CHƯƠNG THỨ NHẤT: MỞ RA CÁI GỐC ĐỂ GIẢNG CHO RÕ NGHĨA
Đức Khổng Tử nhằm khi ở rãnh,
Thầy Tăng Sâm ở cạnh tiếp hầu.
Ngài rằng: Đức cả đạo mầu,
Tiên Vương dùng để làm đầu dạy dân.
Gây nên thói hòa thân thiên hạ,
Dưới trên đề cảm hóa bấy nay,
Suy ra trăm nết đều hay,
Cái gì là trước, người rày biết chăng?
Nghe Ngài hỏi, Thầy Tăng đứng dậy,
Rằng: Trò đần đã thấy được đâu?
Ngài rằng: Nết Hiếu làm đầu,
Ấy là gốc đức, giáo hầu sanh ra.
Hãy ngồi lại để ta nói nữa:
Từ hình hài đến thửa tóc, da,
Nguyên do chịu của mẹ cha,
Giữ cho trọn vẹn, hiếu là đầu tiên.
Sau chót nữa thân hiền đạo sáng,
Tiếng tăm truyền tỏ rạng ngàn thâu.
Thờ Cha Mẹ, nết hiếu đầu.
Thờ Vua ở giữa, kế sau dựng mình.
Tìm nghĩa ấy trong kinh Đại nhã*
Đạo hiếu này giảng đã tỏ tường:
Nếu ngươi nghĩ đến tông đường,
Thì nên sửa lấy đức thường của ngươi.
* Đại Nhã: là một thiên trong Kinh Thi. Đại nhã và tiểu nhã nói về chính trị.
….…
CHƯƠNG THỨ HAI: NGÔI THIÊN TỬ
Ngài rằng:
Yêu Cha Mẹ, ghét người chẳng dám:
Kính song đường, chẳng dám khinh người.*
Thờ thân, yêu, kính trọn mười,
Thì phần đức giáo bủa đời rộng thâm:
Trước trăm họ ướt đầm mưa hóa,
Sau bốn phương theo lả gió nhân.
Đó là đức của Thánh Quân,
Thay Trời trị nước, hiếu thân phải gìn.
Phủ hình** đó chép in từ trước:
Phước một người, hưởng được triệu người.
* Mình yêu kính cha mẹ mình thì thấy cha mẹ người hoặc người già cả bằng cha mẹ mình, mình cũng yêu kính luôn.
** Phủ hình hay Lữ hình là một thiên trong kinh Thi
….…
CHƯƠNG THỨ BA: CÁC VUA NHỎ
Đức khiêm nhượng, ngôi cao chẳng đổ.
Phép giữ gìn, nước rộ chẳng tràn.
Cao chẳng đổ, rộ chẳng tràn,
Giàu, sang ở mãi thế gian dai bền.
Dai bền giữ ngôi trên vững chắc,
Rồi nhân dân xã tắc dài lâu.
Đó là đức hiếu Chư Hầu,
Kinh Thi kia đã có câu phân trần:
Giá kia mỏng, nặng chân thì sụt.
Vực nọ sâu, lỡ gót thì sa!
Vậy nên nơm nớp như là,
Giữ sao cho được thoát qua hiểm nghèo.
….…
CHƯƠNG THỨ BỐN: QUAN KHANH, QUAN ĐẠI PHU
Đồ mặc, phải mặc theo Vua trước.
Lời nói do Vua trước nói theo.
Việc làm chẳng dám làm liều,
Ắt do Vua trước noi theo mà làm.
Miệng không giữ, không sàm miệng nói,
Mình không gìn, không lỗi mình làm*.
Khắp trong thiên hạ Bắc, Nam,
Đều coi lời nói việc làm đúng khuôn.
Ba điều ấy** vẹn tròn không thiếu,
Mới bảo toàn tông miếu không lo.
Đó là hiếu của quan to,
Kinh Thi kia đã đắn đo lẽ này:
Một lòng những đêm ngày chẳng trễ,
Dốc một lòng kính lễ một người***.
Ngước lên đức hiếu vẹn mười,
Làm gương rọi xuống cho đời soi qua.
- Quan Khanh, Quan Đại Phu: Theo thể chế thời Tam Vương (Hạ, Thương, Châu) các hàng quan từ trên tới dưới phân làm ba đẳng cấp: Khanh, Đại Phu, Sĩ.
