Trần Xuân An - BÚA LIỀM SAO LIÊN XÔ Ở BẾN HẢI (tập thơ, đầu sách 49/50)

ĐẦU SÁCH THỨ NĂM MƯƠI (49/50)

BÚA LIỀM SAO LIÊN XÔ Ở BẾN HẢI

đủ cho mắt người lính cũ nhìn xưa

(quốc kì, đảng kì, trực quan sinh động)

Thơ hoà giải dân tộc — Đầu sách thứ 49/50

MỤC LỤC TẬP THƠ (56 BÀI THƠ):

Link (bấm vào đây)

Sách PDF

Văn mới viết từ tháng 04-2021

Link

Link

11-04-2021

Bài mới viết thêm, đã bổ sung vào tập thơ này,

kể cả ở tệp PDF (sách PDF):

Bài 57

"DÃI THÂY TRĂM HỌ" *

Trần Xuân An

vua chết bệnh, tướng chết già, dù kính

sao quý bằng cái chết hàng triệu lính!

Vàng và Đỏ, một trăm ba mốt năm *

chỉ nhân dân đổ máu chống ngoại xâm

cả nước Vàng đoạn đầu, đoạn cuối Đỏ

chống hai Khối, nội chiến đoạn giữa đó *

dù súng đạn, cố vấn của ngoại cường

vì nước mình, nhân dân đổ máu xương

bốn nghìn năm, có thời đoạn lạ lùng

cầm súng giặc thắng ngũ cường tàn hung

đến quốc kì cũng đỏ quốc kì ngoại

nên kính lính như dân thôi, mãi mãi!

khi nói đến chống Pháp, công máu dân

khi nói đến chống Nhật, công máu dân

chống Trung Quốc, công máu dân, nói tới

chống Liên Xô, chống Mỹ, dân máu xối…

khi đánh giá danh nhân, sử công bằng

ghi cố vấn, đạn mìn, cờ ngoại bang

và Tự Đức, Bác Hồ, Võ Nguyên Giáp…

cả Lê Duẩn đều chết già, ấm áp…

khi đánh giá nhân vật ở Miền Nam

không thể ngoài chương sử Ba-mươi-năm

họ chống cộng xâm lăng, rồi chiến bại *

lưu vong (sướng?), chết già (ai khảng khái?)…

tôi kính thương bao lính Đỏ, lính Vàng

tuy nội chiến nhưng chống mọi xâm lăng

ghét, phải dựa bên này, chống bên khác

Chiến tranh Lạnh, đói, mả hoang, thương tật…

câu thơ cổ, “dãi thây trăm họ” buồn

thương lính Đỏ, lính Vàng, cầu Hiền Lương

phẳng lặng tâm, thơ sử khách quan lạnh

hẳn mắt ai quen một chiều, cau ánh

nội chiến trong Chiến tranh Lạnh, máu trào

triệu lính Vàng, triệu lính Đỏ — đồng bào

nên Bến Hải nhớ sông Gianh Trịnh – Nguyễn

thơ phản chiến thì rụng rời cung kiếm…

mắt dân lính cách xa Chiến tranh Lạnh

Điện Biên Phủ, đủ để nhìn toàn cảnh

sông Bến Hải, hai bờ chống ngoại xâm

cả nhân loại chống cộng, chống thực dân…

như dân thường, triệu lính Vàng, lính Đỏ

sống có tên, chết vùi, còn gia phổ

bàn cờ tướng, tướng không ra khỏi thành

cờ không tên, lẽ nào sử vô danh!

tốt gọi tốt? Vô danh, tướng gọi tướng!

bởi Chiến tranh Đỏ – Vàng là nghiệp chướng?

bia, quốc sử, đỏ Tổ quốc ghi công

vàng Tổ quốc ghi ơn, tên đủ dòng.

T.X.A.

10:11-11:20, 26-08-2021

……………..

(*) ~ Thơ Tào Tùng (830-?, thời Vãn Đường, Trung Hoa): “Bằng quân mạc thoại phong hầu sự / Nhất tướng công thành vạn cốt khô”. T.X.A. tạm dịch thơ: “xin anh đừng luận phong hầu / nên công một tướng, vạn đầu sọ khô”. Nguyễn Du (1765-1820) đã tập cổ câu cuối, đưa vào “Văn Chiêu hồn”: “Dãi thây trăm họ, nên công một người”. ~ Thời cận – hiện đại, chiến tranh chống ngoại xâm, giai đoạn đầu: 1858-1896; giai đoạn giữa: 1945-1975; giai đoạn cuối: 1975-1989.

https://www.facebook.com/tranxuanan.writer/posts/2967539996853265/

.

Bài 1

NHÌN NGẮM KĨ LINGA – YONI,

VỚI TINH THẦN KHOA HỌC

Trần Xuân An

nhịp điệu tạo nên sự sống

linga yoni linga yoni thánh thiêng vô cùng

tôi thấy cái nhìn từ bên trong tử cung

và thấy tư thế nam nữ làm nên dấu cộng

nguyên âm nguyên dương trập trập trùng trùng

lung linh lật ra, quanh chân linga, linh lung

yoni in dấu như triện đóng

trong tháp cổ bập bùng

đứng trước linga yoni, tôi là người Kinh, kính trọng

bằng cái nhìn noãn gặp tinh trùng

phải chăng tôn thờ tượng thụ tinh, truyền giống

phồn thực, nghiêm cẩn, thuỷ chung.

T.X.A.

trưa 06-04-2021

(nhân cuộc tranh luận giữa nhà thơ Thạch Quỳ, giáo sư La Khắc Hoà và nhà thơ Trần Mạnh Hảo về việc dịch một bài thơ có từ Pi-giơ-du / пизду của Puskin).

———-

Lời bàn của T.X.A. ở FB Quỳ Thạch:

Cái LINGA (dương vật, cái nõn) và cái YONI (âm hộ, cái nường), linh vật tôn giáo của người ẤN ĐỘ, người CHĂMPA, xin xem kĩ, rằng cặp nõn nường ấy đã được vẽ, điêu khắc không phải từ bên ngoài nhìn vào, mà NHÌN TỪ TRONG TỬ CUNG, thấy dương vật trong âm đạo. Nói cách khác là CHỈ THẤY PHÍA TRONG ÂM HỘ, như hình giáo khoa trường y (y khoa, y học).

Lí giải cách khác, cặp sinh thực khí đó đã được cách điệu.

Thế là nhã hoá cái thật, rất thật, thật đến tục.

Còn bức tranh L’ORIGINE DU MONDE của Jean Désiré Gustave Courbet (1819-1877) thì thể hiện CÁI NHÌN TỪ BÊN NGOÀI NHÌN VÀO.

.https://www.facebook.com/tranxuanan.writer/posts/2867149823558950/

Ảnh: Tượng nguyên khối Linga - Yoni thế kỉ IX ở Mỹ Sơn, VietnamNet. vn, Google search.

.

Bốn ngày sau, Tổng nha Cảnh sát chính quyền Sài Gòn mời Hòa thượng đến thẩm vấn suốt từ 8h sáng đến 5h chiều. Trước lý lẽ sắc bén của Hòa thượng và áp lực của hàng nghìn người dân, Phật tử yêu nước kéo đến đấu tranh, chính quyền Sài Gòn đã phải trả tự do cho Hòa thượng. Ông tiếp tục hoạt động phụng sự đạo pháp và dân tộc, có nhiều đóng góp cho phong trào đấu tranh cách mạng, sự nghiệp xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân và tôn tạo chùa Khánh Hưng ngày thêm khang trang, tú lệ. Sau ngày thống nhất đất nước năm 1975, Hòa thượng đảm nhiệm nhiều chức vụ quan trọng trong Giáo hội Phật giáo và Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Chiếc bàn thờ tại Lễ truy điệu Bác Hồ do Hòa thượng chủ lễ nay được trưng bày tại Bảo tàng Hồ Chí Minh trong khu Bến Nhà Rồng.

Sau cơn suy tim đột ngột, Hòa thượng đã xả báo an tường, thu thần thị tịch lúc 2h30 ngày 1-3-1994 tại trụ xứ chùa Khánh Hưng, trụ thế 81 năm, hạ lạp trải qua 59 mùa an cư kiết hạ. Hơn 50 năm hóa đạo, Hòa thượng Thích Pháp Lan đã cống hiến trọn vẹn tâm huyết, tài đức cho đạo pháp – dân tộc và lịch sử đấu tranh, phát triển nền hòa bình, độc lập, thống nhất chung cả đời và đạo.

Không nhiều người có may mắn được biết nguyên văn bài điếu do Hòa thượng đọc tại Lễ truy điệu ngày 9-9-1969, do sau khi đọc xong Hòa thượng đã châm lửa hóa ngay văn bản này. Tại cuộc gặp mặt cựu chiến binh Ban Liên hợp quân sự – Trại Davis đầu tháng 8 này, tôi được Đại tá nhà văn Nguyễn Trần Thiết cho biết, bài điếu được Hòa thượng chép làm ba bản, hai bản khác chôn ở hai nơi bí mật nên còn giữ được. Đại tá Nguyễn Trần Thiết đã tặng tôi một bản chép lại. Tôi đã cố gắng sắp xếp, trình bày ý theo thể loại văn tế, xin được đọc như sau:

Nam mô Bổn sư Thích Ca Màu Ni Phật

Hôm nay đứng trước linh bàn, hòa vọng với khói hương nghi ngút, trước Anh linh Người vô vàn kính mến, trọn đời đã vì nước mà quên mình, vì Tổ quốc và nhân dân, Bác không sợ nguy hiểm tới tính mạng.

Nhớ linh xưa!

Bác là đấng Anh hùng vĩ nhân ái quốc đã đem từng giọt máu trừ khử loài sâu mọt, mong sao được rạng vẻ sơn hà.

Vì lẽ ấy cho nên

Bác quyết ra tay diệt giặc, phấn đấu kiên cường, đánh đuổi quân thù, oai danh lừng lẫy, trải biết bao gian lao cực khổ, lướt gió xông sương, bươn nguồn vượt suối, quyết gìn giữ giang sơn Tổ quốc

Bác là bậc hào kiệt vô song, trọng nghĩa vụ nặng hơn núi cả, tài bặt thiệp khắp toàn cầu Âu – Á, trí thông minh nổi tiếng cả Đông – Tây

Tuôn máu đỏ nhuộm cờ hồng, dựng khắp non sông đất Việt

Lấy da vàng nêu sao sáng, phất rạng bờ cõi trời Nam.

Nhớ đến Bác càng thương càng khóc.

Thấy bọn giặc thêm hận thêm thù.

Khóc là khóc đấng thiên tài lỗi lạc, đuổi xâm lăng đòi độc lập – tự do, trọn đời mải lo âu cho dân tộc.

Quê hương còn đó, nước non còn đó, uất hận thay vật đổi sao dời.

Nghĩ mấy đoạn lệ tràn chan chứa.

Nhớ công ơn cảm động can tràng.

Ôi!

Lồng lộng trời cao mây phấp phới.

Thinh thinh bể rộng sóng vơi đầy.

Nước non còn hào kiệt vẫn còn.

Anh hùng tử khí anh hùng há tử.

Lư trầm đảnh khói hương ngào ngạt, kính cẩn lòng ngưỡng đạt trước Chân linh.

Giúp sơn hà mau được thái bình, phò Tổ quốc chóng nên độc lập

Cẩn cáo đài tiền.

Cung dung khấu thủ.

Sau ngày Bác mất, kẻ thù tưởng rằng ý chí đấu tranh của nhân dân sẽ suy sụp, cách mạng sẽ đi vào thoái trào, nhưng với lòng kính yêu vô hạn lãnh tụ Hồ Chí Minh, nhân dân cả nước đã biến đau thương thành hành động cách mạng, tiếp tục xốc tới giành thắng lợi trên mọi mặt trận đấu tranh quân sự, chính trị, ngoại giao. Đại thắng mùa Xuân 1975 kết thúc với thắng lợi của chiến dịch mang tên Bác, miền Nam hoàn toàn giải phóng, đất nước hoàn toàn thống nhất, cả dân tộc bước vào kỷ nguyên mới, thực hiện Di chúc của Người: Xây dựng đất nước ta đàng hoàng hơn, to đẹp hơn.

Nguyễn Năng Lực

Theo Hà Nội mới

Thanh Huyền (st)

Xem thêm:

Tư liệu: báo SGGP

Truy điệu Bác Hồ giữa Sài Gòn

Thứ Hai, 1/9/2014 23:34

https://sggp.org.vn/truy-dieu-bac-ho-giua-sai-gon-263834.html

.

Bài 26

HỌC TẬP PHẢI BÌNH LUẬN

Trần Xuân An

viết văn chương đụng vào triết và sử

thời thế buộc hiểu chiến tranh thời mình

học danh nhân nhưng nếu không phê phán

chẳng lẽ yêu cả xấu lệch thất kinh?

sử chính trị lắm tàn nhẫn, mưu chước

sử văn chương, nhiều rượu, tình, danh, hèn

cái đẹp và cái hùng: sen, củ ấu

hương thơm và chất thép cũng đất đen

sử chính trị có lời bình chép sử

sử văn chương có lời bình soạn văn

triết tôn giáo có khế cơ bình luận

tụng ca tất, học hại nước, vô luân

cây lá ngón dĩ nhiên toàn chất độc

vỏ gương sen, vỏ củ sen, cần chê

vỏ củ ấu là thép, để tâm trắng

văn, sử, triết, bình luận, đừng si mê

đâu cứu cánh và đâu là phương tiện? *

chính trị kia! Văn chỉ một: ngôn từ

văn, triết, sử đều là đời, thấu hiểu

biết mặt tốt, mặt xấu, tâm khỏi mù

nhận viện trợ, buộc anh hùng dân tộc

cam “hành vi phương tiện” ác, sai lầm *

loá tuyên truyền, noi gương cả hạn chế

còn phụ thuộc, quan tàn bạo vô tâm!

Ngô Sĩ Liên, lời bình xưa sử cổ

những nhà Nho bình luân lí Truyện Kiều

trong cái cũ, lõi đạo đức khó cũ

triết, sử, văn, học biết trách, biết yêu.

T.X.A.

08:12-09:45, 14-06-2021

…………………..

(*) ~ Cứu cánh có nghĩa là mục đích cuối cùng. Một tiến trình có nhiều đích đến nhưng cái đích cuối cùng của các đích mới gọi là cứu cánh. “Cứu cánh biện minh cho phương tiện”, có thể hiểu bằng ví dụ cụ thể: Nịnh để xin viện trợ là nhục; tiến hành chiến tranh mà hi sinh mạng dân, tiêu diệt đảng phái yêu nước khác là ác; trí trá, tàn nhẫn trong cải cách ruộng đất là bất nghĩa, phi nhân; chịu phụ thuộc dưới quốc kì ngoại cường là bán nước, phi truyền thống (phương tiện). Nhưng mục đích cuối cùng là để cứu nước, cứu dân, giành độc lập, tự do, dân chủ, có quốc kì khác, riêng của nước — quốc kì hiện nay chỉ là logos chính thể (cứu cánh). Vậy thì cứu cánh ấy có thể biện minh cho phương tiện. Tránh phương tiện chịu nhục, ác đức, bất nghĩa, tổn hại quốc thể được thì tốt hơn. Phải hiểu các “hành vi phương tiện” vừa nói là bất đắc dĩ. Nhưng cứu cánh phải ích nước, lợi dân, nhân văn, nhân đạo, chứ không phải vinh thân phì gia… ~ Staline, Mao buộc Bác Hồ phải khẳng định lập trường giai cấp, nên mới có vụ việc Cát Hanh Long Nguyễn Thị Năm, Trịnh Văn Bô và sai lầm để phải sửa sai các đợt cải cách ruộng đất, tiêu diệt đảng viên Quốc dân đảng còn lại…

Ghi chú thêm:

Sau 30-04-1975, có người học tập Phan Bội Châu, Bác Hồ vượt biên “ra nước ngoài tìm đường cứu nước”, chịu đứng trong các tổ chức tôn giáo, chính trị của ngoại quốc như Nguyễn Ái Quốc đứng trong Tổ chức Quốc tế đệ tam của Liên Xô thuở trước, chấp nhận sự điều khiển của Tổ chức ấy… Thật ra, trong thời thế của Bác Hồ như thế cũng đã là bất đắc dĩ, vì đó là con đường phi truyền thống, thậm chí đã bị lên án như Lê Chiêu Thống, Nguyễn Ánh (và cả Ngô Đình Diệm nữa, cũng bị lên án kịch liệt). Nhưng cũng nên nhớ, Lê Chiêu Thống là vua, Nguyễn Ánh là chúa, chứ Nguyễn Ái Quốc không có cương vị như vậy, mà chỉ là thường dân, chịu đóng một vai trò nhỏ bé ở nước ngoài…

Tuy vậy, vĩ nhân Hồ Chí Minh đã thành công.

Dẫu sao, cũng cần phân tích rõ. Đó là con đường bất đắc dĩ, phi truyền thống, dẫn đến nội chiến, đất nước thành Điểm nóng trong Chiến tranh Lạnh, và còn hệ luỵ đến sau này.

https://www.facebook.com/tranxuanan.writer/posts/2915653235375275/

Ảnh: Cầu Hiền Lương, sông Bến Hải trước 1967 — của Tạp chí LIFE:

.

