Cao huyết áp

I. ĐẠI CƯƠNG

- Tăng huyết áp là một hội chứng lâm sàng do nhiều nguyên nhân khác nhau gây nên, nói lên tình trạng gia tăng áp lực máu trong các động mạch của đại tuần hoàn.

- Theo OMS, ở người lớn có huyết áp (HA) bình thường, nếu huyết áp động mạch tối đa < 140 mmHg (18,7 kpa) và huyết áp động mạch tối thiểu < 90 mmHg (12 kpa). Tăng huyết áp khi huyết áp động mạch tối đa ≥ 160 mmHg (21,3 kpa) và huyết áp động mạch tối thiểu ≥ 95 mmHg (12 kpa). Huyết áp động mạch tối đa còn gọi là huyết áp tâm thu, huyết áp động mạch tối thiểu còn gọi là huyết áp tâm trương.

II. NGUYÊN NHÂN

Tìm hiểu các tài liệu của YHCT nói về bệnh tăng huyết áp của y học hiện đại (YHHĐ) là điều không đơn giản. Tăng huyết áp là danh từ bệnh học YHHĐ và không có từ đồng nghĩa trong bệnh học y học cổ truyền (YHCT). Từ đồng nghĩa dễ gặp giữa YHHĐ và YHCT là các triệu chứng (ví dụ: “đau đầu” với “đầu thống”, “mất ngủ” với “thất miên”).

a. Các chứng trạng thường gặp trong bệnh tăng huyết áp:

Như vậy, có thể tóm tắt các triệu chứng cơ năng thường gặp trong bệnh lý tăng huyết áp gồm:

  • Hoa mắt, chóng mặt: YHCT xếp vào chứng huyễn vậng hay còn gọi là huyễn vựng.
  • Đau đầu: YHCT xếp vào chứng đầu thống, đầu trọng, đầu trướng dựa vào những biểu hiện khác nhau của nó.
  • Đánh trống ngực, hồi hộp: YHCT xếp vào chứng tâm quý, chính xung.
  • Đau ngực gọi là tâm thống, hoặc kèm khó thở thì được gọi là tâm tý, tâm trướng.
  • Hôn mê, liệt nửa người: YHCT xếp vào chứng trúng phong.

b. Cơ chế bệnh sinh:

Qua việc phân tích cơ chế bệnh sinh toàn bộ các chứng trạng thường gặp của YHCT trong bệnh lý tăng huyết áp, có thể biện luận về cơ chế bệnh sinh

Nguyên nhân của bệnh lý này theo YHCT có thể là:

Do thất tình như giận, lo sợ gây tổn thương 2 tạng can, thận âm.

- Do bệnh lâu ngày, thể chất suy yếu; thận âm, thận dương suy (thận âm suy hư hỏa bốc lên, thận dương suy chân dương nhiễu loạn ở trên).

- Do đàm thấp ủng trệ gây trở tắc thanh khiếu. Đàm thấp có thể do ăn uống không đúng cách gây tổn hại tỳ vị hoặc do thận dương suy không khí hóa được nước làm sinh đàm.

Sự phân chia này có tính tương đối vì giữa các nguyên nhân (theo YHCT) và các thể bệnh có mối liên hệ với nhau như can âm hư có thể dẫn đến can dương vượng (can dương thượng xung), thận âm hư lâu ngày dẫn đến thận dương hư hoặc như thận dương hư có thể gây nên bệnh cảnh đàm thấp.

III. CHẨN ĐOÁN

a. Thể can dương xung (thể âm hư dương xung):

  • Trong thể bệnh cảnh này trị số huyết áp cao thường hay dao động.
  • Người bệnh thường đau đầu với những tính chất.
  • Tính chất đau: căng hoặc như mạch đập.
  • Vị trí: đỉnh đầu hoặc một bên đầu.
  • Thường kèm cơn nóng phừng mặt, hồi hộp trống ngực, người bứt rứt.
  • Mạch đi nhanh và căng (huyền).

b. Thể thận âm hư:

Triệu chứng nổi bật trong thể này, ngoài trị số huyết áp cao là:

  • Tình trạng uể oải, mệt mỏi thường xuyên.
  • Đau nhức mỏi lưng âm ỉ.
  • Hoa mắt chóng mặt, ù tai, đầu nặng hoặc đau âm ỉ.
  • Cảm giác nóng trong người, bứt rứt, thỉnh thoảng có cơn nóng phừng mặt, ngũ tâm phiền nhiệt, ngủ kém, có thể có táo bón.
  • Mạch trầm, huyền, sác, vô lực.

c. Thể tâm tỳ hư

Triệu chứng: Sắc mặt trắng, da khô, ngủ ít, hay đi phân lỏng, đầu choáng, mắt hoa, lưỡi nhạt mạch huyền tế

d. Thể đờm thấp:

Triệu chứng nổi bật trong thể bệnh lý này:

  • Người béo, thừa cân.
  • Lưỡi dày, to.
  • Bệnh nhân thường ít than phiền về triệu chứng đau đầu (nếu có, thường là cảm giác nặng đầu) nhưng dễ than phiền về tê nặng chi dưới.
  • Thường hay kèm tăng cholesterol máu.
  • Mạch hoạt.

