Luận Ngữ 01
- Lời dịch (tham khảo):
Chỉ vì nóng giận nhất thời mà làm liều, không nghĩ tới những hậu họa đằng sau đó sẽ xảy đến với mình, cũng như tai hại liên đới đến cha mẹ cùng người thân, chẳng phải là quá hồ đồ rồi sao?
一朝之忿,忘其身,以及其親,非惑與?【論語·顏淵】
Nhất triêu chi phẫn, vong kỳ thân, dĩ cập kỳ thân, phi hoặc dư? (Luận Ngữ, Nhan Uyên)
- Dịch nghĩa (tham khảo):
Đức Khổng Tử nói rằng: “Người quân tử đối với mọi việc ở đời, không có việc gì mà người: nhất định chỉ được làm như thế này, hoặc nhất định không được làm như thế kia. Hễ hợp nghĩa thì làm.”
- Nguyên văn:
子曰:「君子之於天下也,無適也,無莫也,義之與比。」《論語·里仁》
- Phiên âm:
Tử viết: “Quân tử chi ư thiên hạ dã, vô thích dã, vô mạc dã, nghĩa chi dữ tỷ.” (Luận Ngữ, Lý Nhân)
- Lời bàn:
Ví như đối với những kẻ có tâm trí trá, hắn dùng mọi thủ đoạn để dẫn dụ ta vào con đường tà vạy, làm việc cho chúng, hứa hẹn cam kết cho chúng,… Nhưng nếu đến khi ta nhận ra được những việc đang làm có hại cho người khác, có hại cho đất nước thì ta không cần phải giữ lời hứa với chúng, không cần phải giữ chữ tín, hoặc tận tâm làm việc cho chúng mà làm gì. Thậm chí, ta còn có thể khéo léo mà vạch trần những việc chúng làm và trừng trị bọn chúng nữa. (Người đời thường cho rằng: kẻ học đạo là phải cứng nhắc trong đạo lý, nhưng nên biết rằng Đức Khổng Tử dạy người là uyển chuyển sáng suốt, biết suy xét mọi việc. Vì thế ở đây đưa ra một ví dụ, từ đây mà suy rộng thêm những trường hợp khác.)
- Dịch giải (tham khảo):
“Những điều vô lý, bất nghĩa, không đúng với lẽ thường,… mà có thể nói thành có lý, hợp nghĩa, phù hợp với lẽ thường,… [nhờ những lời lẽ khéo léo, êm tai]; những lời lẽ như vậy làm loạn nền đạo đức.”
- Lời dịch:
Đức Khổng Tử nói rằng: “Người quân tử giúp người làm việc tốt, chẳng giúp người làm việc xấu. Còn kẻ tiểu nhơn thì khác hẳn”. (Dịch giả: Đoàn Trung Còn)
子曰:「君子成人之美,不成人之惡。小人反是。」《論語·顏淵》
Tử viết: “Quân tử thành nhân chi mỹ, bất thành nhân chi ác. Tiểu nhân phản thị.” (Luận Ngữ, Nhan Uyên)
- Lời dịch (dịch giả: Đoàn Trung Còn):
Đức Khổng Tử nói rằng: “Xử kiện, ta cũng biết xử như người: Ta cũng biết xét đoán ai phải ai quấy và trừng trị kẻ phạm. Nhưng nếu dạy cho dân biết nghĩa vụ, (biết đạo đức), biết nhường nhịn, biết luật pháp mà giữ gìn, đặng họ chẳng đem nhau đến tụng đình, như vậy chẳng hay hơn sao?”.
子曰:「聽訟,吾猶人也,必也使無訟乎!」《論語·顏淵》
Tử viết: “Thính tụng, ngô do nhơn dã, tất dã sử vô tụng hồ!” (Luận Ngữ, Nhan Uyên)
- Lời dịch (Dịch giả: Đoàn Trung Còn):
Đức Khổng Tử nói rằng: “Kẻ nào nương theo lợi mà thi hành, ắt có nhiều người oán thù”.
(Nên dung hòa nhân nghĩa và tài lợi. Nếu mình chỉ biết lợi cho mình, cho nhà mình, cứ lo vơ vét, bóp chẹn, thì làm hại dân, họ sẽ oán hận mình và có thể hại mình).
