Kho tàng Văn Học dân gian chứa vô số ca dao, đồng dao, thành ngữ, tục ngữ về con trâu, mục đồng, v.v... mà không một cuốn sách nào hay một tài liệu nào có thể chép đầy đủ hết được.
Có lẽ ai ai cũng những câu ca dao, đồng dao gợi lên hình ảnh con trâu, công việc cày bừa hay hình ảnh chăn trâu ...
Ca dao
Rủ nhau đi cấy đi cày
Bây giờ khó nhọc, có ngày phong lưu
Trên đồng cạn, dưới đồng sâu
Chồng cày, vợ cấy, con trâu đi bừa
May mà hôm ấy trời mưa.
Có thằng con rể đi bừa cùng trâu
Sớm mai cắp nón ra đồng
Một đôi vợ chồng với một con trâu …
Trâu ơi ta bảo trâu này
Trâu ra ngoài ruộng trâu cày với ta
Cấy cày vốn việc nông gia
Ta đâu trâu đấy ai mà quản công
Bao giờ cho lúa trổ bông
Thì còn ngọn cỏ ngoài đồng trâu ăn.
Lao xao gà gáy rạng ngày,
Vai vác cái cày, tay dắt con trâu.
Bước chân xuống cánh đồng sâu,
Mắt nhắm mắt mở đuổi trâu đi cày.
Ai ơi! Bưng bát cơm đầy,
Nhớ công hôm sớm cấy cày cho chăng.
Đồng dao
Con trâu ăn cỏ
No bụng ngủ ngon
Nghe gà gáy dồn
Dậy đi cày ruộng
Nghé ơ, Mẹ gọi tiếng trước, cắt cổ lên đàng
Nghé ơ, Mẹ gọi tiếng sau, cất lồng lên chạy
Có khôn thì đi theo mẹ
Có dại thì đi theo đàn
Chớ đi theo quẩn theo quàng
Có ngày mất mẹ, nghé ơi
Nghé hành nghé hẹ
Có khôn theo mẹ
Có khéo theo đàn
Chớ có chạy quàng
Có ngày lạc mẹ
Việc nhẹ phần con
Kéo nỉ kéo non
Kéo đến quanh tròn
Mẹ con ta nghỉ
Ông giẳng ông giăng,
Xuống chơi với tôi,
Có bầu có bạn,
Có ván cơm xôi,
Có nồi cơm nếp,
Có nệp bánh chưng,
Có lưng hũ rượu,
Có chiếu bám đu,
Thằng cu xí-xóa,
Bắt trai bỏ giỏ,
Cái đỏ ẵm em,
Đi xem đánh cá,
Có rá vo gạo,
Có gáo múc nước,
Có lược chải đầu,
Có trâu cày ruộng,
Có muống thả ao,
Ông sao trên trời.
Lục Súc Tranh Công
Truyện Lục Súc Tranh Công, nguyên tác bằng chữ Nôm, viết theo thể “nối lối” hay Cổ phong, gồm 570 câu, được Trương Vĩnh Ký phiên âm Quốc ngữ khoảng đầu năm 1887.
Nội dung truyện nói về 6 con thú nuôi tranh công trạng với nhau. Mỗi con thú đều cho rằng mình có nhiều công trạng và công trạng mình là quan trọng nhất.
Xin chép lời tranh luân của con trâu làm việc chăm chỉ, vất vả, có công sản xuất ra lúa gạo ..., cùng lời con trâu chê bai con chó.
- Trâu kể công:
Không nhớ thủa bôi chuông đường hạ.
Ơn Tề vương vô tội bảo tha,
Tưởng chừng khi sức mỏi tuổi già,
Cám Điền tử dạy con chớ bán.
Lời cổ nhân còn dặn,
Sao ông chủ vội quên
Chẳng nhớ câu: “Dĩ đức hành nhân” ...
Lại lấy chữ: “Báo ân dĩ oán”.
- Trâu chê chó:
Chưa rét đã phô rằng rét,
Xo ro đuôi quít vào trôn,
Vấy bếp người, tro trấu chẳng còn,
Ba ông táo lộn đầu, lộn óc.
Truyện tiếu lâm
Tục ngữ có câu: “Có ăn có chọi mới gọi là trâu”, trâu đực mạnh mẽ phải biết húc (chọi) mới “phong độ”, mới “đáng mặt trâu”.
Lễ hội chọi trâu Đồ Sơn còn gọi là đấu ngưu diễn ra ngày 9 tháng Tám Âm lịch hằng năm, lễ hội truyền thống của người dân vạn chài vùng biển Đồ Sơn, Hải Phòng.
Dù ai buôn đâu bán đâu
Mồng chín tháng Tám chọi trâu thì về
Dù ai buôn bán trăm nghề
Mồng chín tháng Tám nhớ về chọi trâu.
Nói về tục chọi trâu phải nói đến truyện tiếu lâm, chuyện Trạng Quỳnh đối phó với việc thách thức chọi trâu của quan Tàu.
Quan Tàu đưa một con trâu cổ to lớn khỏe mạnh, đã được huấn luyện thuần thục cho việc chọi trâu, thách thức đấu với trâu An-Nam. Vua quan An-Nam rất lo sợ không biết tính sao, bèn cầu cứu hỏi kế Trạng Quỳnh.
