đạo chi phất tùng, thương nghĩa tặc tục, ư thị hồ dụng hành hỹ.” (Khổng Tử Gia Ngữ)
56 - Lời dịch (tham khảo): Pháp luật, có thể răn phạt kẻ bất hiếu, nhưng không thể khiến họ có tâm hiếu thảo (yêu thương, kính trọng, biết ơn, phụng dưỡng,… cha mẹ); có thể xử phạt kẻ trộm cắp, nhưng không thể khiến họ có tâm liêm sỉ (không tham của cải, biết tránh những điều làm cho mình phải xấu hổ, có chí tiến thủ, biết phấn đấu vươn lên,…);…
- Nguyên văn: 法能教不孝,不能使人孝;能刑盜者,不能使人廉恥。(文子)
- Phiên âm: Pháp năng giáo bất hiếu, bất năng sử nhân hiếu; năng hình đạo giả, bất năng sử nhân liêm sỉ. (Văn Tử)
57 - Lời dịch (tham khảo): Những bậc quân vương đức độ, thánh minh, thông hiểu sự lý, sẽ dốc lòng vào việc giáo hóa, mà giảm thiểu các biện pháp nghiêm cấm và phòng ngừa (điều luật, hình phạt, chế tài,…), bởi họ hiểu rằng: các biện pháp ngăn cấm phòng ngừa, không đủ để trông cậy hoàn toàn, [không đủ để giúp nhân dân được yên vui hết mực,… ].
- Nguyên văn: 聖王務教化而省禁防,知其不足恃也。(漢書)
- Phiên âm: Thánh vương vụ giáo hóa nhi tỉnh cấm phòng, tri kỳ bất túc thị dã. (Hán Thư)
58 - Lời dịch (tham khảo):
Người quân tử có thể làm được việc[1] đáng để người khác tôn trọng, nhưng không thể bắt buộc người khác phải tôn trọng mình; có thể làm được việc đáng để người khác tin tưởng, nhưng không thể bắt buộc người khác phải tin tưởng mình; có thể làm được việc đáng để người khác trọng dụng, nhưng không thể bắt buộc người khác phải trọng dụng mình,…
Bởi vậy người quân tử: (nên) hổ thẹn vì chính mình đã không tu dưỡng phẩm đức cho tốt, không (nên) hổ thẹn vì bị sỉ nhục[2]; (nên) hổ thẹn vì chính mình đã không giữ chữ tín, không (nên) hổ thẹn vì không được tin cậy; (nên) hổ thẹn vì bản thân bất tài, không (nên) hổ thẹn vì không được tin dùng,...
Cho nên người quân tử: không bị lời khen cám dỗ, không vì lời phỉ báng làm cho sợ hãi. Người quân tử cứ theo chính đạo mà làm, tự đoan chính bản thân, không để vật chất làm dao động,…
Đó mới gọi là bậc quân tử chân chính.
- Chánh văn:
君子能為可貴,不能使人必貴己;能為可信,不能 使人必信己;能為可用,不能使人必用己。故君子恥不修,不恥見污;恥不信,不恥不見信;恥不能,不恥不見用。是以不誘於譽,不恐於誹,率道而行,端然正己,不為物傾側,夫是之謂誠君子。(孫卿子)
- Phiên âm:
Quân tử năng vi khả quý, bất năng sử nhân tất quý kỉ; năng vi khả tín, bất năng sử nhân tất tín kỉ; năng vi khả dụng, bất năng sử nhân tất dụng kỉ. Cố quân tử sỉ bất tu, bất sỉ kiến ô; sỉ bất tín, bất sỉ bất kiến tín; sỉ bất năng, bất sỉ bất kiến dụng. Thị dĩ bất dụ ư dự, bất khủng ư phỉ, suất đạo nhi hành, đoan nhiên chánh kỉ, bất vị vật khuynh trắc, phù thị chi vị thành quân tử. (Tôn Khanh Tử)
Ghi chú:
1. Có thể dịch ‘làm được việc’ hoặc ‘trở thành người’,…
2. Đoạn này có ý là: Để tâm ở mình, chớ không nên để tâm ở người; để tâm ở đức hạnh, việc làm của mình, chớ đừng để tâm ở những lời khen-chê, cách người đối đãi với mình,... Tiên trách kỷ, hậu trách nhân. Có như vậy lòng ta mới không bị tiếng khen cám dỗ (chạy theo tiếng khen có thể làm ta trở nên không chân thật, hoặc làm những việc giả dối, hoặc cứ luôn đố kỵ với kẻ khác,…), cũng không bị lời chê làm cho lo sợ, sầu muộn, oán hận;…
59- Lời dịch (tham khảo):
Khi nhà bị cháy, mà có người đến cứu giúp, người ta ai ai cũng đều biết ơn và báo đáp ân đức ấy; nhưng khi có bậc trưởng bối, nhiều kinh nghiệm, nhìn thấy nguy cơ và khuyên khắc phục nguy cơ đó[1] nhằm ngăn ngừa hậu họa, việc đó có khi giúp cả đời không xảy ra hỏa hoạn, nhưng người ta lại không biết đến ân đức ấy.
