Trần Xuân An - KHÉP LẠI VẤN NẠN 1945-1975

KHÉP LẠI VẤN NẠN 1945-1975

Trần Xuân An

®©®©®©®©

C.

CƠ SỞ NHẬN THỨC LỊCH SỬ

TRONG MỘT BÀI THƠ CỦA TÔI

(“SỬ TRONG RẰM THÁNG BẢY”)

1) Ba đoá hoa đào đỏ chiến công:

Triều Nguyễn đã dựa vào Nhật (chính phủ Trần Trọng Kim). Sau đó, Bảo Đại bị truất phế. Vài năm sau, triều Nguyễn lại dựa vào Pháp nhưng thực chất dựa vào Mỹ (Quốc gia Việt Nam). Quốc gia Việt Nam trở thành Việt Nam cộng hoà, tiếp tục dựa vào Mỹ.

Với tiến trình đối kháng, góp phần nhỏ vào việc đánh Nhật với sự hỗ trợ của Mỹ, lực lượng Cộng sản Việt Nam tiếp tục dựa vào Nga Xô, Trung Cộng để đánh thắng Pháp và Quốc gia Việt Nam (nhưng chỉ được làm chủ từ Vĩ tuyến 17 trở ra), lại tiếp tục dựa như thế để đánh thắng Mỹ và Việt Nam cộng hoà (thống nhất toàn quốc). Đó là ba đoá đào đỏ.

2) Hai bông hoa mai vàng chiến công:

Vì lực lượng Cộng sản Việt Nam (Đảng Cộng sản Đông Dương, Việt Minh, Đảng Lao động Việt Nam) hình thành, phát triển do sự trang bị ý thức hệ, đào tạo nhân lực, viện trợ vũ khí của Nga Xô, và từ sự phân công của Nga Xô cho Trung Quốc phụ trách, nên dân tộc Việt Nam không hoàn toàn ủng hộ. Một bộ phận lớn, không phải nhỏ, đương nhiên trở thành phe Chính phủ Trần Trọng Kim (quốc hiệu Đế quốc Việt Nam), Quốc gia Việt Nam, rồi Việt Nam cộng hoà.

Nga Xô bành trướng chủ nghĩa Lê-nin của họ bằng cách đó: Trung Quốc và Việt Nam muốn được viện trợ, đào tạo, cố vấn, phải chấp nhận truyền bá và thực thi chủ thuyết của lãnh tụ Lê-nin và cả Sta-lin, kể cả màu cờ, hoạ tiết trên cờ… Sau đó, Trung Quốc lại cũng y theo Nga Xô, buộc Việt Nam tôn sùng thêm cả Mao. Điều đó ghi vào Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam (Đảng Cộng sản Đông Dương) từ 1930, 1935, rồi cụ thể, đầy đủ, từ 1951, với tên gọi Đảng Lao động Việt Nam (*).

Do đó, Quốc gia Việt Nam, Việt Nam cộng hoà chống cộng sản xâm lược, bành trướng (chống Nga Xô, Trung Cộng và trực tiếp chống Việt Nam dân chủ cộng hoà). Dù bại, họ vẫn xem họ có công chống ngoại xâm Nga Xô, Trung Cộng. Đó là hai đoá mai vàng.

Dẫu sao, Quốc gia, Cộng hoà cũng đã tiêu vong, thuộc về quá khứ một đi không trở lại.

T.X.A.

23 & 24-8-2017 HB17

(*) Trích “Điều lệ Đảng Lao động Việt Nam”, 1951:

1) ” Đảng Lao động Việt Nam lấy chủ nghĩa Mác – Ǎngghen – Lênin – Xtalin và tư tưởng Mao Trạch Đông kết hợp với thực tiễn cách mạng Việt Nam làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho mọi hành động của Đảng”.

2) “Đảng Lao động Việt Nam nhận định cách mạng Việt Nam là một bộ phận khǎng khít của phong trào hoà bình, dân chủ và xã hội chủ nghĩa thế giới do Liên Xô lãnh đạo”.

D.

CÁCH GỌI MIỆT THỊ “NGUỴ”,

THÔNG TIN TỪ BỘ QUỐC SỬ MỚI

VÀ Ý KIẾN CỦA TÔI

I. Thông tin tóm lược:

Trong bộ Lịch sử Việt Nam 15 tập (xuất bản 2014, tái bản lần thứ nhất 2017), ban biên soạn vẫn xem Nhà nước Quốc gia Việt Nam (1949-1955) và quân đội của Nhà nước ấy là nguỵ quyền, nguỵ quân. Tuy nhiên, ban biên soạn lại xác định, tuy cũng Nhà nước đó, nhưng sau tháng 7-1954, và khi đã đổi tên thành Việt Nam cộng hoà (1955-1975), thì không còn bị gọi là nguỵ nữa, mà xem như một thực thể nhà nước được nhiều nước trên thế giới công nhận tại Miền Nam Việt Nam, song song tồn tại cùng Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hoà ở Miền Bắc Việt Nam.