Bài 2

TỰ DO, ĐỘC LẬP

Trần Xuân An

đầu đội trời, mây bay,

chân đạp đất, bụi lầy

nhà giáo, nhà sử, nhà văn chương,

bút cày,

giữa đời thanh cao xen ô trọc

không để kẻ nào ngồi trên tóc

không đạp ai dưới chân,

thương giun kiến cõi này!

huyết thống thuần Kinh,

Tổ quốc Việt tôi đây

phận người, công dân,

không là mây bay, bụi lầy

viết hoà giải theo Hiệp định Paris,

hoà hợp, tôi vẫn hội viên

Hội Nhà văn Thành phố Bác

phận người thì không thể bụi lầy, mây bay.

T.X.A.

09:23-09:45, 13-04-2021

https://www.facebook.com/tranxuanan.writer/posts/287215396305856/

.

Bài 3

ĐẤT CỌNG QUE *,

HỒI CƯ 12-1973, 05-1975…

Trần Xuân An

đất cọng que, thời chiến tranh, Quảng Trị

thương ruột thịt, xôi đậu cả tâm tình

chạy rồi chạy… Hồi cư luôn, là phước

dù bo bo, khoai sắn độn hoà bình

“nguỵ” và “phiến”, cọng và que, một thuở

Quảng Trị ơi, đâu chỉ Quảng Trị mình

cả đất nước không đâu không xôi đậu

nỗi cọng que, xôi đậu, tận tâm linh

hãnh tiến chi, “nguỵ” xưa như “phiến” cũ

đất đồng bào, cọng cũ như que xưa

nếp nhân dân, đậu vàng như đậu đỏ

thuận hoà mưa mùa nắng, nắng mùa mưa.

T.X.A.

20-04-2021 (09-03 âl.)

…………..

(*) Từ ngữ có tính lịch sử, xuất hiện phổ biến từ trước 1975: Đất Que Cọng hay Đất Cọng Que: Các nơi chốn Quốc gia và Cộng sản xen kẽ nhau. Xôi đậu cũng có nghĩa như vậy. Theo từ điển Hán – Việt (online, “Hán -Việt tự điển” của Thiều Chửu, Nxb. TP.HCM., 1999): “Phiến” (xúi giục, giúp kẻ ác): phiến quân, phiến cộng; “nguỵ” (giả dối, bù nhìn, giặc): nguỵ quân, nguỵ quyền.

Bổ chú:

Ở Miền Bắc có cụm từ “tác phẩm trong ngăn kéo tủ”. Thì ra, tâm hồn, tư tưởng nhà văn chương cũng có nhiều ngăn: đỏ, vàng, xanh, lam, tím… Các ngăn đó được xếp hàng ngang theo thời điểm, thời đoạn và được xếp hàng dọc theo năm tháng tuổi đời, theo tiến trình nhận thức, theo chuyển biến chính trị, xã hội, khiến họ thấy rõ thực tiễn. Tâm hồn, tư tưởng họ cũng xôi đậu, cọng que. Chế Lan Viên là rõ nhất… Cũng không ai ngờ Nguyễn Khải lại có những tác phẩm cuối đời như vậy… Còn nhạc sĩ Nguyễn Văn Tý, ngay từ trước hoặc sau năm 1980 chút ít, ông ấy đã nói thật là “có nhiều ngăn kéo” như thế, mà hồi đó, tôi đã nghe nói!… 30 năm qua, sau Cởi trói, tất cả các vị hẳn đã công bố hết!

https://www.facebook.com/tranxuanan.writer/posts/2877235932550339/

Ảnh sông Thạch Hãn (2018):

Bài 4

THƠ THÁNG TƯ 2021

Trần Xuân An

~ bại, tù, qua Mỹ, u sầu

thắng, nhưng Nga ngự trên đầu ông cha!

ngẫm bốn nghìn năm, xót xa

lính còn cội rễ, thương ta thương mình!

(T.X.A.) ~

lệ thuộc ngoại xâm,

để chống ngoại xâm,

thành nội chiến |

thành điểm nóng Chiến tranh Lạnh,

thật ra hai bên chỉ Mỹ với Nga: |

ý hệ và súng đạn |

bại, mãn tù, bứt gốc, qua Mỹ,

thắng, nhưng Nga trên đầu ông cha! |

không Minh Mạng,

hẳn Gia Long nghìn đời tủi nhục |

mừng thống nhất, hoà bình,

khóc đau mà lại ha ha |

hãy tin đi,

hai trận sóng thần từ Châu Âu ấy |

chỉ còn bình sọ với chín đoá hoa |

bình sọ bảy đoá trong tôi,

thời còn đi dạy học |

ai đó bảo, Bác Hồ là Gia Long,

Lê Duẩn là Minh Mạng,

nhưng không… |

chỉ một nửa Minh Mạng:

đánh đuổi mao-isme |

hiểu “nguỵ” và “phiến”,

sông Hiền Lương chỉ một màu trong |

thương thay Lý Trần Quán, Phạm Thái |

và cả Cao Bá Quát phù Lê đã tiêu vong |

tháng tư, tháng tư, dân tộc ta là một,

mọi người là Minh Mạng |

gội rửa bùn

sóng thần Nga đỏ,

còn dơ tóc, còn đọng triệu lòng |

tôi chỉ là hạt cát trắng |

chưa từng cầm súng bao giờ |

hiểu rằng tuy lệ thuộc, trong thế cờ,

Bác Hồ, Lê Duẩn mãi hoài đáng kính |

thương hai vị như dân tộc mình,

vết ngoại cường, còn cặn, còn dơ |

tôi thương

bao người Quốc gia, Cộng hoà cũ |

nghe, đọc quá nhiều, nội chiến nội tâm |

trầm uất, thoát li đời, đau nhược tiểu |

hào hùng, về say đổ quán, lệ thầm |

tự vệ gì nổi, hỡi các bác, các anh,

trước nửa đồng bào Miền Trại lính! |

chuyên chính với từng câu văn, giọng ngâm |

Quốc gia, Cộng hoà đành thua Cộng sản |

dù cũng như nhau

— đều lệ thuộc ngoại xâm —

chống hai phía ngoại xâm! |

tháng tư, tôi lại làm thơ hoà giải |

sau bảy năm dài,

để trong nước mình,

hoà hợp với nhau |

kính tặng bức tranh bình xương sọ |

chín đoá đỏ vàng lam,

viết sách cho hôm nay,

nghìn sau |

Quốc gia, Cộng hoà,

bao người lính cũ |

không dắt dìu cháu con,

lìa Tổ quốc, lưu vong |

mừng mãi còn nơi cội rễ,

còn Nắng vàng tiểu sử |

dựa ngoại xâm, để chống ngoại xâm,

khác chi lính Cộng sản Mưa hồng. |

T.X.A.

06:36-08:01, 26-04-2021

……………

(*) Lý Trần Quán, Phạm Thái trung với vua Lê, chúa Trịnh, thời Quang Trung bình Bắc; Cao Bá Quát, thời vua Tự Đức triều Nguyễn.

https://www.facebook.com/tranxuanan.writer/posts/2881487202125212/

Bài 27

GIẢN DỊ NHẤT LỊCH SỬ

Trần Xuân An

giàu viện trợ ngoại cường Chiến tranh Lạnh

sống giản dị, sau Bác chẳng còn ai

Bác thắng Pháp, thắng vua, bằng sờn áo

bằng đôi dép cao su chỉ thay quai!

T.X.A.

08:34-09:40, 16-06-2021

https://www.facebook.com/tranxuanan.writer/posts/2916999901907275/

.

Bài 28

PHÊ BÌNH BÁC HỒ

Trần Xuân An

có một kẻ cả gan phê bình Bác

ai? Nhà thơ Trần Xuân An, Bác à

thế là tốt! Hắn khen Bác cũng khá

chê, khen Bác, chỉ vì nhân dân ta. *

T.X.A.

10:12, 16-06-2021

...............

(*) Tưởng tượng một mẩu đối thoại.

https://www.facebook.com/tranxuanan.writer/posts/2917039678569964/

Bài 29

TỰ TÔN SÙNG NHẤT LỊCH SỬ CHĂNG?

Trần Xuân An

triệu bài ca, tranh ảnh ca ngợi Bác

Bác tự thuật, tự treo ảnh hội trường

mức dân trí quen tôn sùng, đành vậy

đại thắng rồi, giải thánh để dân thương

kính thưa Bác, thần thánh hoá chính Bác

để lời Bác thành mầu nhiệm hơn chăng?

nói thật ra, là thủ thuật chính trị

đừng đổ thừa dân trí, khinh nhân dân!

Nguyễn Trãi xưa, Nguyễn Huệ xưa cũng thế

lá chấm mỡ, mâm đồng giả mặt trời *

biết tuyên truyền dựa lòng tin thiên mệnh

để đuổi giặc, cứu cánh vì dân thôi

nhưng nhìn ra, thế giới nay đã khác

tệ sùng bái chính trị, lạc hậu xa

lợi dụng Bác, tỏ lòng trung kiểu cũ

giải phóng đầu, ách nặng hói, tróc da!

mỗi danh nhân dân tộc có điểm sáng

không một ai sáng cả mọi điểm đâu

Bác Hồ ta đẹp nếp sống giản dị

sùng lãnh tụ, Khrushchyov xoá đã lâu!

tôn sùng Bác thành biểu tượng Tổ quốc

vì đến nay, nước chưa có quốc kì

vua là Nước, triều đại xưa là Nước

nay kính Bác, trung hiếu mới không si

ảnh tượng Bác trở thành cờ Tổ quốc

vì quốc kì Liên Xô khắp nước ta! *

viết về Bác như biểu tượng chính thể

trung với nước, hiếu với dân, mẹ cha

phê bình Bác, bao người tự phê phán

nội chiến trong Chiến tranh Lạnh, rõ rồi

“nước đã mất, kháng chiến để bán nước”

— vua lính Vàng chống Đỏ thế, Bác ơi!

T.X.A.

08:34-09:44, 17-06-2021

………………

(*) ~ Để thu phục lòng dân vốn tin vào thiên mệnh, Nguyễn Trãi lấy mỡ heo chấm vào lá thành câu: “Lê Lợi vi vương, Nguyễn Trãi vi thần”, chờ kiến ăn hết mỡ, hiển thị câu chữ ấy, thả vào dòng suối, và dân vớt lên đọc. Ba anh em Tây Sơn cũng lấy mâm đồng, đốt lửa giả làm mặt trời đêm, báo tin cho dân về sứ mệnh Trời giao phó cho họ — (Thời đại cách mạng mới thì Trời được thay bằng yêu cầu lịch sử). Dân ta rất tin tưởng, hết lòng, hết sức tôn phò. Cứu cánh cứu nước, cứu dân là sự thật lịch sử. ~ Một biến thể quốc kì Liên Xô thành quân kì của hồng quân Liên Xô, và cũng là cờ Chiến thắng Phát-xít của Liên Xô. Đó cũng là cờ Đảng và quốc kì Việt Nam.

.

Bài 5

LỤC BÁT THÁNG TƯ 2021

Trần Xuân An

đánh ngoại xâm nào cũng công

hiểu nhau một chút cho lòng vơi đi

xưa vàng hát thảm làm chi!

bắn trong nội chiến có gì thảm hơn!

cờ quạt ngoại xâm đỏ còn

người mừng đại thắng tự non chất người

thì thôi, vui, buồn cùng vơi

đỏ vàng lam, bình sọ ngời chín bông.

T.X.A.

29-04-2021

https://www.facebook.com/tranxuanan.writer/posts/2883927471881185/

Bài 6

THÔI NGHIÊNG LỆCH MỪNG

30-04 (2021)

Trần Xuân An

đỏ – vàng, hai Khối, một sông

Hiền Lương gánh máu, nước trong lại rồi

ai mừng nửa Bắc, còn tôi

mừng cả Nam, chín đoá tươi hai bờ

sự thật chín đoá vào thơ

ngọc bình sọ. Sử bao giờ sáng ra?

nửa sông sự thật mù sa

vàng lam bốn đoá vẫn là hiển nhiên

sông hai bờ, không một riêng

Chiến tranh Lạnh dứt, thôi nghiêng lệch mừng.

T.X.A.

06:02-08:25, 30-04-2021

………………

(*) Chiến tranh Lạnh (Chiến tranh Ý thức hệ): 1945-1975-1991.

https://www.facebook.com/tranxuanan.writer/posts/2884401631833769/

.

.

.

Bài 7

LÁ CỜ HỪNG ĐÔNG TRÊN BIỂN

Trần Xuân An

có một hừng đông đỏ trong tôi |

với ngôi sao Mai trên đường chân trời |

loé sáng trên mặt biển mênh mông biếc |

nhìn vào cảnh thiên nhiên, tôi nào biết |

cờ Giải phóng Miền Nam, đảo ngược cõi đời *|

mãi đến bảy năm sau, tôi mới hiểu ra sự thể |

(trước Chiến tranh Lạnh vỡ tan trận thế) |

vâng, có bảy năm hừng đông tôi sáng trong |

dù trời xanh không còn trên màu cờ đất đỏ |

đội đất máu, từ thắp sao Mai đến sao Hôm tỏ |

thật ra, chúng ta bị biểu tượng đánh lừa |

ẩn dụ lấp láy, thì ngữ cảnh định nét thiếu thừa |

thật ra, búa liềm công nông, sao chủ nghĩa |

trên màu chiến đấu – sóng thần Nga một phía |

tôi đến giờ vẫn rạng đông Biển Đông, sao Mai ngời |

cờ Giải phóng thôi ngược, mà xuôi |

toàn vẹn Đất và Nước muôn đời |

thật ra, không cờ quạt nào cả |

khắc hai chữ Việt Nam trên sóng, đảo và đá |

Đất ruộng rừng, Nước biển sông, Tổ quốc cả bầu Trời |

sự thật lá cờ thuở học trò, tuy còn nhớ |

nhưng bão lịch sử cuốn bay, sao vàng giác ngộ đỏ: |

Tổ quốc chỉ là giai cấp, chủ nghĩa, tái tạo loài người |

muôn triệu tháng năm máu xương lót đường,

ngỡ tất yếu thôi! |

“Bài ca Tháng Mười”: ngôi sao Tháng Tám **|

định nghĩa lá cờ, sách cũ càng, khắc chạm |

Ba mươi tháng Tư này, lật lại trang kí ức xưa |

kính tặng phe thua rằng, từ Xô-viết Nghệ Tĩnh,

Bến Hải đã vết cưa. |

T.X.A.

08:40-10:25, 30-04-2021

……………

(*) Tố Hữu, “Nước non ngàn dặm” (1973):

”… Lá cờ nửa đỏ, nửa xanh

Màu đỏ của đất, màu xanh của trời

Ngôi sao – chân lí của đời

Việt Nam – vàng của lòng người hôm nay…”.

Lưu ý: Cờ Mặt trận đảo ngược, màu xanh trời ở dưới, màu đỏ đất ở trên! Và NGÔI SAO là CHÂN LÍ CỦA ĐỜI, tức là chủ nghĩa Marx-Lenin.

Về cờ Tổ quốc:

Búa liềm vàng khối (công nông), ngôi sao năm cánh viền vàng (chủ nghĩa) trên nền cờ đỏ (màu chiến đấu) là cờ Liên Xô. Cờ Tổ quốc và cờ Đảng ở nước ta cũng thế (ngôi sao năm cánh viền vàng hay vàng khối cũng là chủ nghĩa Mác-Lê, chân lí). Cờ Tổ quốc chính là cờ chủ nghĩa. Tôi nói: CỜ TỔ QUỐC CHÍNH LÀ CỜ CHỦ NGHĨA (HỌC THUYẾT) – BIỂU TRƯNG LÀ NGÔI SAO (CHỦ NGHĨA) DẪN ĐƯỜNG. Xin nhấn mạnh.

Cứ liệu khác:

Không phải dân tộc, đất nước, mà “chủ nghĩa xã hội […] là Tổ quốc” (Từ điển triết học”, bản tiếng Việt, Nxb. Tiến Bộ, Mát-x-cơ-va, 1975, liên kết với Nxb. Sự Thật, Hà Nội, 1986, tr. 712-713.).

Chủ nghĩa xã hội là toàn thể hệ thống xã hội chủ nghĩa macxit-leninit trên thế giới, trong đó có Tổ quốc cụ thể, chứ không chỉ là Tổ quốc cụ thể.

Theo đó, 1) Chủ nghĩa xã hội là học thuyết xã hội chủ nghĩa khoa học macxit-leninit; 2) Chủ nghĩa xã hội là hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa trên thế giới, đứng đầu là Liên Xô. Ngoài ra, có một nghĩa nữa: 3) Chủ nghĩa xã hội là hiện thực xã hội, mức độ phát triển xã hội xã hội chủ nghĩa (ví dụ “tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên CNXH.”).

Do đó, cuộc chiến tranh giành độc lập dân tộc rất dài lâu, vì bị lệ thuộc vào Liên Xô (và Trung Quốc, nước được uỷ nhiệm), rơi hẳn vào Chiến tranh Ý thức hệ (Chiến tranh Lạnh): Phải chiến đấu cho cả hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa (theo khái niệm Tổ quốc xã hội chủ nghĩa), đụng đầu với Khối phi-đỏ do Mỹ đứng đầu. Nếu vì độc lập, thì đến nay chưa có quốc kì độc lập dân tộc – quốc gia. Nếu vì lí tưởng cộng sản chủ nghĩa, thì hãy còn chiến đấu đến nghìn năm…

(**) Thơ Tố Hữu, “Bài ca Tháng Mười” (1950): “Đây Việt Nam Tháng Tám | Em Liên Xô Tháng Mười!”.