子曰:「放於利而行,多怨。」《論語·里仁》
Tử viết: “Phỏng ư lợi nhi hành, đa oán.” (Luận Ngữ, Lý Nhân)
- Dịch giải (Đoàn Trung Còn):
Đức Khổng Tử nói rằng: “Làm con phải biết tuổi của cha mẹ mình. Nhớ biết như vậy, một là để vui mừng vì cha mẹ được sống lâu, hai là để lo sợ cho cha mẹ già yếu”.
(Thế thường, người ta hay nhớ tuổi của con mình, hay quên tuổi của cha mẹ. Như vậy, sao đáng gọi là hiếu? Người có hiếu lúc nào cũng nên nhớ tuổi cha mẹ. Trước để mừng cha mẹ được trường thọ, sau để dự phòng những chuyện đau yếu, chẳng may có thể xảy đến cho song thân).
子曰:「父母之年,不可不知也。一則以喜,一則以懼。」《論語·里仁》
Tử viết: “Phụ mẫu chi niên, bất khả bất tri dã. Nhất tắc dĩ hỷ, nhất tắc dĩ cụ.” (Luận Ngữ, Lý Nhân)
- Lời dịch (Dịch giả: Đoàn Trung Còn):
Ông Tử Du hỏi đức Thánh về đạo hiếu. Đức Khổng Tử đáp rằng: “Đời nay, hễ thấy ai nuôi được Cha Mẹ thì người ta khen là người có hiếu. Nhưng, những thú như chó, ngựa, thì người ta cũng nuôi được vậy. Cho nên nuôi cha mẹ chẳng kính trọng thì có khác gì nuôi thú vật đâu?”.
(Tử Du, học trò cao đệ của đức Khổng, họ Ngôn, tên Yển. Ông biết nuôi Cha Mẹ mà chẳng biết kính, cho nên đức Khổng giảng rằng: nuôi Cha Mẹ mà biết kính trọng mới đáng gọi là hiếu. Nếu nuôi mà chẳng kính, có khác gì nuôi thú vật?)
子游問孝。子曰:「今之孝者,是謂能養。至於犬馬,皆能有養;不敬,何以別乎?」《論語·為政》
Tử Du vấn hiếu. Tử viết: “Kim chi hiếu giả, thị vị năng dưỡng. Chí ư khuyển mã, giai năng hữu dưỡng; bất kính, hà dĩ biệt hồ?” (Luận Ngữ, Vi Chính)
- Lời dịch (tham khảo):
Ông Tử Hạ hỏi đức Thánh về đạo hiếu. Đức Khổng Tử đáp rằng: “Làm con đối với Cha Mẹ lúc nào cũng tỏ vẻ hòa vui, giữ được như vậy mới khó, mới đáng gọi là hiếu. Chớ khi cha mẹ nhờ việc, mình cũng chịu làm giúp, nhưng lại bất mãn không vui; và khi có đồ ngon, mình cũng mời đãi cha mẹ ăn, nhưng thường tỏ vẻ không thoải mái hài lòng; làm như vậy há gọi là hiếu sao?”.
(Tử Hạ, học trò cao đệ của đức Khổng, họ Bốc, tên Thương. Ông hay phụ giúp và đãi đằng Cha Mẹ, nhưng hay tỏ sắc giận. Cho nên giảng về đạo hiếu, đức Khổng khuyên kẻ làm con nên hòa vui với cha mẹ.)
子夏問孝。子曰:「色難。有事弟子服其勞,有酒食先生饌,曾是以為孝乎?」《論語·為政》
Tử Hạ vấn hiếu. Tử viết: “Sắc nan. Hữu sự, đệ tử phục kỳ lao; hữu tửu thực, tiên sinh soạn, tằng thị dĩ vi hiếu hồ?” (Luận Ngữ, Vi Chính)
- Lời dịch (tham khảo):
Tử Cống nói rằng: “Người quân tử có lỗi, như nhật thực nguyệt thực: khi mắc phải sai lầm [như nhật nguyệt bị che khuất ánh sáng], ai ai cũng đều thấy; nhưng khi sửa đổi lại rồi [như nhật nguyệt sáng tỏ trở lại], người người đều vui mừng, kính mến”.