II. Theo ý kiến cá nhân tôi:

1) Nhà nước Việt Nam cộng hoà tại Miền Nam Việt Nam có hai giai đoạn chính, xác lập với hai danh xưng: Nền Đệ nhất Cộng hoà (1955-1963) và Nền Đệ nhị Cộng hoà (1967-1975). Đây là hai nền cộng hoà bị Thiên Chúa giáo tranh đoạt, chiếm dụng và lũng đoạn, ở giai đoạn Ngô Đình Diệm nặng nề hơn giai đoạn Nguyễn Văn Thiệu. Vì sự chiếm dụng đó, mới có cuộc đảo chính (lực lượng quân nhân gọi là cách mạng thật sự) vào năm 1963, lật đổ Ngô Đình Diệm. Thời Đệ nhị Cộng hoà, sự lũng đoạn không còn như thời Đệ nhất, mặc dù Thiên Chúa giáo vẫn còn uy thế ít nhiều.

2) Về Nhà nước Quốc gia Việt Nam: Nhà nước này về mặt danh nghĩa, nó vẫn là Triều Nguyễn, một triều đại nhất thống từ 1802 đến 1955, bao gồm cả giai đoạn khoảng 4 tháng với danh xưng Đế quốc Việt Nam (Chính phủ Trần Trọng Kim), trừ vài ba năm, 8-1945 – 1948/1949. Người đứng đầu nó (quốc trưởng) vẫn là vua chính tông nhà Nguyễn. Nó là Nhà nước chính danh, mặc dù từ 1885 đến 1955 nó bị lệ thuộc nặng nề vào thực dân Pháp, và từ 1949, vào viện trợ của Mỹ. Nói rõ là trong giai đoạn 1949-1955, Nhà nước Quốc gia Việt Nam bị lệ thuộc vào Mỹ chứ không phải vào Pháp (Pháp bị Mỹ lợi dụng từ 1947 đến 1954, vì Pháp đã kiệt quệ). Đối với nhân dân, Nhà Nguyễn như chủ nhà chính thống bị bọn cướp khống chế từ 1885 đến 1954/1955, nhưng Nhà Nguyễn vẫn là chủ nhà.

3) Trên cơ sở đó, Việt Nam cộng hoà (1955-1975) chỉ là sự tiếp nối của triều Nguyễn về mọi mặt, từ nhân lực đến vật lực, nhưng về hình thức và cách tổ chức bộ máy nhà nước, chính thể quân chủ lập hiến và ngai vàng không còn mà thôi. Vả lại, nó còn bị chiếm dụng bởi Thiên Chúa giáo (thân Pháp, về sau được Mỹ trọng dụng). Nếu nhận xét khách quan, thì chính Nhà nước Quốc gia Việt Nam bằng 6 năm chống cộng sản Liên Xô, Trung Quốc mà trực tiếp là chống Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hoà mới giành lại được nửa nước (từ vĩ tuyến 17 trở vào). Do đó, nó vẫn chính danh. Không thể gọi nó là nguỵ được, mặc dù nó bị lệ thuộc nặng nề vào Pháp, thực chất là Mỹ. Nhà nước Quốc gia Việt Nam (*), về mặt lí, nó chính danh hơn Việt Nam cộng hoà vốn bị Thiên Chúa giáo lũng đoạn, chiếm dụng. Vậy tại sao lại gọi nó là nguỵ, trong khi Việt Nam cộng hoà thì lại không bị gọi như thế?

4) Nhưng các ý trên là chỉ bàn về một mặt. Còn mặt khác là Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hoà. Nhà nước này là gì? Nói thẳng ra, nó chỉ là vệ tinh của Liên Xô, thực chất là Nga Xô, và do Trung quốc được phân công phụ trách viện trợ, chủ yếu là trung chuyển viện trợ, cố vấn, chỉ đạo. Nó cũng chỉ là một nhà nước tay sai, trong quá trình bành trướng của khối Nga Xô. Mặc dù có công góp phần nhỏ đánh Nhật, và đánh thắng Pháp với sự viện trợ, cố vấn, chỉ đạo ấy, nó vẫn chỉ là kết quả của sự bành trướng cộng sản mà thôi.