Góp ý có tính chất xây dựng:

VÈ VẼ ĐỒNG DAO 30-04

Trần Xuân An

Đánh, chiếm Dinh Độc Lập

Lại treo cờ Liên Xô

Tạm nghĩ là hình thức

Bản chất đâu phải nô

Cờ Mặt trận, cờ ngược

Tố Hữu viết, chưa mờ

Búa liềm, viền sao đỏ

Cũng một chân-lí-mơ:

Sao vàng, đâu khác được! *

“Bán nước” để cứu nước

Sử hồng còn vết dơ

Nguyên nhân nội chiến ấy

Vè vẽ nghĩa không mờ.

T.X.A.

28-04-2021

https://www.facebook.com/tranxuanan.writer/posts/2884474781826454/

Bài 8

NÓI CHO CÔNG BẰNG,

NHÂN LỄ QUỐC TẾ LAO ĐỘNG

Trần Xuân An

không mất tấc đất, tấc đảo nào,

Việt Nam cộng hoà độc lập |

(trừ đảo Ba Bình,

chưa kịp đuổi cướp Đài Loan) |

nếu không bị Miền Bắc và Khối Đỏ tiến đánh |

không nước nào có thể lũng đoạn Miền Nam,

cho dù Mỹ, Vatican |

túi tham điền chủ, tư sản |

không dám chứa đầy máu, nước mắt, mồ hôi |

thời man rợ đã xa xưa,

Nhân quyền đã trao quyền tranh đấu |

túi tham bóc lột nhỏ lại rồi |

Miền Nam xưa

cũng như cả nước bây giờ hội nhập |

nhưng đa đảng, có nghiệp đoàn công nhân,

hiệp hội nông dân |

nhà trường dạy bảo:

kính người cầm cày, người thợ… |

nhớ Lễ Lao động xưa, viết cho công bằng |

sự thật lịch sử như Triều Tiên, Hàn Quốc |

(Mỹ đuổi Pháp như đuổi Nhật,

đau là đã muộn hơn) |

nay vẫn còn con người hai Miền

thời chia cắt |

đời sống ư? Bao tấm ảnh

Bắc Việt, Nam Việt hồi đó vẫn còn |

nếu so với chế độ, xã hội lí tưởng |

Việt Nam cộng hoà đáng lên án trăm lần |

nhưng chế độ, xã hội lí tưởng có đâu!

Chỉ là mộng mị, tan vỡ |

Lễ Lao động ơi, bút tôi ngay thẳng cán cân? |

T.X.A.

12:12-12:47, 01-05-2021

https://www.facebook.com/tranxuanan.writer/posts/2885181571755775/

.

Ảnh: Đà Nẵng 1965 – Google search

.

.

.

Xem thêm:

TÌM HIỂU VỀ TÁC GIẢ TRẦN DÂN TIÊN

Nguồn: Trang thông tin điện tử Khu Di tích Chủ tịch Hồ Chí Minh, 20 Tháng 05 Năm 2014 / 4053 lượt xem

http://ditichhochiminhphuchutich.gov.vn/tim-hieu-ve-tac-gia-tran-dan-tien-594

Nguyễn Thị Thu Hằng

(Phòng HC-TH), tác giả bài viết.

https://www.facebook.com/tranxuanan.writer/posts/2917664391840826/

Bài 30

DỰA NGOẠI CƯỜNG, ĐỘC NHẤT LỊCH SỬ?

Trần Xuân An

dựa ngoại cường, kém Bà Trưng, Lê Lợi

thua Tây Sơn, tay trắng thắng ngoại xâm

đau tiền tiêu bé nhỏ của Quốc tế

phải độc lập, để trả lời ngàn năm.

T.X.A.

08:34-09:44, 17-06-2021

https://www.facebook.com/tranxuanan.writer/posts/2917675345173064/

.

.

.

Ảnh: Một biến thể quốc kì Liên Xô thành quân kì của hồng quân Liên Xô, và cũng là cờ Chiến thắng Phát-xít của Liên Xô. Đó cũng là cờ Đảng và quốc kì Việt Nam.

.

Bài 31

TRỰC QUAN SINH ĐỘNG

Trần Xuân An

Búa liềm Sao Liên Xô, sông Bến Hải

đủ cho mắt người lính cũ nhìn xưa

vua mất nước, dựa Mỹ, tưởng còn vua

Thập giá đoạt, thì Thập giá sụp đổ

Búa liềm Sao Liên Xô, vượt Hiền Lương

hai biên giới, Đỏ ta đánh giặc Đỏ

mất Gạc Ma (im Hoàng Sa), máu xương

Liên Xô rã. Ta vẫn Liên Xô đó

Búa liềm Sao Liên Xô, trông thấy rõ

đảng kì đỏ, quốc kì đỏ nước mình

rất trực quan sinh động. Thương người lính

Đỏ hay Vàng đều yêu nước, hi sinh

viết hoà giải, lòng thầm lặng hoảng kinh

đất nước mình từ lâu bị cầm cố

tiểu quốc trong Liên Xô đế quốc Đỏ

cứu cánh ơi! Độc lập để biện minh!

giá cầm cố là quốc kì không có

ảnh lãnh tụ lại trở thành quốc kì

quét sao sạch óc cá nhân chủ nghĩa?

người lính Vàng chống Đỏ thế, nhìn đi!

xưa “cứu cánh biện minh cho phương tiện”

nay trung thực là thước đo chính quyền

chất công dân trưởng thành người đọc sử

đòi quốc kì dân tộc Việt Nam riêng

Búa liềm Sao Liên Xô, chào cờ mãi

Bác kính yêu! Lòng nhân dân quá đau

quốc kì riêng, hồn nước riêng quốc sử

đọng quốc sử nghìn xưa tiếp nghìn sau

nếu đủ hơn cho mắt nhìn di tích

nam Bến Hải, cờ Vàng một phương Trời

quẻ Kinh Dịch cổ đại, biện chứng cổ

Đất Trời Nam. Sông núi nối liền rồi *

thơ hoà giải, lí giải thời nội chiến

Chiến tranh Lạnh, hai phía đều ngoại xâm

Búa liềm Sao, chính thể. Nhưng Quốc sử

của Việt Nam là quốc kì Việt Nam

thử hình dung quốc kì bay phấp phới

hình duy nhất cuốn Quốc sử nước mình

nghiêm bốn chữ: “Quốc sử Việt Nam”, rõ

nghìn xưa sau hồn nước mãi hiển linh

nếu bảo lưu “quốc kì hình Quốc sử”

thì chào cờ chính thể của Liên Xô

Búa liềm Sao vẫn tung bay khắp nước

vẫn công dân tuân thủ tự bao giờ.

T.X.A.

20-06-2021

(viết trong đợt 2 giãn cách xã hội,

năm 2021, vì nạn dịch COVID-19)

…………..

(*) Ba vạch đỏ (quẻ Càn), tượng trưng cho Trời, màu nhiệt đới phương Nam; cũng có nghĩa ba miền cùng dòng máu đỏ. Màu vàng, hành thổ, tượng trưng cho Đất. Tổng hợp lại là Đất Trời Nam, tức là Nam quốc (nước Nam), nước Việt Nam, theo tư duy Kinh Dịch cổ đại.

QUỐC KÌ QUỐC GIA VIỆT NAM, VIỆT NAM CỘNG HOÀ THUỘC VỀ “GIAI ĐOẠN LỊCH SỬ MỘT ĐI KHÔNG TRỞ LẠI” (1948-1975):

.

Bài 9

HỌ CHỈ VÌ QUYỀN LỰC CHĂNG?

Trần Xuân An

còn độc nhà Đinh, dẹp tan mười một sứ |

chúa Trịnh đánh Mạc và Đàng Trong |

cũng như Tây Sơn nổi dậy, chỉ vì quyền lực |

cũng vì quyền lực thôi, sử có Gia Long |

nhiều lắm thì họ nghĩ thêm từ nhất thống |

dẹp đi mối âu lo nội chiến tranh hùng |

cũng do âu lo Trung Hoa chực chờ thôn tính |

chẳng chiêu bài gì, danh nghĩa vẫn sáng trưng |

Bác Hồ góp công đuổi Nhật, đánh bại Pháp |

Lê Duẩn thắng Mỹ, chặn Tàu Đỏ, diệt Đỏ Kh’Mer |

chỉ công thắng Pháp, tội rước Quốc kì Chủ nghĩa *|

còn lại là nhờ cơ may và dẹp giặc phát sinh kia |

giặc phát sinh của Tây Sơn là Xiêm, Tàu Mãn |

chiến công, có lẽ chẳng đáng ghi công? |

xương máu trùng trùng, chất ngất |

rồi sông Bến Ván như Bến Hải, đau lòng *|

do Quốc kì Chủ nghĩa nên nội chiến trong ngoại chiến |

do đánh Pháp thôi mà rước Chiến tranh Lạnh về nước mình |

đội mũ sao Chủ nghĩa, triệu người liệt sĩ *|

triệu Quốc gia, Cộng hoà chống sao Chủ nghĩa, hi sinh |

bao nhiêu người yêu nước khác chính kiến bị giết? |

bao nhiêu dân lành, chạy tan tác, chết oan? |

bao cuộc cải tạo, đổi tiền, chà đi xát lại? |

công đánh Pháp-thời-Pháp-đánh-thuê-cho-Mỹ đủ bù chăng? *|

rốt cục chẳng lẽ không có công nào cả? |

bởi cũng cầm súng Nga và súng-Tàu-được-uỷ-nhiệm, đánh thuê |

đánh thuê giương cao Quốc kì Chủ nghĩa |

đại tội cân bằng đại công, lương tâm thầm thĩ có nghe? |

những anh hùng, liệt sĩ, bà mẹ hi sinh chồng con cho Chủ nghĩa |

hương hồn thì đau, còn sống thì buồn? |

bao người cũng đồng bào phía đối phương cũng thế |

xin kính dâng thơ tự vấn và chín đoá bình sọ toả trầm hương |

viết để hiểu nhau và hiểu để nhìn nhau thương mến |

vàng thôi thù hận đỏ, đỏ thôi hận thù vàng |

bao đứa trẻ tâm tư trong sáng |

trái tim đồng bào không loạn thị sử, văn. |

T.X.A.

trưa 02-05-2021

……………….

(*) Quốc kì Chủ nghĩa (chữ “chủ” viết hoa): Quốc kì nền đỏ có ngôi sao vàng khối, biểu trưng cho chủ nghĩa Mác – Lê (gọi là “sao Chủ nghĩa”), đi đôi với cờ đỏ búa liềm vàng khối (biểu trưng cho công nông). Đó là phiên bản quốc kì Liên Xô. Xem chú thích ở bài “Lá cờ hừng đông trên biển” của tác giả. ~ Sông Bến Ván, tên được dịch ra từ Hán – Việt là Bản Tân, cực nam tỉnh Quảng Nam hiện nay (thuộc huyện Núi Thành), gần giáp tỉnh Quảng Ngãi, là ranh giới lãnh thổ giữa cương vực Nguyễn Huệ với cương vực Nguyễn Nhạc, tương tự như sông Bến Hải ở Quảng Trị. ~ Trong giai đoạn 1945-1954, quân viễn chinh Pháp tại Việt Nam được Mỹ cố vấn, cung cấp vũ khí, quân trang, quân dụng và tiền bạc đến mức 80% tổng chiến phí (tướng Navarre nhận định là “Pháp đánh thuê cho Mỹ”) để quân Pháp chống đánh Cộng sản Việt Nam (Cộng sản Việt Nam do Liên Xô và nước được uỷ nhiệm chính là Trung Quốc cố vấn, huấn luyện, cung cấp vũ khí, khí tài, quân trang, tiền bạc, có lẽ đến mức 100% chiến phí, và cả đất hậu phương ở Nam Trung Quốc). Sau 1955, Mỹ buộc quân Pháp phải rời khỏi Miền Nam Việt Nam (dĩ nhiên Pháp phải rút khỏi Miền Bắc Việt Nam theo Hiệp định Geneve 1954).

.

https://www.facebook.com/tranxuanan.writer/posts/2885885155018750/

.

Màu da màu đồng người Việt Nam + Sử xanh (hãn thanh)

The bronze skin color of Vietnamese + The bamboo tree green color – logo of Vietnam history book

Trọn bài:

https://www.facebook.com/tranxuanan.writer/posts/2919743954966203/

Link tem bưu chính Liên Xô:

https://www.facebook.com/tranxuanan.writer/posts/2919408774999721/

Tem bưu chính Liên Xô — Google search

.

.

.

Bài 10

ĐỀU TAY KHÔNG CHÂN ĐẤT,

XIN HAI VIỆT NAM MÌNH TỰ VẤN

Trần Xuân An

đỏ hay vàng |

cũng đều tay không chân đất |

thương dân tộc mình thế đó, Việt Nam |

Nga lợi dụng Tàu, Mỹ lợi dụng Pháp |

Bến Hải chia hai, hai đường chịu nhục |

xin súng đạn hai Khối, chống hai Khối xâm lăng |

chống Nhật, Pháp, Nga, Trung, Mỹ |

Kh’Mer Đỏ, và Vatican, Đỏ vô thần |

để bình sọ nở chín đoá đỏ vàng lam *|

máu xương ngập tràn chất ngất |

nhìn Trung Đài, đông tây Đức, Triều Hàn |

đôi mắt lương tâm không khoác lác |

hai Miền đều tay không chân đất |

đừng hãnh tiến, đừng uất trầm |

hai Việt Nam là một, hãy bình tâm. |

T.X.A.

trưa 04-05-2021

…………….

(*) Cộng sản Việt Nam, 05 đoá đỏ: chống Nhật, chống Pháp, chống Mỹ, chống Trung Quốc, chống Kh’Mer Đỏ. Quốc gia, Cộng hoà Việt Nam, 02 đoá vàng và 02 đoá lam: chống Liên Xô, chống Trung Cộng, chống Vatican, chống chủ nghĩa vô thần cộng sản.

Tổng cộng: 09 đoá.

https://www.facebook.com/tranxuanan.writer/posts/2887275964879669/

.

.

.

.

Bài 11

THƯƠNG HAI ANH LÍNH ĐỎ, LÍNH VÀNG

Trần Xuân An

nhìn thẳng vào sự thật

xưa anh lính Vàng cắn răng kìm nước mắt

bóp chặt nòng súng Mỹ tanh mùi thịt da

từ thời Quốc gia đến Cộng hoà

dựa vào Pháp – Pháp đánh thuê cho Mỹ

thật ra đi với Mỹ

đưa Tổ quốc hội nhập vào Thế giới Tự do

độc lập, nhân quyền, ấm no

nhìn thẳng vào sự thật

xưa anh lính Đỏ khóc thầm mà hào hùng hát

chân bấu dép lốp Tàu, đạp xích tăng Nga

dính máu xương Việt Bắc, Bến Hải tràn qua

phất cờ Liên Xô – quốc kì sao Chủ nghĩa

cùng Trung Quốc đội đầu lãnh tụ Nga – nô lệ

đưa Tổ quốc hội nhập vào Thế giới Đại đồng

độc lập đỏ, công nông

nay nhìn anh lính Vàng, anh lính Đỏ bảo:

tôi đánh Pháp, Mỹ, hận anh tôi đã báo

nay nhìn anh lính Đỏ, anh lính Vàng đáp lời:

tôi chống cộng Tàu, Nga, hận anh đã vơi

mặc loa đài, truyền hình, sách vở

ra rả nói, hát hò, viết lách dối gian, thớ lợ

hai cựu binh Đỏ, Vàng trắng tóc, bạc đầu

cùng rưng rưng nước mắt, ngó đâu đâu.

T.X.A.

08:12-10:03, 05-05-2021

https://www.facebook.com/tranxuanan.writer/posts/2887894874817778/

Ảnh: Google search – Chỉ có tính chất minh hoạ:

.

KHÔNG CÓ CỜ TỔ QUỐC (QUỐC KÌ)

(trường hợp Trung Quốc)

Grigori Naumovich Voitinsky (1893 – 1953) (H.1), người góp phần chính khai sinh Đảng Cộng sản Trung Quốc. Đảng kì, quốc kì Trung Quốc (H.2, H.3) cũng là phiên bản quốc kì Liên Xô (búa liềm, sao vàng), đảng kì Liên Xô (nền đỏ) và đảng huy Liên Xô (H.4), như trường hợp đảng kì, quốc kì nước ta!

Nói chung, thiết kế CỜ CỘNG SẢN chỉ gồm ba thành tố:

1) Ngôi sao vàng năm cánh (cũng có thể màu trắng, màu đỏ, nhưng gốc là vàng khối hoặc viền vàng);

2) Búa liềm vàng;

3) Nền đỏ.