Khi người ta rơi vào cảnh ngục tù, mà có người giải cứu, có khi người thân ba đời đều cảm kích và báo đáp ân đức ấy; nhưng khi có người đức độ chỉ dạy những điều: nhân nghĩa, từ ái, hiếu đễ,… điều này giúp mình cả đời không làm những điều sai trái tội lỗi, do đó không mắc phải tai nạn nào cả, lại có thể sống yên vui bên gia đình và người thân, nhưng người ta lại không biết đến ơn đức ấy.
Ôi! Tai họa trên thế gian, cũng giống như những trường hợp trên vậy[2], (đều có thể phòng tránh, ngăn chặn từ đầu,…). Bởi vậy mà những trang Hiền trí khi làm việc giúp đời, họ sẽ chuyên chú vào những việc ngăn chặn nguyên nhân gốc rễ của tai họa, khiến cho thiên hạ miễn trừ [được rất nhiều tai ương, công sức, phí tổn,… thậm chí có thể tránh được] nạn chiến tranh, nhưng người đời ít ai có thể biết & hiểu hết được công đức ấy.
Bởi vậy mới nói: “Thánh nhân tiêu trừ tai họa khi vẫn còn đang tiềm ẩn, còn kẻ ngu thì lại tranh công khi sự thể đã hiển bày”.
- Nguyên văn: 屋焚而人救之,則知德之;年老者,使塗隙戒突,故終身無失火之患,而不知德也。入於囹圄,解於患難者,則三族德之;教之以仁義慈悌,則終身無患,而莫之德。夫禍亦有突,賢者行天下,而務塞之,則天下無兵患矣,而莫之知德也。故曰:『聖人治於神,愚人爭於神也。』(尸子)
- Phiên âm: Ốc phần nhi nhân cứu chi, tắc tri đức chi; niên lão giả, sử đồ khích giới đột, cố chung thân vô thất hỏa chi hoạn, nhi bất tri đức dã. Nhập ư linh ngữ, giải ư hoạn nạn giả, tắc tam tộc đức chi; giáo chi dĩ nhân nghĩa từ đễ, tắc chung thân vô hoạn, nhi mạc chi đức. Phù họa diệc hữu đột, hiền giả hành thiên hạ, nhi vụ tắc chi, tắc thiên hạ vô binh hoạn hỹ, nhi mạc chi tri đức dã. Cố viết: “Thánh nhân trị ư thần, ngu nhân tranh ư thần dã.” (Thi Tử)
- Ghi chú:
1.Ngày xưa, có lẽ nguyên nhân xảy ra hỏa hoạn nhiều nhất là từ ống khói mà ra. Trong nguyên văn, việc ngăn ngừa hỏa hoạn là: lấy bùn trét lên khe hở ống khói để bịt kín khe hở lại.
2. Lời dịch thoát ý.
60- Lời dịch (tham khảo):
Tử Lộ là một thường dân xứ Biện, Tử Cống là một nhà buôn xứ Vệ, Nhan Trác Tụ vốn là một tên ăn trộm, Chuyên Tôn Sư từng là kẻ vô lại phạm tội. Sau khi theo học với thầy Khổng, thì đều trở thành những trang Hiền sĩ có tiếng.
- Phụ đính: Trong Kinh điển Phật pháp, cũng có những điển tích Đức Phật thuyết pháp giáo hóa cho người gánh phân, người kỹ nữ, kẻ sát nhân,… về sau, họ đều trở thành những vị thầy đức độ, đáng kính.
