HIẾU KINH
孝經
(Cẩn Nhân dịch và chú thích)
#HieuKinh #HiếuKinh #孝經
孝經
(Cẩn Nhân dịch và chú thích)
#HieuKinh #HiếuKinh #孝經
開宗明義章第一
Khai tông minh nghĩa chương đệ nhất
開宗明義章第一
Khai Tông Minh Nghĩa chương đệ nhất
Chương thứ nhất: Khai Tông Minh Nghĩa
[Nguyên văn] 仲尼居,曾子侍。子曰:「先王有至德要道,以順天下,民用和睦,上下無怨。汝知之乎?」
[Phiên âm] Trọng Ni cư, Tăng Tử thị. Tử Viết: “Tiên Vương hữu chí đức yếu đạo, dĩ thuận thiên hạ, dân dụng hòa mục, thượng hạ vô oán. Nhữ tri chi hồ?”
[Lời dịch] Đức Khổng Phu Tử nhân lúc nhàn rỗi, Tăng Tử ngồi bên cạnh. Đức Khổng Tử nói: “Các vị Hiền Vương đời xưa có một đức hạnh - một nền đạo nghiệp vô cùng tôn quý cao thượng, các ngài dùng điều này để dẫn dắt thiên hạ thì nhân dân bá tánh trong khắp thiên hạ đều chung sống hòa thuận, trên-dưới không ai mang lòng oán hận. Con có biết điều ấy là gì không?”
[Nguyên văn] 曾子避席曰:「參不敏,何足以知之?」
[Phiên âm] Tăng Tử tị tịch viết: “Sâm bất mẫn, hà túc dĩ tri chi?”
[Lời dịch] Thầy Tăng Tử cung kính đứng dậy thưa: “Sâm (là tên của Tăng Tử) con chẳng sáng suốt, làm sao có thể hiểu rõ điều tốt đẹp ấy?”.
[Nguyên văn] 子曰:「夫孝,德之本也,教之所由生也。復坐,吾語汝。
[Phiên âm] Tử viết: “Phù hiếu, đức chi bổn dã, giáo chi sở do sinh dã. Phục tọa, ngô ngữ nhữ.
[Lời dịch] Đức Khổng Tử nói: “[Đó chính là] Hiếu đạo, [đức Hiếu] là căn bản của đạo đức, là khởi điểm của giáo dục[1]. Hãy ngồi lại, ta sẽ giảng giải cho con nghe.
[Nguyên văn] 身體髮膚,受之父母,不敢毀傷,孝之始也。立身行道,揚名於後世,以顯父母,孝之終也。夫孝,始於事親,中於事君,終於立身。
[Phiên âm] Thân thể phát phu, thọ chi phụ mẫu, bất cảm hủy thương, hiếu chi thủy dã. Lập thân hành đạo, dương danh ư hậu thế, dĩ hiển phụ mẫu, hiếu chi chung dã. Phù hiếu, thủy ư sự thân, trung ư sự quân, chung ư lập thân.
[Lời dịch] Từ hình hài cho đến tóc da, thân thể này của ta đều thọ nhận từ cha mẹ, giữ gìn cho trọn vẹn, không dám hủy hoại tổn thương, đây là khởi đầu của hiếu đạo[2]. Lập thân hành đạo,[3] dương danh đến đời sau, khiến cha mẹ được vinh hiển. Đây là mục tiêu sau cùng của hiếu đạo.
Đạo hiếu, khởi đầu ở việc phụng dưỡng cha mẹ, kế đến là làm lợi ích cho quê hương đất nước[4], sau cùng là lập thân.
[Nguyên văn] 大雅云:『無念爾祖,聿修厥德。』」
[Phiên âm] Đại Nhã vân: ‘Vô niệm nhĩ tổ, duật tu quyết đức’.”
[Lời dịch] [Như[5]] bài Đại Nhã, trong Kinh Thi, có câu: ‘Nghĩ đến ân đức tổ tông, mà rèn tu cái đức của mình’.”
- Chú thích:
1. Giáo dục bắt nguồn từ đây.
2. Người con hiếu, việc đầu tiên là biết giữ gìn sức khỏe, quý trọng bản thân mình; không làm những chuyện: điên rồ hại thân, dại dột, tự sát,…
3. Lập thân hành đạo: tự mình biết ý thức suy nghĩ (học tập, tu dưỡng, làm việc,…) cho nên người,…; đi theo con đường đúng đắn, không làm những việc hại người,…
4. Dịch thoát ý, nguyên văn là ‘sự quân’, hiểu rộng ra là làm lợi ích cho đất nước, dân tộc, xã hội,…
5. Cuối chương, Đức Khổng Tử nêu ra một câu kinh văn để chứng thực, tóm lược lại, hoặc để gợi nhớ những điều người giảng,…
- Mở rộng:
Vì sao lại giảng hiếu kinh cho thầy Tăng Tử?
天子章第二
Thiên Tử chương đệ nhị
天子章第二
Thiên Tử chương đệ nhị
Chương thứ hai: Thiên Tử
[Nguyên văn] 子曰:「愛親者,不敢惡於人;敬親者,不敢慢於人。
[Phiên âm] Tử viết: “Ái thân giả, bất cảm ác ư nhân; kính thân giả, bất cảm mạn ư nhân.
[Lời dịch] Đức Khổng Tử nói: “Người chân chính yêu thương cha mẹ mình, sẽ không dám cư xử xấu ác với [cha mẹ] người; chân chính tôn kính cha mẹ mình, cũng sẽ không dám cư xử ngạo mạn với [cha mẹ] người.
[Nguyên văn] 愛敬盡於事親,而德教加於百姓,刑於四海,蓋天子之孝也。
[Phiên âm] Ái kính tận ư sự thân, nhi đức giáo gia ư bá tánh, hình ư tứ hải, cái thiên tử chi hiếu dã.
[Lời dịch] Phụng dưỡng cha mẹ với lòng yêu thương kính trọng hết mực, lại đem đức hiếu giáo hóa nhân dân trăm họ, làm hình mẫu tốt đẹp cảm hóa bốn bể noi theo. Đây chính là Hiếu đạo của Thiên Tử[1].
[Nguyên văn] 甫刑云:『一人有慶,兆民賴之。』」
[Phiên âm] Phủ hình vân: ‘Nhất nhân hữu khánh, triệu dân lại chi’.”
[Lời dịch] Bài Phủ Hình[2] có câu rằng: ‘Một người[3] có đức, muôn dân được nhờ ơn.’”
- Chú thích:
Chương này nói về Hiếu đạo của Thiên Tử. Thiên Tử là người có địa vị cao nhất trong thiên hạ, ngày nay có thể hiểu là người lãnh đạo cao nhất, người có quyền lực nhất, có sức ảnh hưởng đến nhân dân rất lớn,…
1. Cho nên, người làm Thiên Tử phải cố gắng tu dưỡng bản thân, làm tấm gương tốt, hết lòng hiếu thảo, yêu thương kính trọng cha mẹ, rồi sau lại tận dụng lợi thế của mình đem đạo hiếu giáo hóa nhân dân (khuyên người hiếu thảo cha mẹ, dạy người hiếu thảo cha mẹ một cách đúng đắn, khen ngợi ban thưởng cho những người con hiếu thảo cha mẹ,…), thì sự ảnh hưởng và hiệu quả đối với xã hội rất lớn. Đây chính là ân điển, công đức to lớn mà Thiên Tử làm cho muôn dân thiên hạ. […]
2. Nay là thiên Lữ Hình, Kinh Thư.
3. Một người: chỉ Thiên Tử.
- Mở rộng:
Chương này nói về Hiếu đạo của Thiên Tử, vậy vì sao lại giảng những điều này ở chương Thiên Tử? Lại xét bối cảnh lịch sử xã hội xưa và nay, ứng dụng kinh văn này thế nào để có thể lợi ích cho xã hội ngày nay? Người trong các giai cấp, tầng lớp khác có thể vận dụng đạo lý trong chương này không? […]
諸侯章第三
Chư Hầu chương đệ tam
諸侯章第三
Chư Hầu chương đệ tam
Chương thứ ba: Chư Hầu
[Nguyên văn] 「在上不驕,高而不危;制節謹度,滿而不溢。高而不危,所以長守貴也;滿而不溢,所以長守富也。
[Phiên âm] “Tại thượng bất kiêu, cao nhi bất nguy; chế tiết cẩn độ, mãn nhi bất dật. Cao nhi bất nguy, sở dĩ trường thủ quý dã; mãn nhi bất dật, sở dĩ trường thủ phú dã.
[Lời dịch] “Ở địa vị cao mà không kiêu ngạo, thì ngồi ở ngôi cao sẽ không gặp nguy hại, do đó chức vị giữ được dài lâu; biết tiết chế phù hợp, chi dùng cẩn thận, thì của cải đầy đủ dư dả mà không hao tổn lãng phí, nhờ vậy nên giàu sang được bền vững[1].
[Nguyên văn] 富貴不離其身,然後能保其社稷,而和其民人,蓋諸侯之孝也。
[Phiên âm] Phú quý bất ly kỳ thân, nhiên hậu năng bảo kỳ xã tắc, nhi hòa kỳ dân nhân, cái Chư Hầu chi hiếu dã.
[Lời dịch] Giàu có và địa vị được bảo toàn[2], thì sau mới có thể giữ vững được xã tắc, giúp nhân dân được vui hòa[3]. Đây chính là Hiếu đạo của Chư Hầu.
[Nguyên văn] 詩云:『戰戰兢兢,如臨深淵,如履薄冰。』」
[Phiên âm] Thi vân: ‘Chiến chiến căng căng, như lâm thâm uyên, như lý bạc băng’.”
[Lời dịch] Kinh Thi[4] có câu: ‘Nơm nớp thận trọng, như đứng bên vực sâu, như đi trên băng mỏng’.[5]”
- Chú thích:
Chương này nói về hiếu đạo của Chư Hầu. Chư Hầu là người có địa vị cao, chỉ sau Thiên Tử, theo đó mà xét chức vị ngày nay, Chư Hầu cũng là người làm lãnh đạo có quyền lực lớn,…
1. Vậy xét nội dung kinh văn theo địa vị của Chư Hầu mà giảng, thì:
a. Người ở địa vị cao mà có thể không kiêu ngạo, xem thường người; lại biết giúp đỡ người, biết lắng nghe ý kiến (đúng đắn) để chỉnh đốn bản thân, trị lý xã hội,… Người như vậy ắt được người dân yêu mến, giúp đỡ, ủng hộ; công việc, khu vực, phạm vi quyền hạn người đó trị lý tất sẽ được tốt đẹp, tránh được những sai lầm,… Do vậy, địa vị được giữ vững.
b. Tiền tài mà Chư Hầu sử dụng là từ ngân khố quốc gia, do vậy sự chi dụng này là ở quy mô lớn, nên càng phải có sự tính toán trù liệu cho chu toàn, khi sử dụng biết tiết chế phù hợp, chi dùng cẩn thận (đương nhiên những việc hợp nghĩa cần chi dùng lớn thì phải chi lớn,…) thì ít lãng phí hao tổn, ngân khố mới luôn được đủ đầy. Vả lại, tiền của quốc gia, nhân dân đóng góp, nếu biết dùng vào những việc làm phúc lợi cho nhân dân, phát triển đất nước, giáo dục, quốc phòng an ninh, y tế,… thì đất nước ngày càng an định, phát triển, giàu có. Do vậy, giàu sang được lâu bền.
2. Dịch thoát ý.
3. Hiểu rộng: nhờ làm được những điều trên, nên đất nước được giàu mạnh, được nhân dân ủng hộ,… và lại nhờ đó tiếp tục làm: những việc phúc lợi cho nhân dân, phát triển đất nước,… (về sau càng tốt đẹp hơn, giàu mạnh hơn,…)
4. Câu này trích trong thiên Tiểu Nhã, Kinh Thi.
5. Giảng giải: Người thông thường, hễ có được địa vị cao, có quyền lực & giàu có, thì thường phạm phải kiêu ngạo, tiêu xài phung phí, đây là tập khí chung, đa số đều mắc phải. Cho nên, người hiểu được đạo lý này, biết được điều này sẽ gây nguy hại cho bản thân, cho đất nước, muốn tránh cái nguy hại này thì thời thời phải luôn nhắc nhở bản thân, cảnh tỉnh bản thân. Cái tâm cẩn thận dè chừng ấy giống như ‘đứng bên vực sâu, đi trên băng mỏng’ mà ‘nơm nớp thận trọng’ vậy.
- Mở rộng:
Chương này nói về Hiếu đạo của Chư Hầu, vậy vì sao lại giảng những điều này ở chương Chư Hầu? Những điều này có liên quan gì đến Hiếu đạo? Lại xét bối cảnh lịch sử xã hội xưa và nay, ứng dụng kinh văn này thế nào để có thể lợi ích cho xã hội ngày nay? Người trong các giai cấp, tầng lớp khác có thể vận dụng đạo lý trong chương này không? […]
卿大夫章第四
Khanh Đại Phu chương đệ tứ
卿大夫章第四
Khanh Đại Phu chương đệ tứ
Chương thứ tư: Khanh Đại Phu
[Nguyên văn] 「非先王之法服,不敢服;非先王之法言,不敢道;非先王之德行,不敢行。
[Phiên âm] “Phi Tiên Vương chi pháp phục, bất cảm phục; phi Tiên Vương chi pháp ngôn, bất cảm đạo; phi Tiên Vương chi đức hạnh, bất cảm hành.
[Lời dịch] “Y phục không hợp lễ thì không dám mặc; ngôn từ không hợp lễ thì không dám nói; hành vi không hợp lễ thì không dám làm[1].
[Nguyên văn] 是故,非法不言,非道不行。口無擇言,身無擇行,言滿天下無口過,行滿天下無怨惡。三者備矣,然後能守其宗廟,蓋卿大夫之孝也。
[Phiên âm] Thị cố, phi pháp bất ngôn, phi đạo bất hành. Khẩu vô trạch ngôn, thân vô trạch hạnh, ngôn mãn thiên hạ vô khẩu quá, hành mãn thiên hạ vô oán ố. Tam giả bị hỹ, nhiên hậu năng thủ kỳ tông miếu, cái khanh đại phu chi hiếu dã.
[Lời dịch] Như vậy, [hễ] điều phi lễ [thì] không nói, [hễ] việc trái đạo [là] không làm; [thì] miệng không cần phải đắn đo lựa lời, thân cũng không cần phải đắn đo suy xét về cử chỉ hành vi của mình; dù ở bất kỳ đâu bất kỳ lúc nào[2], lời nói cũng không [e] mắc lỗi, việc làm cũng không [lo rằng sẽ] khiến cho người ta oán hận chán ghét[3]. Ba điều trên làm được trọn vẹn, thì sau có thể giữ gìn được tông miếu[4]. Đây chính là Hiếu đạo của Khanh Đại Phu.
[Nguyên văn] 詩云:『夙夜匪懈,以事一人。』」
[Phiên âm] Thi vân: ‘Túc dạ phỉ giải, dĩ sự nhất nhân’.”