* Khi đã quen với nói và làm đúng phép rồi, thì chẳng cần gìn giữ nữa mà lời nói và việc làm không hề có lỗi.
** 3 điều: sự mặc, lời nói, việc làm.
*** Một người: Bực Thiên Tử
….…
CHƯƠNG THỨ NĂM: QUAN SĨ
Vào thờ, mẹ lấy cha làm mực.
Ra thờ Vua, noi bậc từ cha.
Ngó vào, rồi lại trông ra,
Tình yêu, lễ kính đều là lẽ ngay.
Đối với mẹ, tình hay yêu mến.
Đôi với Vua, lễ hết kính nhường,
Bởi đâu soi để làm gương?
Với cha gồm cả đôi đường kính, yêu.
Trung Vua với thuận chiều quan trưởng,
Kính yêu là cái lượng suy ra,
Một lòng trung, thuận chẳng xa,
Phận mình miễn hết mới là người khôn.
Rồi có thể bảo tồn bề thế.
Rồi mới hay cúng tế Tổ Tông.
Đó là quan sĩ nối dòng,
Miễn đem đức hiếu giữ trong nghiệp nhà.
Kinh Thi đã bày ra nghĩa đó,
Kẻ làm con hầu có noi theo.
Hằng ngày từ sớm đến chiều,
Đừng làm Cha Mẹ có điều hổ ngươi.
….…
CHƯƠNG THỨ SÁU: HÀNG DÂN CHÚNG
Dùng thì tiết của Trời sanh vật.
Sớt lợi nguyên của Đất nuôi người,
Xây xài tiện tặn của đời,
Để mà phụng dưỡng dâng mời mẹ cha.
Đó đức hiếu dân ta như vậy,
Kẻ làm con miễn lấy đạo thường.
Mẹ cha ân trọng chi nhường,
Làm con chớ khá quên đường hiếu đây.
Từ Thiên Tử tới bầy chúng thứ.
Hiếu không nề thứ tư trước sau,
Đều tìm cội rễ từ đâu.
Lo gì đức hiếu ai hầu kém ai.
….…
CHƯƠNG THỨ BẢY: BA TÀI (Trời, Đất, Người)
Thầy Tăng Tử nghe Ngài dạy biểu,
Mới khen rằng: Đạo hiếu lớn thay!
Ngài rằng: Đạo hiếu xưa nay,
Kinh Trời, nghĩa Đất, nết hay của Người.
Đạo Trời, Đất, mà người theo đó,
Thành Trời kia, Đất nọ, Người đây.
tam tài, Người đứng giữa bầy,
Đức Trời, lợi Đất giãi đầy thế gian.
Giáo chẳng gấp mà lan ra khắp.
Chánh chẳng nghiêm mà sắp được yên.
Tiên Vương thấy giáo có quyền,
Dùng ra có thể làm nền hòa dân.
Bác ái dẫn, dân thân Cha Mẹ,
Đức nghĩa bày, dân lẹ sửa mình.
Kính nhường, dân tự chẳng tranh.
Dạy cho lễ nhạc, dân sanh vui hòa.
Lẽ yêu, ghét, nhủ qua cho hiểu,
Mà dân đều biết đạo cấm răn.
Thi rằng:Sư Doãn Đại Thần*.
Đức oai chói chói cho dân trông vào.
* Ông Doãn Cát Phủ, làm quan Thái Sư, đứng hàng Tam công nhà Châu, là ngôi sư biểu cả thiên hạ.
….…
CHƯƠNG THỨ TÁM: ĐẠO HIẾU TRỊ ĐỜI
Kìa các đấng ngôi cao thuở trước,
Lấy hiếu làm mực thước trị đời,
Chẳng xa nước nhỏ bầy tôi,
Huống chi đối với các ngôi Chư Hầu*?
Vậy muôn nước đâu đâu vui phục,
Để lâu dài thờ phụng Tổ Tông.
Ấy là Thiên Tử nối dòng
Từng đem gương hiếu soi trong cõi đời.
Kìa các bậc nối ngôi hầu quốc.
Đem hiếu mà trị nước thuở nay,
Nghĩ tình góa bụa thương thay,
Huống chi đối với cả bầy sĩ, dân?
Vậy trăm họ hoan hân nức chí,
Để phụng thờ các vị tiền nhân.