- Nguyên văn: 子路卞之野人,子貢衛之賈人,顏涿聚盜也,顓孫師駔也。孔子教之皆為顯士。(尸子)
- Phiên âm: Tử Lộ biện chi dã nhân, Tử Cống vệ chi cổ nhân, Nhan Trác Tụ đạo dã, Chuyên Tôn Sư tảng dã. Khổng Tử giáo chi, giai vi hiển sĩ. (Thi Tử)
61 - Lời dịch 01 (tham khảo):
Từ trong giếng sâu mà nhìn ngắm sao trời, những gì thấy được chẳng qua chỉ có mấy vì sao; (còn nếu) ở trên đồi cao mà nhìn ngắm sao trời, tất có thể thấy được [cả bầu trời sao rộng lớn, lại thấy được cả khi] chúng bắt đầu hiện lên và dần dần lặn mất. Điều này không phải do thị lực thay đổi tốt hơn, mà do ‘vị trí’, ‘tâm thế’, ‘góc nhìn’,… khác nhau thành ra như vậy.
Người có tư tâm, khi xử thế - làm việc, ‘tâm thế’, ‘góc nhìn’ của họ đối với sự việc cũng giống như người từ trong giếng sâu nhìn ngắm sao trời vậy; và người công tâm, khi xử thế - làm việc, ‘tâm thế’, ‘góc nhìn’ của họ đối với sự việc cũng giống như người ở trên đồi cao nhìn ngắm sao trời vậy.
Bởi vậy, những điều mà người có lòng tư tâm biết được, hiểu được,… rất hạn hẹp, thiển cận,…; và những điều mà người công tâm biết được, hiểu được,… sẽ tỏ tường, sâu sắc,…
- Lời dịch 02 (tham khảo):
Từ trong giếng sâu mà nhìn ngắm sao trời, những gì thấy được chẳng qua chỉ có mấy vì sao; (nếu như) ở trên đồi cao mà nhìn ngắm sao trời, tất có thể thấy được [cả bầu trời sao rộng lớn, lại thấy được cả khi] chúng bắt đầu hiện lên và dần dần lặn mất. Điều này không phải do thị lực thay đổi tốt hơn, mà do ‘vị trí’, ‘tâm thế’, ‘góc nhìn’,… khác nhau thành ra như vậy.
Nếu dùng tư tâm khi xử thế - làm việc, ‘tâm thế’, ‘góc nhìn’ của mình đối với sự việc cũng giống như người từ trong giếng sâu nhìn ngắm sao trời vậy; và nếu công tâm khi xử thế - làm việc, ‘tâm thế’, ‘góc nhìn’ của mình đối với sự việc cũng giống như người ở trên đồi cao nhìn ngắm sao trời vậy.
Bởi vậy, ‘trí tuệ’, nếu dùng ở trên lòng tư tâm thì những điều mình biết được, hiểu được,… sẽ hạn hẹp, thiển cận; nếu dùng ở trên lòng công tâm thì những điều mình biết được, hiểu được,… sẽ sâu sắc, tinh tế.
- Nguyên văn: 因井中視星,所視不過數星;自丘上以視,則見其始出,又見其入。非明益也,勢使然也。夫私心,井中也;公心,丘上也。故智載於私,則所知少;載於公,則所知多矣。(尸子)
- Phiên âm: Nhân tỉnh trung thị tinh, sở thị bất quá sổ tinh; tự khâu thượng dĩ thị tắc kiến kỳ thủy xuất, hựu kiến kỳ nhập. Phi minh ích dã, thế sử nhiên dã. Phù tư tâm, tỉnh trung dã; công tâm, khâu thượng dã. Cố trí tái ư tư, tắc sở tri thiểu; tái ư công, tắc sở tri đa hỹ. (Thi Tử)
62 - Lời dịch (tham khảo): Khi tai họa chỉ mới vừa bắt đầu, tựa như ngọn lửa vừa nhen nhóm, như chồi non mới mọc, có thể dễ dàng ngăn chặn; nếu đợi đến khi nó phát triển thành đại họa, vậy thì dẫu có đức độ và tài ba như Khổng Tử hay Mặc Địch cũng chẳng thể cứu vãn được tình thế.
- Nguyên văn: 夫禍之始也,猶熛火蘖足也,易止也;及其措於大事,雖孔子墨翟之賢,弗能救也。(尸子)
- Phiên âm: Phù họa chi thủy dã, do tiêu hỏa nghiệt túc dã, dị chỉ dã; cập kỳ thố ư đại sự, tuy Khổng Tử, Mặc Địch chi hiền, phất năng cứu dã. (Thi Tử)
63 - Lời dịch (tham khảo): Chọn người tài đừng chỉ lựa lấy người có danh. Danh tiếng tựa như cái bánh vẽ trên đất, không thể ăn được.