[Lời dịch] Kinh Thi có câu: ‘Sớm tối chẳng lơi là, mà phụng sự quân vương’.[5]”
- Chú thích:
Chương này nói về hiếu đạo của Khanh Đại Phu. Khanh Đại Phu có thể xét đến nhiều vai trò như: Quan tướng nước lớn (Khanh đại phu trong triều đình của Thiên Tử), quan tướng nước nhỏ (Khanh đại phu trong triều đình Chư Hầu), người đứng đầu (khanh đại phu cũng có đất đai cai trị, phạm vi quyền hạn của riêng mình), cận thần với vua,…
1 Dịch thoát ý. ‘Tiên vương chi pháp’ 先王之法: những phép tắc của các vị Thánh Hiền vương trước đây đã định ra. Do có nhiều vai trò khác nhau, nên không thể nêu rõ, nhưng chung quy thì khanh đại phu có ảnh hưởng đến xã hội, quần chúng nhân dân, vì vậy cần phải cẩn thận hành vi của mình. Ở đây nói đến ba phương diện đại biểu là: y phục, lời nói, việc làm.
2 Dịch thoát ý. ‘Mãn thiên hạ’ 滿天下: có thể hiểu là lan truyền rộng khắp; hoặc ảnh hưởng sâu rộng trong xã hội; hoặc cũng có thể hiểu là cả một quá trình công tác,…
3 Những việc không nên làm thì không làm, những việc không nên nói thì không nói, thì không sợ mắc lỗi, không bị người oán ghét. Đặc biệt, trong thời đại công nghệ phát triển như hiện nay, càng phải cẩn trọng hành vi, lời nói của mình.
4 Ba điều trên làm được tốt, thì có thể gìn giữ được thanh danh, không bị mất địa vị, không hổ thẹn với tổ tiên,…
5 Câu này trích trong Kinh Thi, Đại Nhã, Chưng Dân. ‘Nhất nhân’ 一人 nghĩa là một người, tức là vua (Thiên Tử hoặc Chư Hầu), hiểu rộng ra là đất nước. Câu này hiểu cách khác là: “Ngày đêm chẳng sao nhãng, giúp lãnh đạo lo lắng việc nước”.
- Mở rộng: Chương này nói về hiếu đạo của Khanh Đại Phu, đạo lý có thể dùng cho các địa vị khác không? […]
士章第五
Sĩ chương đệ ngũ
士章第五
Sĩ chương đệ ngũ
Chương thứ năm: Sĩ
[Nguyên văn] 「資於事父以事母而愛同,資於事父以事君而敬同。故母取其愛,而君取其敬,兼之者父也。
[Phiên âm] “Tư ư sự phụ dĩ sự mẫu nhi ái đồng, tư ư sự phụ dĩ sự quân nhi kính đồng. Cố mẫu thủ kỳ ái, nhi quân thủ kỳ kính, kiêm chi giả phụ dã.
[Lời dịch] “Tấm lòng yêu thương cha thế nào, thì đối với mẹ cũng yêu thương đồng thế ấy; tấm lòng kính trọng cha thế nào, thì đối với vua[1] cũng kính trọng đồng thế ấy. [Ngược lại] cũng vậy, yêu thương mẹ và kính trọng vua thế nào, thì đối với cha cũng trọn đủ cả lòng yêu thương và kính trọng như vậy.
[Nguyên văn] 故以孝事君則忠,以敬事長則順。忠順不失,以事其上,然後能保其祿位,而守其祭祀,蓋士之孝也。
[Phiên âm] Cố dĩ hiếu sự quân tắc trung, dĩ kính sự trưởng tắc thuận. Trung thuận bất thất, dĩ sự kỳ thượng, nhiên hậu năng bảo kỳ lộc vị, nhi thủ kỳ tế tự, cái sĩ chi hiếu dã.
[Lời dịch] Cho nên, từ lòng hiếu thảo đối với cha mẹ, mở rộng ra đối với đất nước, đối với người lãnh đạo đất nước thì tận trung; từ lòng cung kính đối với cha mẹ, mở rộng ra đối với những bậc trưởng bối thì thuận. Một lòng trung - thuận (đúng đắn) chẳng trái nghịch mà phụng sự người trên, thì sau có thể giữ gìn được lộc vị, bảo hộ việc tế tự[2]. Đây chính là Hiếu đạo của hạng Sĩ.
[Nguyên văn] 詩云:『夙興夜寐,無忝爾所生。』」
[Phiên âm] Thi vân: ‘Túc hưng dạ mị, vô thiểm nhĩ sở sinh’.”
[Lời dịch] Kinh Thi[3] có câu: ‘Sớm dậy tối ngủ, chẳng để thẹn với người sinh ta’.[4]”
- Chú thích:
Chương này nói về hiếu đạo của hạng Sĩ (địa vị thấp hơn Khanh Đại Phu; hàng sĩ phu, quân sĩ,…)
1 ‘Quân’ 君: vua, người lãnh đạo đất nước, người đứng đầu,… Như cha mẹ lo lắng bảo hộ con, người chăm lo bảo hộ đất nước nhân dân, vì lợi ích chung của mọi người. Vì vậy, mình phải nên kính trọng người! …
2 Dù làm chức vụ gì, cương vị nào,… thì cũng phải giữ gìn đức hạnh, làm điều đúng đắn, thì mới có thể giữ gìn được địa vị, bổng lộc, thanh danh, không thẹn với gia đình, tổ tiên,...
3 Câu này trích trong Kinh Thi, Tiểu nhã, Tiểu uyển.
4 Lược giải: ‘Sáng dậy’ thì bắt đầu một ngày, bắt đầu làm việc sinh hoạt; ‘tối ngủ’ thì kết thúc một ngày, kết thúc công việc sinh hoạt một ngày. Cho nên, ‘sáng dậy tối ngủ’ (夙興夜寐) là cách nói khác chỉ sự làm việc sinh hoạt, đời sống hằng ngày,… Cả câu “sớm dậy, tối ngủ, chẳng để thẹn với người sinh ta” với ý nghĩa khuyên: Người làm con sống trong xã hội, trong sinh hoạt làm việc, phải biết giữ gìn danh dự, phẩm hạnh của mình, đem tài trí dùng vào những việc chính đáng lợi ích cho đất nước, xã hội, đừng làm những điều xấu ác, phản nghịch, làm liên lụy đến cha mẹ, khiến cho cha mẹ phải tủi hổ,…
- Mở rộng:
Chương này nói về hiếu đạo của hạng sĩ, vậy những đạo lý trong chương này có thể dùng cho các địa vị tầng lớp khác không? […]
庶人章第六
Thứ Nhân chương đệ lục
庶人章第六
Thứ Nhân chương đệ lục
Chương thứ sáu: Thứ Nhân
[Nguyên văn] 「用天之道,分地之利,謹身節用,以養父母,此庶人之孝也。
[Phiên âm] “Dụng thiên chi đạo, phân địa chi lợi, cẩn thân tiết dụng, dĩ dưỡng phụ mẫu, thử thứ nhân chi hiếu dã.
[Lời dịch] “[Biết] vận dụng và nương tựa tự nhiên để mưu sinh, tạo ra nguồn thu nhập cho mình[2]; [Biết] cẩn thận[3], điều tiết chi dùng cho phù hợp, tiết kiệm[4], nhờ đó có thể phụng dưỡng cha mẹ. Đây là hiếu đạo của thứ nhân[1].
[Nguyên văn] 故自天子至於庶人,孝無終始,而患不及者,未之有也。」
[Phiên âm] Cố tự thiên tử chí ư thứ nhân, hiếu vô chung thủy, nhi hoạn bất cập giả, vị chi hữu dã”.
[Lời dịch] Cho nên, từ thiên tử cho đến dân chúng, hạnh hiếu không có sự phân biệt[5]. Như có ai lo rằng bản thân không thể tận hiếu, điều ấy chưa từng có vậy[6]”.
- Chú thích:
1 Chương này nói về hàng Thứ nhân (hàng dân chúng, người dân thường trong xã hội,…).
2 Ai trong đời cũng đều có công việc, nghề nghiệp để mưu sinh, nuôi sống bản thân và gia đình. Công việc của hàng thứ nhân thường là: nông nghiệp, thương nghiệp, nuôi trồng đánh bắt, khai thác,… phần lớn đều phụ thuộc tự nhiên, chịu ảnh hưởng của tự nhiên. Cho nên, việc biết vận dụng và nương tựa tự nhiên để đem đến hiệu quả tốt cho công việc, đời sống là điều cần thiết.
a. ‘Dụng thiên chi đạo’ 用天之道: biết vận dụng những quy luật tự nhiên - thời tiết, khí hậu, sự tuần hoàn của bốn mùa,…
b. ‘Phân địa chi lợi’ 分地之利: biết tùy vào những đặc điểm thổ nhưỡng, địa hình, nguồn lợi địa phương,… mà nương tựa để mưu sinh. Như: người vùng biển thì có những nguồn lợi đặc thù từ biển, người vùng núi có những nguồn lợi riêng của vùng núi,…
Như vậy, ‘dụng thiên chi đạo, phân địa chi lợi’ có thể hiểu là: người dân biết vận dụng và nương tựa tự nhiên để mưu sinh, tạo ra cái ăn, nguồn thu nhập cho bản thân và gia đình.
3 ‘Cẩn thân’ 謹身, cẩn thận cho bản thân mình. Gồm:
a. Cẩn thận khi lựa chọn công việc: không làm những việc sai trái, hại nước, hại người,…
b. Cẩn thận trong công việc: làm việc cùng mọi người tránh gây xung đột, tránh những tai nạn cho mình và người,… ví dụ: các công việc trên biển (vận chuyển, đánh bắt, khai thác) cần cẩn thận những ngày biển động bão lớn,…
c. Cẩn thận trong đời sống: giữ gìn sức khỏe, làm việc - ăn uống - nghỉ ngơi điều độ, không sa vào các tệ nạn xã hội,…
d. …
4 ‘Tiết dụng’ 節用: điều tiết sử dụng, chi dùng tiết kiệm, phù hợp. Gồm:
a. Hoạt động khai thác, đánh bắt có tiết độ: không nên khai thác quá mức, cạn kiệt nguồn tài nguyên thiên nhiên,... (ví như: đánh bắt thủy sản, không nên tận sát, tận sát rồi thì sau này làm sao còn thủy sản để mà khai thác nữa,…).
b. Trong đời sống phải biết tiết kiệm, chi dùng phù hợp,… (việc thu-chi nên biết cân đối, tiêu xài phải nằm trong khả năng thu nhập của mình, không nên vay nợ để thỏa mãn dục vọng, lối sống xa hoa,… nhằm tránh việc nợ nần, vỡ nợ, gây nên những hệ lụy cho bản thân, gia đình,…)
c. …
5 Từ Thiên tử cho đến dân chúng, tuy địa vị, hoàn cảnh khác nhau, nhưng hạnh hiếu thì không có sự phân biệt lớn-nhỏ, trước-sau, quan trọng - không quan trọng,…
6 Như có người lo lắng rằng do địa vị, hoàn cảnh của bản thân cho nên không thể tận hiếu, không thể phụng dưỡng cha mẹ vẹn toàn, kém khuyết hơn người, hoặc việc hiếu thảo của ta không có ý nghĩa lớn lao,… điều ấy chưa từng có đâu. Tùy vào địa vị hoàn cảnh khác nhau mà sự hành hiếu có khác, đừng vì lo lắng cho rằng hoàn cảnh mình sẽ chẳng hiếu thảo tốt, để rồi thoái chí, chán nản mà mất đi tấm lòng hiếu thảo,…
三才章第七
Tam Tài chương đệ thất
三才章第七
Tam Tài chương đệ thất
Chương thứ bảy: Tam Tài
[Nguyên văn] 曾子曰:「甚哉,孝之大也!」
[Phiên âm] Tăng Tử viết: “Thậm tai, hiếu chi đại dã!”
[Lời dịch] Thầy Tăng Tử [sau khi nghe Đức Khổng Tử giảng những điều trên,] cảm thán khen rằng: “Ôi! Hiếu đạo thật lớn lao thay!”.
[Nguyên văn] 子曰:「夫孝,天之經也,地之義也,民之行也。天地之經,而民是則之。則天之明,因地之利,以順天下。是以其教不肅而成,其政不嚴而治。
[Phiên âm] Tử viết: “Phù hiếu, thiên chi kinh dã, địa chi nghĩa dã, dân chi hạnh dã. Thiên địa chi kinh, nhi dân thị tắc chi. Tắc thiên chi minh, nhân địa chi lợi, dĩ thuận thiên hạ. Thị dĩ kỳ giáo bất túc nhi thành, kỳ chính bất nghiêm nhi trị.
[Lời dịch] Đức Khổng Tử giảng thêm: “Đức Hiếu, cũng như đạo tự nhiên của trời đất, là đức hạnh vốn có tự nhiên của con người[1]; [đức hiếu] cũng như những đạo thường hằng của trời đất, là đạo thường mà con người noi theo; [đức hiếu] như quang minh của trời, tài nguyên của đất, mà thuận thiên hạ[2]. Vì thế, giáo dục [nương theo hiếu đạo thì] không gắt gao mà có được thành tựu, chính trị [dựa trên hiếu đạo thì] không hà khắc mà đạt được thịnh trị[3][4].
[Nguyên văn] 先王見教之可以化民也,是故先之以博愛,而民莫遺其親;陳之於德義,而民興行;先之以敬讓,而民不爭;導之以禮樂,而民和睦;示之以好惡,而民知禁。
[Phiên âm] Tiên vương kiến giáo chi khả dĩ hóa dân dã, thị cố tiên chi dĩ bác ái, nhi dân mạc di kì thân; trần chi ư đức nghĩa, nhi dân hưng hành; tiên chi dĩ kính nhượng, nhi dân bất tranh; đạo chi dĩ lễ nhạc, nhi dân hòa mục; thị chi dĩ hảo ác, nhi dân tri cấm.
[Lời dịch] Các vị Hiền vương đời trước thấy rằng giáo dục có thể cảm hóa ảnh hưởng đến dân chúng[5]. Cho nên, người đem lòng bác ái giáo hóa nhân dân, thì dân chúng không ruồng bỏ cha mẹ mình; đem đức hạnh lễ nghĩa giáo hóa nhân dân, thì đạo đức lễ nghĩa hưng thạnh trong xã hội; lấy cung kính khiêm nhường giáo hóa nhân dân, thì dân chúng không tương tranh nhau; dùng lễ nhạc dẫn dắt nhân dân, thì muôn dân chung sống hòa thuận. Chỉ rõ điều thiện ác tốt xấu, thì dân biết điều cấm mà không phạm vào.
[Nguyên văn] 詩云:『赫赫師尹,民具爾瞻。』」
[Phiên âm] Thi vân: ‘Hách hách Sư Doãn, dân cụ nhĩ chiêm’.”