Bài 12

GƯƠNG MẶT TÂM TƯ TÔI

Trần Xuân An

tôi soi gương, thấy bức tranh tôi vẽ

bình sọ máu, chín đoá bốn sáu năm *

tươi hai vàng, hai lam, năm đỏ thắm

Chiến tranh Lạnh nguyên Chiến tranh Việt Nam

đâu chỉ vậy, mới là mặt hoà giải

năm mươi năm đời tôi cầm bút kia!

mặt tình yêu, siêu hình, hiện thực, sử…

bốn chín cuốn, soi vào đó, tôi kìa!

ba lăm tuổi Điểm nóng Chiến tranh Lạnh *

cuộc chiến dài, hậu chiến ba mươi năm

và còn nữa. Đó là thời tôi sống

viết nhiều mặt khối thạch anh cõi phàm

tâm tư tôi đâu chỉ bình xương sọ

đỏ vàng lam chín đoá của chiến tranh

như thạch anh cõi phàm nhiều cạnh khía

bốn chín cuốn, còn soi mặt, chưa thành

nếu trăm tuổi, dưới huyệt là xương trắng

(suốt một đời không chức tước huân chương)

bốn mươi chín đầu sách, còn viết nữa

tôi nhìn vào tủ sách tôi soi gương.

T.X.A.

07:01-08:00, 06-05-2021

…………….

(*) Chiến tranh Lạnh là Chiến tranh Việt Nam 1945-1954-1975-1989/1991. Việt Nam là Điểm nóng Chiến tranh Lạnh. 1991, tôi 35 tuổi. Hậu chiến, tính từ 1991 đến nay…

https://www.facebook.com/tranxuanan.writer/posts/2888594214747844/

.

.

.

.

.

.

Ảnh thạch anh (Google search)

Bài 13

KHỐI ĐỎ

CHIẾN THẮNG ĐIỆN BIÊN PHỦ

Trần Xuân An

thắng Điện Biên, hiển nhiên là Khối Đỏ

Pháp thực dân đã thành quân đánh thuê

Khối phi Đỏ đuổi Pháp về, cũng thắng

thắng một nửa, công bằng ở Genève?

Việt bên Đỏ, nhân danh cờ Đỏ kí

chữ kí Pháp nhận đánh thuê bại rồi

Điện Biên Phủ cũng bổ hai thế giới

Việt cờ Vàng khóc Đất nước chia đôi

dựa vào Mỹ (Pháp đánh thuê thảm hại)

vua Nhà Nguyễn còn nửa nước, chạy quàng

Điện Biên Phủ đỏ hoa Chiến tranh Lạnh

chống Giáo triều, Quốc gia đảo-chính-vàng!

phát xít Đức đánh gục cả nước Pháp

Mỹ xua Nhật, biến Pháp thành đánh thuê

Điện Biên Phủ thắng Pháp, nhờ bên Đỏ

Pháp phi nghĩa, bị siết bởi bốn bề!

lá cờ Đỏ là lồng ngực tim xé *

cho Tổ quốc và cho cả Loài người

da nhuộm máu, còn một ngôi sao sáng:

Sao-Chủ-nghĩa của Khối Đỏ trên Đời

Điện Biên Phủ, đoá hoa đỏ đẹp nhất

Hồ Chí Minh, đỏ từ tuổi ba mươi

đỏ Sài Gòn, đỏ Chiến tranh Biên giới

Khối Đỏ tan, Chiến tranh Lạnh dứt rồi

nửa dân tộc, Miền Nam Vàng chiến bại

nhưng tan rồi Khối Đỏ, ba mươi năm

kinh tế vàng nơi nơi, thực tiễn thắng

Điện Biên Phủ đỏ trong sử Việt Nam.

T.X.A.

trước 20:45, 06-05-2021

……………..

(*) Tố Hữu, “Việt Nam, máu và hoa” (1973): “Ta sẵn sàng xé trái tim ta / Cho Tổ quốc, và cho Tất cả / Lá cờ này là máu là da / Của ta, của con người, vô giá”. Khổ thơ gồm cả bốn câu này thể hiện tư tưởng chính thống, nhất quán: Tổ quốc và Quốc tế. Quốc tế được biểu đạt bằng từ “Tất cả” viết hoa, từ “con người” nói chung (khái quát). Đó chính tư tưởng đã thành khẩu hiệu: Tổ quốc và chủ nghĩa xã hội (“Chủ nghĩa xã hội là Tổ quốc”). Đặc biệt, câu “lá cờ này là máu, là da”, thể hiện ý tưởng: Ngoài nền cờ màu máu (màu chiến đấu), là màu vàng tươi của ngôi sao được diễn đạt bằng thơ là màu da vàng (chủ nghĩa xã hội Châu Á chăng?).

Và, trong bài thơ trên của Tố Hữu còn có câu thể hiện rõ: “Của chung nhân loại chiến công này”. Hiểu cho đúng là nửa nhân loại thuộc Khối Đỏ.

Bị chú ngoài lề:

TÌM HIỂU THÊM VỀ QUỐC KÌ NỀN ĐỎ SAO VÀNG

Đọc bài thơ “Huế tháng Tám” của Tố Hữu (ông sáng tác vào năm 1945), người đọc thấy lá cờ đỏ sao vàng xuất hiện ở Huế vào thời điểm đó, thời điểm “ngập Huế đỏ cờ sao”:

“Gió gió ơi! hãy làm giông làm tố

Cuốn tung lên cờ đỏ máu thơm tươi

Vàng vàng bay, đẹp quá, sao sao ơi!

Ta ngã vật trong dòng người cuộn thác

Ôi thiên đường! Tai miên man lắng nhạc

Từ muôn phương theo gót nện rầm rầm

Việt Nam! Việt Nam! Việt Nam muôn năm!”.

(1945. Nguồn: Tố Hữu, “Từ ấy”, NXB Văn học, 1959)

Và cũng để tìm hiểu quốc kì, chúng ta lưu ý: “cờ đỏ máu thơm tươi / Vàng vàng bay, đẹp quá, sao sao ơi!” và hai từ “thiên đường”, “muôn phương”, để từ đó, có thể thấy rõ: nền cờ đỏ màu máu (màu chiến đấu), sao vàng với thiên đường quốc tế (chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản – thiên đường trên mặt đất, trên thế giới địa cầu). Ngay từ thời còn trẻ (1945) cho đến về sau, nội hàm ý nghĩa của biểu trưng ở quốc kì đã được Tố Hữu thể hiện nhất quán theo tư tưởng chính thống như thế.

T.X.A.

09-05-2021

https://www.facebook.com/tranxuanan.writer/posts/2889642904642975/

Xem thêm: Tìm hiểu quốc kì qua quốc ca:

https://txawriter.wordpress.com/2021/05/09/tim-hieu-them-ve-quoc-ki-qua-quoc-ca/

.

.

NGUYÊN DO CHỦ NGHĨA CỘNG SẢN KHÔNG CÓ QUỐC KÌ MÀ CHỈ CÓ CỜ CHỦ NGHĨA (Ngôi sao năm cánh) VÀ GIAI CẤP (Búa liềm):

I. CHỦ NGHĨA MÁC – LÊ CHỦ TRƯƠNG: TAM VÔ, NHỊ CÁC

1) Tam vô: vô Tổ quốc, vô tôn giáo, vô gia đình

(Ba cái không: không Tổ quốc, không tôn giáo, không gia đình [chỉ có gia đình hạt nhân, gồm vợ chồng và con mà thôi])

2) Nhị các: các tận sở năng, các thụ sở nhu

(Hai cái cùng/đều: Cùng làm việc hết sức, cùng thụ hưởng theo nhu cầu) *

II. HỒ CHÍ MINH DỰA VÀO LIÊN XÔ CỘNG SẢN NHƯNG VẪN CÒN GIỮ TỔ QUỐC LUẬN

Theo nhà nghiên cứu Phan Ngọc, trong sách “Bản sắc Văn hoá Việt Nam”, Nxb. Văn hoá – Thông tin, 1998, tr. 465-466: Trong các tài liệu huấn luyện cán bộ, không phải tác phẩm của Hồ Chí Minh, quả thật có đề cập đến chủ trương “tam vô, nhị các” nói trên. Chủ trương ấy là có thật.

Nhận xét về cuốn “Đường kách mệnh”, nhà nghiên cứu Phan Ngọc viết: “Công trình giáo dục của Nguyễn Ái Quốc không nói đến tam vô (vô Tổ quốc, vô gia đình, vô tôn giáo), không nói đến nhị các (ai cũng được làm theo năng lực, hưởng theo nhu cầu), không trình bày chủ nghĩa cộng sản như một thiên đường, điều mà ta thấy sau này trong các sách huấn luyện. Nếu như có một người cách mạng không lãng mạn thì người đó là Hồ Chí Minh”.

Mặc dù Bác Hồ còn giữ Tổ quốc luận nhưng vẫn phải chịu sức ép của Liên Xô (& con đẻ của Liên Xô là Đảng Cộng sản Trung Quốc).

Không dựa vào Liên Xô (& Trung Quốc, nước được Liên Xô uỷ nhiệm) thì không có viện trợ để đánh đuổi thực dân Pháp; mà đi theo Cộng sản thì không có quốc kì! Đồng thời, đi theo Liên Xô (& Trung Quốc) thì đụng đầu với Mỹ, vì Mỹ sợ sự bành trướng của Khối Cộng sản. Đi theo Liên Xô (& Trung Quốc), nên xảy ra nội chiến trong Chiến tranh Lạnh: Quốc gia Việt Nam, Việt Nam cộng hoà chống cộng sản xâm lược, bành trướng (chống “tam vô”).

Mỹ cũng không thể ủng hộ Bác Hồ vì Bác Hồ đã là cộng sản từ 1920/1924…

Bi kịch lịch sử ba mươi năm (1945-1975) hay bốn mươi tư năm (1945-1989/1991) là rất nặng nề. Do đó, cần thấu hiểu để hoà giải, hoà hợp dân tộc, lành lặn vết thương bi kịch lịch sử ấy.

T.X.A.

25-06-2021

…………….

(*) Xem thêm: tiểu luận “Đọc lại Tuyên ngôn Đảng Cộng sản của Marx – Engels” của Trần Xuân An.

Trọn bài thơ “Trực quan sinh động”:

https://www.facebook.com/tranxuanan.writer/posts/2919743954966203/

.

KHÔNG CÓ CỜ TỔ QUỐC (QUỐC KÌ)

.

Ảnh:

“Quốc kì”, Đảng kì Việt Nam là phiên bản của “quốc kì” Liên Xô, đảng kì Liên Xô, đảng huy Liên Xô như trường hợp Trung Quốc.

.

Bị chú ngoài lề:

TÌM HIỂU THÊM VỀ QUỐC KÌ

QUA QUỐC CA VÀ CÁC BẢN HIẾN PHÁP

I. Cờ tiền Việt Minh đến cờ Việt Minh rồi thành Quốc kì:

Không rõ ai là tác giả quốc kì (quốc kỳ). Có ý kiến viết trên sách báo bởi những người đã là nhân vật lịch sử danh tiếng: Trần Phú mang về từ Liên Xô (khoảng 1930…) hoặc Bác Hồ sáng tạo ra (không rõ năm, nhưng sử dụng từ cuối năm 1940).

“Theo Võ Nguyên Giáp, hiệu kỳ này lần đầu do Hồ Chí Minh sử dụng tại buổi mở lớp “Con đường giải phóng” huấn luyện cán bộ chuẩn bị thành lập mặt trận đại đoàn kết dân tộc vào cuối năm 1940” (trích Từ điển mở Wi-ki).

Không thể có chuyện một nhân vật không có thẩm quyền tại địa phương tự ý vẽ ra rồi tự giương lên làm hiệu kì được.

II. Về ý nghĩa của biểu trưng quốc kì:

Đến nay, có nhiều văn bản đáng tin cậy để xác định ý nghĩa:

~ Theo quốc ca (bài “Tiến quân ca”): nền cờ đỏ là màu máu chiến đấu: “Cờ in máu chiến thắng, mang hồn nước” (lời 1), và ngôi sao vàng năm cánh là học thuyết Mác-Lê: ”… Sao vàng phấp phới / Dắt giống nòi quê hương qua nơi lầm than *a / Cùng chung sức phấn đấu xây đời mới / Đứng đều lên gông xích ta đập tan” (lời 2). Rõ ràng như ban ngày, “XÂY ĐỜI MỚI” chính là xây dựng chủ nghĩa xã hội theo chủ nghĩa Mác-Lê (sợi chỉ đỏ xuyên suốt lịch sử từ 1930 đến sau này). Nhà thơ Vũ Cao cũng hiểu như vậy: "Anh đi bộ đội, sao trên mũ / Mãi mãi là sao sáng dẫn đường"...

~ Theo thơ Tố Hữu: nền cờ đỏ cũng chính là màu máu chiến đấu, ngôi sao vàng năm cánh cũng là biểu trưng chân lí (chủ nghĩa Mác-Lê, như ngôi sao vàng dẫn đường đưa lối mà Văn Cao đã viết), còn được hiểu với cách diễn đạt khác đi chút ít, rằng ngôi sao vàng năm cánh cũng chính là Tổ quốc và chủ nghĩa xã hội, “Chủ nghĩa xã hội là Tổ quốc”. Vui lòng xem dẫn chứng ở các ghi chú trước.

Tuy nhiên, ở tất cả các bản Hiến pháp đều không có dòng nào giải mã biểu trưng nền đỏ, ngôi sao vàng năm cánh cả *b.

Do đó, lời quốc ca là có giá trị xác định nhất. Tuy vậy, Tố Hữu là nhà thơ cộng sản, kiêm Trưởng ban Tuyên huấn Trung ương, như là phát ngôn viên chính thức về tư tưởng Đảng, trên đài báo, sách giáo khoa, nên thơ ông cũng có giá trị xác định rất cao, chỉ ở mức độ sau quốc ca một bậc mà thôi.

Tôi không viết thành bài, mà chỉ ghi chú rải rác, bởi vì quốc kì là vấn đề lớn, nghiêm trọng. Dẫu sao, lớn và nghiêm trọng đến mức nào, quốc kì cũng thuộc đối tượng tìm hiểu, nghiên cứu khoa học. Nếu có sai lạc, xin vui lòng chỉ giáo.

T.X.A.

09-05-2021

…………

(*a) Trong quốc ca, có một bộ phận vị ngữ khó hiểu, do một từ: “dắt giống nòi quê hương qua NƠI lầm than”. Có phải là “… qua NỖI lầm than” không? Vui lòng chỉ giáo. Xin cảm ơn.

(*b) Tư liệu:

1~ Quốc kỳ trong Hiến pháp Việt Nam dân chủ cộng hoà 1946:

Điều thứ 3

Cờ của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà nền đỏ, giữa có sao vàng năm cánh.

2~ Quốc kỳ trong Hiến pháp Việt Nam dân chủ cộng hoà 1959:

Điều 109

Quốc kỳ nước Việt Nam dân chủ cộng hoà nền đỏ, ở giữa có ngôi sao vàng năm cánh.

(Đặc biệt, 1955, có sự thay đổi về hình dạng ngôi sao vàng, từ ngôi sao vàng năm cánh được làm bằng đường cong thành ngôi sao vàng năm cánh được làm bằng đường thẳng, và giữ nguyên hình dạng ấy từ 1955 đến nay. Sự thay đổi này không ghi vào Hiến pháp).

3~ Quốc kỳ trong Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam 1982:

Điều 142

Quốc kỳ nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam hình chữ nhật, chiều rộng bằng hai phần ba chiều dài, nền đỏ, ở giữa có ngôi sao vàng năm cánh.

(Đặc biệt, có dự định thay đổi quốc ca:

Điều 144

Quốc ca nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam do Quốc hội thông qua.

Nhưng rồi cũng vẫn giữ bài “Tiến quân ca” của Văn Cao).

4~ Quốc kỳ trong Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam 1992:

Điều 141

Quốc kỳ nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam hình chữ nhật, chiều rộng bằng hai phần ba chiều dài, nền đỏ, ở giữa có ngôi sao vàng năm cánh.

5~ Quốc kỳ trong Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam 2013:

Điều 13.

1. Quốc kỳ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam hình chữ nhật, chiều rộng bằng hai phần ba chiều dài, nền đỏ, ở giữa có ngôi sao vàng năm cánh.

https://www.facebook.com/tranxuanan.writer/posts/2890929464514319/

Xem thêm:

https://www.facebook.com/tranxuanan.writer/posts/2920540068219925/

.

Bài 32

QUỐC KÌ VÀNG LỊCH SỬ

“MỘT ĐI KHÔNG TRỞ LẠI”

Trần Xuân An

lá cờ vàng triều Nguyễn vàng một sắc

bị đính vào cờ Pháp thực dân

rồi tự chế thành cờ quẻ Li độc lập

nhưng dưới gươm phát xít Nhật, sắp quy hàng

dựa Mỹ, nối vạch trong, thành cờ quẻ Càn

Quốc gia Việt Nam, Việt Nam cộng hoà, đổ ập

lá cờ chín mươi năm bị hiếp, bị đoạt *

lưu vong vẫn còn ở hải ngoại chưa tàn

thành “lá cờ tự do và di sản” rỡ ràng

sân khấu Việt kiều, hoài niệm thời đã mất

quốc kì Vàng không của cường quốc khác

chỉ của Việt Nam, dù chưa bốn nghìn năm!

thoát mục nát, tranh giành, cờ Vàng lưu lạc

ấm lòng đồng bào ngoài cõi, xa xăm

cờ Đỏ nước ta, dù hiển hách

nhưng của Liên Xô, lấy chi phê phán cờ Vàng!

lịch sử, ngẫm nghĩ, rơi nước mắt

ngoại xâm, Chiến tranh Lạnh, nội chiến tan hoang!