IV. ĐIỀU TRỊ, DỰ PHÒNG VÀ THEO DÕI

Mục tiêu của điều trị và dự phòng bệnh tăng huyết áp là giảm bệnh suất và tử suất bằng phương tiện ít xâm lấn nhất nếu có thể. Cụ thể là làm giảm và duy trì HATT < 140 mmHg và HATTr < 90 mmHg hay thấp hơn nữa nếu bệnh nhân dung nạp được. Ích lợi của việc hạ huyết áp là ngăn ngừa được tai biến mạch máu não, bảo tồn chức năng thận và ngăn ngừa hoặc làm chậm diễn tiến suy tim.

Phương pháp thực hiện bằng điều chỉnh lối sống đơn độc hoặc đi kèm với thuốc điều trị.

Chiến lược điều trị được đề ra như sau:

  • Nhóm nguy cơ cao và rất cao: điều trị ngay bằng thuốc.
  • Nhóm nguy cơ trung bình: theo dõi huyết áp và yếu tố nguy cơ khác từ 3-6 tháng. Nếu HATT ≥ 140mmHg hoặc HATTr ≥ 90mmHg thì dùng thuốc.
  • Nhóm nguy cơ thấp: theo dõi huyết áp và yếu tố nguy cơ khác từ 6-12 tháng. Nếu HATT ≥ 150mmHg hoặc HATTr ≥ 95mmHg thì dùng thuốc.

Việc điều trị tăng huyết áp chưa có biến chứng bao gồm trước tiên và luôn luôn là những điều chỉnh về sinh hoạt ăn uống, kế đó mới đến vai trò của thuốc và nhất là chú ý toàn bộ về nguy cơ các bệnh lý mạch máu.

1. Điều trị không dùng thuốc:

- Mục tiêu kinh điển là giữ được huyết áp dưới ngưỡng 160/90 mmHg mà không gây ra những khó chịu (làm cho bệnh nhân từ chối cách điều trị).

- Mục tiêu cũng là làm cho người bệnh thay đổi thái độ sống nhằm làm giảm nguy cơ các bệnh mạch máu. Cũng còn có mục tiêu làm giảm hoặc chậm việc dùng thuốc, điều này đôi khi có thể đạt được hoặc làm tốt hơn việc trịliệu bằng thuốc, bao gồm: giới hạn Na+, vận động thể lực, cân nặng lý tưởng, giảm rượu, bỏ thuốc lá, cà phê; giảm cholesterol máu hoặc tiểu đường, cung cấp thức ăn có nhiều potassium và calci, kiểm soát tình trạng stress, hạn chế Na+.

Đã có những công trình nghiên cứu chứng minh việc kiêng hoàn toàn muối đã làm ổn định các trường hợp tăng huyết áp nặng. Trong thực tế, cách này không áp dụng được, do đó bệnh nhân cần biết những nguồn thức ăn chủ yếu có nhiều muối để hạn chế sử dụng (khô, mắm, chao, sữa, fomat, thịt muối). Với mức ăn mặn 5-8g NaCl/ngày:

+ Ở những bệnh nhân huyết áp cao thể nhẹ: trị số huyết áp cao tối đa giảm 6,3%, huyết áp tối thiểu giảm 6,6% (từ 139,9/93,9 còn 130/87,7 mmHg đo ở tư thế ngồi).

+ Ở nhóm bệnh nhân mà trị số huyết áp cao không tự xuống được nữa, thì chế độ ăn giảm muối như trên cũng đã giảm được trị số huyết áp tối đa xuống 5,2%, huyết áp tối thiểu giảm xuống 3,7%.

+ Trong cả 2 nhóm, các bệnh nhân đều chịu đựng tốt hơn những gắng sứcthể lực. Số bệnh nhân phải dùng thêm thuốc giảm dần sau từng năm (27% sau 1 năm, 16% sau 3 năm và 6% trong năm thứ 5).

c. Hoạt động thể lực thường xuyên:

Có thể làm giảm huyết áp trung bình (lý tưởng là 1 giờ/ngày): đi bộ, chạy chậm, bơi lội hoặc đạp xe, tùy theo ý thích và sức của bệnh nhân. Những bài tập thích hợp của phương pháp dưỡng sinh như thư giãn, thở 4 thời có kê mông, giơ chân và những động tác xoa bóp vùng đầu mặt cần được áp dụng đều đặn. Mục tiêu là thói quen này phải được đưa vào cách sống của người bệnh.

Riêng việc điều trị bằng châm cứu sẽ được trình bày và giải thích cụ thể ở phần sau, phần điều trị cụ thể cho từng thể lâm sàng YHCT.

d. Giữ cân lý tưởng:

Chế độ này bắt buộc ở người thừa cân.