[Lời dịch] Kinh Thi có câu: ‘Quan thái sư họ Doãn thật hiển hách, dân chúng ai nấy đều ngưỡng vọng’.”[6]
- Chú thích:
1 Đức hiếu là đức hạnh căn bản vốn có của con người, không phải là quy tắc do một người nào đặt ra, bất kỳ thời đại nào cũng có,…
2 Quang minh của trời, nguồn lợi của đất, ai cũng đều cần đến, ai cũng đều được lợi ích,…
3 Bởi vì, hiếu đạo là đạo thường, thuận thiên lý, hợp lòng người,…
4 Xây dựng đất nước từ nền tảng gia đình (gia đình tốt thì đất nước mạnh). ‘Cầu trung thần xuất ư hiếu tử chi môn’,…
5 Các vị Hiền vương đời trước nhận thấy giáo dục có thể thay đổi con người. So với việc [chỉ] dùng hình phạt, giáo dục có một số lợi ích ưu việt hơn,…
6 Câu này trong Kinh Thi, Tiểu Nhã, Tiết Nam Sơn.
孝治章第八
Hiếu Trị chương đệ bát
孝治章第八
Hiếu Trị chương đệ bát
Chương thứ tám: Hiếu Trị
[Nguyên văn] 子曰:「昔者明王之以孝治天下也,不敢遺小國之臣,而況於公、侯、伯、子、男乎?故得萬國之懽心,以事其先王。 治國者不敢侮於鰥寡,而況於士民乎?故得百姓之懽心,以事其先君。治家者不敢失於臣妾,而況於妻子乎?故得人之懽心,以事其親。夫然,故生則親安之,祭則鬼享之。是以天下和平,災害不生,禍亂不作。故明王之以孝治天下也如此。
[Phiên âm]
Tử viết: “Tích giả Minh vương chi dĩ hiếu trị thiên hạ dã, bất cảm di tiểu quốc chi thần, nhi huống ư Công, Hầu, Bá, Tử, Nam hồ? Cố đắc vạn quốc chi hoan tâm, dĩ sự kì Tiên Vương. Trị quốc giả bất cảm vũ ư quan quả, nhi huống ư sĩ dân hồ? Cố đắt bách tính chi hoan tâm, dĩ sự kỳ tiên quân. Trị gia giả bất cảm thất ư thần thiếp, nhi huống ư thê tử hồ? Cố đắc nhân chi hoan tâm, dĩ sự kỳ thân.
Phù nhiên, cố sinh tắc thân an chi, tế tắc quỷ hưởng chi. Thị dĩ thiên hạ hòa bình, tai hại bất sinh, họa loạn bất tác. Cố Minh vương chi dĩ hiếu trị thiên hạ dã như thử.
[Lời dịch]
Đức Khổng Tử nói: “Thuở xưa, những vị Minh vương[1] lấy hiếu trị thiên hạ, không dám[2] bỏ mặc thần tử nước nhỏ, huống chi là các tước vị: công, hầu, bá, tử, nam[3]; vì thế, nên được lòng các nước, mà cùng phụng sự Tiên vương. Những vị trị quốc, không dám khinh miệt người quan-quả[4], huống hồ là hàng sĩ, dân; vì thế, nên được lòng dân chúng, mà cùng phụng sự Tiên quân. Những vị trị gia, không dám bạc đãi gia thần tôi tớ, huống hồ là vợ con; vì thế, nên được lòng mọi người, mà cùng phụng sự song thân[5].
Được như vậy, nên người sống thì được an ninh vui vẻ, người mất thì được an hưởng tế tự. Vì thế, thiên hạ tường hòa thái bình, tai họa không phát sinh, loạn lạc chẳng khởi. Cho nên, các vị minh vương lấy hiếu trị thiên hạ là như vậy.[6]
[Nguyên văn] 詩云:『有覺德行,四國順之。』」
[Phiên âm] Thi vân: ‘Hữu giác đức hạnh, tứ quốc thuận chi’.”
[Lời dịch] Kinh Thi[7] có câu: ‘Người có đức hạnh lớn, bốn phương đều quy thuận’.[8]”
- Chú thích:
1 Minh vương 明王: vị vua sáng suốt, tài năng và đức độ.
2 Thiết nghĩ, chữ không dám (不敢 ‘bất cảm’) ở đây thể hiện thái độ dè dặt, thận trọng, tự răn mình,... của người có đức. […]
3 Công 公, Hầu 侯, Bá 伯, Tử 子, Nam 男: các tước vị Chư Hầu, theo tổ chức xã hội lúc bấy giờ.
4 Quan 鰥: Người đàn ông goá vợ; Quả 寡: người đàn bà goá chồng. Ở đây, chỉ chung những người không nơi nương tựa, bất hạnh, cần được giúp đỡ,…
5 Đại ý nói: Người trên đức độ (nước lớn, hoặc người ở địa vị cao, người giàu có quyền thế,…) sẽ không ỷ thế chèn ép kẻ yếu thế (nước nhỏ, dân chúng, tôi tớ, người bất hạnh,…) - đây chính là ‘hiếu trị’.
6 [Lạm bàn] có thể hiểu là: nước lớn không ỷ thế áp bức nước nhỏ, người có địa vị quyền thế không ỷ thế bắt nạt hiếp đáp người yếu thế, thì kẻ dưới sẽ không oán ghét, làm loạn,... Không những vậy, nếu người trên biết giúp đỡ kẻ dưới, quan tâm hỗ trợ những người yếu thế, khốn khổ trong xã hội, thì được lòng mọi người. Mọi người tôn kính, quý mến người trên, sẽ tôn kính luôn đến cha mẹ, tổ tiên người đó; huống nữa, họ còn quan tâm, giúp đỡ, hỗ trợ các việc liên quan đến người trên đức độ, như: công việc, gia đình,…
7 Câu này trong Kinh Thi詩經, Đại Nhã大雅, Đãng Chi Thập蕩之什, Ức 抑.
8 Dịch thoát ý theo nghĩa rộng.
聖治章第九
Thánh Trị chương đệ cửu
聖治章第九
Thánh Trị chương đệ cửu
Chương thứ chín: Thánh Trị
[Nguyên văn] 曾子曰:「敢問聖人之德,無以加於孝乎?」
[Phiên âm] Tăng Tử viết: “Cảm vấn Thánh Nhân chi đức, vô dĩ gia ư hiếu hồ?”
[Lời dịch] Thầy Tăng Tử thưa: “Con xin được hỏi, đức của Thánh nhân không còn gì vượt hơn đức hiếu sao?”
[Nguyên văn] 子曰:「天地之性,人為貴。人之行,莫大於孝,孝莫大於嚴父,嚴父莫大於配天,則周公其人也。昔者,周公郊祀后稷以配天,宗祀文王於明堂以配上帝。是以四海之內,各以其職來祭。夫聖人之德,又何以加於孝乎?
[Phiên âm] Tử viết: “Thiên địa chi tính, nhân vi quý. Nhân chi hạnh, mạc đại ư hiếu, hiếu mạc đại ư nghiêm phụ, nghiêm phụ mạc đại ư phối thiên, tắc Chu Công kỳ nhân dã. Tích giả, Chu Công giao tự Hậu Tắc dĩ phối thiên, tông tự Văn Vương ư minh đường dĩ phối Thượng Đế. Thị dĩ tứ hải chi nội, các dĩ kỳ chức lai tế. Phù Thánh Nhân chi đức, hựu hà dĩ gia ư hiếu hồ?
[Lời dịch] Đức Khổng Tử nói: “Trong trời đất này[1], con người là quý. Đức hạnh của con người, không gì hơn được đức hiếu. […][2]
[Nguyên văn] 故親生之膝下,以養父母日嚴。聖人因嚴以教敬,因親以教愛。聖人之教,不肅而成,其政不嚴而治,其所因者,本也。
[Phiên âm] Cố thân sinh chi tất hạ, dĩ dưỡng phụ mẫu nhật nghiêm. Thánh nhân nhân nghiêm dĩ giáo kính, nhân thân dĩ giáo ái. Thánh nhân chi giáo, bất túc nhi thành, kỳ chính bất nghiêm nhi trị, kỳ sở nhân giả, bổn dã.
[Lời dịch] Tình thân ái đã hình thành từ khi con trẻ còn rất nhỏ, tình cảm đối với cha mẹ dần trở nên tôn kính. Thánh nhân, từ lòng tôn kính ấy mà dạy lòng kính trọng, từ lòng thân ái ấy mà dạy lòng bác ái[3]. Cho nên, giáo hóa của Thánh nhân không [cần] gắt gao mà được thành tựu, chính sự không [cần] hà khắc mà được yên trị — bởi điều người dựa vào chính là cái [tình thương và đạo đức tự nhiên,…] vốn có rồi vậy.
[Nguyên văn] 父子之道,天性也,君臣之義也。父母生之,續莫大焉。君親臨之,厚莫重焉。 故不愛其親而愛他人者,謂之悖德;不敬其親而敬他人者,謂之悖禮。
[Phiên âm] Phụ tử chi đạo, thiên tính dã, quân thần chi nghĩa dã. Phụ mẫu sinh chi, tục mạc đại yên. Quân thân lâm chi, hậu mạc trọng yên. Cố bất ái kỳ thân nhi ái tha nhân giả, vị chi bội đức; bất kính kỳ thân nhi kính tha nhân giả, vị chi bội lễ.
[Lời dịch] Đạo nghĩa cha-con, đó là thiên tính tự nhiên của con người, cũng hàm chứa cả đạo nghĩa quân-thần trong đó. Cha mẹ - sinh ta khó nhọc, tiếp nối việc ấy là điều không gì lớn lao bằng[4]; che chở bảo hộ ta, ân đức ấy không gì sâu dày bằng. Bởi vậy, không yêu thương cha mẹ mình mà [chỉ] yêu thương người khác, thì thật ngược đời; không kính trọng cha mẹ mình mà [chỉ] kính trọng người khác, thì không hợp lẽ.
[Nguyên văn] 以順則逆,民無則焉。不在於善,而皆在於凶德,雖得之,君子不貴也。君子則不然, 言思可道,行思可樂,德義可尊,作事可法,容止可觀,進退可度,以臨其民。是以其民畏而愛之,則而象之。故能成其德教,而行其政令。
[Phiên âm] Dĩ thuận tắc nghịch, dân vô tắc yên. Bất tại ư thiện, nhi giai tại ư hung đức, tuy đắc chi, quân tử bất quý dã. Quân tử tắc bất nhiên, ngôn tư khả đạo, hành tư khả lạc, đức nghĩa khả tôn, tác sự khả pháp, dung chỉ khả quan, tiến thoái khả độ, dĩ lâm kỳ dân. Thị dĩ kỳ dân úy nhi ái chi, tắc nhi tượng chi. Cố năng thành kỳ đức giáo, nhi hành kỳ chính lệnh.
[Lời dịch]
[Người] đi ngược thiên tính, thì dân chúng không theo. [Phàm mọi việc,] nếu không ở điều thiện, mà đều là làm những việc ác đức, thì dù có đạt được, người quân tử cũng không cho đó là điều đáng quý[5].
Người quân tử thì không [đi ngược thiên tính,…] như vậy. Lời nói suy xét cho hợp đạo lý; hành động suy xét cho được kết quả tốt đẹp an vui; phẩm đức nghĩa cử, đáng để người tôn trọng; việc làm thích đáng, đáng để người tuân theo; dáng vẻ cử chỉ đáng để người ưa mến nhìn ngắm; tiến-lui phù hợp có chừng mực; người dùng những điều này để tiếp xúc mọi người, dẫn dắt dân chúng. Vì thế, dân chúng kính sợ mà lại yêu quý người, học tập và làm theo người. Nhờ vậy, người có thể thành tựu được nền giáo hóa đạo đức và thi hành được nền chính trị tốt đẹp."
[Nguyên văn] 詩云:『淑人君子,其儀不忒。』」
[Phiên âm] Thi vân: ‘Thục nhân quân tử, kỳ nghi bất thắc’.”
[Lời dịch] Kinh Thi có câu: ‘Bậc thiện nhân quân tử, phong thái uy nghi đúng mực’.[6]”
- Chú thích:
1 Dịch thoát ý.
2 Đoạn này không hiểu, nên không dịch.
3 Dịch thoát ý, xem thêm Thuyết Văn Giải Tự. Có thể hiểu là: từ lòng yêu thương kính trọng vốn có, được uốn nắn đúng đắn, và mở rộng ra đối với mọi người. […]
4 Cha mẹ sinh ta khó nhọc, cho nên ta phải biết giữ gìn tiếp nối sự sống ấy -quý trọng bản thân mình, không làm những điều điên rồ hại thân, dại dột tự sát,…; lại biết dùng sự sống cha mẹ ban cho mà làm điều có ích - chính là tiếp nối chí hướng của cha mẹ;…
5 Có thể hiểu là: Người quân tử (người có đức hạnh, học vấn, hiểu đạo lý,… địa vị nào cũng có,…) sẽ không kính quý người làm việc xấu; hoặc người quân tử sẽ không trân quý việc dùng điều xấu ác để đạt được mục đích, bởi người biết những việc xấu ác sẽ tổn phước đức nên không lâu bền;…
6 Kinh Thi 詩經, Quốc Phong 國風, Tào Phong 曹風, Thi Cưu 鳲鳩.
紀孝行章第十
Kỷ Hiếu Hạnh chương đệ thập
紀孝行章第十
Kỷ Hiếu Hạnh chương đệ thập
Chương thứ mười: Kỷ Hiếu Hạnh
[Nguyên văn] 子曰:「孝子之事親也,居則致其敬,養則致其樂,病則致其憂,喪則致其哀,祭則致其嚴。五者備矣,然後能事親。
[Phiên âm] Tử viết: “Hiếu tử chi sự thân dã, cư tắc trí kỳ kính, dưỡng tắc trí kỳ lạc, bệnh tắc trí kỳ ưu, tang tắc trí kỳ ai, tế tắc trí kỳ nghiêm. Ngũ giả bị hỹ, nhiên hậu năng sự thân.”
[Dịch nghĩa] Đức Khổng Tử nói: “Người con hiếu đối với cha mẹ, khi ở bên [cha mẹ] thì chân thành cung kính; khi phụng dưỡng [cha mẹ] thì vui vẻ ân cần; khi [cha mẹ] ốm đau thì quan tâm lo lắng; khi [cha mẹ] mất, buồn thương tưởng nhớ ân đức; và khi cúng tế thì trang nghiêm thành kính[1]. Làm được năm điều trên, thì có thể xem là vuông tròn hai chữ ‘sự thân’[2].
[Nguyên văn] 事親者,居上不驕,為下不亂,在醜不爭。居上而驕則亡,為下而亂則刑,在醜而爭則兵。三者不除,雖日用三牲之養,猶為不孝也。」
[Phiên âm] Sự thân giả, cư thượng bất kiêu, vi hạ bất loạn, tại xú bất tranh. Cư thượng nhi kiêu tắc vong, vi hạ nhi loạn tắc hình, tại xú nhi tranh tắc binh. Tam giả bất trừ, tuy nhật dụng tam sinh chi dưỡng, do vi bất hiếu dã.”
[Dịch nghĩa] Người phụng dưỡng cha mẹ, ở địa vị cao không [nên] kiêu căng, ở địa vị thấp không [nên] làm loạn, sống trong đoàn thể không [nên] tranh đấu. Ở địa vị cao mà kiêu căng sẽ dẫn đến suy vong, ở địa vị thấp mà làm loạn thì sẽ bị trừng phạt, sống trong đoàn thể mà tranh đấu sẽ xảy ra xung đột. Ba điều này không trừ bỏ, dù ngày ngày dùng những món ngon[3] để phụng dưỡng cha mẹ, vẫn là bất hiếu[4]."