T.X.A.

26-06-2021

……………….

(*) 1885-1975.

https://www.facebook.com/tranxuanan.writer/posts/2924049101202355/

Ảnh:

H.1: Quốc kì Quốc gia Việt Nam, Việt Nam cộng hoà (1948-1955-1975)

(dựa Pháp nhưng thực chất là dựa Mỹ, rồi dựa hẳn vào Mỹ, 1948-1975), còn được gọi là cờ quẻ Càn.

H.2: Cờ bị Pháp “bảo hộ”, thật ra là cai trị (1885-1945).

H.3: Cờ Việt Nam dưới thời phát xít Nhật (1945), còn được gọi là cờ quẻ Ly.

.

Thấy trên mạng toàn cầu hai bức tranh tuyên truyền của phát xít Nhật và thực dân Pháp về 3 lá cờ: quốc kì Pháp, quốc kì Nhật và hiệu kì hoàng đế của vua Bảo Đại (1943).

Nguồn: Tư liệu sưu tầm của nhà nghiên cứu Trần Viết Ngạc.

—–

H.1:

Quốc kì thực dân Pháp, quốc kì phát xít Nhật và hiệu kì hoàng đế của vua Bảo Đại (1943).

Chữ trên tranh: Kết quả của sự hợp tác Nhật – Pháp – Đông Dương (Resultat de la Collaboration Nippo – Franco – Indochinoise)

H.2:

Quốc kì thực dân Pháp và hiệu kì hoàng đế của vua Bảo Đại (1943).

Chữ trên tranh: Thái bình ( 太平 )

—–

T.X.A.

29-06-2021

https:// www. facebook .com/tranxuanan.writer/posts/2926120150995250/

.

Cái chính là cờ đỏ sao vàng đi đôi với cờ đỏ búa liềm vàng là quốc kì Liên Xô, khiến người yêu nước Quốc gia trước và sau 1945 không thể đi theo Bác Hồ được: Họ không thể đổ máu cho Liên Xô, họ đi với vua Nhà Nguyễn Bảo Đại và Mỹ.

Xem thêm:

KHỐI ĐỎ

CHIẾN THẮNG ĐIỆN BIÊN PHỦ

Trần Xuân An

https://txawriter.wordpress.com/2021/05/08/khoi-do-chien-thang-dien-bien-phu/

.

.

Bài 14

TRẢ THÙ GIAI CẤP

Trần Xuân An

bàn tay than chai, đồng bỏng

cây lúa dầm chân bùn lầm

nước mắt nghìn năm còn nóng

“Kẻ sĩ” một thời ngâm câm *

cho dù thiên tài gác tía

thiên tài đèn đom đóm soi

mực mài mồ hôi chữ thật

đều cá gỗ, trứng nắng thôi

đốt sách, trốc gốc, chôn sống

bài “Kẻ sĩ” có ngờ đâu!

dìm hàn nho Nguyễn Công Trứ

nước vẫn kẻ sĩ đứng đầu!

dấu hỏi chạm đau kẻ thợ:

bão lửa – lợi dụng căm thù?

kẻ sĩ giải phóng kẻ ruộng

công cụ vượt xa rồi ư?

súng đạn cũng là công cụ

nước ta thua Pháp ngoại xâm

giải phóng mồ hôi, cơ bắp

công cụ phải vượt nghìn năm!

độc đảng, như quý tộc mới

trả thù cho búa cho liềm

búa liềm nghìn xưa ta khác

có kẻ sĩ giỏi, quan liêm

thiên tài ở mọi giai cấp

gặp nhau trong giới tinh hoa

bây giờ hát vang “Kẻ sĩ”

chớ khinh lầm than, lột da

cải cách, đổi tiền, cải tạo

nhớ chưa và đã nhớ chưa

một cuộc trả thù giai cấp

đại gia, kẻ sĩ khác xưa

cách mạng đảo trời lộn đất

thấm bài đạo đức làm người

hợm mình, xa hoa là loạn

bóc lột, lại mưa máu rơi!

chân lí, lẽ đời muôn thuở

thành bài “Kẻ sĩ” đã lâu

cũng bị trả thù giai cấp

bia mộ trùm kín cỏ lau.

T.X.A.

08:23-10:01, 13-05-2021

…………….

(*) “Kẻ sĩ”, thơ Nguyễn Công Trứ (1778-1858). Trước Đổi mới, văn học sử Việt Nam dân chủ cộng hoà và Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam không hề đề cập đến Nguyễn Công Trứ, bởi lẽ, hồi đó, tư tưởng chính thống, tư tưởng chỉ đạo đề cao công nông, còn trí thức chỉ được xếp đứng sau hai giai cấp ấy, và phải là trí thức xã hội chủ nghĩa. Nguyễn Công Trứ là một nhà thơ vốn được văn học sử Việt Nam cộng hoà trọng thị.

https://www.facebook.com/tranxuanan.writer/posts/2893640177576581/

Tranh vẽ chân dung Nguyễn Công Trứ (Google search – vnexpress)

Bài 33

THƯƠNG MỘT THỜI KÌ SỬ

Trần Xuân An

một thời Đất nước buồn thương

bại ai chống giặc không nương dựa nào

hiển hách duy Cờ Vàng Sao

nhưng cờ ngoại, khiến đồng bào giết nhau

ra đời muộn, trải nhiều đâu

nhập thân, hoà giải, vơi đau, dịu lòng

học trò, dạy học, nợ không

ách oằn hậu chiến mấy tròng, cởi ra

làm thơ, ru khẽ ơi à

một mình một bóng, một ta ru mình

lí lịch ư? Phải tự sinh

dựa ngoại cường Đỏ đáng khinh như Vàng

ngẫm bao cờ quạt, buồn chăng?

phất cờ chiến đấu lại bằng cờ chi?

tự hào, miệt thị làm gì

thương nước mình, nghèo khốn đi dựa người!

nỡ nào đọc sử, bật cười

áo nính Đỏ nạt tả tơi áo Vàng *

sử trung thực, nước mắt tràn

đỏ vàng lam, chín đoá, dâng tranh này

màu da dân tộc vàng đây

pho quốc sử sắc tre dày — sử xanh

quốc kì tự nghìn năm thành *

Búa liềm Sao, chính thể, quanh quốc kì.

T.X.A.

09:12-11:01, 29-06-2021

(viết trong đợt giãn cách xã hội kéo dài,

năm 2021, vì nạn dịch COVID-19)

……………

(*) ~ Mặc nính, cũng có nơi dùng từ mặc bính (mượn áo quần của người khác để mặc).

~ Màu da màu đồng người Việt Nam + Sử xanh (hãn thanh): The bronze skin color of Vietnamese + The bamboo tree green color – logo of Vietnam history book.

Đây chỉ mới là quốc kì kính kiến nghị, theo tinh thần “Tổ quốc trên hết” (Tổ quốc tối thượng).

.

https://www.facebook.com/tranxuanan.writer/posts/2926174850989780/

.

.

Bài 15

CÁI DỤC CÓ TÍNH NGƯỜI

Trần Xuân An

bản năng gốc là cái-dục-truyền-giống

để loài người tiếp nối nở sinh

chút khoái lạc, nghìn khổ đau, cực nhọc

đẹp đời bằng gia đình

cái dục ấy thành yêu đương, thăng hoa nhất

cái dục nào, cõi đời đổ nước mắt, mồ hôi

đấu tranh sinh tồn, đấu tranh giai cấp

cái-dục-tư-hữu thăng hoa, phồn vinh đời

nếu thiến tinh hoàn đi, cắt đi âm vật

tuyệt chủng loài người

nếu thiến hay cắt đi dạ dày hầu bao tư hữu

công hữu thì trì trệ, cầm chừng thôi

dâm đãng vô độ, tham lam vô độ

cõi đời là địa ngục, hết thăng hoa

yêu đương lành mạnh, tư hữu lành mạnh

yêu đương vị tha, kinh doanh vị tha?

nhờ bao ca khúc, bài thơ trong sáng quá

hãy tin đi, thế gian có cao cả yêu đương

hãy tin đi có thiện tâm trong hàng hoá

nhờ đẹp luật, lành chùa và tốt nhà trường…

bạn có thể cười bài thơ này ảo tưởng

nhưng loài người từ thuở hết bán khai

có thật trên đời yêu đương cao cả

tư hữu văn minh, đấu tranh văn minh

mấy nghìn năm rồi…

tư hữu mấy nghìn năm rồi, vững chắc

vượt quãng bùn trộn máu, văn minh thăng hoa

công hữu mới bảy mươi năm, đổ vực

hoảng hốt, trấn tĩnh, phân vân rất là…

Đất nước mình phân vân về công hữu

nhưng độc đảng, không công bằng,

không âm dương, thiếu nhân quyền

tôi cũng đỏ, nếu kiên định chủ nghĩa xã hội

sao đành bóp nghẹt tự do trên đường,

đích đến quá lung liêng!

tôi có tình yêu với sách báo

hãy tin đi, tình yêu ấy sáng trong

bao giờ tự xuất bản là quyền hợp pháp? *

dân số đầu sách không đòi ăn,

thiện tâm cần những tấm lòng.

T.X.A.

trước 09:39, 15-05-2021

………..

(*) Xem thêm: NÓI CHO RÕ VỀ TỰ XUẤT BẢN (Trần Xuân An):

https://txawriter.wordpress.com/2021/05/17/noi-cho-ro-ve-tu-xuat-ban/

https://www.facebook.com/tranxuanan.writer/posts/2895008004106465/

CHÚ THÍCH BÀI 15: NÓI CHO RÕ VỀ TỰ XUẤT BẢN

Trần Xuân An

tác phẩm rách toạc ra lời nói toạc

tác giả đau, người kiểm duyệt cũng đau?

người cầm bút văn chương học thuật

tự do dân chủ

là có quyền viết

không vi phạm thuần phong mĩ tục

không bị kiểm duyệt

(kiểm duyệt bị đánh tráo bằng từ biên tập)

có quyền đăng báo, quyền làm báo để đăng

có quyền xuất bản thành sách

có quyền phát hành

còn nhà cầm quyền thì cứ cầm quyền

chỉ cấp giấy chứng nhận hợp pháp

giữ quyền bằng súng đạn công an quân đội

phím bút sách báo chẳng hề hấn gì

vì đằng sau phím bút chỉ là cây sậy suy tư!

hai câu thơ:

“dùng bút làm đòn chuyển xoay chế độ

mỗi vần thơ: bom đạn phá cường quyền” *

ngỡ nói bốc, vì che giấu sự thật

cây bút ấy là tên lửa Liên Xô, có thật

vần thơ ấy là bộc phá Liên Xô, có thật

có thật bên cạnh là cố vấn Trung Quốc

và trùng trùng bộ đội phía sau, có thật

chứ cán bút và vần thơ không thôi

chẳng làm được gì!

nữa là tác phẩm tôi hiền lành, hoà giải

có lợi cho hoà hợp đồng bào

nước ta cứ tự cao chính thể ưu việt

người cầm bút chẳng có chút tự do nào!

bức tranh hoà giải

không lẽ cắt đi bình sọ xương máu

cắt đi bốn đoá vàng, lam

chỉ còn năm bông đỏ thôi sao?

tác phẩm rách toạc ra lời nói toạc

tác giả đau, người kiểm duyệt cũng đau?

T.X.A.

17-05-2021

...............

(*) “Là thi sĩ” (1942), thơ Sóng Hồng (bút danh của Tổng bí thư Trường Chinh). Trong bài thơ này còn có hai câu kết: “Cùng công nông vun xới cuộc tương lai / Ðã chớm nở từ Liên-xô hùng vĩ”.

https://www.facebook.com/tranxuanan.writer/posts/2896324520641480/

Bài 16

THƠ VỀ PHƯƠNG THỨC SẢN XUẤT

Trần Xuân An

quan lại, công chức làm công ăn lương |

cũng là phương thức của thợ thuyền công nghiệp |

nên nền sản xuất hành chính quan liêu bao cấp |

cho dù công hữu nhà máy,

và dĩ nhiên công hữu chính quyền |

cuộc cách mạng long trời lở đất |

rốt cục cũng vì phương thức sản xuất ấy thôi |

chân lí thì giản đơn, trần trụi |

hành chính quan liêu bao cấp! Rã rời |

thi sĩ không nỡ mộng mơ hoa bướm |

nước mắt rơi trên sách triết học, kinh tế – chính trị,

ngẩng nhìn |

công nhân, nông dân cũng sẽ là quan lại, công chức

trong sản xuất |

thấy Đảng cửa quyền, gạt kẻ sĩ thiếu niềm tin! |

cạnh tranh, đối lập là biện chứng |

không còn trì trệ, phải động não,

chất lượng, năng suất là thước đo |

thực tiễn, thực tiễn và thực tiễn |

nhưng công hữu toàn trị

là con đường khai phá mới, mơ hồ |

phương thức sản xuất, phương thức sản xuất |

biết mấy máu xương, vô vàn máu xương |

rồi hoá ra hành chính quan liêu bao cấp |

cuộc cách mạng phiêu lưu,

ngẫm nghĩ mà thương!

T.X.A.

trước 09:40, 16-05-2021

https://www.facebook.com/tranxuanan.writer/posts/2895703604036905/

AI TRỰC TIẾP CHỈ ĐẠO THI CÔNG TÂN SỞ (1883)?

03 BẢN DỤ TỪ TÂN SỞ 7-1885

.

23-5 âm lịch, NGÀY QUẢY CƠM CHUNG TẠI HUẾ, TƯỞNG NIỆM CUỘC KINH ĐÔ QUẬT KHỞI VÀ BỊ THẤT THỦ (ẤT DẬU 1885), nhằm ngày 02-7-2021 năm nay.

.

TÂN SỞ, theo Đại Nam thực lục và theo Henry de Pirey, trong bài “Một kinh đô phù du: Tân Sở” (1914), là do Nguyễn Văn Tường trực tiếp chỉ đạo, thi công, 1883.

Trước đó, 1853-1862 & 1866-1868, ông là tri huyện, rồi là bang biện Thành Hoá (Cam Lộ), chuyên lo việc HẬU LỘ CỦA KINH ĐÔ HUẾ (gồm Tân Sở và hệ thống sơn phòng xuyên dọc rừng Trường Sơn).

03 BẢN DỤ TỪ TÂN SỞ 7-1885:

Dụ Cần vương & 2 bản Dụ khác từ TÂN SỞ

Ở TÂN SỞ (Cam Lộ, Quảng Trị), 1885,

LÁ CỜ MÀU GÌ VÀ CỘT CỜ RA SAO?

Viết trên Facebook, cần viết thật ngắn, thật gọn, nên tôi xin nói ngay: Đọc các bài báo, nghiên cứu của thực dân Pháp (kể cả của người Việt đối lập hoặc từ xuất bản phẩm bị Pháp kiểm duyệt) về nước ta thời chống Pháp, chúng ta chỉ lọc lấy thông tin và phải phối kiểm bằng sử sách của Triều Nguyễn, đồng thời sử dụng thông tin ấy với quan điểm, lập trường của chúng ta. Ở đây, tôi cũng nói ngay về một điểm định nói.

Bài “Một kinh đô phù du: Tân Sở” (1914) của linh mục người Pháp Henry de Pirey, có đoạn: “Ngoài vòng thành ngoài của kinh thành và chưa hẳn đối diện với cửa Tiền, mà chếch qua một tí bên phải là cột cờ. Đây là mô đất, hình tròn, bao phủ bụi gai, cao độ 4m, trên có cột cờ treo cờ màu vàng. Chiều cao độ 50 thước, nghĩa là 20m” (*).

Theo thông tin khách quan đó, phối kiểm với nhiều tài liệu chúng ta đã biết: Quốc kì Triều Nguyễn chỉ một màu vàng.

Vị trí cột cờ, kích cỡ đế cột cờ và chiều cao cột cờ, ở Tân Sở, 1883-1885, bài viết cũng đã ghi rõ bên trên. Tuy vậy, ngoại trừ sắc quốc kì toàn một màu vàng như đã phối kiểm, xác quyết, còn về cột cờ, vị trí, kích cỡ đế, chiều cao của nó, thì đến nay, còn bàn cãi. Có điều, từ chú thích của Henry de Pirey, chúng ta nhặt thêm được một thông tin: Việc thiết kế, xây dựng thành Tân Sở, là cả một quá trình dài, có sự bàn thảo, chuẩn thuận và đặc biệt, có sự giám sát thi công của cả triều đình. Ở đây là sự giám sát của quan tế tửu (hiệu trưởng Quốc tử giám?).

T.X.A.

14:34-15:02, 02-07-2021

………………….

(*) Henry de Pirey, “Một kinh đô phù du: Tân Sở”, trong tập san “Những người bạn cố đô Huế” (Bulletin des amis du vieux Hue), tập 1, 1914, Đặng Như Tùng dịch, Bửu Ý hiệu đính, Nxb. Thuận Hoá, Huế – 1997, tr.227.

Xem thêm: A. Delvaux, “Căn cứ Tân Sở”, bộ sách đã dẫn (B.A.V.H.), 1942, tr.112-127.

Link bài này:

https://www.facebook.com/tranxuanan.writer/posts/2928384110768854/

Ảnh: 1) Chụp lại sơ đồ minh hoạ in theo bài của Henry de Pirey nói trên. Vị trí cột cờ được đánh số 19 (Mât de pavillon: cột cờ).

