QUẦN THƯ KHẢO BIỆN
Lê Quý Đôn
QUẦN THƯ KHẢO BIỆN
Lê Quý Đôn
Gốc của nước là dân, mệnh của vua cũng là dân. Bọn cường thần gây loạn bên trong, nước thù địch quấy rối bên ngoài đều chưa đáng lo lắm. Chỉ khi lòng dân dao động mới là điều rất đáng sợ. […]
(Mục 167, Quần Thư Khảo Biện)
Người hiền tài nhiều lắm. Song thường là họ ẩn náu nơi thôn dã, hoặc mai một trong đám dân quê mà người đời không ai biết đến. Vậy thì bằng cách nào để thu dùng họ? Việc khoa cử, tiến hiền, tập ấm chỉ là đặt ra những phép lớn thôi, không thể thu dùng được hết hiền tài. Dùng người hiền cốt ở lòng vua. Vì lòng vua là chỗ thiên hạ dồn mắt nhìn vào. Nghe một việc được hỏi là đoán ra lòng vua rộng hẹp, xem một người được đãi là đoán ra lòng vua hậu bạc. Lòng vua hướng vào đâu có quan hệ đến sự theo hay bỏ [của thiên hạ]. Cho nên rộng rãi cởi mở thì người ta vui lòng nói ra; yêu quý thể tất thì người ta tự nguyện đi theo. [Muốn cho] hiền tài được đem dùng, lòng trung được tỏ bày, không có cách nào khác, chỉ ở lòng vua thôi. Mạnh Tử nói: “[Một người] nếu không ưa điều hay lẽ phải thì sẽ [tự đắc] nói rằng: “khà khà, ta đã biết cả rồi”. Khẩu khí và dáng điệu ấy sẽ cự tuyệt người tài từ mãi ngoài ngàn dặm kia rồi”(1).
Ôi! Có phải họ cự tuyệt người hiền thật đâu, chỉ là do ý hướng của họ thế nào thôi. Cứ xem như vào năm đầu nhà Hán, mưu thần, thạc sĩ đâu ít, nhưng việc đóng đô ở đất Quan Trung để chiếm nơi hình thế [hiểm yếu]; việc dời hào kiệt [về Quan Trung] để trừ kẻ gian tà giảo hoạt; việc hòa với Hung Nô để tắt mối lo ngoài biên. Cả ba việc ấy đều là việc then chốt quan trọng thời ấy. Thế nhưng đầu mối lại đều từ Lâu Kính ra cả, mà khi ấy Lâu Kính(2) chỉ là một lính thú tầm thường trong quân ngũ. Nếu Cao Tổ không phải người rộng rãi cởi mở, trọng người hiền, kính kẻ sĩ thì Lâu Kính đâu dám ngang nhiên xin vào yết kiến, và một lần yết kiến đâu dám nói hết ý mình? Nếu Lâu Kính không tự xin vào yết kiến thì ai biết Lâu Kính có hoài bão mà cất nhắc từ đám quân ngũ, tiến cử lên chốn triều đình? Vì lẽ đó, thấy rằng thu dùng hiền tài là việc cần trước hết trong việc trị nước, mà bản lĩnh của nó cốt ở tấm lòng, chứ không thể cứ khăng khăng dựa vào lệ thường được.
(Tác giả: Lê Quý Đôn, Trần Văn Quyền dịch và chú giải, Nhà xuất bản Khoa học Xã hội - Hà Nội 1995.)
.…….
- Ghi chú:
1. Lời trong thiên Cáo Tử hạ, sách Mạnh Tử.
2. Lâu Kính: một lính thú ở Lũng Tây, được Cao Tổ nhà Hán cất nhắc cho làm Lang trung, đã giúp Cao Tổ ba kế lớn: 1. Đóng đô ở Quang Trung, 2. Hòa thân với Hung Nô, 3. Dời hào kiệt các nước vào đất Quang Trung.
26. Vua Thuấn thờ Cha Mẹ, Quản Trọng thờ Hoàn Công.
Vua Đại Thuấn xưa thờ Cha Mẹ, khi [mẹ kế] tìm để giết Thuấn thì không bao giờ thấy Thuấn, nhưng tìm để sai Thuấn thì lúc nào Thuấn cũng ở bên cạnh[1]. Như thế là người con có hiếu.
Quản Trọng thờ Hoàn Công nước Tề, thấy Hoàn Công làm điều gì sai trái ông đều can ngay, làm điều gì tốt ông đều khen ngợi. Đó là bậc tôi trung.
(Trích đoạn Quần Thư Khảo Biện, tác giả: Lê Quý Đôn, NXB Khoa học xã hội Hà Nội-1995, Trần Văn Quyền dịch và chú giải.)
- Chú thích:
[1] Cha Thuấn là Cổ Tẩu, một người mù quáng, mẹ kế ác nghiệt, em là Tượng (con mẹ kế) thâm độc kiêu ngạo. Mẹ kế và em Tượng ganh ghét Thuấn, luôn tìm cách giết Thuấn, khi ấy Thuấn thường trốn mất. Dù bị mẹ con Tượng và cả Cổ Tẩu đối xử không tốt, Thuấn vẫn một mực hiếu thuận, giữ đúng đạo làm con. Về sau, hai mẹ con Tượng ăn năn lỗi lầm, đức hạnh của Thuấn cảm đến nhân dân, khi ông lên ngôi, nhân dân trong nước ai nấy đều chung sống hòa thuận, đất nước thái hòa.
- Lời bàn:
Trích đoạn này giúp tránh tư tưởng cực đoan: ‘phụ xử tử tử, tử bất tử bất hiếu’.
Ghi chú: Phần chú thích và lời bàn không trích trong sách.