Ấy là đức hiếu bang quân**
Làm gương giữ nước thờ thân lâu dài.
Kìa các bậc quan giai*** dằng dặc
Lấy hiếu làm phép tắc trì gia,
Chẳng khinh tôi mọi trong nhà,
Huống chi cốt nhục, thất gia của mình?
Cho nên được hoan tình công chúng,
Để lâu dài thờ phụng đấng thân.
Ấy là đức hiếu quan thân,
Giữ bền lộc vị lần lần chẳng sa.
Vậy lúc sống mẹ cha hả dạ.
Lúc thác thì nhang xạ thấu thành.
Cho nên thiên hạ thái bình,
Chẳng gây họa loạn, chẳng sanh tai nàn.
Đó, đức hiếu thế gian là thế,
Đấng minh vương lấy để trị đời.
Thi rằng: Đức Hạnh rạng ngời,
Bốn phương các nước nơi nơi thuận tùng.
*Đời xưa, dưới quyền Thiên Tử có năm tước vị (ngũ tước) vinh dự hơn hết kể từ trên xuống dưới là: Công, Hầu, Bá, Tử, Nam.
**Bang quân: Vua nước Chư Hầu
***Quan giai: các cấp quan chức lớn nhỏ.
….…
CHƯƠNG THỨ CHÍN: THÁNH NHÂN CAI TRỊ
Thầy Tăng lại thong dong tỏ nỗi:
Đức Thánh Nhân, hiếu trổi phải chăng?
Ngọt ngào Ngài lại dạy rằng:
Tánh Trời Đất, quí chi bằng người ta.
Nết người, lớn nhất là nết hiếu.
Hiếu, lớn chi bằng điệu tôn cha
Tôn cha sánh với Trời già,[1]
Đủ bề lớn ấy thì là ông Châu[2]
Chân công thuở bắt đầu chế lễ,
Đặt lễ giao, lễ đế tỏ tường,
Tổ: Hậu tắc[3], cha: Văn Vương[4]
Nam giao tôn tổ, Minh đường tôn cha.
Sánh Trời, trước dâng qua Hậu tắc.
Sánh Đế, sau ngôi nhắc Văn Vương.
Bởi vậy các nước bốn phương
Đều đem chức phận lễ thường lại dâng[5]
Ôi! Đức Thánh có chừng ấy đó,
Còn gì hơn hiếu nọ nữa đâu?
Kể từ dưới gối chôn nhau,
Đối cùng Cha Mẹ, biết hầu là tôn.
Thánh Nhân mới nhân tôn dạy kính.
Nhân thân mà dạy tánh yêu đương.
Giáo không gấp cũng nên giường.
Chánh không nghiêm cũng nên đường trị công.
Chỗ nhân đó là trong cội rễ,
Rồi suy ra mọi lẽ ở sau.
Cha con là đạo Trời đầu,
Vua tôi là nghĩa cao sâu cũng vậy.
Đạo Phụ Mẫu thuở nay sanh dục.
Nghĩa quan thần từng lúc trị bình,
Trước sau Vua trị, cha sanh,
Đức dày, công lớn, đôi tình đều cân.
Đọ người khác, đấng thân chớ nhát.
So đấng thân, người khác đừng quên,
Thủ đem đức, lễ đôi bên.
Mà cân nhắc lại:
Ai trên, ai gần?
Mà yêu kính đấng thân cẩu thả,
Mà kính yêu người lạ lại chăm.
Đức đã lộn, lễ lại lầm,
Đôi bề trái cả, ai cầm đòn cân?
Một mình để cho dân bắt chước,
Đem lễ xuôi đặt ngược đặng sao?
Trị bình là lẽ thế nào?
Tìm xem cội rễ trông vào một thân.
Phải cân nhắc hai phần:
Thiện, ác,
Miễn sao đừng sai thác mới nên.
Nếu do lẽ trái được quyền,
Đạo Quân Tử há giữ bền đó sao?
Người Quân Tử thì nào có thế,
Đạo xử đời chẳng trễ thủy, chung.
Mọi bề:
Ngôn, hạnh, sự dung,
Đủ làm phép tắc ở trong cõi đời.
Đường lui, tới chẳng dời nghĩa lý,
Để đem mà tới trị muôn dân.
Bởi vậy, dân sợ mà thân.