2) Chụp lại phần trích đoạn ở bài đã dẫn.

3) Đối chiếu hai sơ đồ, một của Pirey (sđd) và một của A. Delvaux (B.A.V.H., 1942, tr.126-127).

.

.

.

.

Bài 34

QUỐC KÌ VÀNG Ở THÀNH TÂN SỞ

Trần Xuân An

lúa Ái Tử, tận Cà Mau ruộng

ngót ba trăm rưỡi năm, Đàng Trong

thành vàng nắng quốc kì Tân Sở

cờ tàn, công vẫn dài non sông

tấc đất, ngọn rau, ơn Chúa Nguyễn *

mít Cùa, vàng mật múi, gỗ ròng

di tích thơm màu xưa sử kí

cờ tàn, ba bản Dụ thì không *

đứt ruột, quặn lòng, vượt thượng đạo

thoả hiệp “lân bang” Pháp — mấy dòng *

thế nước yếu, cờ Tân Sở phất

đánh và đàm, đày biệt, hết mong!

Tân Sở, Dụ Cần vương truyền lửa

lửa vàng ánh máu sĩ dân hồng

quốc kì rơi khỏi vương triều Nguyễn

cờ Tân Sở mười năm núi đồng. *

T.X.A.

07:36-09:45, 03-07-2021

(sau ngày Quảy Cơm Chung 23-05 âl.)

……………..

(*) ~ Nguyễn Đình Chiểu, “Văn tế Nghĩa sĩ Cần Giuộc”. ~ Dụ Cần vương, Dụ Nguyễn Văn Tường (cùng ngày 13-07-1885), Dụ Hoàng tộc (18-07-1885) của vua Hàm Nghi (& Tôn Thất Thuyết) từ Tân Sở gửi về Huế. ~ Trong bản dịch của “Dụ Nguyễn Văn Tường”, có cụm từ “nước láng giềng”, tức là “lân bang”, chỉ Soái phủ Pháp ở Nam Kì. ~ Phong trào Cần vương phát động từ Tân Sở kéo dài 11 năm (1885-1896).

https://www.facebook.com/tranxuanan.writer/posts/2928938674046731/

.

Xem tư liệu tham khảo:

Ở TÂN SỞ (Cam Lộ, Quảng Trị), 1885, LÁ CỜ MÀU GÌ VÀ CỘT CỜ RA SAO?

.

.

Bài 17

CẢM GIÁC BƠ VƠ

Trần Xuân An

cờ Chiến thắng của Liên Xô: quốc kì Liên Xô

búa liềm và sao, trên ảnh tượng Bác Hồ

hiểu anh hùng Hồ Chí Minh thuộc về Khối Đỏ

Người chưa vui, hồn Nước, hồn Người bơ vơ!

T.X.A.

19-05-2021

https://www.facebook.com/tranxuanan.writer/posts/2897947610479171/

.

Bài 35

KHÔNG NGẤM, CHỈ TINH LỌC

Trần Xuân An

ba mươi năm sử, bùn và máu

mười chín tuổi, nhô khỏi mặt đầm

sen hay súng cũng như rau muống

nắng hậu chiến khô bão, giông gầm

ba lăm tuổi, dứt Chiến tranh Lạnh

hoà bình, còn mất đảo Biển Đông

ai lệ thuộc, ai vô chính phủ

sen, súng, muống, nghiêng ngả, long đong

bùn, máu, nắng như bão, thất thế

nở ba lăm đoá, mười lăm thêm

hoà giải, chính là phân giải sử

ngoại-xâm-nội-chiến-máu-say-mèm

vừa sen, vừa súng, vừa rau muống

không phải bùn, máu, nắng xoáy cuồng

không ngấm mà tinh lọc dưỡng chất

sinh vật nào máu mủ cũng hương

công dân, ta thuộc phe nào nhỉ

thưa rằng, thuộc dân tộc Việt Nam

ngoại nhập cả chiến tranh, hậu chiến

thì sọ chín đoá đỏ vàng lam

thuở trẻ, vào Đoàn, không kết nạp

trung niên, vào Hội, chỉ địa phương

sách viết, nhiều cuốn, không cấp phép

không quốc kì, mặc niệm vô phương!

kính tôn giáo, dù dân Đảng Đỏ

ta, nhà thơ thuần chất Việt Nam

nền da, màu tre pho Quốc sử

nên là Cờ Nước bốn nghìn năm

chiến tranh, hậu chiến đều bùn, máu

đều nắng bão khô, thét gió giông

sen, súng, muống, nương theo, bứt gốc

tự hấp thu, tươi ngoài, lành trong

ta viết con người và bối cảnh

ánh sáng tâm trạng u ám thay

duy đúng, sinh vật từ bùn đất

đều sạch hơn Quả Đất bẩn này!

T.X.A.

06:45-07:15, 04-07-2021

https://www.facebook.com/tranxuanan.writer/posts/2929570933983505/

.

Bài 18

NỘI CHIẾN,

NGẪM XƯA THƯƠNG NAY

Trần Xuân An

thời ta khác

thuở Mạc bắc Lê nam *

thuở sông Gianh

chia hai Đàng hai chúa

thành Cao Bằng

không san bằng xẻng búa

như chứng tích

tiếng khóc ”Chinh phụ ngâm”

Đặng Trần Côn

viết phải trốn dưới hầm!

nội chiến rước ngoại xâm

giặc cháy lửa

đất “Hoàng Lê”

Tây Sơn vang vó ngựa *

thơ Nguyễn Du

còn mãi lệ chảy thầm

nội chiến xưa

văn chương mình nghẹn câm

mực mài máu đồng bào

đâu phải nước

nếu nước lã

văn hào hùng, giục bước

nội chiến nào

cũng xé giấy trắng tâm?

vẫn hai bờ

dù nội ngoại phía nam

mặt nước không thể nghiêng

không nghiêng được

Bến Hải

không nghiêng một miền Đất nước

bốn mươi chín đầu sách tôi

người soi không?

trái tim tôi

có lẽ hơi dại ngông

Nguyễn Dữ gửi truyền kì

lưu bao chuyện

Nguyễn Bỉnh Khiêm, Dương Văn An

giấu lòng

(hai quan Mạc

chẳng viết gì nội chiến!)

nhưng nước mắt “Chinh phụ ngâm”

chảy ròng

đau nội chiến

thơ Nguyễn Du kín miệng

Ngô văn phái

sử văn viết nối dòng

“Hoàng Lê”

bút đâu đành bẻ cong

cuộc cách mạng toàn cầu

đã liên thông

trách chi

thuở năm châu xa cách lắm

viết nội chiến

sợ tru di, thớt trảm

“Chinh phụ ngâm”

khóc đã là dũng cảm

cũng dũng cảm “Hoàng Lê”

chốn ruộng đồng

thơ Nguyễn Du

có câu đau đứng tròng

Chiến tranh Lạnh

Nội chiến Đỏ Vàng, cấm

nhờ tin học, thơ thoát còng

trăm phương

đau đáu sông Bến Hải

cầu Hiền Lương

— Quảng Trị dày bom mìn

trong rau lúa

hoà giải này

gửi mấy trời xa nữa

Trái Đất lưu Bến Hải

dù ngược đường

hồn Việt Nam

còn đạn tên, máu ứa

Nam Bắc triều

Cồn Tiên gươm Mạc buông

còn Trịnh Nguyễn

Tây Sơn quét hai chúa

Chiến tranh Lạnh

nghĩa trang Đỏ Vàng xương

nếu kể cả

nội chiến Mười hai sứ

(có Hoa kiều

cũng mưu bá đồ vương)

nội chiến lớn, năm lần

trong quốc sử

máu ruột thịt

sợ thấm vào văn chương!

nhưng Nội chiến Đỏ Vàng

ngực máu ứ

Chiến tranh Lạnh

hậu chiến dài đau thương

tác phẩm nào

như chứng tích lưu giữ

nội chiến thời Bến Hải

cầu Hiền Lương?

T.X.A.

09:21-11:20, 22-05-2021

https://www.facebook.com/tranxuanan.writer/posts/2900010706939528/

.

Bài 36

MÊ HƯƠNG SẮC

Trần Xuân An

sen, súng, muống, vượt bùn đêm

cơm thường ngày ai cũng thèm muống thôi

.

dẫu đều mọc chốn tanh hôi

sen, súng, muống đều ngoài tươi, trong lành

.

nhưng nếu tóc vẫn còn xanh

thà cơm rau thiếu, tình dành yêu sen

.

yêu bông súng đỡ chết ghen

vẫn yêu sen, mùi hương bền say tim!

.

mê hương sắc nên lún chìm

loài bông mọc cạn bìm bìm rào quanh!

.

bìm bìm phủ kín giùm anh

mộ anh trơ trọc cỏ xanh không thèm!

.

(đùa các loài hoa thôi em

sách anh viết đủ xây thềm mộ anh!)

.

sen, súng, muống trách đành hanh

anh ngông chút, bìm bìm hành, khổ thân!

T.X.A.

08:21-09:55, 04-07-2021

https://www.facebook.com/tranxuanan.writer/posts/2929594613981137/

Ảnh (google search):

1) Bông sen; 2) Bông súng; 3) Bông rau muống; 4) Bông bìm bìm

Bài 37

THƠ BẢY CHỮ, CÁCH TÂN CŨ

Trần Xuân An

không! Ngoài thơ, cách tân chính thể

dâng nước Quốc kì, vì quá thương.

(T.X.A.)

bằng bằng trắc trắc, thơ bảy chữ

từ lâu, đã phá cách – luật, niêm

nếu đọc, theo khuôn âm, hằn nếp

thấy khổ độc, thèm êm phiện tiêm!

ở đời, có gì không biến thể

(trước, sau, cổ phong còn thoáng hơn)

đọc chậm, bị vấp, đầu phải tỉnh

không chuội theo tai, bằng trắc mơn

“tài cao, phận thấp, chí khí uất

giang hồ, mê chơi, quên quê hương” *

không! Ngoài thơ, cách tân chính thể

dâng nước Quốc kì, vì quá thương

dân tộc tài cao, thân phận thấp

cả nước Búa liềm Sao Liên Xô

yêu non sông mà vô Tổ quốc

thương vạn lần hơn trói thể thơ

công dân là dân Đảng Đỏ Việt

đứng dâng Quốc kì, dù mỏi tay:

sắc tre, bốn nghìn năm, Quốc sử

trên màu da Việt Nam mình đây

thể thơ Đường luật và chính thể

liên tưởng làm đứng sững tứ thơ

quốc kì, bỗng rõ Chiến tranh Lạnh

nội chiến mình và rã Liên Xô

vẫn công dân Tổ quốc thời Đỏ

bàn thể thơ xưa, nội chiến gần

phân giải sử là hoà giải thật

không thẹn kẻ sĩ chỉ cười khan.

T.X.A.

09:20, 05-07-2021

…………..

(*) Thơ bảy chữ Tản Đà.

https://www.facebook.com/tranxuanan.writer/posts/2930357343904864/

Bài 18 (trình bày bình thường)

NỘI CHIẾN,

NGẪM XƯA THƯƠNG NAY

Trần Xuân An

thời ta khác thuở Mạc bắc Lê nam *

thuở sông Gianh, chia hai Đàng hai chúa

thành Cao Bằng, không san bằng xẻng búa

như chứng tích, tiếng khóc “Chinh phụ ngâm”

Đặng Trần Côn viết phải trốn dưới hầm!

nội chiến rước ngoại xâm, giặc cháy lửa

đất “Hoàng Lê”, Tây Sơn vang vó ngựa *

thơ Nguyễn Du còn mãi lệ chảy thầm

nội chiến xưa, văn chương mình nghẹn câm

mực mài máu đồng bào, đâu phải nước

nếu nước lã, văn hào hùng, giục bước

nội chiến nào cũng xé giấy trắng tâm?

vẫn hai bờ, dù nội ngoại phía nam

mặt nước không thể nghiêng, không nghiêng được

Bến Hải, không nghiêng một miền Đất nước

bốn mươi chín đầu sách tôi, người soi không?

trái tim tôi có lẽ hơi dại ngông

Nguyễn Dữ gửi truyền kì, lưu bao chuyện

Nguyễn Bỉnh Khiêm, Dương Văn An giấu lòng

(hai quan Mạc chẳng viết gì nội chiến!)

nhưng nước mắt “Chinh phụ ngâm” chảy ròng

đau nội chiến, thơ Nguyễn Du kín miệng

Ngô văn phái, sử văn viết nối dòng

“Hoàng Lê”, bút đâu đành bẻ cong

cuộc cách mạng toàn cầu đã liên thông

trách chi thuở năm châu xa cách lắm

viết nội chiến, sợ tru di, thớt trảm

“Chinh phụ ngâm” khóc đã là dũng cảm

cũng dũng cảm “Hoàng Lê”, chốn ruộng đồng

thơ Nguyễn Du có câu đau đứng tròng

Chiến tranh Lạnh – Nội chiến Đỏ Vàng, cấm

nhờ tin học, thơ thoát còng, trăm phương

đau đáu sông Bến Hải, cầu Hiền Lương

— Quảng Trị dày bom mìn, trong rau lúa

hoà giải này, gửi mấy trời xa nữa

Trái Đất lưu Bến Hải, dù ngược đường

hồn Việt Nam còn đạn tên, máu ứa

Nam Bắc triều, Cồn Tiên gươm Mạc buông

còn Trịnh Nguyễn, Tây Sơn quét hai chúa

Chiến tranh Lạnh, nghĩa trang Đỏ Vàng xương

nếu kể cả nội chiến Mười hai sứ

(có Hoa kiều cũng mưu bá đồ vương)

nội chiến lớn, năm lần trong quốc sử

máu ruột thịt sợ thấm vào văn chương!

nhưng Nội chiến Đỏ Vàng, ngực máu ứ

Chiến tranh Lạnh, hậu chiến dài đau thương

tác phẩm nào như chứng tích lưu giữ

nội chiến thời Bến Hải, cầu Hiền Lương?

T.X.A.

09:21-11:20, 22-05-2021

………….

(*) ~ Thời “Nam – Bắc triều” (1533-1593). ~ “Hoàng Lê nhất thống chí” của Ngô gia văn phái.

https://www.facebook.com/tranxuanan.writer/posts/2900010706939528/

Bài 19

MƯỠU HẬU BÀI “NỘI CHIẾN…”

Trần Xuân An

viết nội chiến, lòng sao khỏi đau

lòng đau thì đầu trên thớt

“Chinh phụ ngâm”

giữa thời Trịnh – Nguyễn, khóc

thương hoàng phi vua Lê,

“Hoàng Lê” khóc *

“Chiến Tụng Tây hồ phú”,

Phạm Thái đau

quốc kêu đèo Ngang,

Huyện Thanh Quan lòng nát

kẻ sĩ Bắc Hà cứ nghĩ nước mất

hận vu Đàng Trong nguỵ tặc *

– Nguyễn Huệ, Nguyễn Ánh –

chưa gốc bền rễ sâu?

Nguyễn Du cũng rơi nước mắt

đôi bờ sông Gianh trắng lau

người xưa viết

cho hậu sinh thôi tàn độc

sao thời hậu chiến này,

tàn độc quá dài lâu?

tôi thương lính Đỏ, lính Vàng,

kể chi chức tước

và người dân —

bình sọ máu sẫm màu.

T.X.A.

trước 10:40, 24-05-2021

………………..

(*) Trích chương 17 “Hoàng Lê nhất thống chí” của Ngô gia văn phái (Ngô Thời Chí, Ngô Thời Du, Ngô Thời Thiến, làng Tả Thanh Oai, Hà Nội), về hoàng phi Nguyễn Thị Kim, vợ vua Lê Chiêu Thống:

“… Năm Giáp Tý (1804) (…)

Tháng giêng năm ấy, các bề tôi mở quan tài vua Lê Chiêu Thống thì thấy da thịt đã nát hết, chỉ có trái tim không nát, mà sắc máu hầu như vẫn còn đỏ tươi. Tính từ khi quàn đến bây giờ đã mười hai năm. Ai trông thấy cũng đều lấy làm lạ và than thở. Rồi đó, họ lại lượm di hài của thái hậu và con đầu của vua. Cả di hài của Viết Triệu và Văn Quyên cũng được đưa về theo.

Ngày 13 tháng 8 mùa thu năm ấy, di hài vua Lê đưa về đến cửa ải. Hoàng phi là Nguyễn Thị Kim nghe tin, liền từ Kinh Bắc lên cửa ải để đón linh cữu. Ngay từ hôm ấy, hoàng phi tuyệt thực, mỗi ngày chỉ uống một chén hồ, vật vã bên linh cữu mà khóc lóc. Ngày 23 tháng 8 di hài đưa về đến Thăng Long, các quan dựng rạp tế ở nhà Diên tự công. Hằng ngày hoàng phi chỉ nhấm vài đốt mía mà thôi.

Ngày 12 tháng 10, các quan thay hài cốt vua Lê sang một chiếc tiểu khác, thấy trái tim vẫn còn y nguyên.

Tế xong, hoàng phi đến trước hương án khóc lóc thảm thiết và nói với Diên tự công rằng:

– Ta nhẫn nhục vất vả đã mười lăm mười sáu năm trời nay, trong những ngày ấy không phải là không dám chết, chỉ vì thái hậu, vua ta, con ta vẫn ở bên Trung Quốc, âm tín không thông, còn mất không rõ, nên ta còn chờ đợi một chút. Nay thái hậu cùng vua ta đều mất, con ta cũng chết, linh cữu đã về đến nước nhà thế là việc của ta xong rồi, ta phải chết theo để hầu bên lăng tẩm mới phải.