5) Gọi đúng thực chất, Quốc gia Việt Nam, Việt Nam cộng hoà cũng như Việt Nam dân chủ cộng hoà đều là nguỵ, tay sai như nhau, vì đều do hai Khối (đứng đầu là Nga Xô và Mỹ) hà hơi, tiếp sức cả vũ khí, quân trang quân dụng, đào tạo nhân lực, và cả ý thức hệ. Tuy vậy, cả hai (1. Quốc gia – Cộng hoà và 2. Cộng sản) đều cố vượt thoát thân phận nguỵ, tay sai của họ, để giành quyền tự chủ; cố thoát bàn tay lông lá, nhầy nhụa của ngoại cường hai Khối, được chừng nào hay chừng ấy. Vì vậy, gọi cả hai là nguỵ, là tay sai, đều oan uổng và chỉ có lợi cho các ngoại cường mà thôi. Xấu mặt ruột thịt Nam thì cũng chẳng đẹp mặt gì cho ruột thịt Bắc, và ngược lại, cũng thế. Thực chất hơn, cả Quốc gia – Cộng hoà và Cộng sản tại Việt Nam đã chống nhau, tức là đã chống cả hai Khối. Cả hai đều dựa vào ngoại xâm để chống ngoại xâm.

6) Thiết nghĩ không cần phải nói thêm, nhưng cũng cần nói cho rõ: Do hoàn cảnh nước ta khốn nghèo, bị dìm trong lạc hậu, nên chống ngoại xâm, phải dựa vào ngoại xâm khác. Trong hai thực thể 1. Quốc gia Việt Nam – Việt Nam cộng hoà và 2. Việt Nam dân chủ cộng hoà, thì Việt Nam dân chủ cộng hoà có công chống ngoại xâm lớn nhất và đã thống nhất được Đất nước (chỉ còn khuyết điểm sùng bái lãnh tụ ngoại cường Mác, Lê-nin, và một số khuyết điểm thuộc về chính thể như cơ chế dân chủ…). Mặc dù như vậy, về Nhà nước Quốc gia Việt Nam – Nhà nước Việt Nam cộng hoà, chứ không chỉ riêng Việt Nam cộng hoà, chúng ta vẫn không nên gọi là nguỵ, nếu chúng ta không muốn là những kẻ hàm hồ đối với lịch sử dân tộc giai đoạn ấy.

T.X.A.

sáng 21-08-2017 (HB17)

(*) Từ 1950, Nhà nước Quốc gia Việt Nam của Bảo Đại đã được khoảng 35 nước trên thế giới công nhận, thiết lập quan hệ ngoại giao.

E.

KHÉP LẠI VẤN NẠN 1945-1975:

SỰ THẬT LỊCH SỬ CÓ GIÁ TRỊ VĨNH CỬU

Cho dù quyển sử 1945-1975 chỉ có độ dày dưới trăm trang hay cả ngàn trang sách, được viết với quan điểm, lập trường nào, trên cơ sở nguồn tư liệu nào, và ban biên soạn nào viết, thì sự thật lịch sử đã cô đọng trong hai vế câu này vẫn không thể khác được:

1) Phe Việt Nam dân chủ cộng hoà: Góp phần nhỏ đánh Nhật, thắng Pháp, thắng Mỹ (chống phát-xít, thực dân cũ, “can thiệp quốc tế” xâm lược);

2) Phe Quốc gia Việt Nam – Việt Nam cộng hoà: Chống Nga Xô, Trung Cộng (chống cộng sản xâm lược) (*).

Bởi lẽ, đó là mục tiêu, tôn chỉ vốn được xác định trong những văn kiện cơ bản nhất của mỗi phe, thể hiện ra ở vô vàn bích chương, khẩu hiệu, trên vách, trên sách báo, trên sóng phát thanh, truyền hình, và trong mọi hành động chính trị, quân sự của hai phe…

Cả hai phe rơi vào nội chiến nhưng đều chống ngoại xâm – những ngoại xâm là chỗ dựa của mỗi phe.

Nhà nước Quốc gia Việt Nam từ 1948/1949 đã được Mỹ viện trợ, thực chất đã đồng minh với Mỹ, chứ không phải với Pháp. Pháp chỉ bị Mỹ lợi dụng mà thôi. Can thiệp Mỹ sẽ xua gạt thực dân Pháp, cho dù liên minh Pháp – Quốc gia Việt Nam thắng hay bại. Và sự thể đã diễn ra, sau 1954. Mặc dù là đồng minh yếu thế của Mỹ, nhưng đây là điểm chứng tỏ danh dự của Quốc gia Việt Nam, tức Việt Nam cộng hoà (1955-1975). Mỹ không phải là thực dân như Pháp, Nhật.