Học theo mà được trăm phần giống y.
Đức giáo thảy bởi vì đó dựng.
Chánh lệnh đều nhờ đứng vững chân.
Thi rằng:
Quân Tử thục nhân[6]
Chẳng sai phép tắc cho dân theo cùng.
[1] Tế trời, đem cha mình phối hưởng với trời, thì tất là cha của đấng Thiên Tử mới được.
[2] Chu Công: Họ Cơ tên Đán, em ông Cơ Phát. Ông Cơ Phát diệt nhà Thương của Vua Trụ mà lên ngôi, lấy hiệu là Võ Vương (1134-1116TCN), lập nhà Chu trong khoảng gần 900 năm. Võ Vương truy tôn cha mình là ông Cơ Xương lên hiệu Văn Vương và cất phong em mình là Cơ Đán lên tước công, cho nên kêu là Chu Công, ông Chu Công giúp vua Võ Vương chế ra lễ nhà Chu (tức là kinh Chu Lễ). Chính ông Chu Công định ra chế độ lễ nhạc và đặt nghi thức quan hôn, tang, tế.
[3] Hậu Tắc: là vị thủy tổ của các vua nhà Chu.
[4] Văn Vương là cha của Võ Vương và Chu Công.
[5] Các vua Chư Hầu chiếu theo tức trật tới kinh kỳ giúp lễ vua Thiên Tử tế trời, tế đế.
[6] Hạng người đạo đức trọn trăm sự lành, cái gì cũng đủ làm phép cho thiên hạ, đó là vua chánh minh lấy đức hiếu thi hành ra chính trị.
….…
CHƯƠNG THỨ MƯỜI: CHÉP RA NẾT HIẾU
Ngài lại dạy nghĩa chung chữ hiếu:
Lễ thờ thân giữ đạo làm con
Trăm năm một tấm lòng son,
Thủy chung một tiết cho tròn mới hay.
Từ thuở sống tới ngày đã thác,
Một tấc thành sác sác như đo.
Nuôi vui, ở kính , bệnh lo,
Tang thương, tế cẩn, sao cho trọn nghì.
Năm điều ấy mọi khi đủ hết,
Rồi mới hay vẹn tiết thờ thân.
Thờ thân cho trọn mọi phần.
Bậc nào cỡ nấy, giữ thân cho toàn.
Làm dưới, chẳng lăng loàn là đạo.
Ở trên, không kiêu ngạo là danh.
Ở trong bọn, chẳng tranh giành,
Phận mình, mình lấy của mình thì thôi.
Trên kiêu ngạo, mất ngôi chẳng khỏi.
Dưới lăng loàn, bị tội chẳng lành.
Ở trong bọn, nếu tranh giành,
Sẽ gây nên cuộc đao binh tức thì.
Ba điều ấy trừ đi mới phải,
Nếu chẳng trừ, ắt hại thân sanh,
Dầu ngày dùng lễ tam sanh,[1]
Còn mang bất hiếu tội danh vào mình.
[1] Lễ Tam sanh: Lễ dùng ba vật: Bò, heo, dê.
….…
CHƯƠNG THỨ MƯỜI MỘT: NĂM CÁCH HÌNH PHẠT
Ngài rằng:
Ba ngàn loại phạm hình năm bậc[1]
Tội gì bằng trái đức hiếu thay?
Ở đời tam trọng[2] xưa nay,
Trước thì Vua chúa sau Thầy với cha.
Vô thượng nọ, tội là hiếp chúa[3]
Vô Pháp kia, tội của chê thầy.
Vô thân phi hiếu tội này[4]
Đều là đạo loạn gì tày nữa đâu!
[1] Tội phạm có đến ba ngàn thứ, mà các hình phạt thì chia ra năm bậc có nhẹ có nặng: 1. Châm chữ vô trán, 2. cắt mũi, 3. chặt chân, 4. thiến dương vật, 5. chặt đầu.
Đó là ngũ hình theo thời xưa. Ngày nay, trong luật hình có năm cách trừng trị: 1. phạt tiền, 2. giam, 3. đày có kỳ hạn, 4. đày chung thân, 5. giết chết.
[2] Tam trọng: Vua, Thầy, Cha. Đức Thánh nhân dạy đời cho biết điều phải, lẽ quấy, tức là thầy chung của đời vậy.