- Chú thích:
1 Dịch thoát ý và xem thêm chú thích để hiểu hơn về đoạn văn. Trong nguyên văn, các ý trên đều có xuất hiện chữ ‘trí’ 致. Chữ 致 ở đây nhắn nhủ: hãy nên hết lòng làm đến [sự tự nhiên, không gượng ép, chân thành, đúng mực,…].
2 ‘Sự thân’ 事親 nghĩa là: phụng dưỡng cha mẹ,…
3 Dịch thoát ý.
4 Bởi vì: con gây tai họa, liên lụy đến mẹ cha; con gặp tai họa, cha mẹ chẳng yên lòng;…
五刑章第十一
Ngũ Hình chương đệ thập nhất
五刑章第十一
Ngũ Hình chương đệ thập nhất
Chương mười một: Ngũ Hình
[Nguyên văn] 子曰:「五刑之屬三千,而罪莫大於不孝。要君者無上,非聖人者無法,非孝者無親,此大亂之道也。」
[Phiên âm] Tử viết: “Ngũ hình chi thuộc tam thiên, nhi tội mạc đại ư bất hiếu. Yêu quân giả vô thượng, phỉ thánh nhân giả vô pháp, phi hiếu giả vô thân, thử đại loạn chi đạo dã.”
[Dịch nghĩa] Đức Khổng Tử nói: “Trong các tội lỗi[1], không có tội nào lớn bằng tội bất hiếu. Kẻ/việc làm[2] gây hại cho đất nước[3] - vô thượng[4], kẻ/việc làm phỉ báng Thánh Nhân[5] - vô pháp[6], kẻ/việc làm trái với hiếu đạo[7] - vô thân[8], ba loại này chính là nguồn cơn gây ra động loạn trong xã hội[9]”.
- Chú thích:
1 Dịch thoát ý. 五刑之屬三千 ‘Ngũ hình chi thuộc tam thiên’: Hình phạt thời bấy giờ có năm loại lớn, với khoảng ba nghìn tội trạng bị xử phạt bằng năm loại hình này.
2 Chữ 者 ‘giả’ nghĩa là: người hoặc việc làm,...
3 Chữ 君 ‘quân’ nghĩa là: vua, bậc quân chủ,… hiểu rộng ra: liên quan đến đất nước,… ‘Yêu quân giả’ 要君者: là những kẻ hoặc việc làm uy hiếp, đe dọa,… vua, bậc quân chủ. Hiểu rộng ra là những kẻ hoặc việc làm gây nguy hại cho đất nước, như: phản động, kích động, chống phá,…
4 ‘Vô thượng’ 無上: không biết trên-dưới, lộng hành,…
5 ‘Phỉ Thánh Nhân giả’ 非聖人者: là những kẻ hoặc việc làm phỉ báng, chống đối Thánh Nhân, cùng những kỷ cương tốt đẹp mà Thánh nhân đề ra để giúp ích xã hội,… Nói cách khác, ‘phỉ Thánh Nhân giả’ là những kẻ hoặc việc làm đề xướng những việc trái với luân lý đạo đức,…
6 ‘Vô pháp’ 無法: không có phép tắc, vô phép,…
7 ‘Phi hiếu giả’ 非孝者: là những kẻ hoặc việc làm trái với hiếu đạo (chân chính, đúng đắn),… Gồm:
a. Những kẻ hoặc việc làm: giết cha, giết mẹ, hành hạ ngược đãi cha mẹ,…
b. Chê bỏ hiếu đạo, hoặc giảng giải một cách cực đoan, sai lầm,…
8 ‘Vô thân’ 無親: là trong lòng không có cha mẹ, trong lòng không biết đến ân đức cha mẹ, không xem cha mẹ ra gì,…
9 Đây là ba căn nguyên dẫn đến động loạn trong xã hội, cần nên lưu ý và phòng ngừa.
廣要道章第十二
Quảng Yếu Đạo chương đệ thập nhị
廣要道章第十二
Quảng Yếu Đạo chương đệ thập nhị
Chương mười hai: Quảng Yếu Đạo
[Nguyên văn] 子曰:「教民親愛,莫善於孝;教民禮順,莫善於悌;移風易俗,莫善於樂;安上治民,莫善於禮。
[Phiên âm] Tử viết: “Giáo dân thân ái, mạc thiện ư hiếu; giáo dân lễ thuận, mạc thiện ư đễ; di phong dịch tục, mạc thiện ư nhạc; an thượng trị dân, mạc thiện ư lễ.
[Dịch nghĩa] Đức Khổng Tử nói: “Dạy dân thân ái, không gì tốt bằng [dùng] hiếu[1]; dạy dân lễ thuận[2], không gì tốt bằng [dùng] đễ; cải thiện phong tục tập quán xấu, không gì tốt bằng [dùng] nhạc[3]; muốn giúp trên dưới được an trị, không gì tốt bằng [dùng] lễ.
[Nguyên văn] 禮者,敬而已矣。故敬其父則子悅, 敬其兄則弟悅,敬其君則臣悅;敬一人而千萬人悅。所敬者寡,而悅者眾,此之謂要道也。」
[Phiên âm] Lễ giả, kính nhi dĩ hỹ. Cố kính kỳ phụ tắc tử duyệt, kính kỳ huynh tắc đệ duyệt, kính kỳ quân tắc thần duyệt; kính nhất nhân nhi thiên vạn nhân duyệt. Sở kính giả quả, nhi duyệt giả chúng, thử chi vị yếu đạo dã.”
[Dịch nghĩa] Lễ, cốt ở chữ kính mà thôi[4]. Kính người làm cha mẹ thì người làm con vui lòng, kính người làm anh chị thì người làm em vui lòng, kính người làm vua thì thần tử dân chúng vui lòng[5]; kính một người mà nhiều người vui. Người được kính tuy ít, nhưng người vui lại nhiều[6]. Đây gọi là ‘yếu đạo’.”
- Chú thích:
1 Người muốn giúp dân chúng yêu mến nhau, không có phương pháp nào tốt hơn là khiến họ hiếu thảo với cha mẹ, bắt đầu từ việc yêu mến cha mẹ mình,... Các ý sau cũng như vậy.
2 Lễ thuận 禮順: đối đãi thuận hòa, đúng mực,…
3 ‘Nhạc’ (樂) vốn có ảnh hưởng đến tâm tính con người. Nhưng thiết nghĩ, ngày nay có thể hiểu rộng hơn, gồm các hình thức nghệ thuật và truyền thông giải trí khác.
4 Kính là căn bản của lễ.
5 ‘Phụ’ 父 nghĩa là cha, hiểu rộng ra gồm cả cha mẹ. ‘Huynh’ 兄 nghĩa là anh, hiểu rộng ra gồm cả anh chị. ‘Quân’ 君 nghĩa là vua, hiểu rộng ra là đất nước.
6 [Lạm bàn:] thông thường, khi ta kính một người (cha, anh, vua (đất nước),…) thì những người liên quan đến họ (con, em, bề tôi (người dân),…) sẽ cảm thấy được tôn trọng, từ đó sinh ra niềm vui & thiện chí. […]
- Mở rộng: Kính sẽ có biểu hiện gì? Kính thế nào cho phù hợp đúng đắn? […]
廣至德章第十三
Quảng Chí Đức chương đệ thập tam
廣至德章第十三
Quảng Chí Đức chương đệ thập tam
Chương mười ba: Quảng Chí Đức
[Nguyên văn] 子曰:「君子之教以孝也,非家至而日見之也。教以孝,所以敬天下之為人父者也;教以悌,所以敬天下之為人兄者也;教以臣,所以敬天下之為人君者也。
[Phiên âm] Tử viết: “Quân tử chi giáo dĩ hiếu dã, phi gia chí nhi nhật kiến chi dã. Giáo dĩ hiếu, sở dĩ kính thiên hạ chi vi nhân phụ giả dã; giáo dĩ đễ, sở dĩ kính thiên hạ chi vi nhân huynh giả dã; giáo dĩ thần, sở dĩ kính thiên hạ chi vi nhân quân giả dã.
[Dịch nghĩa] Đức Khổng Tử nói: “Người quân tử đem hiếu đạo giáo hóa dân chúng, không [cần] phải đến từng nhà, hay phải gặp mặt hằng ngày để giáo hóa[1]. Dạy hiếu, sở dĩ là[2] kính những người làm cha ở trên đời; dạy đễ, sở dĩ là kính những người làm anh ở trên đời; dạy đạo làm thần, sở dĩ là kính những người làm vua ở trên đời[3].
[Nguyên văn] 詩云:『愷悌君子,民之父母。』非至德,其孰能順民如此其大者乎?」
[Phiên âm] Thi vân: “Khải đễ quân tử, dân chi phụ mẫu.” Phi chí đức, kỳ thục năng thuận dân như thử kỳ đại giả hồ?”
[Dịch nghĩa] Kinh Thi có câu: ‘Người quân tử đức độ, như cha mẹ dân’[4]. Nếu không phải là trang chí đức[5], thì ai có thể khiến dân thuận lòng làm theo [mà cảm hóa] được sâu rộng đến thế?[6]"
- Chú thích:
1 Người muốn đem lại lợi ích cho mọi người (dù đi theo con đường giáo dục, hay chính trị, tôn giáo,…) đem hiếu đạo giáo hóa dân chúng, nhưng mỗi ngày đều phải ra ngoài, hôm nay đến nhà người này, ngày mai đến nhà người kia; hoặc phải ngày ngày gặp mặt để giảng dạy, chỉ bảo,… thì việc này rất mất công sức, không thể làm được. Dù cho có là thời đại công nghệ truyền thông hiện đại như ngày nay thì cũng không thể làm được, bởi giáo dục không phải chỉ nói, biểu diễn, hay lôi kéo, ép buộc,… mà người ta nghe theo và đạt được hiệu quả tốt đẹp sâu rộng. Vậy phải làm thế nào? Nhờ những người thật làm trong xã hội, bậc hiền nhân quân tử (người có tài đức, có tấm lòng, vận dụng đúng đắn,…) cảm hóa! (xem thêm phần mở rộng)
2 ‘Sở dĩ’ 所以: Điều mà người quân tử làm, và cũng là điều để khiến mọi người hiểu và làm theo,…
(Từ hành vi cụ thể đến nguyên tắc phổ quát, thông qua việc làm của mình, bản thân làm gương và giáo hóa để giúp người học nắm được cái nguyên tắc, cái đạo lý đằng sau đó. Khi người dân đã thấu hiểu những đạo lý này, họ sẽ tự nhiên biết cách cư xử đúng đắn trong đời sống.)
3 Khi một người biết hiếu thảo kính trọng cha mẹ mình thì tự nhiên sẽ biết kính trọng những người làm cha mẹ ở trên đời. Bởi họ hiểu được tấm lòng của cha mẹ, sự quan tâm lo lắng của cha mẹ mình,… họ tự nhiên sẽ hiểu được nỗi lòng của những người làm cha mẹ ở trên đời, từ đó mà biết đối đãi đúng phép,… Cũng như vậy, người biết kính trọng anh chị mình thì tự nhiên không xúc phạm anh chị người; người yêu mến đất nước mình, thì sẽ không tổn hại đất nước người,…
4 Câu này trong Kinh Thi詩經, Đại Nhã大雅, Huýnh Chước泂酌.
5 Trang chí đức: người có đức hạnh lớn lao,…
6 Đoạn này khẳng định sức mạnh và đẳng cấp của đức hạnh. Nếu không phải là người có đức hạnh lớn lao thì làm sao có thể khiến dân chúng tin tưởng và làm theo. […]
- Mở rộng:
Hàm nghĩa chữ ‘giáo’ 教 - Sách Thuyết Văn Giải Tự 說文解字 viết: 上所施下所效也 trên thi hành, dưới noi theo; người trước làm, người sau theo;…
廣揚名章第十四
Quảng Dương Danh chương đệ thập tứ
廣揚名章第十四
Quảng Dương Danh chương đệ thập tứ
Chương mười bốn: Quảng Dương Danh
[Nguyên văn] 子曰:「君子之事親孝,故忠可移於君;事兄悌,故順可移於長;居家理,故治可移於官。是以行成於內,而名立於後世矣。」
[Phiên âm] Tử viết: “Quân tử chi sự thân hiếu, cố trung khả di ư quân; sự huynh đễ, cố thuận khả di ư trưởng; cư gia lý, cố trị khả di ư quan. Thị dĩ hạnh thành ư nội, nhi danh lập ư hậu thế hỹ.”
[Lời dịch] Đức Khổng Tử nói: “Người quân tử[1] - phụng dưỡng cha mẹ hiếu thuận, thì họ cũng sẽ dùng tấm lòng đó mà tận tâm giúp lãnh đạo lo lắng việc nước; [người quân tử] đối với anh chị kính trọng, thì họ cũng sẽ dùng tấm lòng đó mà đối đãi thuận hòa với trưởng bối; [người quân tử] yêu mến gia đình, chăm lo gia đình được êm ấm, thì họ cũng sẽ dùng tấm lòng và tài đức đó mà quán xuyến việc nước được chu toàn[2][3]. Do vậy, công hạnh thành tựu ở trong mà danh lưu hậu thế.[4]”
- Chú thích:
1 Các việc: hiếu, kính, trung, thuận, trị lý,… đều sẽ trên tinh thần: chân thành, sáng suốt, trách nhiệm,… - bởi ‘quân tử’.
2 Những điều trên, trước là đối với gia đình, sau là đối với đất nước, xã hội.
3 Người hiếu thảo cha mẹ mình, thương yêu cha mẹ mình, thì họ cũng sẽ mong muốn giúp cho những bậc làm cha mẹ trên đời được an vui,… Những điều sau cũng là như vậy.
4 Xem tấm gương các bậc danh nhân. […]
- Mở rộng:
. Vì sao chỉ nói theo chiều hướng dưới đối với trên (con đối với cha mẹ, em đối với anh chị,…) mà không phải là chiều hướng ngược lại? Trên đối với dưới thế nào? Trong câu ‘hạnh thành ư nội nhi danh lập ư hậu thế’, ‘danh’ ở đây có tính chất gì? […]
諫諍章第十五
Gián Tránh chương đệ thập ngũ
諫諍章第十五
Gián Tránh chương đệ thập ngũ
Chương mười lăm: Gián Tránh*
[Nguyên văn] 曾子曰:「若夫慈愛、恭敬、安親、揚名,則聞命矣。敢問子從父之令,可謂孝乎?」
[Phiên âm] Tăng Tử viết: “Nhược phù từ ái, cung kính, an thân, dương danh, tắc văn mệnh hỹ. Cảm vấn tử tòng phụ chi lệnh, khả vị hiếu hồ?”
[Dịch nghĩa] Thầy Tăng Tử thưa: “Những điều về: từ ái, cung kính, an thân, dương danh,… con đã được nghe thầy dạy. Con xin hỏi: có phải phận làm con là phải tuyệt đối nghe lời cha mẹ thì mới gọi là hiếu?”