Cách duy nhất là chế độ ăn giảm calo (phải giải thích rõ chưa có thuốc nào giúp làm giảm cân được). Cần chú ý sau đợt ăn giảm cân thường có tình trạng tăng cân nhiều sau đó.

e. Hạn chế rượu.

f. Bỏ thuốc lá.

Cần biết bỏ thuốc lá không làm giảm huyết áp (ngược lại còn có thể tăng cân sau ngưng thuốc lá). Tuy nhiên, cần khuyến khích bệnh nhân bỏ vì hạn chế được biến chứng trên mạch máu.

g. Việc điều chỉnh cholesterol/máu tăng và đường/máu tăng là bắt buộc và làm giảm biến chứng mạch máu.

2. Điều trị dùng thuốc: (Điều trị bằng y học cổ truyền)

a. Thể âm hư dương xung

Hay gặp ở thể cao huyết áp người trẻ, rối loạn tiền mãn kinh. . .Các triệu chứng thiên về hưng phấn nhiều ức chế giảm. Nếu thiên về ức chế giảm biểu hiện lâm sàng thiên về âm hư, nếu thiên về hưng phấn nhiều biểu hiện lâm sàng thiên về dương xung hay can hoả thịnh .

Triệu chứng: Hoa mắt chúng đầu, tai ù dễ cáu gắt miệng đắng, họng khô ít ngủ, hay mê, rêu lưỡi trắng hoặc hơi vàng, mạch huyền hoạt sác.

Pháp trị: Tư âm tiềm dương

Bài thuốc: Bài Thiên ma câu đằng ẩm, Bài Linh dương câu đằng thang, Lục vị kỷ cúc

+ Bài Thiên ma câu đằng ẩm: Thiên ma 8g, Câu đằng 12g, Hoàng cầm 10g, Chi tử 12g, Tang ký sinh 12g, Hà thủ ô 10g, Đỗ trọng 10g, Phục linh 12g, Ích mẫu 12g, Thạch quyết minh 20g, Ngưu tất 12g.

+ Bài Linh dương câu đằng thang: Linh dương giác 4g, Trúc nhự 20g, Câu đằng 12g, Sinh địa 20g, Bạch thược 12g, Tang diệp 8g, Phục thần 12g, Cúc hoa 12g, Bối mẫu 8g, Cam thảo 4g.

+ Bài thuốc Lục vị kỷ cúc: Thục địa 32g, Hoài sơn 16g, Sơn thù 8g, Đơn bì 12g, Phục linh 12g, Trạch tả 6g, Kỷ tử, cúc hoa 8g, thảo quyết minh 12g

Châm cứu: Thái xung, Túc lâm khấp, Huyết hải, Thái khê, Bách hội, Phong trì

b. Can thận âm hư:

Hay gặp ở những người già, sơ cứng động mạch

Triệu chứng: Nhức đầu, chúng mặt, hoa mắt, u tai, hoảng hốt, dễ sợ, ngủ ít, hay mỏi lưng gối yếu, miệng khô, mặt đỏ, chất lưỡi đỏ, mạch huyền tế sác (thiên về âm hư)

Pháp trị: Tư âm hạ áp

Bài thuốc: Lục vị địa hoàng hoàn gia quy thược: Thục địa 32g, Hoài sơn 16g, Sơn thù 8g, Đơn bì 12g, Phục linh 12g, Trạch tả 6g, Đương quy 12g, Bạch thược 8g.

Bài này thường được sử dụng khi tăng huyết áp có kèm triệu chứng đau ngực, đau vùng tim.

c. Thể tâm tỳ hư

Hay gặp ở những người bị bệnh đường tiêu hoá

Triệu chứng: Sắc mặt trắng, da khô, ngủ ít, hay đi phân lỏng, đầu choáng, mắt hoa, lưỡi nhạt mạch huyền tế

Pháp trị: Kiện tỳ, bổ huyết, an thần

Bài thuốc: Quy tỳ thang gia giảm:

Đảng sâm 12g, Bạch linh 8g, Bạch truật, 12g, Hoàng kỳ 12g, Đương quy 12g, Liên nhục, 12g, Toan táo 12g, Viễn Chí 8g, Ngưu tất 12g, Ý dỹ 16g, Đại táo 16g, Cam thảo 6g

d. Thể đàm thấp

Hay gặp ở người cú cholestron máu cao

Triệu chứng: Người béo mập, ngực sườn đầy tức, hay lợm giọng buồn nôn, ăn ít, ngủ kém nhiều, rêu trắng dính miệng nhạt, mạch huyền hoạt

Pháp trị: Kiện tỳ tiêu đàm

Bài thuốc: Trần bì 6g, Bán hạ 12g, Phục linh 12g, Trúc nhự 12g, Bạch truật 12g, Sơn tra 12g, Ngưu tất 12g, Ý dỹ 12g, Sinh kỳ 16g, Thiên ma 12g, Câu đằng 8g, Đại táo 12g, Cam thảo 6g