[3] Kẻ quyền thần ỷ thế hiếp vua, nài xin việc gì cầu lấy phải cho
[4] Tội phi hiếu lớn ngang sức với tội hiếp vua và tội chê Thánh.
….…
CHƯƠNG THỨ MƯỜI HAI: GIẢNG RỘNG CỐT YẾU CỦA ĐẠO
Ngài rằng:
Vậy nết hiếu là đầu trăm nết,
Có hiếu thì đủ hết mọi điều.
Dạy dân lấy nết thân yêu,
Trước do nết Hiếu thuận chiều suy qua.
Rồi đến Đễ, khiến ra lễ nhượng,
Kế Nhạc thì đổi lượng thói lề.
Yên trên, trị dưới mọi bề,
Gốc do ở lễ xô về mọi nơi.
Hỏi nguồn lễ thì khơi ở kính,
Kính ấy là lẽ chính mà thôi.
Kính cha và kính Vua rồi,
Kẻ làm con với kẻ làm tôi đẹp lòng.
Làm em cũng đẹp lòng hết cả,
Bởi vì ta đem dạ kính anh.
Cho hay bổn lập, đạo, sanh.
Dựng nên một gốc, muôn nhành nẩy ra.
Lòng mình kính người ta có một,
Mà lòng người đẹp tột muôn chiều.
Kính tuy ít, đẹp được nhiều,
Cái nơi cốt yếu ở điều đó thôi.
….…
CHƯƠNG THỨ MƯỜI BA: GIẢNG RỘNG BẬC CHÍ ĐỨC
Ngài rằng:
Người Quân Tử đứng ra Giáo Dục,
Dạy chúng dân thành tục thờ cha.
Chẳng cần dạo đến từng nhà,
Cũng không chường thấy người ta hằng ngày.
Đem hiếu, đễ, trung, ngay truyền bá,
Kính Vua cha, anh cả trong đời.
Ấy là gương tỏ rạng ngời,
Cho đời lấy đó làm nơi soi vào.
Người Quân Tử lượng cao vui dễ,
Đáng ở ngôi Cha Mẹ người ta.
Kinh Thi kia đã nêu ra,
Chẳng trang chí đức sao đà thuận dân?
….…
CHƯƠNG THỨ MƯỜI BỐN: GIẢNG RỘNG VIỆC NÊU DANH
Ngài rằng:
Người Quân Tử thờ thân chí hiếu,
Dời qua trung làm kiểu thờ Vua.
Thờ anh nết đễ có thừa,
Dời qua thuận để cho vừa lòng trên.
Xử nhà dựng vững nền luân lý,
Dời việc quan, chánh trị đều xong.
Vậy nên thành nết từ trong,
Tiếng tăm truyền tới ngoài vòng đời sau.
….…
CHƯƠNG THỨ MƯỜI NĂM: CAN NGĂN
Thầy Tăng hiểu gót đầu mọi lẽ,
Lại đứng ra thỏ thẻ thưa trình:
“Kính, cung, từ, ái[1] đã rành,
An thân và nghĩa dương danh đã tường.
Bao nhiêu đó Ngài thường có dạy,
Còn nghĩa này chưa thấy phân minh:
Thờ cha, cứ lệnh cha mình,
Phải chăng theo đó là tình hiếu thân?”
Ngài nghe hỏi, lần lần nhủ lại:
Chẳng vậy đâu!
Chẳng phải vậy đâu!
Các vì Thiên Tử, Chư Hầu,
Từ xưa vẫn có tôi chầu can ngăn.
Bên mình có tránh thần năm, bảy,[2]
Vô đạo chi cũng thảy còn ngôi.
Nhỏ, to là chức làm tôi,
Cũng đều có bạn, có bồi can ngăn.
Quan to phải bồi[3] răn ba kẻ,
Quan nhỏ cần bạn bẻ vài người,
Thì dầu vô đạo mười mươi,
Thế nhà chẳng mất, tiếng tươi vẫn còn.
Cha cũng phải có con chỉ vẽ,
Mới khỏi mang bất nghĩa vào mình,
Làm con một dạ đinh ninh,
Cha lầm thì phải hết tình can cha.
Đối những việc Vua, cha bất nghĩa,
Đạo tôi, con há lẽ làm thinh?
Chẳng suy cho hết mọi tình,
Theo cha nào phải là mình hiếu đâu!