[Nguyên văn] 子曰:「是何言與!是何言與!昔者天子有爭臣七人,雖無道,不失其天下;諸侯有爭臣五人,雖無道,不失其國;大夫有爭臣三人,雖無道,不失其家;士有爭友,則身不離於令名;父有爭子,則身不陷於不義。故當不義,則子不可以不爭於父,臣不可以不爭於君。故當不義則爭之,從父之令,又焉得為孝乎?」
[Phiên âm] Tử viết: “Thị hà ngôn dư! Thị hà ngôn dư! Tích giả Thiên Tử hữu tránh thần thất nhân, tuy vô đạo, bất thất kỳ thiên hạ; Chư Hầu hữu tránh thần ngũ nhân, tuy vô đạo, bất thất kỳ quốc; Đại Phu hữu tránh thần tam nhân, tuy vô đạo, bất thất kỳ gia; Sĩ hữu tránh hữu, tắc thân bất ly ư lệnh danh; Phụ hữu tránh tử, tắc thân bất hãm ư bất nghĩa. Cố đương bất nghĩa, tắc tử bất khả dĩ bất tránh ư phụ, thần bất khả dĩ bất tránh ư quân. Cố đương bất nghĩa tắc tránh chi, tòng phụ chi lệnh, hựu yên đắc vi hiếu hồ?!”
[Dịch nghĩa] Đức Khổng Tử đáp: “Sao con lại nói vậy? Sao con lại nói vậy? Xưa kia, các vị Thiên Tử [còn] có bảy vị thần tử khuyên can, dẫu vô đạo, cũng không đến nỗi mất thiên hạ. Chư Hầu có năm vị thần tử khuyên can, dẫu vô đạo, cũng không đến nỗi mất nước. Đại Phu có ba vị thần tử khuyên can, dẫu vô đạo, cũng không đến nỗi mất đất. Kẻ Sĩ có bạn lành khuyên can, cho nên không đánh mất thanh danh. Cha mẹ có con khuyên can, cho nên không sa vào điều bất nghĩa. Vì vậy, khi gặp điều bất nghĩa, thì con không thể không khuyên can cha mẹ, thần tử không thể không khuyên can vua. Gặp điều bất nghĩa thì phải nên khuyên can cha mẹ, nếu chỉ biết mù quáng nghe lệnh, thì sao có thể gọi là hiếu được?!”
- Chú thích:
* ‘Gián tránh’ 諫諍 nghĩa là: khuyên ngăn, can gián,…Chương này khuyên ta: làm con hiếu hay làm người thần tử yêu nước đều cần phải có sự sáng suốt. Khi thấy vua/cha có điều sai lầm, thì phải nên khuyên can người, giúp người - giúp đất nước không mắc phải sai lầm.
- Mở rộng:
. Làm thế nào để xác định một việc là ‘bất nghĩa’?
. Can gián thế nào để không trở thành tiêu cực?
. Khuyên người thế nào để đem lại hiệu quả tốt, hữu ích cho người?
. Nếu khuyên can rồi mà người trên không nghe, thì phải làm gì?
. [...]
感應章第十六
Cảm Ứng chương đệ thập lục
感應章第十六
Cảm Ứng chương đệ thập lục
Chương mười sáu: Cảm Ứng
[Nguyên văn] 子曰:「昔者明王事父孝,故事天明;事母孝,故事地察;長幼順,故上下治。天地明察,神明彰矣。故雖天子,必有尊也,言有父也;必有先也,言有兄也。宗廟致敬,不忘親也。修身慎行,恐辱先也。宗廟致敬,鬼神著矣。孝悌之至,通於神明,光于四海,無所不通。詩云:『自西自東,自南自北,無思不服。』」
[Phiên âm] Tử viết: “Tích giả minh vương sự phụ hiếu, cố sự thiên minh; sự mẫu hiếu, cố sự địa sát; trưởng ấu thuận, cố thượng hạ trị. Thiên địa minh sát, thần minh chương hỹ. Cố tuy Thiên Tử, tất hữu tôn dã, ngôn hữu phụ dã; tất hữu tiên dã, ngôn hữu huynh dã. Tông miếu trí kính, bất vong thân dã. Tu thân thận hạnh, khủng nhục tiên dã. Tông miếu trí kính, quỷ thần trứ hỹ. Hiếu đễ chi chí, thông ư thần minh, quang ư tứ hải, vô sở bất thông. Thi vân: “Tự tây tự đông, tự nam tự bắc, vô tư bất phục.”
[Dịch nghĩa]
Đức Khổng Tử nói: “Những bậc Minh vương thuở xưa, đối với cha mẹ hiếu thảo, nên đối với trời đất thấu suốt[1]; lớn-nhỏ thuận hòa, thì trên-dưới an trị. Trời đất thấu suốt, thần minh hiển lộ[1].
Dù là Thiên tử tôn quý, vẫn có bậc tôn kính hơn - đó là cha mẹ, có người [ở] trước hơn - đó là anh chị. Tông miếu chí kính, không quên tổ tiên. Tu dưỡng bản thân, cẩn thận hành vi, để không làm nhục đến tổ tiên. Tông miếu chí kính, quỷ thần cảm ứng[1]. Hiếu đễ chí thành, có thể tương thông với thần minh[1], sáng[2] khắp bốn bể, không đâu là không cảm đến[3].
Kinh Thi có câu: ‘Đông tây nam bắc, không đâu không phục’.[4]”
- Chú thích:
1 Chương này vượt ngoài khả năng lý giải của chúng tôi. Để hiểu rõ hơn chương này, có lẽ cần độc giả xem thêm: Kinh Dịch, Kinh Phật, lẽ ‘thiên nhân hợp nhất’,…
2 ‘Quang’ 光: ánh sáng, quang minh,… Ở đây, lấy ‘quang’ làm đại biểu, ví đức hạnh, thanh danh tốt đẹp truyền khắp bốn bể, ảnh hưởng rộng khắp, sáng rõ rực rỡ như quang minh,…
3 Hiếu đạo là cầu nối giữa người với người, con người với tổ tiên, trời đất, thần linh,…
4 Câu này trong Kinh Thi 詩經, Đại Nhã 大雅, Văn Vương Chi Thập 文王之什. Đại ý thể hiện sự ảnh hưởng sâu rộng của đức hạnh.
事君章第十七
Sự Quân chương đệ thập thất
事君章第十七
Sự Quân chương đệ thập thất
Chương mười bảy: Sự Quân[1]
[Nguyên văn] 子曰:「君子之事上也,進思盡忠,退思補過,將順其美,匡救其惡,故上下能相親也。
[Phiên âm] Tử viết: “Quân tử chi sự thượng dã, tiến tư tận trung, thoái tư bổ quá, tương thuận kỳ mỹ, khuông cứu kỳ ác, cố thượng hạ năng tương thân dã.
[Dịch nghĩa] Đức Khổng Tử nói: “Người quân tử phụng sự người trên[2], khi ra làm việc thì hết lòng tận trung, khi lui về thì tu thân sửa mình[3]. Người trên có điều tốt đẹp thì thuận theo, ủng hộ và giúp phát huy thêm; có điều xấu ác thì khuyên ngăn, giúp người sửa đổi; nhờ đó mà trên-dưới càng trở nên thân thiết, gắn bó hơn.
[Nguyên văn] 詩云:『心乎愛矣,遐不謂矣,中心藏之,何日忘之。』」
[Phiên âm] Thi vân: ‘Tâm hồ ái hỹ, hà bất vị hỹ, trung tâm tàng chi, hà nhật vong chi’.”
[Dịch nghĩa] Kinh Thi có câu: ‘Trong tâm có lòng yêu kính, vì xa cách không thể nói được, chất chứa trong lòng, không ngày nào quên’.[4][5]”
- Chú thích:
1 ‘Sự quân’ 事君 nghĩa là: phụng sự vua, quân chủ, người lãnh đạo đất nước,… Hiểu rộng ra là: làm việc nước,...
2 ‘Sự thượng’ 事上 nghĩa là: phụng sự người trên, người lãnh đạo cao hơn mình (thấp thì là lãnh đạo đơn vị, hoặc cao đến lãnh đạo đất nước),… tùy vào đơn vị công tác, địa vị mà vai trò, chức trách, ‘sự thượng’ khác nhau. Nhưng dù là làm công việc gì, chung quy đều là cùng làm việc nước, cùng giúp cho đất nước mình tốt đẹp, phát triển,…
3 Ngoài ra, ở đây còn có thể hiểu thêm: ‘tiến’ 進 - được trọng dụng, có chức vị, được ra làm việc,… ‘thoái’ 退 - không được trọng dụng, hoặc bị mất chức, hoặc có thể là đã về hưu,… (do nguyên nhân chủ quan hay khách quan,…)
4 Câu này trích trong: Kinh Thi 詩經, Tiểu Nhã 小雅, Đô Nhân Sĩ Chi Thập都人士之什, Thấp Tang 隰桑.
5 Lược giải:
A. Câu kinh Thi này thể hiện tấm lòng trung quân ái quốc. 心乎愛矣 trong tâm có lòng yêu kính đất nước, giúp vua trị nước; 遐不謂矣 vì xa cách không thể bày tỏ (ở đây có thể hiểu rộng ra là: do hoàn cảnh ngăn trở, hoặc không được trọng dụng, không có chức vị để giúp vua giúp nước, khuyên can vua khi vua sai lầm,…); cho nên 中心藏之 cứ chất chứa trong lòng; cái tấm lòng ấy 何日忘之 không ngày nào nguôi, không lúc nào quên.
B. Ngoài ra, còn có thể hiểu theo bối cảnh lịch sử được phản ánh trong chương Tiểu Nhã, thể hiện nỗi niềm, sự buồn bã, lời trách,… của thần dân khi thấy cảnh đất nước suy tàn. Sâu trong đó là tấm lòng yêu nước, muốn giúp vua da diết. […]
- Mở rộng: Kinh sách này tên là Hiếu Kinh, vì sao nội dung trong đó không chỉ có ‘hiếu thân’ 孝親, mà còn giảng nhiều về ‘sự quân’ 事君, khuyên người trung quân ái quốc? […]
喪親章第十八
Tang Thân chương đệ thập bát
喪親章第十八
Tang Thân chương đệ thập bát
Chương mười tám: Tang Thân
[Nguyên văn] 子曰:「孝子之喪親也,哭不偯,禮無容,言不文,服美不安,聞樂不樂,食旨不甘,此哀戚之情也。
[Phiên âm] Tử viết: “Hiếu tử chi tang thân dã, khốc bất ỷ, lễ vô dong, ngôn bất văn, phục mỹ bất an, văn nhạc bất lạc, thực chỉ bất cam, thử ai thích chi tình dã.
[Dịch nghĩa] Đức Khổng Tử nói: “Người con hiếu mất cha mẹ, khóc rất bi thương[A1], vụng về lễ tiết[A2], ngôn từ không còn mạch lạc[A3], mặc đẹp chẳng thấy an[A4], nghe nhạc chẳng thấy vui[A5], ăn đồ ngon cũng đắng miệng[A6], đây đều là những tình cảm đau sót bi ai tự nhiên thường tình của người con hiếu khi mất cha mẹ[A][A7].
- Chú thích:
A Đoạn này mô tả lòng đau xót thống khổ, tâm trạng bi thương, bộc lộ tự nhiên của người con hiếu khi đứng trước nỗi đau lớn nhất trong đời người - mất cha mẹ.
A1 Dịch thoát ý.
A2 ‘Lễ vô dung’ 禮無容: Một người, lúc bình thường đối đãi với mọi người dù cử chỉ đúng đắn, lịch sự, lễ mạo,... nhưng lúc cha mẹ mất, vì quá đau buồn, người ấy không thể nào để tâm chú ý gì đến lễ tiết, dung nghi, cử chỉ của mình ra sao nữa,…
A3 ‘Ngôn bất văn’ 言不文: ngôn từ, lời nói,… vào lúc này cũng không thể chuẩn mực, văn vẻ, mạch lạc,…
A4 ‘Phục mỹ bất an’ 服美不安: những bộ quần áo đẹp đẽ, trang trọng, lịch sự thường ngày,… mặc vào lúc này, cũng không còn cảm thấy thoải mái, an vui trong lòng.
A5 ‘Văn nhạc bất lạc’ 聞樂不樂: những bản nhạc, giai điệu, ca từ,… ngày thường khiến cho bản thân cảm thấy phấn chấn, hào hứng, yêu thích,… lúc này, nghe nhạc ấy cũng không thể vui nổi.
A6 ‘Thực chỉ bất cam’ 食旨不甘: những món ăn thức uống dù nổi tiếng, dù ngày thường ưa thích,… lúc này, vì quá đau buồn, nên cũng không còn muốn ăn, ăn cũng không cảm thấy ngon,...
A7 Các việc trên, dẫu biết là phát xuất từ tình cảm đau xót tự nhiên, nhưng không nên để trở thành tiêu cực, gây hại,… Vì vậy, đoạn sau là nhắc nhở, phép tắc của Thánh Nhân. […]
[Nguyên văn] 三日而食,教民無以死傷生。毀不滅性,此聖人之政也。喪不過三年,示民有終也。
[Phiên âm] Tam nhật nhi thực, giáo dân vô dĩ tử thương sinh, hủy bất diệt tính, thử Thánh Nhân chi chính dã. Tang bất quá tam niên, thị dân hữu chung dã.
[Dịch nghĩa] [Nhưng] ba ngày thì phải ăn[B1]; khuyên răn mọi người, không vì [sự đau buồn thương tiếc] người đã mất mà làm tổn thương người đang sống, không nên đau khổ quá mức mà hủy hoại tính mạng - đó là khuôn phép của Thánh Nhân[B2]. Tang chế không quá ba năm, chỉ cho dân biết việc tang cũng có kết thúc[B3][B].
- Chú thích:
B Đoạn này nói về phép tắc, quy định của Thánh Nhân.
B1 Như trên đã nói, khi cha mẹ mất, tâm trạng của người con hiếu rất thống khổ, họ biết rằng lúc cha mẹ còn sống đối với họ có ân đức lớn lao, họ biết hiếu thuận cha mẹ, thường ngày phụng dưỡng cha mẹ vui vui vẻ vẻ, giờ đây cha mẹ mất rồi, lòng họ đau xót không chịu nổi,... Không còn muốn ăn uống gì nữa cả, ăn không vô được. Cho nên, Thánh nhân vì những trang hiếu tử này khuyên nhủ, thậm chí là quy định, để cho họ không đến nỗi thái quá mà làm hại bản thân mình. Việc không ăn, trong 3 ngày thì còn có thể chịu được, nhưng sau 3 ngày thì phải ăn. [Lưu ý: khi đã nhịn đói lâu ngày mà bắt đầu ăn trở lại thì phải ăn chậm, ít đến nhiều, ăn đồ ăn nhẹ, dễ tiêu trước (như: cháo loãng,…), phân nhỏ thành nhiều bữa, để cơ thể dần phục hồi lại; nếu sau khi nhịn đói lâu ngày mà ngay lập tức ăn quá nhanh, ăn nhiều trong một lần sẽ gây hại cơ thể.]
B2 Thánh Nhân thi hành chính trị, đó là nền chính trị ‘nhân chính’, chính trị cũng bao hàm cả giáo dục, chính trị cũng là giáo dục, người dùng những chính sách, khuôn phép đúng đắn bảo hộ nhân dân, lợi ích nhân dân,... Ở đây, người vì những trang hiếu tử mà khuyên nhủ, giáo hóa, có những quy định để họ không rơi vào thái quá tiêu cực mà làm hại bản thân và người khác.