Rồi đó, hoàng phi liền uống thuốc độc tự tử. Ai nghe tin ấy cũng đều thương xót. Sứ thần Trung Hoa bấy giờ đang ở đấy cũng than thở, ngợi khen mãi.

Ngày 13, các quan lại sắm quan quách khâm liệm cho hoàng phi, rồi ngày 28 cùng rước xuống thuyền đưa về trấn Thanh Hoa.

Ngày 24 tháng 11, các quan làm lễ an táng vua Lê, thái hậu, hoàng phi, con vua ở cạnh lăng vua Hiển-tông, trên núi Bàn Thạch (thuộc huyện Thọ Xuân, Thanh Hoá). Hai quan tài của Nguyễn Viết Triệu, Nguyễn Văn Quyên cũng táng theo ở gần đó.

(…)

Sau khi hoàng phi đã chết theo vua Lê, người khắp cả nước ta và người Trung Quốc đều khen là bậc tiết nghĩa…”. (Hết trích)

TRÍCH “Chiến ‘Tụng Tây hồ phú’” của Phạm Thái (1777-1813):

(…) “Quyên thét lâu thì luống để hờn lâu, bên cầu vồng nghe nhịp trống khua trăng, vì Nam tướng phải căm lòng Bắc sĩ;

Ếch kêu mãi lại càng thêm oán mãi, trên thành trì lắng ngọn còi huýt gió, bởi Tây triều mà ghét chí Đông phu”.

(…) “Cảnh vừa khi quân tướng những ta xưa, thú cỏ hoa thì ai cũng chiều chơi, nào ngờ tuyết lạnh sương tan, lòng dạ ấy phải biết cho người với;

Người đến buổi quan hà về kẻ khác, thù non sông nghĩ mình chưa trả được, dẫu có trăng trong gió mát, mặt mũi nào mà vui với cảnh ru!”.

(…) “Gánh quân thân ai đã mỏi vai rồi, kẻ tráng sĩ làm thinh đi chẳng dứt;

Vạc quốc bảo khách còn dang cánh kéo, đứa nhâm nhân gắng sức lại mà hò”.