[1] Kính: lòng kính, cung: lễ kinh, từ: cha mẹ hiền, ái: con yêu cha mẹ.
[2] Bậc Thiên tử có bảy vị quan cận thần để can gián. Bậc vua Chư hầu có năm vị.
[3] Bồi: Bởi chữ bồi thần là viên chức phụ giúp của quan đại phu (điểu ở sách luận ngữ).
….…
CHƯƠNG THỨ MƯỜI SÁU: CẢM ỨNG
Ngài lại dạy lẽ mầu cảm ứng,
Tấm lòng thành hiển chứng cao, thâm
Minh vương giữ một hiếu tâm,
Thờ cha, thờ mẹ đăm đăm chẳng dời.
Hiếu cha sẽ thờ Trời tường tất.
Hiếu mẹ rồi thờ Đất rõ ràng.
Thuận chiều lớn, nhỏ mọi hàng
Rồi ra trên dưới kỹ cang phải lề,
Nghĩa Trời Đất có bề sáng tỏ.
Lẽ thần minh theo đó rõ ràng.
Đều do đức hiếu lần sang,
Dầu cho các đấng quân vương cũng rằng
Bậc tôn đó chi bằng cha đó.
Bậc trước đây ắt có anh đây.
Kính thờ tông miếu lễ bày,
Chẳng quên, ngụ tấm lòng này với thân.
Tự mình phải tu thân, gìn nết,
Vì e rằng nhục đến Tổ Tiên.
Kính thờ tông miếu thường liền,
Quỉ thần cảm thấu từ miền cao sâu
Lòng Hiếu Đễ đâu đâu cũng biến.
Cõi âm dương, bốn biển đều hay.
Thi rằng:
Nam, Bắc, Đông, Tây,
Bốn phương đều nhắm nơi đây phục tòng.
….…
CHƯƠNG THỨ MƯỜI BẢY: THỜ VUA
Ngài lại thuật:
Tấm lòng Quân Tử,
Dốc một niềm phụng sự Bề trên.
Tận trung lúc bước chân lên,
Sử mình khi xuống, nghĩ bền lòng tôi.
Lành với dữ thói đời dường ấy,
Dữ sửa đi, giúp lấy sự lành.
Vậy nên trên, dưới hòa bình,
Tinh thần nhóm họp thuận tình thân nhau.
Kinh Thi đã có câu thuật lại:
Lòng này yêu miệng phải nói ra.
Tấc thành chứa ở lòng ta,
Ngày nào ngày nây đâu mà dám quên.
….…
CHƯƠNG THỨ MƯỜI TÁM: CHA MẸ QUA ĐỜI
Ngài lại dạy lẽ nên tang lễ,
Với mẹ cha chẳng trễ lòng con:
Khóc không làm bộ nỉ non,
Lẽ không làm dáng phấn son mỹ miều,
Miệng nói chẳng lựa điều văn vẻ,
Mặc những đồ màu mẽ sao yên?
Ăn chẳng ngon, nhạc lại phiền,
Bởi tình thương xót, há chuyên vật ngoài.
Chẳng vì thác mà hoài thân sống,
Vậy chẳng nên đói đúng ba ngày,
Hủy hình chẳng dứt tánh này,
Tánh nhân đặt lễ xưa nay làm thường
Ba năm ấy là tang thông dụng.
Bảo cho người theo đúng lẽ nên.
Lễ này chẳng luận dưới, trên,
Đạo làm con thảy báo đền cho phu.
Đối với lúc ngàn thu xa cách,
Sắm y, khâm, quan, quách cất người.
Mâm bàn bày đặt lễ ngơi,
Ngụ niềm chua xót mặn mòi lòng ta.
Khi bấm bụng, khóc la trước cửa,
Lúc nhún chân, té dựa bên đường,
Đưa ma là sự bất thường,
Càng đau, càng xót, càng thương, càng phiền
Bói mồ huyệt đặt yên thi thể,
Cất miếu đường kính lễ Linh Hồn.
Xuân, thu cúng vái thường tôn,
Ngụ lòng thờ mất như còn thường khi.
Thờ sống đã vẹn nghì yêu kính,
Thờ thác thì trọn tánh xót thương,
Thờ thân thì trọn vẹn mọi đường,
Một đời đủ hết đạo thường làm con.
(hết).