B3 Tang chế ba năm cũng là để có những hạn chế nhất định cho những trang hiếu tử. Đại hiếu tử trong tâm lúc nào cũng nghĩ đến cha mẹ, không thể nào buông xuống được, tâm họ càng nghĩ đến ân đức cha mẹ, cái tâm báo ân càng ngày càng tha thiết bức bách,… nếu không giới hạn ba năm, e rằng, họ cứ giữ mãi cái tâm ấy, bi lụy vào điều này mà mất đi tinh thần, ý chí,… Bởi vậy, đề ra giới hạn, tang kỳ cũng phải có ngày kết thúc. (Mở rộng: Vì sao lại là ba năm? Thời gian tang kỳ thủ hiếu này có ý nghĩa gì? Thời đại ngày nay có cần phải giữ ba năm này không? Áp dụng thế nào cho phù hợp?…)
[Nguyên văn] 為之棺槨衣衾而舉之,陳其簠簋而哀戚之;擗踴哭泣,哀以送之;卜其宅兆,而安措之;為之宗廟,以鬼享之;春秋祭祀,以時思之。
[Phiên âm] Vi chi quan quách y khâm nhi cử chi. Trần kỳ phủ quỹ nhi ai thích chi. Tịch dũng khốc khấp, ai dĩ tống chi. Bốc kỳ trạch triệu, nhi an thố chi. Vi chi tông miếu, dĩ quỷ hưởng chi. Xuân thu tế tự, dĩ thời tư chi.
[Dịch nghĩa] Lo liệu quan, quách, y tang, vải liệm,…; sắp đặt đồ cúng mà nhớ thương ngậm ngùi; đau xót khóc than[C1] tiễn biệt; chọn nơi an táng tốt lành; lập bàn thờ hương khói; hằng năm tế tự tưởng nhớ[C][C2][C3].
- Chú thích:
C Đoạn này dạy về việc thực hiện tang sự, lo liệu hậu sự. Dịch thoát ý.
C1 Việc khóc thương, dẫu biết là tình cảm đau xót tự nhiên, nhưng cố gắng giữ cho phù hợp, đừng để gây hại,…
C1 Tùy vào điều kiện hoàn cảnh của bản thân mà lo liệu các việc trên cho tốt và phù hợp nhất,…
C2 Đoạn sau là lời kết.
[Nguyên văn] 生事愛敬,死事哀戚,生民之本盡矣,死生之義備矣,孝子之事親終矣。」
[Phiên âm] Sinh sự ái kính, tử sự ai thích, sinh dân chi bổn tận hỹ, tử sinh chi nghĩa bị hỹ, hiếu tử chi sự thân chung hỹ.”
[Dịch nghĩa] Cha mẹ còn, yêu thương kính trọng; cha mẹ mất, đau xót nhớ thương. [Đến đây, xem như] gốc nhân sinh đã tròn, nghĩa tử sinh đã trọn, hiếu tử phụng dưỡng cha mẹ [trên thế gian] hoàn thành”.
孝經(終)
Hiếu Kinh (hết)
Ấu Học Khải Mông, 1983.
Trương Minh Ký dịch giải.
1. Khai tông minh nghĩa chương đệ nhứt.
Đức phu tử lúc ở không,
thấy thầy Tăng tử ngồi trông, bèn rằng:
Vua xưa đức cả đạo toàn,
thuận yên thiên hạ, hòa bằng nhơn dân.
Trên không giận, dưới chẳng hờn.
Vì sao ngươi biết được mần rứa chăng?
Thầy Tăng lánh chiếu thưa rằng:
Sâm không được sáng, biết bàn mần răng.
Đức phu tử mới nói rằng:
Vã chăng hiếu nọ gốc đàng đức kia.
Dạy người lấy đấy làm bia;
lại ngồi ta bảo, chớ lìa chiếu ra:
Cả mình vóc, tới tóc da,
chịu chưng cha mẹ sanh ta vẹn tuyền
Chẳng cho hư hại gây nên,
là đầu lòng thảo kẻ hiền sự thân.
Mình nên, đạo dạy xa gần,
danh thơm tiếng tốt đồn dần đời sau.
Vinh cha hiển mẹ dài lâu,
ấy là lòng thảo đuôi đầu trọn nên.
Vã chăng lòng thảo con hiền,
trước thờ cha mẹ, giữa đền ơn vua.
Sau thì công nghiệp gắn đua,
thân danh đôi chữ ấy tua lập thành.
Câu thi Đại nhã đành rành:
Tổ tiên ngươi nhớ, đức lành người ghi.
2. Thiên tử chương đệ nhị.
Rằng: Thương cha mẹ trọn nghì,
chẳng lòng ghét chúng chút chi mới là.
Thình lòng kính mẹ vì cha,
dám đâu khinh dể người ta cho đành.
Kính cha thương mẹ hết tình,
đặng trăm họ mến đức lành dõi theo.
Bày cho bốn biển kính yêu,
thảo vì thiên tử là điều ấy thôi.
Phủ hình thiên ấy để roi:
Một người có phước, triệu người nhờ ân.
3. Chư hầu chương đệ tam.
Ở trên chẳng biết kiêu căn,
ngôi cao song chẳng nguy nan đều nào.
Tính xài ra, giữ phép vào,
dẩy đầy mà chẳng cho hao cho tràng.
Ngôi cao song khỏi tai nàn,
lấy làm bền giữ đặng sang nơi trào.
Dẩy đầy mà khỏi tràng hao,
lấy làm bền giữ đặng giàu ở ta.
Giàu sang chẳng cách mình ra,
vậy sau xả tắc mới là bình yên.
Đặng hòa kẻ dưới người trên,
ấy là lòng thảo mà nên chư hầu.
Thi rằng: E lệ lo âu,
như sang giá mỏng vực sâu khác gì!
4. Khanh, đại pho chương đệ tứ.
Tiên vương phép biệt tôn ti,
nên không dám mặc đồ chi sai lề.
Tiên vương phép tắc kiên dè,
nên gìn lời nói chẳng hề dám sai.
Tiên vương đức hóa lâu dài,
nên điều trái phép chẳng ai dám làm.
Miệng không lựa tiếng, khỏi lầm,
mình không lựa nết, mà kham việc làm.
Nói cùng thiên hạ không lầm,
làm cùng thiên hạ không đam lòng hờn.
Ba điều được vẹn được tròn,
vậy sau tông miến giữ còn đặng an.
Ấy là lòng thảo rỡ ràng,
chưng quan khanh tướng cùng hàng đại pho.
Thiên Chưng dân có câu thơ:
Ngày đêm chẳng trể lấy thờ chúa ta.
5. Sĩ chương đệ ngũ.
Rằng: Nương thờ phụng thân cha,
lấy thờ phụng mẹ, suy ra thương đều.
Kính cha mình đó bao nhiêu,
lấy thờ vua ấy kính nêu ra đồng.
Kính vua thương mẹ đôi đường,
cha thời gồm cả trọn lòng kính thương.
Vua, thờ lấy thảo thời trong,
lớn, thờ lấy kỉnh được lòng thuận nên.
Thuận trong chẳng lỗi thì yên,
lấy thờ kẻ lớn người trên trọn nghì.
Vậy sau giữ đặng lộc vì,
mà lo tế tự, thảo ni sĩ hiền.
Dẫn thiên Tiểu hoản tiếp biên:
Đêm ngơi ngày dậy, khỏi phiền mẹ cha.
6. Thứ nhơn chương đệ lục.
Đạo Trời thì tuyết dùng ra,
thổ nghi phân biệt rõ là thấp cao.
Giữ mình dè nết ra vào,
xây xài có mực, tốn hao có chừng.
Lấy nuôi cha mẹ đặng thường,
ấy là lòng thảo chưng hàng thứ nhân.
Từ vua cho đến chúng dân,
lập thân không được, sự thân không gìn.
Mà không họa hoạn đến mình,
thì chưa có vậy, ngõ tin đạo hằng.
7. Tam tài chương đệ thất.
Thầy Tăng nghe nói than rằng:
Thảo xem trọng lắm, rõ ràng lớn hung!
Đức phu tử lại dạy rằng:
Vã chăng hiếu ấy là đàng Trời sinh.
Là đàng nghĩa Đất rộng thinh,
là đàng hạnh tốt dân tình đều noi.
Chưng đàng Trời Đất xét soi,
nhơn dân bắt chước để roi không cùng.
Sáng Trời để lấy làm chừng,
nhơn theo lợi Đất thuận trong dân tình.
Ấy nên dạy chẳng nghiêm hình,
mà nên việc chánh, mà bình trị dân.
Tiên vương thấy dạy cũng an,
cho nên thương rộng mà thân cận đều.
Bày ra đức nghĩa dõi theo,
mà dân dấy hạnh thương yêu nhau đời.
Làm gương kính nhượng cho coi,
đặng dân vui thuận khỏi người tranh nhau.
Dạy dân lễ nhạc gồm bao,
đặng cho hòa thuận đâu đâu cũng đều.
Lấy đều ưa ghét làm nêu,
đặng dân biết cấm mà theo bên lành.
Tiệt nam thiên ấy đành rành:
Cao sang sư Đoản, dân tình trông ngươi!
8. Hiếu trị chương đệ bát.
Đức phu tử lại bày lời:
Vua xưa lấy thảo trị người thế gian.
Chẳng hề dám sót tiểu quan,
huống công hầu bá tử nam đường đường.
Cho nên muôn nước vui lòng,
đều lo phụng sự tiên vương mình đời.
Vua không hân hủi góa côi
huống chi kẻ sĩ cùng người thứ dân.
Nên lòng trăm họ hân hoan,
đều lo phụng sự tiên quân mình đời.
Chủ không mích dạ tôi đòi,
huống con cùng vợ nở rời lòng thương!
Cho nên kẻ ấy vui lòng,
đều thờ cha mẹ cùng ông bà mình.
Vậy nên sống đặng an ninh,
thát thời tế tự vong linh hưởng liền.
Ấy nên thiên hạ bình yên,
chẳng sinh tai hại, chẳng nhen họa loàn.
Cho nên các đứng minh vương,
lấy lòng thảo ấy trị chưng dân Trời.
Dẫn thi tóm hết bấy lời:
Có dày đức hạnh, nơi nơi thuận hòa.
9. Thánh trị chương đệ cửu.
Thầy Tăng tử lại hỏi qua:
Đức người thánh chẳng hơn là hiếu sao?
Rằng: Trong đất rộng trời cao,
tánh người là quí gồm bao mọi loài.
Hiếu hơn các hạnh con người,
hiếu nào đặng quá cả đời tôn cha.
Tôn cha mà sánh Trời già,
thì Châu công ấy thật là người cao!
Châu công xưa lập Nam giao,
thờ vua Hậu tắc sánh bao cùng Trời.
Lập ra tông miếu để đời,
thờ Văn vương ấy tại nơi Minh đàng.
Sánh vì Thượng đế cao sang,
nên trong bốn biển các quan tới chầu.
Thánh nhơn công trọng đức sâu,
chẳng chi qua hiếu, mà cầu cho hơn.
Nghĩ hồi dưới gối lối chơn,
lấy nuôi cha mẹ ngày thường nghiêm thêm.
Thánh nhơn dạy kỉnh nhơn nghiêm,
nhơn đương thân cận dạy kềm mến thương.
Thánh nhơn dạy chẳng nhặc hung,
mà nên việc nước, mà xong việc nhà.
Nhơn đều người có mở ra,
gốc là kính mến vốn ta có rồi.
Đạo cha con vốn tánh Trời,
lại làm ra nghĩa vua tôi vuông tròn.
Vã chăng cha mẹ sanh con,
nhơn luân tiếp nối chi hơn điều nầy.
Vua thương trị đấy ơn dày,
lấy chi cho trọng bằng đây chăng là.
Nên không thương mẹ thương cha,
mà thương người khác, đức ta trái rồi.
Lại không kính mẹ cha ngươi,
kính người khác ấy lễ sai phép dời.
Thuận thời làm nghịch trái đời,
dân không bắt chước theo người chẳng công.
Chẳng theo lành, cứ dỏi hung,
dầu cho đặng đó cũng không quí gì.
Người quân tử chẳng mần ri,
nói lo nên nói, làm thì được vui.
Khá tôn đức nghĩa nên đời,
việc làm khá để cho người chước theo.
Dung nghi đi đứng khá nêu,
tới lui có độ nên đều chịu vâng.
Vổ về cho được lòng dân,
sợ mà yêu đó phép lần giống in.
Cho nên đức giáo đặng bền,
chẳng nghiêm chánh lịnh, mà yên nước nhà.
Tào phong thi ấy dẩn ra:
Người lành, quân tử, phép mà chẳng sai.
10. Kỷ hiếu hạnh chương đệ thập.
Đức phu tử nói như vầy:
hể là con thảo thường ngày thờ thân.
Ở nhà kính mến ân cần,
nuôi thì vui vẽ, bịnh toan ưu sầu.
Tang thì cảm mến buồn rầu,
tế thì nghiêm chính trước sau thiềng lòng.
Năm điều cho đủ cho xong,
vậy sau mới đặng vuông tròn sự thân.
Kẻ thờ cha mẹ ân cần,
trên không kiêu ngạo, dưới chăng trái loàn.
Ở theo với xóm với làng,
cứ vui êm thấm, chẳng toan trành tròn.
Ở trên kiêu ngạo chẳng còn,
dưới mà nghịch loạn thì vương luật hình.
Làm dân hay cống hay kình,
giết nhau có thuở, hại mình có khi.
Ba điều ấy chẳng trừ đi,
tam sinh cấp dưởng, thảo ni chẳng bằng.
11. Ngũ hình chương đệ thập nhứt.
Đức phu tử lại nói rằng:
năm hình vốn thuộc ba ngàn điều ra.
Mà trong các tội xem qua,
tội con chẳng thảo thật là lớn hơn.
Vua là chẳng phải chỗ lờn,
kẻ toan ép uổng, thửa lòng không trên.
Thánh nhơn lập đạo đức nên,
kẻ chê bai ấy là quên phép người.
Mẹ cha sanh sản ra ngươi,
mà chê thảo ấy, thiệt loài không thân.
Đạo người mất, lẽ trời tang,
ấy đàng loạn lớn, vậy lần rối ra.
12. Quảng yếu đạo chương đệ thập nhị.
Rằng: Khuyên dân mến mẹ cha,
chi hay hơn thảo ở ta tận tình.
Dạy dân theo lễ kính anh,
chi hơn lòng thuận buột mình chặc khư.
Dời thói xấu, đổi tục hư,
chi hay hơn nhạc cảm từ mình ra.
An trên trị dưới gần xa,
chi hay hơn lễ ở ta trọn đời.
Lễ là kính đó mà thôi,
kính người cha được lòng người con vui.
Kính anh thì đẹp em người,
kính vua chúa ấy thì tôi đẹp lòng.
Một người đặng kính đặng tôn,
ngàn muôn người đẹp ồn ồn kính theo.
Kính thì ít, đẹp thì nhiều,
nên là đàng tắt, ấy kêu phép nầy.
13. Quảng chí đức chương đệ thập tam.
Rằng: Quân tử dạy hiếu đây,
chẳng vào nhà chúng mỗi ngày xét soi.
Dạy lòng thảo ấy khắp nơi,
kính vì nhơn phụ mọi người theo ta.
Dạy lòng thuận ấy gần xa,
kính người huynh trưởng nhà nhà theo gương
Dạy làm tôi ở hết lòng,
kính vì vua chúa chủ trương nước nhà.