- Nguyên văn: 選舉莫取有名,名如畫地作餅,不可啖。(魏志下)
- Phiên âm: Tuyển cử mạc thủ hữu danh, danh như họa địa tác bính, bất khả đạm. (Ngụy Chí hạ)
- Lời bàn:
Hình ảnh ẩn dụ: hình vẽ cái bánh trên đất, chỉ có hình không có thực, không thể nào ăn được. Như người chỉ có hư danh (do giỏi ba hoa, phô trương,…) mà không có thực lực, tài đức, không đủ sức để đảm nhiệm, cáng đáng công việc.
64 - Lời dịch (tham khảo): Mắt của con người, có thể nhìn thấy tận chân trời ở xa, nhưng lại không thấy được khóe mắt ở gần, [phải nhờ vào vật khác (như: gương, kính,…) mới thấy được]. Tâm con người cũng như thế. Người quân tử thực sự hiểu rằng: tâm cũng giống như con mắt vậy, phải nhờ vào người khác để hiểu rõ bản thân, nhận ra điểm tốt-xấu, hay-dở,… của mình.
- Nguyên văn: 目也者,遠察天際,而不能近見其眥。心亦如之。君子誠知心之似目也,是以務鑒於人以觀得失。(中論)
- Phiên âm: Mục dã giả, viễn sát thiên tế, nhi bất năng cận kiến kỳ tí. Tâm diệc như chi. Quân tử thành tri tâm chi tự mục dã, thị dĩ vụ giám ư nhân dĩ quán đắc thất. (Trung Luận)
65 - Lời dịch (tham khảo): Thiên hạ có ba sự thật tất yếu: một là, dẫu thông minh thế nào cũng có sự bất thành; hai là, sức lực dẫu lớn thế nào cũng có thứ không thể nâng nổi; ba là, dẫu khỏe mạnh thế nào cũng có lúc bị đánh bại. Bởi vậy, dẫu có trí tuệ như vua Nghiêu mà không có sự trợ giúp của nhiều người, cũng không có cách gì để gây dựng đại nghiệp; dẫu có sức mạnh như lực sĩ Ô Hoạch mà không có sự trợ giúp của người khác, cũng không thể tự nhấc chính mình lên được; dẫu có cường tráng như dũng sĩ Mạnh Bôn, Hạ Dục mà không có chiến thuật, phương pháp,… đúng đắn, cũng không thể giành thắng lợi mãi được.
- Nguyên văn:
天下有信數三:一曰智有所不能立;二曰力有所不能舉;三曰強有所不能勝。故雖有堯之智,而無眾人之助,大功不立;有烏獲之勁,而不得人助,不能自舉;有賁、育之強,而無術法,不得長生。(韓子)
- Phiên âm:
Thiên hạ hữu tín số tam: nhất viết trí hữu sở bất năng lập, nhị viết lực hữu sở bất năng cử, tam viết cường hữu sở bất năng thắng. Cố tuy hữu Nghiêu chi trí, nhi vô chúng nhân chi trợ, đại công bất lập; hữu Ô Hoạch chi kính, nhi bất đắc nhân trợ, bất năng tự cử; hữu Bôn, Dục chi cường, nhi vô thuật pháp, bất đắc trường sinh. (Hàn Tử)
66 - Lời dịch (tham khảo): Những bậc Thánh nhân mưu cầu lợi ích cho nhân dân trong thiên hạ, sẽ không vì tư tình hay sự nóng giận của bản thân, mà làm hại đến việc công của thiên hạ.
- Nguyên văn: 夫聖人以天下為度者也,不以己私怒,傷天下之功。(漢書)
- Phiên âm: Phù thánh nhân dĩ thiên hạ vi độ giả dã, bất dĩ kỷ tư nộ, thương thiên hạ chi công. (Hán Thư)
67 - Lời dịch (tham khảo):
Những việc thực sự tốt đẹp, có ý nghĩa to lớn, lại thường vì nội hàm sâu xa nên khó có thể biểu đạt tỏ tường; những việc thực sự lợi ích và ảnh hưởng lâu dài, lại khó có thể chứng minh trong thời gian ngắn. Cho nên những việc ấy, thường bị người đời bỏ dở, xem thường.