Tử Cống viết: “Quân tử chi quá dã, như nhật nguyệt chi thực yên: quá dã, nhân giai kiến chi; canh dã, nhân giai ngưỡng chi”. (Luận Ngữ, Tử Trương)
- Lời dịch (tham khảo):
Khổng Tử nói rằng: “Người ta mắc sai lầm, còn tùy theo loại. Xem xét sai lầm của họ, ta biết người ấy có phải là người nhân đức hay không”.
子曰:「人之過也,各於其黨。觀過,斯知仁矣。」《論語·里仁》
Tử viết: “Nhân chi quá dã, các ư kỳ đảng. Quan quá, tư tri nhân hỹ”. (Luận Ngữ, Lý Nhân)
….…….
Lời bàn: Ở đời, khó có người nào chưa từng phạm sai, nhưng sai phạm của người ta lại do những nguyên nhân và động cơ khác nhau mà mắc phải, đại để có thể phân làm 2 loại lớn: có người vì lòng nhân hậu mà phạm phải sai lầm, có kẻ do nỗi khắc bạc mà gây nên tội lỗi. Cho nên khi thấy lỗi lầm của họ, chúng ta tỉ mỉ suy xét, sẽ biết được người đó thuộc hạng người nào...
- Lời dịch (dịch giả: Đoàn Trung Còn):
Đức Khổng Tử nói rằng: “Người bất nhân mà bị ghét bỏ thái quá, tất sanh chuyện loạn nghịch”.
子曰:「人而不仁,疾之已甚,亂也。」《論語·泰伯》
Tử viết: “Nhân nhi bất nhân, tật chi dĩ thậm, loạn dã”. (Luận Ngữ, Thái Bá)
ĐỨC BẤT CÔ, TẤT HỮU LÂN
德不孤,必有鄰
….…
Đức Khổng Tử nói rằng: “Người có đức chẳng có lẻ loi; ắt có những kẻ đồng tâm đồng chí gần gũi và ủng hộ mình”.
(Những bậc có tài đức, chí hướng chẳng hề bị bỏ rơi. Thế nào cũng được những người trọng mộ, theo mình và nâng đỡ mình. Vậy con người ta ở đời nên lo bồi bổ chí hướng, tu tập đạo đức).
Quyển nhì, chương thứ tư: Lý Nhân, tiết 24. Dịch giả: Đoàn Trung Còn.
HẬU SINH KHẢ ÚY
後生可畏
Những kẻ sinh ra sau mình, thật đáng e ngại.
….…
Đức Khổng Tử nói rằng: “Những kẻ sanh ra sau mình là hạng đáng sợ. Biết đâu sau này họ sẽ hơn mình bây giờ? Nhưng đến chừng họ được bốn mươi, năm mươi tuổi mà mình chẳng nghe biết danh tiếng của họ, chừng ấy mình chẳng còn sợ họ nữa rồi”.
(Bây giờ mình lớn tuổi, khó bề học hành thêm nhiều. Phải coi chừng, chớ khinh dể bọn thiếu niên. Họ còn trẻ, rộng thì giờ học tập, họ đương sung sức; nếu họ có chí, họ sẽ hơn mình bây giờ. Nhưng con người ta lúc còn trai trẻ chẳng chịu học đạo tu thân; đến bốn mươi, năm mươi tuổi thì chẳng làm gì hơn được).
Quyển 05, Chương thứ chín: Tử Hãn, tiết 22. Dịch giả: Đoàn Trung Còn.
Quyển Bảy, Chương thứ mười ba: Tử Lộ, tiết 17.
(Quyển Nhứt, Chương thứ nhì: Vi Chính, tiết 17.)
..........
Lời bàn: Điều gì mình biết, thì mình nói là biết; điều gì mình không biết, thì mình nói là không biết. Như vậy mình không nói sai, sẽ không bị người khác cười chê; mình không lừa gạt người, sẽ không bị người oán trách mà chuốc lấy tai họa. Vì vậy lại nhận được sự tín nhiệm của mọi người. Được như thế, thật là biết cách giao tiếp, lợi ích cho mình vậy.
Câu này trích trong 2 đoạn:
. Quyển sáu, chương thứ mười hai: Nhan Uyên, tiết 02.
. Quyển tám, chương thứ mười lăm: Vệ Linh Công, tiết 23.
Đức Khổng Tử nói rằng: “Toàn bộ Kinh Thi có ba trăm thiên, chỉ có một câu tóm hết ý nghĩa, ấy là: Giữ tư tưởng cho ngay thẳng”.