Một ưu điểm vượt trội của Quốc gia Việt Nam – Việt Nam cộng hoà là không sùng bái cá nhân lãnh tụ chính trị ngoại cường, không tuân thủ chủ nghĩa, tư tưởng của các lãnh tụ ngoại cường. Điều đó chứng tỏ hai thể chế của một thực thể chính trị ấy không nô lệ (có thể phần nào trừ ra Đệ nhất cộng hoà Ngô Đình Diệm, chịu lệ thuộc vào giáo hoàng, Vatican khá nhiều, không những về tôn giáo mà cả về chính trị).

Dựa vào ngoại cường nào cũng nhục, cho dù dựa Mỹ hay Nga Xô – Trung Quốc… Điều đó là vạn bất đắc dĩ, trong hoàn cảnh Đất nước khốn nghèo, bị thực dân dìm trong lạc hậu, đủ thứ ngoại xâm, phân hoá dân tộc (sự “dựa dẫm” ấy khiến sự phân hoá dân tộc nặng nề hơn!). Vấn đề là phải làm cho Đất nước giàu mạnh để giữ nước.

Thiết tưởng cũng cần khẳng định rõ một lần nữa: Dẫu sao, thực thể chế độ chính trị Quốc gia Việt Nam – Việt Nam cộng hoà cũng đã tiêu vong, thuộc về quá khứ một đi không trở lại. Sự lãnh đạo trên Đất nước ta thuộc về chế độ hiện hành. Chúng ta mong chế độ hiện hành đổi mới nhiều hơn, tiến đến độc lập thật sự (không còn mang nhãn hiệu ngoại cường Nga Xô vốn đã sụp đổ).

T.X.A.

23 & 24-8-2017 HB17

(*) Tại Miền Nam (1954-1975), sách giáo khoa, tên đường phố, nội dung thông tin ở báo chí, các loại xuất bản phẩm khác, ở đài phát thanh, truyền hình đều thể hiện tinh thần chống thực dân Pháp, phát xít Nhật.

Đã công bố trên Facebook:

https ://www. facebook. com/tranxuanan.writer/posts/1901615066779102

https ://www. facebook. com/tranxuanan.writer/posts/1923221841285091

https ://www. facebook. com/tranxuanan.writer/posts/1924720854468523

®©®©®©®©

®©®©®©®©

.

®©®©®©®©

Tập 17 + bài 20

SỬ TRONG RẰM THÁNG BẢY

Trần Xuân An

Rằm tháng bảy mơ Tết

sử thơm ba đoá đào

hai bông mai vàng ngát

đỏ, vàng đều công lao?

hoa, đánh năm xâm lược

Đất nước mình khốn nghèo

đuổi giặc phải dựa giặc

nay Sử – Rằm sáng treo?

vàng ngụy, vì dựa giặc

dựa giặc, đỏ tay sai

nhưng đều vượt thân phận

rủa nhau thế, cho ai?

dựa Tàu, thù nghìn thuở

dựa Pháp, thù trăm năm

Chiến tranh Lạnh, Nga – Mỹ

thời đỏ – vàng Việt Nam!

ba mươi năm vàng – đỏ

ba đào và hai mai

đôi bên đều sáng tỏ

sử vạn mùa tương lai

hai Khối thành nội chiến

nỗi đau đến muôn đời

Rằm đầu thu cũng Tết

hứa đào, mai đều tươi?

đào thắng thì đã thắng

mai thua đã thua rồi

nhưng mấy triệu người chết?

ơi hoa – biểu tượng thôi

ước chi bớt giấy mã

để in năm đoá bông

(nội chiến – năm giặc ngoại)

thắng, bại đều chiến công

ba đoá thắng, đào đỏ

hai bông thua, mai vàng

nhưng đều chống xâm lược

năm hoa in Rằm trăng

giặc hết nhưng xiềng xích

vẫn còn trong não ta

tôn sùng lãnh tụ ngoại

Sử trong Rằm mưa sa?

bao giờ mới có sử

rõ năm giặc ngoại cường

Pháp, Nga, Nhật, Tàu, Mỹ?

đành mừng Sử – Rằm sương.

T.X.A.

trước 20:21, 19-8-2017 (HB17)

.

®©®©®©®©

https://txawriter.files.wordpress.com/2017/08/3-doa-dao-2-bong-mai.jpg

.

_______________________

Google Sites / host

WORDPRESS, GOOGLE PAGE CREATOR, DOTSTER, MSN. & YAHOO ... / HOST, SEARCH & CACHE