- Nguyên văn:
夫美大者深而難明,利長者不可以倉卒形也,故難明張利之事廢於世。(劉廙政論)
- Phiên âm:
Phù mỹ đại giả thâm nhi nan minh, lợi trường giả bất khả dĩ thảng thốt hình dã, cố nan minh trương lợi chi sự phế ư thế. (Lưu Dực Chính Luận)
68 - Lời dịch (tham khảo):
Vua Tề Cảnh Công hỏi Yến Tử: “Các vị lãnh đạo trị quốc an dân thuở xưa, họ đã dùng người như thế nào?”. Yến Tử trả lời: “Mỗi vùng đất khác nhau sẽ có những loại cây trồng riêng, phải chọn và trồng những loại cây thích hợp với vùng đất đó, thì mới cho kết quả tốt; nếu trên một vùng đất mà muốn hết thảy các loài cây đều sinh trưởng tốt, đều đó là không thể được. Cũng vậy, mỗi người có năng lực khác nhau, phải chọn và sắp xếp người có năng lực thích hợp vào công việc tương xứng, thì mới đạt hiệu quả cao; không thể đòi hỏi một người phải làm được nhiều loại công việc, giao cho họ làm quá nhiều việc,… Nếu cứ đòi hỏi, yêu cầu không ngừng, thì dù người tài năng nhất cũng [không thể hoàn thành tốt, không thể đạt hiệu quả cao,] không thể làm hài lòng vừa ý được; cũng như người có lòng tham vô độ, thì dù tất cả vạn vật trong trời đất đều thuộc về họ, cũng không thể thỏa mãn được lòng tham của họ.”
- Nguyên văn: 景公問晏子曰:“古之蒞國治民者,其任民何如?”。對曰:“地不同宜,而任之以一種,責其俱生,不可得也;人不同能,而任之以一事,不可責遍成焉。責焉無已,知者有不能洽(洽作給)矣;求焉無饜,天地有不能贍矣”。(晏子)
- Phiên âm: Cảnh Công vấn Yến Tử, viết: “Cổ chi lị quốc trị dân giả, kỳ nhiệm dân hà như?”. Đối viết: “Địa bất đồng nghi, nhi nhiệm chi dĩ nhất chủng, trách kỳ câu sinh, bất khả đắc dã; Nhân bất đồng năng, nhi nhiệm chi dĩ nhất sự, bất khả trách biến thành yên. Trách yên vô dĩ, trí giả hữu bất năng hiệp (hiệp tác cấp) hỹ; Cầu yên vô yếm, thiên địa hữu bất năng thiệm hỹ”. (Yến Tử)
69 - Lời dịch (tham khảo): Đối với người hiền trí đại lược [bởi lòng nhân đức, mưu tính vì đại cục, đem lại lợi ích chung tốt đẹp lâu dài cho đoàn thể,…] không thể đòi hỏi họ (miệng lưỡi) nhanh nhạy, giỏi xoay xở,…; đối với người có chút tiểu trí (khôn lỏi, ranh mãnh,…) không thể bổ nhiệm họ vào những công việc quan trọng, lớn lao.
- Nguyên văn: 有大略者,不可責以捷巧;有小智者,不可任以大功。(淮南子)
- Phiên âm: Hữu đại lược giả, bất khả trách dĩ tiệp xảo; hữu tiểu trí giả, bất khả nhiệm dĩ đại công. (Hoài Nam Tử)
70 - Lời dịch (tham khảo): Dù là danh y Biển Thước, cũng không thể chữa được bệnh nếu người bệnh không tiếp nhận phương pháp chữa trị (châm cứu, uống thuốc,…); dù là Hiền Thánh, cũng không thể ngăn chặn được sai lầm của quân vương nếu quân vương không tiếp thu lời khuyên gián. Bởi vậy, dẫu Hạ Kiệt có người hiền như Quan Long Phùng nhưng nhà Hạ vẫn bị diệt vong; dẫu Thương Trụ có cả ba người hiền là: Vy Tử, Cơ Tử, Tỷ Can, nhưng nhà Thương vẫn bị diệt vong. Có thể thấy, không cần lo lắng hạ thần không có tài biện luận như Quản Trọng hay Do Dư, chỉ e quân vương không sẵn lòng tiếp nhận lời khuyên như Tề Hoàn Công hay Tần Mục Công mà thôi.