(Kinh Thi có tất cả 311 thiên, nhưng đức Khổng nói 300 thiên cho chẵn số. Trong kinh ấy luận đủ các việc thiện ác; nhưng đại ý khuyên người học đạo phải giữ tư tưởng cho trung chánh, đừng có cong vạy).
(Luận Ngữ, Quyển Nhứt,
Chương thứ nhì: Vi Chính, tiết 02)
- Lời bàn: Người trí học rộng, biết nhiều, lại có thể phân biệt được đúng-sai, phải-trái. Người đối với kẻ chưa biết, thì chỉ dạy; đối với kẻ đương sai lầm, thì khuyên nhủ, can gián. Nhưng đa phần những lời khuyên nhủ can gián thường hay trái ý, mà kẻ đương sai lầm thường khó tiếp nhận. Vì vậy, phải tùy người, tùy lúc mà can gián. Nên can gián một vài lần thôi, nếu nhiều lần quá thì người sẽ mất lòng mà xa cách đi. Bằng như chẳng biết khéo léo lại thêm kết oán với người, chuốc lấy tai họa.
Vì thế, bậc trí giả dùng lời nói giúp ích cho người, chẳng giấu giếm, bỏn xẻn sự hiểu biết của mình mà để thiệt thòi một đời người; cũng chẳng để uổng phí lời nói (mà phải tùy người, tùy lúc và dùng phương pháp khéo léo để giúp người; chẳng ham nói, cầu danh; chỉ lo làm sao để người được lợi ích nhất, hiệu quả nhất).
- Lời bàn: Ở đây, Đức Khổng Tử từ nơi mình mà khuyên nhủ những người có chí muốn làm lợi ích đời rằng: nhìn thấy cảnh rối ren, bất hảo chớ có suốt ngày ưu tư phiền trách hoài, như vậy chẳng có ích gì cho mình và cho đời được đâu. Chẳng bằng ra công học tập để biết phân biệt đúng-sai, phải-trái; học tập đạo lý, lễ nghi để biết cách xử sự cho phải phép; để khi đảm nhận bất kì một chức vụ nào, ở trong bất kì mối quan hệ nào cũng đều có thể lợi người giúp đời được. Như vậy mới thật hữu ích!
Lời bàn: Kẻ sĩ, nhờ ơn thầy dạy cho tri thức, đạo lý mà một đời tránh được rất nhiều điều sai lầm, lại có thể thành tựu công danh, giúp đỡ gia đình & xã hội,... Vì thế, kẻ sĩ mang ơn ấy mà kính trọng Thầy, lấy lễ nhượng mà đối đãi Thầy. Khi ăn, ở cùng thầy, người học thường dành những thứ ngon, tốt mà nhường cho thầy; còn đối với việc nhân, người thi hành việc nhân luôn mang tiếng thơm ở đời, cho nên người học có ý muốn nhường cho thầy mình. Nhưng Đức Khổng bảo rằng: người làm việc nhân không nên chần chừ, do dự, nhường tới nhường lui, đặc biệt là khi gặp các việc khẩn cấp, cần nhanh chóng, dứt khoát, chớ nên giữ lễ thái quá mà làm lỡ mất việc lành giúp người.
Về sau, câu này thường được trích lục rút gọn còn 4 chữ: “Đương nhân bất nhượng - 當仁不讓” (Gặp việc tốt cần làm thì phải làm ngay, không nên nhường tới nhường lui mà lỡ mất việc).
Người quân tử có khi cùng khốn thì cố giữ tư cách của mình, kẻ tiểu nhân khốn cùng thì phóng túng làm càn.
“Quân tử cố cùng, tiểu nhân cùng tư lạm hĩ - 君子固窮, 小人窮斯濫矣".
Đức Khổng Tử dạy rằng: “Khi lời nói và hành động của người làm quan đoan chánh, có thể làm gương mẫu mô phạm cho người, thì chẳng đợi ra lệnh, mà nhân dân đã tự tuân theo phép tắc, như thế pháp lệnh được thực thi thông suốt không gì trở ngại. Nếu như lời nói và hành động của người làm quan không ngay thẳng, dẫu cho ra lệnh buộc dân theo, nhân dân cũng không thuận lòng mà tuân thủ.