Đem thi mà dần rỏ ra:
Dể vui quân tử, mẹ cha dân tình!
Bằng không chi đức ở mình,
Ai hay thuận vậy, ấy đành lớn hung!
14. Quảng dương danh chương đệ thập tứ.
Rằng: Quân tử thảo thờ thân,
cho nên trung ấy dời chưng vua mình.
Thờ anh đã đặng thuận tình,
nên cùng kẻ lớn lòng thành thuận thôi.
Ở nhà trị đặng mọi người,
cho nên trị ấy khá dời làm quan.
Nết na trong đặng vẹn toàn,
thì ngoài danh lập vinh vang lâu đời.
15. Gián tránh chương đệ thập ngủ.
Thầy Tăng nghe nói những lời,
khi rằng từ ái, khi thời kính cung.
An thân tới rạng danh cùng,
thì nghe dạy rỏ thỉ chung giữ gìn.
Còn con theo lịnh cha mình,
nên cho là thảo, dám xin hỏi thầy?
Đức phu tử dạy như vầy:
Ấy lời gì vậy; phải lời nói chăng?
Vua xưa có bảy tránh thần,
tuy không đạo đức cũng an dân Trời.
Chư hầu có vậy năm người,
tuy không đạo đức trọn đời trị an.
Sĩ kia có bạn gián can,
thì mình được khỏi lìa đàng lịnh danh.
Cha mà tránh tử can mình,
thì mình ắt khỏi mất tình ngãi nhân.
Thấy đều bất ngãi đang mần,
thì con chẳng khá chẳng can cha mình.
Làm tôi thật dạ trung trinh,
phải can phải gián đặng tình nhơn quân.
Thấy đều bất ngãi thì can,
lịnh cha theo ấy, có toàn thảo chăng?
16. Cảm ứng chương đệ thập lục.
Đức phu tử lại dạy rằng:
Thờ cha xưa thảo minh vương vẹn toàn.
Thờ Trời, tế lễ rõ ràng,
mẹ, thờ cũng thảo, Đất, càng xét soi.
Lớn cho tới bé thuận rồi,
cho nên trên dưới trị người đều êm.
Trời soi sáng, Đất xét xem,
thần minh tỏ rạng, ứng điềm lành luôn.
Tuy thiên tử có chổ tôn,
là hàng cô bác, nghĩa đồng như cha.
Tuy sang có kẻ trước ta,
là còn kẻ lớn, nghĩa là đàng anh.
Lập nhà tông miếu kính thành,
chẳng quên thân tộc tử sanh thờ đều.
Sửa mình dè nết kính yêu,
e sai nhục trước, sợ dèo xấu sau.
Lập nhà tông miếu khẩn cầu,
quỉ thần sáng chói, cao sâu rỡ ràng.
Ấy lòng thuận thảo trị an.
thần minh thấu đến mọi đàng chẳng ngoa.
Sáng ngời bốn biển gần xa,
không đâu chẳng thấu vào ra chỉnh tề.
Nhắc thi Đại nhã mà nghe:
Đông tây nam bắc khỏi e chẳng tùng.
17. Sự quân chương đệ thập thất.
Đức phu tử dạy sự quân, rằng:
Người quân tử phải phần thờ trên.
Làm quan hết dạ trung trinh,
thôi về chửa lỗi vua mình trọng ân.
Giúp theo đều tốt vẹn toàn,
cứu ra chỗ dữ, phò sang nơi lành.
Cho nên trên kính dưới tin,
trên vui thương dưới, dưới đành mến trên.
Trong thi Tiểu nhã rỏ biên:
Có lòng thương chúa, sao quên mở lời?
Tại lòng dấu đỏ chi dời,
ngày nào quên được nghĩa người yêu đang.
18. Tang thân chương đệ thập bát.
Đức phu tử lại dạy rằng:
Thiệt là con thảo tang thân như vầy:
Khóc khan tiếng, lể chẳng bày,
lời không thêu dệt, vẽ vời luống công.
Mặt đồ tốt, chẳng an lòng,
nghe ra tiếng nhạc, bắt buồn chẳng vui.
Ăn đồ ngon, chẳng biết mùi,
ấy lòng thương xót chi ngui đặng nào.
Ba ngày rồi phải cháo lao, dạy
dân không lấy tử vào hại sanh.
Buồn rầu chẳng tới hủy mình,
thánh nhơn phép trị dân tình chăm chăm.
Chế tang chẳng quá ba năm,
cho dân rỏ biết khỏi lầm có sau.
Áo mền bao bọc làm đầu,
rồi sau quan quách, liệm vào an thân.
Thấy bày đồ tế trên bàn,
lòng càng thảm thiết, dạ càng xót thương.
Dậm chơn, đấm ngực, khóc van,
hết lòng thương xót, nên than đưa người.
Mả mồ dè dặt bói coi,
quẻ lành an trí phải nơi cho tường.
Tại nhà lập chỗ thờ thường,
ba năm mãn khó, dời sang nhà thờ.
Cứ theo lễ phép cúng cho,
mỗi mùa đơm quảy, bao giờ cũng thương.
Sống thì kính mến cho thường,
thát thì thương xót, gốc dân sanh đồng.
Tử sanh nghĩa cả đủ xong,
ấy là con thảo thờ thân chung cùng.
Trí Đức Tòng Thơ, 1950.
Đoàn Trung Còn, Huyền Mặc Đạo Nhân đồng dịch.
CHƯƠNG THỨ NHẤT: MỞ RA CÁI GỐC ĐỂ GIẢNG CHO RÕ NGHĨA
Đức Khổng Tử nhằm khi ở rãnh,
Thầy Tăng Sâm ở cạnh tiếp hầu.
Ngài rằng: Đức cả đạo mầu,
Tiên Vương dùng để làm đầu dạy dân.
Gây nên thói hòa thân thiên hạ,
Dưới trên đề cảm hóa bấy nay,
Suy ra trăm nết đều hay,
Cái gì là trước, người rày biết chăng?
Nghe Ngài hỏi, Thầy Tăng đứng dậy,
Rằng: Trò đần đã thấy được đâu?
Ngài rằng: Nết Hiếu làm đầu,
Ấy là gốc đức, giáo hầu sanh ra.
Hãy ngồi lại để ta nói nữa:
Từ hình hài đến thửa tóc, da,
Nguyên do chịu của mẹ cha,
Giữ cho trọn vẹn, hiếu là đầu tiên.
Sau chót nữa thân hiền đạo sáng,
Tiếng tăm truyền tỏ rạng ngàn thâu.
Thờ Cha Mẹ, nết hiếu đầu.
Thờ Vua ở giữa, kế sau dựng mình.
Tìm nghĩa ấy trong kinh Đại nhã*
Đạo hiếu này giảng đã tỏ tường:
Nếu ngươi nghĩ đến tông đường,
Thì nên sửa lấy đức thường của ngươi.
* Đại Nhã: là một thiên trong Kinh Thi. Đại nhã và tiểu nhã nói về chính trị.
….…
CHƯƠNG THỨ HAI: NGÔI THIÊN TỬ
Ngài rằng:
Yêu Cha Mẹ, ghét người chẳng dám:
Kính song đường, chẳng dám khinh người.*
Thờ thân, yêu, kính trọn mười,
Thì phần đức giáo bủa đời rộng thâm:
Trước trăm họ ướt đầm mưa hóa,
Sau bốn phương theo lả gió nhân.
Đó là đức của Thánh Quân,
Thay Trời trị nước, hiếu thân phải gìn.
Phủ hình** đó chép in từ trước:
Phước một người, hưởng được triệu người.
* Mình yêu kính cha mẹ mình thì thấy cha mẹ người hoặc người già cả bằng cha mẹ mình, mình cũng yêu kính luôn.
** Phủ hình hay Lữ hình là một thiên trong kinh Thi
….…
CHƯƠNG THỨ BA: CÁC VUA NHỎ
Đức khiêm nhượng, ngôi cao chẳng đổ.
Phép giữ gìn, nước rộ chẳng tràn.
Cao chẳng đổ, rộ chẳng tràn,
Giàu, sang ở mãi thế gian dai bền.
Dai bền giữ ngôi trên vững chắc,
Rồi nhân dân xã tắc dài lâu.
Đó là đức hiếu Chư Hầu,
Kinh Thi kia đã có câu phân trần:
Giá kia mỏng, nặng chân thì sụt.
Vực nọ sâu, lỡ gót thì sa!
Vậy nên nơm nớp như là,
Giữ sao cho được thoát qua hiểm nghèo.
….…
CHƯƠNG THỨ BỐN: QUAN KHANH, QUAN ĐẠI PHU
Đồ mặc, phải mặc theo Vua trước.
Lời nói do Vua trước nói theo.
Việc làm chẳng dám làm liều,
Ắt do Vua trước noi theo mà làm.
Miệng không giữ, không sàm miệng nói,
Mình không gìn, không lỗi mình làm*.
Khắp trong thiên hạ Bắc, Nam,
Đều coi lời nói việc làm đúng khuôn.
Ba điều ấy** vẹn tròn không thiếu,
Mới bảo toàn tông miếu không lo.
Đó là hiếu của quan to,
Kinh Thi kia đã đắn đo lẽ này:
Một lòng những đêm ngày chẳng trễ,
Dốc một lòng kính lễ một người***.
Ngước lên đức hiếu vẹn mười,
Làm gương rọi xuống cho đời soi qua.
- Quan Khanh, Quan Đại Phu: Theo thể chế thời Tam Vương (Hạ, Thương, Châu) các hàng quan từ trên tới dưới phân làm ba đẳng cấp: Khanh, Đại Phu, Sĩ.
* Khi đã quen với nói và làm đúng phép rồi, thì chẳng cần gìn giữ nữa mà lời nói và việc làm không hề có lỗi.
** 3 điều: sự mặc, lời nói, việc làm.
*** Một người: Bực Thiên Tử
….…
CHƯƠNG THỨ NĂM: QUAN SĨ
Vào thờ, mẹ lấy cha làm mực.
Ra thờ Vua, noi bậc từ cha.
Ngó vào, rồi lại trông ra,
Tình yêu, lễ kính đều là lẽ ngay.
Đối với mẹ, tình hay yêu mến.
Đôi với Vua, lễ hết kính nhường,
Bởi đâu soi để làm gương?
Với cha gồm cả đôi đường kính, yêu.
Trung Vua với thuận chiều quan trưởng,
Kính yêu là cái lượng suy ra,
Một lòng trung, thuận chẳng xa,
Phận mình miễn hết mới là người khôn.
Rồi có thể bảo tồn bề thế.
Rồi mới hay cúng tế Tổ Tông.
Đó là quan sĩ nối dòng,
Miễn đem đức hiếu giữ trong nghiệp nhà.
Kinh Thi đã bày ra nghĩa đó,
Kẻ làm con hầu có noi theo.
Hằng ngày từ sớm đến chiều,
Đừng làm Cha Mẹ có điều hổ ngươi.
….…
CHƯƠNG THỨ SÁU: HÀNG DÂN CHÚNG
Dùng thì tiết của Trời sanh vật.
Sớt lợi nguyên của Đất nuôi người,
Xây xài tiện tặn của đời,
Để mà phụng dưỡng dâng mời mẹ cha.
Đó đức hiếu dân ta như vậy,
Kẻ làm con miễn lấy đạo thường.
Mẹ cha ân trọng chi nhường,
Làm con chớ khá quên đường hiếu đây.
Từ Thiên Tử tới bầy chúng thứ.
Hiếu không nề thứ tư trước sau,
Đều tìm cội rễ từ đâu.
Lo gì đức hiếu ai hầu kém ai.
….…
CHƯƠNG THỨ BẢY: BA TÀI (Trời, Đất, Người)
Thầy Tăng Tử nghe Ngài dạy biểu,
Mới khen rằng: Đạo hiếu lớn thay!
Ngài rằng: Đạo hiếu xưa nay,
Kinh Trời, nghĩa Đất, nết hay của Người.
Đạo Trời, Đất, mà người theo đó,
Thành Trời kia, Đất nọ, Người đây.
tam tài, Người đứng giữa bầy,
Đức Trời, lợi Đất giãi đầy thế gian.
Giáo chẳng gấp mà lan ra khắp.
Chánh chẳng nghiêm mà sắp được yên.
Tiên Vương thấy giáo có quyền,
Dùng ra có thể làm nền hòa dân.
Bác ái dẫn, dân thân Cha Mẹ,
Đức nghĩa bày, dân lẹ sửa mình.
Kính nhường, dân tự chẳng tranh.
Dạy cho lễ nhạc, dân sanh vui hòa.
Lẽ yêu, ghét, nhủ qua cho hiểu,
Mà dân đều biết đạo cấm răn.
Thi rằng:Sư Doãn Đại Thần*.
Đức oai chói chói cho dân trông vào.
* Ông Doãn Cát Phủ, làm quan Thái Sư, đứng hàng Tam công nhà Châu, là ngôi sư biểu cả thiên hạ.
….…
CHƯƠNG THỨ TÁM: ĐẠO HIẾU TRỊ ĐỜI
Kìa các đấng ngôi cao thuở trước,
Lấy hiếu làm mực thước trị đời,
Chẳng xa nước nhỏ bầy tôi,
Huống chi đối với các ngôi Chư Hầu*?
Vậy muôn nước đâu đâu vui phục,
Để lâu dài thờ phụng Tổ Tông.
Ấy là Thiên Tử nối dòng
Từng đem gương hiếu soi trong cõi đời.
Kìa các bậc nối ngôi hầu quốc.
Đem hiếu mà trị nước thuở nay,
Nghĩ tình góa bụa thương thay,
Huống chi đối với cả bầy sĩ, dân?
Vậy trăm họ hoan hân nức chí,
Để phụng thờ các vị tiền nhân.
Ấy là đức hiếu bang quân**
Làm gương giữ nước thờ thân lâu dài.
Kìa các bậc quan giai*** dằng dặc
Lấy hiếu làm phép tắc trì gia,
Chẳng khinh tôi mọi trong nhà,
Huống chi cốt nhục, thất gia của mình?
Cho nên được hoan tình công chúng,
Để lâu dài thờ phụng đấng thân.
Ấy là đức hiếu quan thân,
Giữ bền lộc vị lần lần chẳng sa.
Vậy lúc sống mẹ cha hả dạ.
Lúc thác thì nhang xạ thấu thành.
Cho nên thiên hạ thái bình,
Chẳng gây họa loạn, chẳng sanh tai nàn.
Đó, đức hiếu thế gian là thế,
Đấng minh vương lấy để trị đời.
Thi rằng: Đức Hạnh rạng ngời,
Bốn phương các nước nơi nơi thuận tùng.
*Đời xưa, dưới quyền Thiên Tử có năm tước vị (ngũ tước) vinh dự hơn hết kể từ trên xuống dưới là: Công, Hầu, Bá, Tử, Nam.
**Bang quân: Vua nước Chư Hầu
***Quan giai: các cấp quan chức lớn nhỏ.
….…
CHƯƠNG THỨ CHÍN: THÁNH NHÂN CAI TRỊ
Thầy Tăng lại thong dong tỏ nỗi:
Đức Thánh Nhân, hiếu trổi phải chăng?
Ngọt ngào Ngài lại dạy rằng:
Tánh Trời Đất, quí chi bằng người ta.