- Nguyên văn: 扁鵲不能治不受鍼藥之疾,賢聖不能正不食善言之君。故桀有關龍逢而夏亡;紂有三仁而商滅。故不患無夷吾由余之論,患無桓、穆之聽耳 。(鹽鐵論)
- Phiên âm: Biển Thước bất năng trị bất thọ châm dược chi tật, hiền thánh bất năng chính bất thực thiện ngôn chi quân. Cố Kiệt hữu Quan Long Phùng nhi Hạ vong, Trụ hữu tam nhân nhi Thương diệt. Cố bất hoạn vô Di Ngô, Do Dư chi luận; hoạn vô Hoàn, Mục chi thính nhĩ. (Diêm Thiết Luận)
71 - Lời dịch (tham khảo): Nước thịnh nhà an là bởi có được người tài, nước mất nhà tan cũng là do để mất họ. Bởi vậy, bậc minh quân và hiền thần, dẫu phải chịu thiệt thòi cũng phải khiến cho những trang hiền sĩ được trọng dụng và tài năng của họ được phát huy hết mức.
- Nguyên văn: 治國安家,得人者也;亡國破家,失人者也。是以明君賢臣,屈己而申人。(三略)
- Phiên âm: Trị quốc an gia, đắc nhân giả dã; vong quốc phá gia, thất nhân giả dã. Thị dĩ minh quân hiền thần, khuất kỷ nhi thân nhân. (Tam Lược)
72 - Lời dịch (tham khảo):
Dù nhanh như ánh chớp, cũng không thể ngăn chặn được lời nói sai đã nói ra; dù một người thợ giỏi, lành nghề, cũng không thể mài giũa được vết nhơ mà lời lẽ thất thiệt lưu lại.
Tuy không thể lúc nào cũng có thể suy nghĩ kỹ càng nhiều lần để nói ra những lời lẽ khéo léo hay ho; nhưng việc ngừng nói ra những lời chế nhạo, bỡn cợt (hiểm độc, bậy bạ),… để ngăn chặn mầm mống của tai họa thì hoàn toàn có thể làm được.
- Nguyên văn: 激電不能追既往之失辭,班輪不能磨斯言之既玷。雖不能三思而吐情談,猶可息謔調以杜禍萌也。(抱朴子)
- Phiên âm: Kích điện bất năng truy kí vãng chi thất từ, Ban Luân bất năng ma tư ngôn chi kí điếm. Tuy bất năng tam tư nhi thổ tình đàm, do khả tức hước điều dĩ đỗ họa manh dã. (Bão Phác Tử)
73 - Lời dịch (tham khảo): Thay vì khiến cho mọi người sợ hình phạt để không dám làm những chuyện trộm cướp, tốt hơn nên khiến cho người ta không còn ý muốn trộm cướp nữa.
- Nguyên văn: 夫使天下畏刑而不敢盜竊,豈若使無有盜心哉!(文子)
- Phiên âm: Phù sử thiên hạ úy hình nhi bất cảm đạo thiết, khởi nhược sử vô hữu đạo tâm tai! (Văn Tử)
74 - Lời dịch (tham khảo): Nước Tấn bị nạn trộm cướp hoành hành, nhân dân rất khổ. Khi ấy, có một người tên Khích Ung, có biệt tài xem tướng, đoán biết dân ăn trộm*. Vua nước Tấn mới nhờ Khích Ung chỉ bắt bọn trộm, Khích Ung tuân lệnh, bắt được cả mấy trăm tên, chẳng bắt oan một ai. Vua nước Tấn vô cùng phấn khích, báo cho Triệu Văn Tử biết, nói: “Ta được một người, mà bọn trộm cả nước rồi đây sẽ bị bắt hết, đâu cần nhiều người làm chi?”. Văn Tử nói: Nhà vua chỉ dựa vào dò xét (dò la, tra xét, xem tướng,…) để bắt bọn trộm, thì tình hình trộm cắp sẽ không dứt hết đâu! Và rồi Khích Ung sẽ không được toàn mạng”. Chẳng bao lâu bọn trộm họp nhau lại nói: “Chúng ta bị cùng khốn đều do Khích Ung cả”. Rồi chúng cử người giết Khích Ung. Vua Tấn nghe tin rất sợ hãi, liền triệu Văn Tử vào, nói: “Quả như lời ông nói, Khích Ung chết rồi, giờ đây ta phải làm sao để bắt bọn trộm?”. Văn Tử nói: “[…] Nhà vua muốn không còn bọn trộm hoành hành nữa, thì không gì bằng chọn lấy người hiền đức và trọng dụng họ, khiến cho (chính sách, mệnh lệnh,…) ở trên được sáng tỏ (thông suốt, rõ ràng,…), bên dưới thì được giáo hóa (biến đổi trở nên thuần hậu, tốt đẹp,…). Người dân có tâm liêm sỉ, thì còn ai đi trộm cướp làm chi”. Ngay sau đó, vua Tấn dùng Tùy Hội chủ trì việc chính sự, và bọn trộm đều chạy sang nước Tần.