Trạng Quỳnh tĩnh bơ, nói đừng có lo, tới ngày đó cứ để ổng lo cho.
Tới ngày, vua quan, lính tráng, dân chúng tụ họp đông dầy để coi trâu cổ của Tàu húc nhau với trâu An-Nam thế nào. Con trâu cổ to lớn mạnh mẽ của Tàu nghênh ngang hùng hổ ra sân đấu mà chưa thấy trâu An-Nam ra. Ai cũng lo phen này chắc An-Nam thua rồi!
Một lát sau Trạng Quỳnh cho thả ra sân đấu một con nghé nhỏ tí xíu ốm nhom ốm nhách, đứng run rẩy ... Ai cũng cho rằng Trạng Quỳnh giỡn mặt vua quan và quan Tàu sao chớ !
Không ngờ vừa thấy con trâu cổ to lớn, con nghé chạy ngay lại chui dưới bụng con trâu lớn để tìm vú bú sữa. Con trâu to lớn nhột quá nên nhanh chưn tháo chạy ... càng chạy thì con nghé càng đuổi theo chui dưới bụng con trâu lớn.
Trạng Quỳnh vỗ tay hô lớn “Trâu Tàu thua nghé An-Nam rồi!”
Số là Trạng Quỳnh cho con nghé nhịn đói ba bốn bữa. Đang đói khát quá, nên khi thấy con trâu to lớn tưởng là trâu mẹ nên chạy ngay lại chui dưới bụng mà tìm vú để bú sữa.
Thi ca
Bà Huyện Thanh Quan mô tả cảnh mục đồng đưa trâu về chuồng vào những buổi chiều qua hai bài “Chiều hôm nhớ nhà”
Vàng tỏa non tây, bóng ác tà,
Đầm đầm ngọn cỏ, tuyết phun hoa.
Ngàn mai lác đác, chim về tổ,
Dặm liễu bâng khuâng, khách nhớ nhà.
Còi mục thét trăng miền khoáng dã,
Chài ngư tung gió bãi bình sa.
Lòng quê một bước nhường ngao ngán,
Mấy kẻ tình chung có thấu là?
Chiều trời bảng lảng bóng hoàng hôn,
Tiếng ốc xa đưa vẳng trống đồn.
Gác mái, ngư ông về viễn phố,
Gõ sừng, mục tử lại cô thôn.
Ngàn mai gió cuốn chim bay mỏi,
Dặm liễu sương sa khách bước dồn.
Kẻ chốn Chương Đài, người lữ thứ,
Lấy ai mà kể nỗi hàn ôn?
“Còi mục thét trăng miền khoáng dã”, “Gõ sừng mục tử lại cô thôn”. Buổi chiều đám trẻ đưa trâu về chuồng, tiếng còi của mục đồng ngồi trên lưng trâu thổi sáo, thật hồn nhiên, thanh thản ...
Âm nhạc
Nhạc sĩ Phạm Duy, có sáng tác bài hát vui tươi “Em bé quê” mà có lẽ ai cũng biết.
Ai bảo chăn trâu là khổ
Chăn trâu sướng lắm chứ
Ngồi mình trâu, phất ngọn cờ lau
Và miệng hát nghêu ngao
Vui thú không quên học đâu
Nằm đồi non gió mát
Cất tiếng theo tiếng lúa đang reo
Em đánh vần thật mau.
Chiều vương tiếng diều
Trên bờ đê vắng xa.
Đường về xóm nhà
Chữ i, chữ tờ.
Lùa trâu nhốt chuồng
Gánh nước nữa là xong
Khoai lùi bếp nóng
Ngon hơn là vàng.
Em mới lên năm, lên mười
Nhưng em không yếu đuối.
Thầy mẹ yêu cũng vì trẻ thơ
Làm việc rất say sưa
Em biết yêu thương đời trai
Đời hùng anh chiến sĩ
Ước mong sao em nhớn lên mau
Vươn sức mạnh cần lao.
Kìa trăng sáng ngời
Đêm rằm Trung, Trung Thu.
Đời vui trống ròn
Tiếng ca lẫy lừng
Từ ngõ ngách làng
Đèn đuốc rước triền miên
Bao người đóng góp
Vui chung một miền.
Trâu hỡi trâu ơi đi cầy
Trâu ơi đi cấy nhé
Đồng ruộng kia, với đồi cỏ kia
Là của những dân quê
Em bé dân quê Việt Nam
Là mầm non tươi thắm
Sức mai sau xây đắp quê hương
Cho nước giầu mạnh hơn.
Vàng lên cánh đồng
Khi trời vươn ánh dương
Trẻ thơ nhớn dậy
Giữ quê, giữ vườn
Đời vui thái bình, cây lúa sớm trổ bông
Cỏ ngàn thơm phức, trâu ăn đầy đồng.
Văn Học Cổ
Nội dung gồm những điển tích về trâu
Vịnh người chăn trâu
Đầu ngàn, êu ểu [1] cỏ xanh om,
Thả thả, chăn chăn, ít lại nom.
Mũi nghé lui chân đứng nhảy, [2]
U trâu vịn cật ngồi khom.
Vang địch trúc [3] lao xao hỏi,
Mảng ca sừng [4] ngấp nghé nhòm.
(Có) thuở về hòa [5] khi hái củi,
Chẳng ngờ ác [6] đã mái kia mom.