Nết người, lớn nhất là nết hiếu.
Hiếu, lớn chi bằng điệu tôn cha
Tôn cha sánh với Trời già,[1]
Đủ bề lớn ấy thì là ông Châu[2]
Chân công thuở bắt đầu chế lễ,
Đặt lễ giao, lễ đế tỏ tường,
Tổ: Hậu tắc[3], cha: Văn Vương[4]
Nam giao tôn tổ, Minh đường tôn cha.
Sánh Trời, trước dâng qua Hậu tắc.
Sánh Đế, sau ngôi nhắc Văn Vương.
Bởi vậy các nước bốn phương
Đều đem chức phận lễ thường lại dâng[5]
Ôi! Đức Thánh có chừng ấy đó,
Còn gì hơn hiếu nọ nữa đâu?
Kể từ dưới gối chôn nhau,
Đối cùng Cha Mẹ, biết hầu là tôn.
Thánh Nhân mới nhân tôn dạy kính.
Nhân thân mà dạy tánh yêu đương.
Giáo không gấp cũng nên giường.
Chánh không nghiêm cũng nên đường trị công.
Chỗ nhân đó là trong cội rễ,
Rồi suy ra mọi lẽ ở sau.
Cha con là đạo Trời đầu,
Vua tôi là nghĩa cao sâu cũng vậy.
Đạo Phụ Mẫu thuở nay sanh dục.
Nghĩa quan thần từng lúc trị bình,
Trước sau Vua trị, cha sanh,
Đức dày, công lớn, đôi tình đều cân.
Đọ người khác, đấng thân chớ nhát.
So đấng thân, người khác đừng quên,
Thủ đem đức, lễ đôi bên.
Mà cân nhắc lại:
Ai trên, ai gần?
Mà yêu kính đấng thân cẩu thả,
Mà kính yêu người lạ lại chăm.
Đức đã lộn, lễ lại lầm,
Đôi bề trái cả, ai cầm đòn cân?
Một mình để cho dân bắt chước,
Đem lễ xuôi đặt ngược đặng sao?
Trị bình là lẽ thế nào?
Tìm xem cội rễ trông vào một thân.
Phải cân nhắc hai phần:
Thiện, ác,
Miễn sao đừng sai thác mới nên.
Nếu do lẽ trái được quyền,
Đạo Quân Tử há giữ bền đó sao?
Người Quân Tử thì nào có thế,
Đạo xử đời chẳng trễ thủy, chung.
Mọi bề:
Ngôn, hạnh, sự dung,
Đủ làm phép tắc ở trong cõi đời.
Đường lui, tới chẳng dời nghĩa lý,
Để đem mà tới trị muôn dân.
Bởi vậy, dân sợ mà thân.
Học theo mà được trăm phần giống y.
Đức giáo thảy bởi vì đó dựng.
Chánh lệnh đều nhờ đứng vững chân.
Thi rằng:
Quân Tử thục nhân[6]
Chẳng sai phép tắc cho dân theo cùng.
[1] Tế trời, đem cha mình phối hưởng với trời, thì tất là cha của đấng Thiên Tử mới được.
[2] Chu Công: Họ Cơ tên Đán, em ông Cơ Phát. Ông Cơ Phát diệt nhà Thương của Vua Trụ mà lên ngôi, lấy hiệu là Võ Vương (1134-1116TCN), lập nhà Chu trong khoảng gần 900 năm. Võ Vương truy tôn cha mình là ông Cơ Xương lên hiệu Văn Vương và cất phong em mình là Cơ Đán lên tước công, cho nên kêu là Chu Công, ông Chu Công giúp vua Võ Vương chế ra lễ nhà Chu (tức là kinh Chu Lễ). Chính ông Chu Công định ra chế độ lễ nhạc và đặt nghi thức quan hôn, tang, tế.
[3] Hậu Tắc: là vị thủy tổ của các vua nhà Chu.
[4] Văn Vương là cha của Võ Vương và Chu Công.
[5] Các vua Chư Hầu chiếu theo tức trật tới kinh kỳ giúp lễ vua Thiên Tử tế trời, tế đế.
[6] Hạng người đạo đức trọn trăm sự lành, cái gì cũng đủ làm phép cho thiên hạ, đó là vua chánh minh lấy đức hiếu thi hành ra chính trị.
….…
CHƯƠNG THỨ MƯỜI: CHÉP RA NẾT HIẾU
Ngài lại dạy nghĩa chung chữ hiếu:
Lễ thờ thân giữ đạo làm con
Trăm năm một tấm lòng son,
Thủy chung một tiết cho tròn mới hay.
Từ thuở sống tới ngày đã thác,
Một tấc thành sác sác như đo.
Nuôi vui, ở kính , bệnh lo,
Tang thương, tế cẩn, sao cho trọn nghì.
Năm điều ấy mọi khi đủ hết,
Rồi mới hay vẹn tiết thờ thân.
Thờ thân cho trọn mọi phần.
Bậc nào cỡ nấy, giữ thân cho toàn.
Làm dưới, chẳng lăng loàn là đạo.
Ở trên, không kiêu ngạo là danh.
Ở trong bọn, chẳng tranh giành,
Phận mình, mình lấy của mình thì thôi.
Trên kiêu ngạo, mất ngôi chẳng khỏi.
Dưới lăng loàn, bị tội chẳng lành.
Ở trong bọn, nếu tranh giành,
Sẽ gây nên cuộc đao binh tức thì.
Ba điều ấy trừ đi mới phải,
Nếu chẳng trừ, ắt hại thân sanh,
Dầu ngày dùng lễ tam sanh,[1]
Còn mang bất hiếu tội danh vào mình.
[1] Lễ Tam sanh: Lễ dùng ba vật: Bò, heo, dê.
….…
CHƯƠNG THỨ MƯỜI MỘT: NĂM CÁCH HÌNH PHẠT
Ngài rằng:
Ba ngàn loại phạm hình năm bậc[1]
Tội gì bằng trái đức hiếu thay?
Ở đời tam trọng[2] xưa nay,
Trước thì Vua chúa sau Thầy với cha.
Vô thượng nọ, tội là hiếp chúa[3]
Vô Pháp kia, tội của chê thầy.
Vô thân phi hiếu tội này[4]
Đều là đạo loạn gì tày nữa đâu!
[1] Tội phạm có đến ba ngàn thứ, mà các hình phạt thì chia ra năm bậc có nhẹ có nặng: 1. Châm chữ vô trán, 2. cắt mũi, 3. chặt chân, 4. thiến dương vật, 5. chặt đầu.
Đó là ngũ hình theo thời xưa. Ngày nay, trong luật hình có năm cách trừng trị: 1. phạt tiền, 2. giam, 3. đày có kỳ hạn, 4. đày chung thân, 5. giết chết.
[2] Tam trọng: Vua, Thầy, Cha. Đức Thánh nhân dạy đời cho biết điều phải, lẽ quấy, tức là thầy chung của đời vậy.
[3] Kẻ quyền thần ỷ thế hiếp vua, nài xin việc gì cầu lấy phải cho
[4] Tội phi hiếu lớn ngang sức với tội hiếp vua và tội chê Thánh.
….…
CHƯƠNG THỨ MƯỜI HAI: GIẢNG RỘNG CỐT YẾU CỦA ĐẠO
Ngài rằng:
Vậy nết hiếu là đầu trăm nết,
Có hiếu thì đủ hết mọi điều.
Dạy dân lấy nết thân yêu,
Trước do nết Hiếu thuận chiều suy qua.
Rồi đến Đễ, khiến ra lễ nhượng,
Kế Nhạc thì đổi lượng thói lề.
Yên trên, trị dưới mọi bề,
Gốc do ở lễ xô về mọi nơi.
Hỏi nguồn lễ thì khơi ở kính,
Kính ấy là lẽ chính mà thôi.
Kính cha và kính Vua rồi,
Kẻ làm con với kẻ làm tôi đẹp lòng.
Làm em cũng đẹp lòng hết cả,
Bởi vì ta đem dạ kính anh.
Cho hay bổn lập, đạo, sanh.
Dựng nên một gốc, muôn nhành nẩy ra.
Lòng mình kính người ta có một,
Mà lòng người đẹp tột muôn chiều.
Kính tuy ít, đẹp được nhiều,
Cái nơi cốt yếu ở điều đó thôi.
….…
CHƯƠNG THỨ MƯỜI BA: GIẢNG RỘNG BẬC CHÍ ĐỨC
Ngài rằng:
Người Quân Tử đứng ra Giáo Dục,
Dạy chúng dân thành tục thờ cha.
Chẳng cần dạo đến từng nhà,
Cũng không chường thấy người ta hằng ngày.
Đem hiếu, đễ, trung, ngay truyền bá,
Kính Vua cha, anh cả trong đời.
Ấy là gương tỏ rạng ngời,
Cho đời lấy đó làm nơi soi vào.
Người Quân Tử lượng cao vui dễ,
Đáng ở ngôi Cha Mẹ người ta.
Kinh Thi kia đã nêu ra,
Chẳng trang chí đức sao đà thuận dân?
….…
CHƯƠNG THỨ MƯỜI BỐN: GIẢNG RỘNG VIỆC NÊU DANH
Ngài rằng:
Người Quân Tử thờ thân chí hiếu,
Dời qua trung làm kiểu thờ Vua.
Thờ anh nết đễ có thừa,
Dời qua thuận để cho vừa lòng trên.
Xử nhà dựng vững nền luân lý,
Dời việc quan, chánh trị đều xong.
Vậy nên thành nết từ trong,
Tiếng tăm truyền tới ngoài vòng đời sau.
….…
CHƯƠNG THỨ MƯỜI NĂM: CAN NGĂN
Thầy Tăng hiểu gót đầu mọi lẽ,
Lại đứng ra thỏ thẻ thưa trình:
“Kính, cung, từ, ái[1] đã rành,
An thân và nghĩa dương danh đã tường.
Bao nhiêu đó Ngài thường có dạy,
Còn nghĩa này chưa thấy phân minh:
Thờ cha, cứ lệnh cha mình,
Phải chăng theo đó là tình hiếu thân?”
Ngài nghe hỏi, lần lần nhủ lại:
Chẳng vậy đâu!
Chẳng phải vậy đâu!
Các vì Thiên Tử, Chư Hầu,
Từ xưa vẫn có tôi chầu can ngăn.
Bên mình có tránh thần năm, bảy,[2]
Vô đạo chi cũng thảy còn ngôi.
Nhỏ, to là chức làm tôi,
Cũng đều có bạn, có bồi can ngăn.
Quan to phải bồi[3] răn ba kẻ,
Quan nhỏ cần bạn bẻ vài người,
Thì dầu vô đạo mười mươi,
Thế nhà chẳng mất, tiếng tươi vẫn còn.
Cha cũng phải có con chỉ vẽ,
Mới khỏi mang bất nghĩa vào mình,
Làm con một dạ đinh ninh,
Cha lầm thì phải hết tình can cha.
Đối những việc Vua, cha bất nghĩa,
Đạo tôi, con há lẽ làm thinh?
Chẳng suy cho hết mọi tình,
Theo cha nào phải là mình hiếu đâu!
[1] Kính: lòng kính, cung: lễ kinh, từ: cha mẹ hiền, ái: con yêu cha mẹ.
[2] Bậc Thiên tử có bảy vị quan cận thần để can gián. Bậc vua Chư hầu có năm vị.
[3] Bồi: Bởi chữ bồi thần là viên chức phụ giúp của quan đại phu (điểu ở sách luận ngữ).
….…
CHƯƠNG THỨ MƯỜI SÁU: CẢM ỨNG
Ngài lại dạy lẽ mầu cảm ứng,
Tấm lòng thành hiển chứng cao, thâm
Minh vương giữ một hiếu tâm,
Thờ cha, thờ mẹ đăm đăm chẳng dời.
Hiếu cha sẽ thờ Trời tường tất.
Hiếu mẹ rồi thờ Đất rõ ràng.
Thuận chiều lớn, nhỏ mọi hàng
Rồi ra trên dưới kỹ cang phải lề,
Nghĩa Trời Đất có bề sáng tỏ.
Lẽ thần minh theo đó rõ ràng.
Đều do đức hiếu lần sang,
Dầu cho các đấng quân vương cũng rằng
Bậc tôn đó chi bằng cha đó.
Bậc trước đây ắt có anh đây.
Kính thờ tông miếu lễ bày,
Chẳng quên, ngụ tấm lòng này với thân.
Tự mình phải tu thân, gìn nết,
Vì e rằng nhục đến Tổ Tiên.
Kính thờ tông miếu thường liền,
Quỉ thần cảm thấu từ miền cao sâu
Lòng Hiếu Đễ đâu đâu cũng biến.
Cõi âm dương, bốn biển đều hay.
Thi rằng:
Nam, Bắc, Đông, Tây,
Bốn phương đều nhắm nơi đây phục tòng.
….…
CHƯƠNG THỨ MƯỜI BẢY: THỜ VUA
Ngài lại thuật:
Tấm lòng Quân Tử,
Dốc một niềm phụng sự Bề trên.
Tận trung lúc bước chân lên,
Sử mình khi xuống, nghĩ bền lòng tôi.
Lành với dữ thói đời dường ấy,
Dữ sửa đi, giúp lấy sự lành.
Vậy nên trên, dưới hòa bình,
Tinh thần nhóm họp thuận tình thân nhau.
Kinh Thi đã có câu thuật lại:
Lòng này yêu miệng phải nói ra.
Tấc thành chứa ở lòng ta,
Ngày nào ngày nây đâu mà dám quên.
….…
CHƯƠNG THỨ MƯỜI TÁM: CHA MẸ QUA ĐỜI
Ngài lại dạy lẽ nên tang lễ,
Với mẹ cha chẳng trễ lòng con:
Khóc không làm bộ nỉ non,
Lẽ không làm dáng phấn son mỹ miều,
Miệng nói chẳng lựa điều văn vẻ,
Mặc những đồ màu mẽ sao yên?
Ăn chẳng ngon, nhạc lại phiền,
Bởi tình thương xót, há chuyên vật ngoài.
Chẳng vì thác mà hoài thân sống,
Vậy chẳng nên đói đúng ba ngày,
Hủy hình chẳng dứt tánh này,
Tánh nhân đặt lễ xưa nay làm thường
Ba năm ấy là tang thông dụng.
Bảo cho người theo đúng lẽ nên.
Lễ này chẳng luận dưới, trên,
Đạo làm con thảy báo đền cho phu.
Đối với lúc ngàn thu xa cách,
Sắm y, khâm, quan, quách cất người.
Mâm bàn bày đặt lễ ngơi,
Ngụ niềm chua xót mặn mòi lòng ta.
Khi bấm bụng, khóc la trước cửa,
Lúc nhún chân, té dựa bên đường,
Đưa ma là sự bất thường,
Càng đau, càng xót, càng thương, càng phiền
Bói mồ huyệt đặt yên thi thể,
Cất miếu đường kính lễ Linh Hồn.
Xuân, thu cúng vái thường tôn,
Ngụ lòng thờ mất như còn thường khi.
Thờ sống đã vẹn nghì yêu kính,
Thờ thác thì trọn tánh xót thương,
Thờ thân thì trọn vẹn mọi đường,
Một đời đủ hết đạo thường làm con.
(hết).