- Nguyên văn: 晉國苦盜,有郤雍者,能視盜之貌,察其眉睫之間,而得其情。晉侯使視盜,千百無遺一焉。晉侯大喜,告趙文子曰:“吾得一人,而一國盜為盡矣,奚用多為?文子曰:“吾君恃伺察而得盜,盜不盡矣。且郤雍必不得其死焉”。俄而群盜謀曰:“吾所窮者郤雍也”。遂共盜而戕之。晉侯聞大駭,立召文子而告之曰:“果如子言,卻雍死矣!然取盜何方?」文子曰:「[…]且君若欲無盜,若莫舉賢而任之;使教明於上,化行於下,民有恥心,則何盜之為?」於是用隨會知政,而群盜奔秦焉.(列子)
- Phiên âm: Tấn quốc khổ đạo, hữu Khích Ung giả, năng thị đạo chi mạo, sát kỳ mi tiệp chi gian, nhi đắc kỳ tình. Tấn hầu sử thị đạo, thiên bách vô di nhất yên. Tấn hầu đại hỉ, cáo Triệu Văn Tử viết: “Ngô đắc nhất nhân, nhi nhất quốc đạo vi tận hĩ, hề dụng đa vi?” Văn Tử viết: “Ngô quân thị tứ sát nhi đắc đạo, đạo bất tận hỹ, thả Khích Ung tất bất đắc kỳ tử yên”. Nga nhi quần đạo mưu viết: “Ngô sở cùng giả Khích Ung dã”. Toại cộng đạo nhi tường chi. Tấn hầu văn đại hãi, lập triệu Văn Tử nhi cáo chi, viết: “Quả như tử ngôn, Khích Ung tử hỹ! Nhiên thủ đạo hà phương?”. Văn Tử viết: “[…] Thả quân nhược dục vô đạo, nhược mạc cử hiền nhi nhiệm chi; sử giáo minh ư thượng, hóa hành ư hạ, dân hữu sỉ tâm, tắc hà đạo chi vi?” Ư thị dụng Tùy Hội tri chính, nhi quần đạo bôn Tần yên. (Liệt Tử)
75 - Lời dịch (tham khảo):
Kẻ tiểu nhân, mới khi sáng làm việc, đến chập tối đã mong thành công; vừa ngồi xuống thực hiện, khi đứng dậy đã trông ngóng có báo đáp; mới chỉ một ngày làm việc tốt, đã hy vọng có một đời vinh quang. Khi chưa có được vinh quang, liền cho rằng làm việc tốt chẳng có ích gì, thế là hoài nghi lời dạy của Thánh nhân, làm trái lời khuyên răn của Tiên vương, mà giữ lấy cách làm sai lầm từ trước đó của mình, xuôi theo những ham muốn tầm thường thế tục [làm những chuyện sai trái không đúng]. Bởi vậy mà thân bại danh liệt[1], để rồi trở thành kẻ bị người khác sai khiến[2].
- Nguyên văn:
小人朝為,而夕求其成;坐施而立望其及;行一日之善,而問終身之譽。譽不至則曰:善無益矣。遂疑聖人之言,背先王之教,存其舊術,順其常好。是以身辱名賤,而永為人役也。(中論)
- Phiên âm:
Tiểu nhân triêu vi, nhi tịch cầu kỳ thành; tọa thi nhi lập vọng kỳ cập; hành nhất nhật chi thiện, nhi vấn chung thân chi dự. Dự bất chí tắc viết: thiện vô ích hỹ. Toại nghi Thánh nhân chi ngôn, bội tiên vương chi giáo, tồn kỳ cựu thuật, thuận kỳ thường hiếu. Thị dĩ thân nhục danh tiện, nhi vĩnh vi nhân dịch dã. (Trung Luận)
- Ghi chú:
1. Mất đi địa vị, danh dự, sự nghiệp tiêu tan, phải chịu sự ô nhục, mang tiếng xấu,…
2. Có thể hiểu là: không được vinh hiển ở đời.
76 - Lời dịch (tham khảo):
Phương châm lớn trong việc trị nước: không gì tốt bằng tập trung vào gốc rễ, không gì hại bằng chỉ tập trung vào cành ngọn. Người trị nước, lấy việc: khiến dân được giàu có làm gốc, khiến giáo dục trở nên đúng đắn làm gốc. Khi người dân được giàu có, thì mới có thể tiếp nhận sự giáo dục (tốt đẹp), khi giáo dục được đúng đắn thì mới đạt được đạo nghĩa (lợi ích thật sự của giáo dục đem lại cho xã hội,..). Nếu người dân nghèo khó tất sẽ quay lưng lại với điều thiện, nếu giáo dục không đúng, chắc chắn nảy sinh điều hư ngụy,… Khi đã được tiếp nhận sự giáo dục đúng đắn, thì sẽ không làm những việc loạn nghịch trái đạo. Khi đạt được đạo nghĩa thì sẽ có những bậc trung hiếu ([đúng đắn], khiến cho gia đình đất nước được tốt đẹp). Do vậy, đường lối trị quốc của bậc minh quân, chính là tập trung vào hai việc: khiến cho dân được giàu có và làm cho nền giáo dục đúng đắn. Hãy coi đây là nền tảng của sự thái bình!
- Nguyên văn:
凡為治之大體,莫善於抑末而務本,莫不善於離本而飾末。夫為國者,以富民為本,以正學為基。民富乃可教,學正乃得義;民貧則背善,學淫則詐偽;入學則不亂,得義則忠孝。故明君之法,務此二者,以為太平基也。(潛夫論)
- Phiên âm:
Phàm vi trị chi đại thể, mạc thiện ư ức mạt nhi vụ bổn, mạc bất thiện ư ly bổn nhi sức mạt. Phù vi quốc giả, dĩ phú dân vi bổn, dĩ chính học vi cơ. Dân phú nãi khả giáo, học chính nãi đắc nghĩa; dân bần tắc bối thiện, học dâm tắc trá ngụy; nhập học tắc bất loạn, đắc nghĩa tắc trung hiếu. Cố minh quân chi pháp, vụ thử nhị giả, dĩ vi thái bình cơ dã. (Tiềm Phu Luận)
77 Hành trình vạn dặm, bắt đầu từ một bước chân.
千里之行,始於足下。《道德經》
Thiên lý chi hành, thủy ư túc hạ. (Đạo Đức Kinh)
78
KỲ LỘ VONG DƯƠNG
(ĐƯỜNG RẼ MẤT DÊ)
Người láng giềng của Dương tử bị mất dê, đã sai người đi kiếm, lại đến nhờ mấy đứa nhỏ nhà Dương tử đuổi tìm hộ. Dương tử hỏi: “Ái chà, mất một con dê mà sao người đuổi kiếm đông như thế?” Người láng giềng đáp: “Vì có nhiều đường rẽ.”
Khi đã trở về, Dương tử hỏi: “Có bắt được dê không?” Đáp: “Mất hẳn rồi.” Hỏi: “Sao lại mất?” Đáp: “Vì trong mỗi ngã rẽ lại có thêm ngã rẽ khác, chúng tôi không biết nó đi ngã nào, nên phải trở về.” Dương tử buồn bã biến sắc, giờ lâu không nói, trọn ngày không cười. […]
Nên biết rằng đường lớn vì nhiều ngã rẽ mà mất dê, kẻ học vì nhiều phương hướng mà rối loạn tinh thần.
- Nguyên Văn:
歧路亡羊
楊子之鄰人亡羊,旣率其黨,又請楊子之豎追之。楊子曰︰嘻,亡一羊何追者之衆?鄰人曰︰多歧路。旣反問︰獲羊乎?曰︰亡之矣。曰︰奚亡之?曰︰歧路之中又有歧焉,我不知所之,所以反也。楊子戚然變容,不言者移時,不笑者竟日。[...] 故大道以多歧亡羊,學者以多方喪心。《列子》
- Phiêm âm:
KỲ LỘ VONG DƯƠNG
Dương tử chi lân nhân vong dương. Ký suất kỳ đảng hựu thỉnh Dương tử chi thụ truy chi. Dương tử viết: “Hy! Vong nhất dương hà truy giả chi chúng? Lân nhân viết: “Đa kỳ lộ.” Ký phản, vấn:“Hoạch dương hồ?” Viết: “Vong chi hĩ.” Viết: “Hề vong chi?” Viết: “Kỳ lộ chi trung, hựu hữu kỳ yên. Ngã bất tri sở chi, sở dĩ phản dã.” Dương tử thích nhiên biến dung, bất ngôn giả di thời, bất tiếu giả cánh nhật. […] Cố đại đạo dĩ đa kỳ vong dương, học giả dĩ đa phương táng tâm. (Liệt Tử)
79
80