(…) “Giận vì thằng sao nỡ đặt “Tụng Hồ”, bênh nguỵ tặc bỏ ơn đời đế thế; *

Cho nên đây phải hoạ vần “Chiến tụng”, nguyện ngô quân đem lại nếp hoàng đồ”. (…). (Hết trích).

~~~ (Nguồn bài phú: thivien. net) ~~~

……………

(*) 1) Bản Nguyễn Văn Xung sưu tầm: “Giận vì thằng đặt “Tụng Tây hồ”, bênh nguỵ tặc bỏ quên đời thế đế;…”.

2) Bản Trần Trọng Dương sưu tầm: “Giận vì thằng sao nỡ đặt tụng “Tây Hồ”, bênh nguỵ tặc bỏ ơn đời đế thế;…”.

— ooo OoO ooo —

.

Bài 38

GHI VỘI TRƯỚC ĐỢT MỚI,

NGƯỜI CÁCH LI NGƯỜI,

NHÀ CÁCH LI NHÀ

Trần Xuân An

nghìn sau hoảng thập niên này *

năm hai mươi, hai mốt đầy siêu vi

trắng hố huyệt, trắng tử thi

bờ sông hoả táng đen sì tro than

Quả Đất lăn trong bất an

rò từ Vũ Hán lấm tràn năm châu

hai trận Sài Gòn trán nhàu

nhà nhà rũ, phố phường rầu, vắng tanh

Bắc Giang bỏng áo kín xanh

khẩu trang, tấm nhựa bao quanh mặt người

Đà Nẵng che bít, héo cười

cách li, giãn cách chờ tươi biển bờ

từ bao giờ đến bây giờ

hai năm đại dịch bơ phờ thế gian

bao người từ thiện gian nan

bao người khó, cơm sắp bàn sẻ chia

vaccine bay khắp trời kìa

mưa cho Quả Đất bớt bia cốt người.

T.X.A.

14:12-16:32, 08-07-2021

(chuẩn bị cách-li-xã-hội TP.HCM.

từ khuya nay, rạng ngày mai)

………………

(*) Đã có vaccine, có thuốc điều trị, dần dần sẽ hiệu quả hơn, nhưng, theo báo chí, “tin tốt là có thể sống chung với loại virus này, như một loại virus bệnh cúm, vì nó không hoàn toàn biến mất”…

https://www.facebook.com/tranxuanan.writer/posts/2932657390341526/

.

Bài 39

GIỚI TỰ NHIÊN TRẢ THÙ

Trần Xuân An

bão lụt, sóng thần và hạn hán

động đất, núi lửa và tố khô *

từ nghìn xưa, cũng bùng dịch tễ

tự nhiên phục hận đến bao giờ?

đến bao giờ loài người sám hối

khai thác thế nào, bù đắp sao

a, quy luật buộc tâm bừng tỉnh

động não, tiến hoá hay tàn hao?

loài người làm thịt tự nhiên mãi

thì tự nhiên làm thịt loài người

con Covid trông như trái chín *

khẩu trang khoá miệng ngẫm luật trời

biết vậy, quá buồn cảm thức khổ

sống sao cho giới tự nhiên tươi

thắng tai trời, ách nước, vui sống

thắng rồi thương, chết vi sinh xơi

đều Covid, ăn người, đồng loại

nửa não tim người thoát tự nhiên

nương quy luật mà sinh kháng thể

tim não người hơn, vui sống yên.

T.X.A.

10:39-11:59, 09-07-2021

(ngày thứ nhất TP.HCM.

cách-li-xã-hội)

………..

(*) ~ Gió mạnh khoảng vài ngày trong mùa gió phơn (gió Lào), khô nóng như bão thổi bằng hơi lò lửa. ~ COVID-19.

https://www.facebook.com/tranxuanan.writer/posts/2933272810279984/

.

Ảnh: COVID-19 – Google search

Bài 40

VIẾT THÊM

VỀ DỊCH TỄ VÀ QUY LUẬT SINH TỒN

Trần Xuân An

mới lọt khỏi lòng mẹ, khóc thoát

đã trả ơn cho đất bánh nhau

vĩ nhân, thường dân khác gì sinh thể đâu

suốt đời là máy làm phân cho cây xanh mát

nếu chiến tranh, người với người, tàn sát

là trả nợ tội sát sanh, rau xanh, cá tươi

ốm đau vì siêu vi, vì nắng mưa, bão táp

cũng trả nợ tội phá nát đất trời

Covid-19 ơi, kháng thể vaccine tạo ra rồi

trăm tuổi, con người trả luôn thân xác

cho rễ cây, giun dế, vi trùng

đừng dịch tễ nữa, yên vui sống chung

di sản giao con cháu, duyên nghiệp giao trời đất *

thân trả tự nhiên, duy đau đớn là quy luật

sao phải làm thịt tự nhiên rồi trả nợ tự nhiên?

tự bó tay, dốt khám phá và ngu khai thác?

Kinh cúng tạ đất, Thượng lễ ơn rừng

giàu nhờ cày cấy, chăn nuôi, trái hái, sữa vắt

đến phi thuyền sao trời, giếng dầu biển đất

phân tích gien Covid, vaccine tiêu ác hung

yêu đời, yêu loài người, tận cùng sự thật

ước mơ, góp phần tiến hoá đến vạn sau

không còn ăn thịt nhau, cỏ rau, súc vật

đều nói tiếng người, không còn khổ đau.

T.X.A.

15:23-18:08, 10-07-2021

……………

(*) Ai cũng có chút sản nghiệp (nghĩa thông thường cũng như nghĩa từ điển) để lại cho con cháu (di sản, di sản nghiệp). Duyên nghiệp là nghiệp (karma) của bản thân qua nhiều kiếp, được hiểu theo triết học Phật giáo.

https://www.facebook.com/tranxuanan.writer/posts/2934130960194169/

“Chinh phụ ngâm” là tác phẩm phản đối chiến tranh, được hoàn tất vào năm 1741, ở thời điểm giữa thời kì Trịnh – Nguyễn phân tranh (1558-1802, trận giao chiến đầu tiên, năm 1627, trận giao chiến cuối, năm 1774-1775). Đặng Trần Côn là kẻ sĩ Bắc Hà, nhưng ngâm khúc của ông là tiếng kêu đòi chúa Trịnh chấm dứt nội chiến – các trận chiến và không khí thường trực sẵn sàng nổ ra chiến trận. Mặt khác, có thể hiểu ông cũng không muốn chúa Nguyễn tấn công ra Đàng Ngoài. Thật ra, trong tám trận, kể cả trận cuối, có đến bảy trận chúa Trịnh tấn công vào Đàng Trong!

“Hoàng Lê nhất thống chí” mặc dù được viết với lập trường hoài Lê, nhưng vẫn khách quan đề cao Nguyễn Huệ và chấp nhận sự nhất thống hai Đàng dưới tân triều Nhà Nguyễn (Gia Long – Tự Đức). Đây là một tác phẩm thuộc loại văn sử bất phân, được viết nối bởi ba người trong gia tộc Ngô Thời làng Tả Thanh Oai, Hà Nội.

Thơ Nguyễn Du. Nguyễn Du là con trai của Nguyễn Nghiễm và em trai cùng cha khác mẹ của Nguyễn Khản. Cha và anh đều là đại thần đứng đầu phủ chúa Đàng Ngoài. Hơn nữa, chính Nguyễn Nghiễm lại cầm quân tấn công Đàng Trong trong trận cuối, 1774-1775, khiến chúa Nguyễn phải bôn tẩu vào Gia Định. Tuy vậy, Nguyễn Du vẫn được Nguyễn Gia Long trọng dụng. Tâm thế của Nguyễn Du thể hiện trong chừng mức nào đó ở thơ ông. Ông tận tuỵ phục vụ tân triều Nhà Nguyễn nhưng không phải không có ít nhiều cảm hoài Lê – Trịnh, mặc dù ý thức rõ cựu triều ấy là thực thể lịch sử một đi không trở lại địa vị lịch sử của nó.

T.X.A. ghi chú về ba tác phẩm trên (24-05-2021).

https://www.facebook.com/tranxuanan.writer/posts/2901331636807435/

.

Bài 20

ĐỨC PHẬT THÍCH CA TRONG TÔI

Trần Xuân An

~ “Ta là Phật đã thành,

các ngươi là Phật sẽ thành” (Lời Đức Phật) ~

Đức Phật nhận mình Người Giác ngộ

giúp chúng sinh lo tự cứu thôi

ngai vàng chính trị, Ngài từ bỏ

lỗi quen sùng bái do loài người

phải đâu Phật giáo là quyền lực

buộc dân đội tượng – dân tôi đòi

Đức Phật – vị thầy về đạo đức

ngồi cạnh ta thiền quán nghiệp đời

mỗi tháng bốn chay, tròn tháng tịnh

gõ mõ tâm tôi thức sọ tôi

tiếng chuông thanh thoát, gia tiên nhắc *

kính Phật, ơn Đời, nhang giữa trời

.

.

Bài 41

TƯƠI TẮN CÁI NHÌN,

TRONG TRẬN MẠC COVID

Trần Xuân An

giữa trận mạc Covid, vẫn rượu cay

miếng thịt gà ngon thơm, nhưng trực tuyến

năm hai mốt, thế kỉ này, trò chuyện

và cùng nhậu qua cáp quang, đường truyền

rượu và thịt, đời đâu phải cửa thiền

vui thực tại, đường vạn năm tiến hoá

kính tu sĩ, ta sống tầm thiên hạ

bạn bè ta ở trần ai, yêu đời

triết bi đát, cảm thức khổ, đúng rồi

nhưng nghiền ngẫm để lãng quên, vui sống

xưa đánh giặc, nay thiền sư rộng cổng

giảng vaccine… Trần ai kính chúc mừng

chuyện vợ con, thiền sư bỏ sau lưng

gánh nòi giống, trút qua vai ta cả

một li rượu, một miếng thịt, ngon quá

triết lạc quan, thực tại, tiến hoá đời!

chúng ta dối lòng “ngon quá!” đó thôi

rượu và thịt này, từ tội sát sanh gà và thóc

nhưng từ vượn-người thành người-có-học

vạn xưa tiến hoá vạn sau, lạc quan thật, ta ơi!

dịch Covid, người phải cách li người

nhà đóng cửa, cách li nhà, phố vắng

bỏ rượu bia, cũng nhậu cho đỡ quẫn

trực tuyến thôi, vẫn kính cơm rau chay.

T.X.A.

08:23-11:01, 12-07-2021

https://www.facebook.com/tranxuanan.writer/posts/2935350526738879/

.

Ảnh: Google search — báo điện tử Sóc Trăng & báo Tin Tức (TTX.VN.)

.

.

~ gõ mõ tâm tôi thức sọ tôi ~ T.X.A. chú thích ảnh minh hoạ

.

lời người chính trị thường linh hoạt

có công thì kính, sao tin lời

lãnh tụ đương triều, thờ, khó luận

phản biện, mắt dân mới rộng vời

chủ quyền Tổ quốc, phải thuần Việt

kinh điển ngoại cường, tham khảo chơi

Nước Tổ chỉ Hùng vương là Tổ

tôn giáo chính trị — tà giáo rồi!

Đức Phật nếu ngồi ngai chính trị

ghi sử truyện Ngài, tối lẫn ngời

chỉ riêng tôn giáo là thờ kính

vị thầy đạo đức, xa lìa ngôi

đạo hữu quy y nhưng nhập thế

chính trị ngoài chùa, thuyền nước trôi

truyền đơn, hàm chức, mùi tanh chợ

đừng nhân danh Phật, thiền thảnh thơi!

ra trận, thiền sư vì vận nước

biết sai nẻo Phật, bút lưng voi

đạo hữu có quyền làm chính trị

nhưng dựa vào chùa, không phải nơi

chùa cần nhập thế, tàng thư viện

kinh Phật chất cao như núi đồi

văn sử cổ kim, huyết lệ mặn

đạo cũng thấu đời như biển khơi

bốn vạn tám nghìn, tâm khế lí

khế cơ phong kiến quá xa xôi

pháp môn Đức Phật thời dân chủ

ngồi bệt bên ta, Ngài mỉm cười.

T.X.A.

21:19-23:01, 24-05-2021

(13-04 âm lịch, Rằm Phật đản)

…………..

(*) Tu, đối với người thế tục như bản thân tôi, chỉ là ý thức và hành vi tự tu, tu tại gia, mặc dù không là cư sĩ. Trong bài thơ này, mới viết, ăn chay mỗi tháng bốn ngày là hành vi thực tế mấy chục năm qua, nhưng hình ảnh gõ mõ, điểm chuông chỉ là hình ảnh trong tâm thức (gõ mõ tâm thức, đánh thức cái sọ xương của mình như cái mõ gỗ; tiếng chuông là lời gia tiên nhắc nhở trong tâm).

https://www.facebook.com/tranxuanan.writer/posts/2901686220105310/

.

Ảnh Đức Phật Thích Ca của Buddhist Art & ảnh mõ Google search

.

.

Bài 42

TỰ KIỂM, GIỮA TÂM DỊCH COVID

Trần Xuân An

dịch Covid, cách li nhau, tự kiểm

cộng nghiệp chăng? Ta tự hỏi, ta ơi…

do mỗi người, duyên nghiệp lành hay độc

với nghiệp ấy tự thân kiếp luân hồi

nếu sản nghiệp bóc lột máu và đất

nhận hay không, con cháu tàn hay tươi?

nếu sản nghiệp phụng sự đời, thành quả

nhận hay không, con cháu khóc hay cười?

giáo lí nghiệp: Mỗi người tự gánh nghiệp

nhận di nghiệp, cộng vào tự nghiệp thôi *

nếu không nhận di nghiệp, tuy lí lịch

đâu nghiệp công, nào nghiệp tội, trắng ngời

(trong lí lịch thêm chăng mục di sản

“nhận” hoặc “không”, chọn lấy một, đủ rồi)

suốt đời ta, làm thơ, viết nhiều sách

tặng con cháu khám phá mới dâng đời

toàn tập ta cũng chẳng bao tiền bạc

nhận – giữ giùm tinh tuý một đời người

ta sợ ác, cái tâm nào dám ác

có chữ nào sâu sia đục tanh hôi?

tự đề kháng Covid trong tâm đó

và ơn đời giúp kháng thể sinh sôi.

T.X.A.

07:24-10:31, 13-07-2021

…………….

(*) Di nghiệp: sản nghiệp, sự nghiệp cha ông để lại.

https://www.facebook.com/tranxuanan.writer/posts/2935996906674241/

toàn tập ta cũng chẳng bao tiền bạc /

nhận – giữ giùm tinh tuý một đời người

Ảnh (google search): Mõ, tự gõ để tự kiểm điểm, đánh thức thiện tâm

Bài 21

RẰM PHẬT ĐẢN NĂM NAY,

NHỚ VẦNG TRĂNG DUY NGÃ ĐỘC TÔN

Trần Xuân An

.

Bài 43

MIỀN BÃO LŨ CỨU TRỢ SÀI GÒN

Trần Xuân An

rau củ tươi miền nghìn năm bão lụt

mát mùi thơm đậm nắng gió cay nồng

bánh ruột tượng Tết những thời trận mạc

muối tản cư dài đường chạy, nhớ không?

thương biết mấy và lạ lùng quá đỗi

có đời mô Miền Trung cứu trợ vô

Sài Gòn thừa, Nam Bộ luôn dư dả

chỉ Covid, chia biệt mới nghẹn khô

Sài Gòn nhận cái tình miền ruột thịt

trại cách li, xóm dân nghèo ấm lòng

khu công nhân xa quê rơi nước mắt

lo bà con sắp mùa bão, trắng đông!

T.X.A.

15:21-19:36, 14-07-2021

https://www.facebook.com/tranxuanan.writer/posts/2936961303244468/

Ảnh báo điện tử Tuổi Trẻ – Google search

.

rằm Đản sinh, nguyệt thực, siêu trăng đỏ

ngón tay chỉ, cà phê đen, sen hồng

uống bóng tối, nhìn theo tay Ngài chỉ

sen gương trăng: Cái Ngã trăng sáng trong

lời của trăng, đứa trẻ sơ sinh nói

mới lọt lòng, Ngài đã thành đạo đâu

lời huyền thuyết, thấy trăng đen thơm ngát

chuyển trăng đỏ, Ngã vô ngã cao sâu

thành đạo rồi, Ngài khuyên nhìn trăng sáng

ngón tay chỉ của Ngài không phải trăng

trăng là Ngã, cái tôi không ai cả

tứ điệu đế, chân lí ánh Đạo vàng *

mọi cái tôi trên đời đều độc nhất

xấu hay tốt, tôi cũng quý trọng tôi

dẫu đều biết, tu sáng rồi dần tắt *

có rồi không, nhưng từng có một người

giữa thế tục, suốt một đời nghĩ ngợi

tách nguyệt thực, đắng ngát – cà phê đời

bông sen đỏ nở trên bùn đen tối

vàng gương sen soi tôi không vì tôi

Phật đản sinh, nói lời trăng ẩn dụ

đừng chấp ngã, đừng duy ngã độc tôn

trăng đen bùn, sen trăng đỏ, vàng đạo

tay Phật chỉ, đừng nhìn. Nhìn trăng tròn

và nhìn đất, một ngón tay khác chỉ

chân lí đất: tứ diệu đế trần gian

trăng hay đất cũng là chân lí ấy

hai tay Ngài không chỉ vào bản thân

lời Thành đạo chiếu soi lời Phật đản

lời sơ sinh dù chỉ truyền thuyết thôi

nhiều pháp thoại, sách báo, sùng bái lệch

trích thiếu lời Phật đản, hiểu lạc rồi *

nếu duy ngã độc tôn, thì chấp ngã

chìm đắm trong cái khổ vì cái tôi

ngã vô ngã, không ai là chân lí

tứ diệu đế, chân lí đất và trời.

T.X.A.

06:12-08:01, 28-05-2021

(17-04 Tân Sửu HB21)

……………

(*) ~ Lời Phật đản trọn vẹn gồm bốn câu, hoặc (1) hoặc (2) sau đây: (1) ”Thiên thượng thiên hạ, duy ngã độc tôn, nhất thiết thế gian, sinh lão bệnh tử”: Trên trời dưới trời, chỉ coi cái tôi là tôn quý nhất, thì dứt khoát thế gian phải chịu sinh lão bệnh tử. (2) ”Thiên thượng thiên hạ, duy ngã độc tôn, vô lượng sanh tử, ư kim tận hỉ!”: Trên trời dưới trời, chỉ xem cái tôi là tôn quý nhất, nên chịu vô số kiếp luân hồi, nay mới vô cùng vui vẻ. (Câu thứ hai này dẫn theo Thượng toạ Thích Minh Đạt). Do đó cần phải tu tập để đạt được vô ngã (không chấp ngã, bám víu vào cái tôi tham sân si), để diệt khổ, thoát khổ (theo tứ diệu đế). Tuy vậy, một số cao tăng đã nghiên cứu kinh điển gốc tiếng Pali, vẫn xác định rằng, hai câu đó là “Trên trời, dưới trời, chỉ có ta một mình tôn quý”, và xem đó chỉ do người đời sau viết thêm vào, trở thành truyền thuyết, huyền thoại hoá. Ở đây, tôi thấy cách hiểu gồm cả bốn câu bên trên phù hợp, nhất quán với tư tưởng Đức Phật Thích Ca hơn. ~ Tu, đối với người thế tục như bản thân tôi, chỉ là ý thức và hành vi tự tu, tu tại gia, mặc dù không là cư sĩ. Trong bài thơ trước bài này, mới viết, ăn chay mỗi tháng bốn ngày là hành vi thực tế mấy chục năm qua, nhưng hình ảnh gõ mõ, điểm chuông chỉ là hình ảnh trong tâm thức (gõ mõ tâm thức, đánh thức cái sọ xương của mình như cái mõ gỗ; tiếng chuông là lời gia tiên nhắc nhở trong tâm).

https://www.facebook.com/tranxuanan.writer/posts/2904084743198791/

.

Ảnh của báo Khuyến Nông,

Xem như ẩn dụ của trăng huyết, siêu trăng trong đêm rằm Phật đản năm nay (Tân Sửu HB21):

.

.

.

Bài 44, 45 (02 bài)

XANH TRỜI TRẮNG MÂY

THỜI TRÁI ĐẤT NHIỄM DỊCH

& CÓ NHIỀU ANH HÙNG NHÂN ĐẠO

Trần Xuân An

1.

thời mọi cái nhìn đều tối

thật khó viết lời ngợi ca

xanh trời trắng mây chống dịch

thế gian bừng sáng mắt ra

ngành dược ngành y thuở nọ

thiên thần xuống cõi người ta

nay đẹp trên nền ngủ trực

đẹp rôm sảy bỏng chín da

tầm nhìn hiển vi, viễn vọng

siêu vi mênh mông — thiên hà

y dược giúp đời xua dịch

cái tâm lòng mẹ bao la

không tối, mắt thời tỉnh táo

siêu vi còn lại hiền hoà

Phật, Chúa đều là thầy thuốc

cứu khổ, mấy dịch đã qua.

2.

che kín mặt mày vóc dáng

cái tâm từ thiện sáng trưng

y dược đương đầu nhiễm chết

tình thương thành chất anh hùng.

T.X.A.

20:11-13:15, 15-07-2021

07:11-08:01, 17-08-2021

https://www.facebook.com/tranxuanan.writer/posts/2937785716495360/

https:// www. facebook. com/tranxuanan.writer/posts/2961070267500238/

.

Xem thêm thơ về dịch COVID-19:

https:// www. facebook. com/tranxuanan.writer/posts/2936825039924761/

.

Ảnh: Google search

Bài 22

XONG

Trần Xuân An

khép cửa bao lần, không khép được

hoá ra sách nổi bão trong phòng

“Tụng Tây hồ”? “Chiến ‘Tụng’”? Hoà giải *

Bến Hải ngược sông Gianh, đã xong

Phạm Thái chửi Quang Trung “nguỵ tặc”

“nguỵ Tây Sơn”, sử Nguyễn nghìn dòng

“nguỵ thư”, Cao Bá Liên, lưu sử *

“nguỵ”, “phản động” nay, mạng vạn còng

(bù đắp “Mùa hè… sông” Bến Hải *

mười tư đầu sách còn long đong

thấy thương “Sơ kính tân trang” cũ *

tình, uất Đàng Trong, bút áo sồng)

hai trận sóng thần Xanh, Đỏ quét

nối Gianh, Bến Hải, máu sôi sông

dựng đê, khoá chốt, đều toang, ngập

thuyền sách neo sân đình, cửa không

kẻ Bắc, người Nam, văn “Chiến ‘Tụng’”

”Tụng Tây hồ”, một bến chia dòng

nối tay đa dạng, cầu chân thật

phòng sách neo thuyền sợi chỉ hồng

lịch sử cứ trôi, cày xới sóng

“nguỵ Tây Sơn” nội lực nên công

“nguỵ” Cao và Phạm thơ hoài sáng *

Gia Long truyền chuộc oán Gia Long

hiểu rộng cho đời thêm thoáng đãng

thời nào mắt tối, rối bòng bong

thôi xây nhà đá, tự soi sửa

chỉ trích, cảm ơn, dù xé lòng

đã nắm chính quyền đừng độc bút

nhà văn có kẻ bút như chông

lập trường thử đổi cho hoà giải

hiểu Bến Hải, thêm chút sáng trong

rốt lại, “Tụng Tây”, “Chiến ‘Tụng’” mới:

đỏ nền, liềm búa, sao vàng ròng

cờ Liên Xô đặt trên đầu Bác

Bến Hải làm sao mây trắng bông!

chín đoá đỏ vàng lam, sọ nở *

Gianh trong Bến Hải đánh Trung – Phnom *

Chiến tranh Lạnh – Nội chiến Vàng – Đỏ

tượng Bác, phông hào quang Trống Đồng.

T.X.A.

08:11-09:40, 30-05-2021

(từ 31-05-2021, giãn-cách-xã-hội TP.HCM. lần 2)

……………….

(*) Nguyễn Huy Lượng (1750-1808) và Phạm Thái (1777-1813, tác giả “Chiến ‘Tụng Tây hồ phú’” và “Sơ kính tân trang”). ~ Cao Bá Liên (con Cao Bá Đạt) thuộc dòng họ thi sĩ Cao Bá Quát, “Đại Nam thực lục” kỉ Tự Đức, tập XXXV, Nxb. KHXH., 1976, tr.173 ghi: truyền bá “nguỵ thư”. ~ “Mùa hè bên sông”, tiểu thuyết của Trần Xuân An (in vi tính, bản 1997 và bản đã chỉnh sửa lần cuối, 2003). ~ Cao và Phạm: Cao Bá Quát và Phạm Thái. ~ Tranh Trần Xuân An về chín đoá chiến công 1945-1989/1991. ~ Từ nối liền sông Gianh đến nối liền sông Bến Hải: Khoảng hai trăm năm, tính từ phong trào Tây Sơn khởi phát, 1771, đến Thống nhất 30-04-1975. ~ Trung – Phnom: Trung Nam Hải – Phnom Penh (Nông Pênh). ~ CŨNG XIN KHẲNG ĐỊNH SÁCH CỦA TRẦN XUÂN AN KHÔNG PHẢI LÀ NGUỴ THƯ, MÀ LÀ SÁCH HOÀ GIẢI DÂN TỘC. MONG ĐƯỢC PHỔ BIẾN VÀ LƯU TRỮ. TRÂN TRỌNG VÀ CẢM ƠN.

https://www.facebook.com/tranxuanan.writer/posts/

.

Bài 46

LẦN ĐẦU TIÊN THƠ CA NGỢI ROI CÒNG

Trần Xuân An

chống dịch, Vũ Hán hàn chặt cửa phòng

quật người vi phạm, còng tay bên hè phố

cảnh sát đánh roi kẻ ra đường ở Ấn Độ

cưỡng chế lên xe, ngay thủ đô Mỹ, Anh

Covid-19 đẩy nhân loại về thời trung cổ

chống dịch, chống cả nhân quyền

trại tập trung, chốt chặn nghẹt thở

nhưng vì mạng sống loài người trước tiên

sống không có nhân quyền

khổ đau hơn mọi đau khổ

nhưng chết không kịp thiêu, máy đào chung mộ

lần đầu tiên, thơ ca ca ngợi roi còng

tôi ca ngợi các anh cảnh sát, dân phòng

cứng rắn đến vắng tanh mọi đường phố

Covid đành bất hoạt, vô phương nẩy nở

chờ đủ vaccine, thơ lại vạn tuế nhân quyền!

vẫn âu lo Tàu xuất khẩu siêu vi phát xít đó?

“dạy bài học” cho khát vọng nhân quyền?

tiêm cho dân chủ, công bằng tận số?

ta hãy thắng Covid, lại nhân quyền vạn niên!

hãy tin các phòng phân chất nước ta, thật rõ

kết quả dài lâu, kết quả nhãn tiền

vững phòng tuyến những tỉnh, làng chưa vỡ

truy tố bác học của Hitler, thế giới bình yên

hãy tin các nhà khoa học phân chất! An nhiên!

thuốc chủng ngừa, thuốc điều trị đã có

roi còng, hạn chế nhân quyền là tạm bợ

trí tuệ, sức sống, tự do vượt thắng ưu phiền.

T.X.A.

07:12-09:25, 16-06-2021

https://www.facebook.com/tranxuanan.writer/posts/2938081703132428/

Ảnh: ba ảnh Google search và một ảnh của T.X.A.

.

Bài 47

BÀI THƠ VIẾT NĂM NGOÁI, 02-2020,

KHI DỊCH COVID-19 BÙNG PHÁT

Trần Xuân An

dịch Covid bay lơ lửng siêu vi Covid

rất dễ bị vương

héo rũ

mặc dù ta khoẻ mạnh bình thường

tự dưng nhớ, thơ ta đỏ vàng một tứ

không vui không buồn:

vàng là quốc kì nội, dựa ngoại xâm và Mỹ

đỏ là quốc kì ngoại, Xô – Trung ngoại cường

như lí lịch nhiều nhà có vàng có đỏ

(hai bờ Bến Hải đều quá đáng thương!)

lí lịch riêng đời ta là hoà giải

— một đời ta sử học, văn chương —

hoà giải cả bằng bức tranh bình sọ

đỏ vàng lam chín đoá — máu xương

ta ước chi in sách giấy toàn tập

rõ tứ thơ lí lịch không vui không buồn

hai đứa con ta sẽ in trọn vẹn

cũng viết lời thưa không vui không buồn

(lẽ ra, toàn tập ta, ta in thành sách lấy

phiền con cháu, bên này bờ Hiền Lương!)

bốn chín đầu sách ta đều đăng trên mạng

(kể cả hai lăm đầu sách qua nhà xuất bản, đăng luôn!)

luật bản quyền! Không ngoài vòng pháp luật

triệu đôi mắt đọc, in giấy riêng cỡ, tuỳ khuôn

sáng nay còn căng thẳng dịch Covid

rất dễ bị vương

héo rũ

mặc dù lâu nay ta mạnh giỏi bình thường

bài thơ này viết như thể viết tuồng

nhưng tâm trạng ta rất thật

(còn ngôi nhà, mẹ con bán buôn độ nhật

là cô biếu bà nội, con nhớ khói hương)

ta vốn không tin về điềm gở (còn sống thọ)

triết lí về lẽ sống, cái chết như vuông gương

thuở trẻ đã suy tư, khác chi chiếu hậu, soi mặt

để nhìn lại, mắt trong gương như mắt cuối đường

tất yếu sẽ tan Covid, thêm một lần Cởi trói

quy luật thực tiễn đã ‘glasnost’ tận nguồn *

cốt cách dân tộc không thể hoài áo nính

bình đẳng đỏ, bắc, vàng, nam, sử lưu phương.

T.X.A.

06:12-07:15, 17-07-2021

……………..

(*) Glasnost: Công khai hoá, minh bạch hóa đến mức tối đa các hoạt động của những cơ quan nhà nước; tự do thông tin và ngôn luận — tại Liên Xô (theo Wi-ki-pe-di-a).

https://www.facebook.com/tranxuanan.writer/posts/2938731009734164/

Bài 23

BI KỊCH

THỜI NỐI LIỀN SÔNG GIANH

Trần Xuân An

cha liệt sĩ phù Lê chống Quang Trung

Phạm theo gươm, rồi cạo đầu tu Phật

nhưng “Sơ kính”, Việt cả người lẫn đất

không mượn Tàu cốt truyện nên muôn đời

nối sông Gianh, công Tây Sơn sáng ngời

nhưng văn học mãi nâng niu “Sơ kính”

lánh cố đạo, Gia Long, thì Minh Mệnh…*

nhưng Phạm yểu, thơ vạn thọ nỗi niềm

đa dạng lắm một thời giữ chữ liêm

sáng suốt Ngô Thời Nhiệm, roi quất chết *

sáng suốt Nguyễn Huy Lượng, vinh sớm hết *

Nguyễn Du… Cả ông nữa. Đều danh thơm *

cuộc đổi đời thành hừng đông, chiều hôm

nối Thạch Hãn, tên nỗi niềm: Bến Hải

sau chiến tranh, còn ra đi, ở lại

đỏ vàng lam… Xanh nữa. Đều danh thơm

nếu không vì hàm chức và rượu cơm

suốt đời văn đau đáu cùng vận nước

màu sắc chi, chống triều sau hay trước

có sai lầm, văn học sử vẫn thương

có nhà văn, văn học sử nguyên chương

nhưng người đọc đời sau không ai đọc

Phạm Thái chống Quang Trung nhưng dân tộc

tình, rượu, tu, thơ góp một góc nhìn.

T.X.A.

chiều 05-06-2021

………………..

(*) ~ Hiệp ước Versailles 1787 giữa đại điện triều đình Pháp và đại diện Nguyễn Ánh (giám mục Pigneaux de Béhaine và “con tin” hoàng tử Cảnh) là có thật, nhưng triều đình Pháp không thể thực hiện do Cách mạng 1789 nổ ra, vua Louis XVI bị giết (1793). Do đó, hiệp ước ấy vô giá trị. Sự thật, chỉ có giám mục P. de Béhaine vận động thương nhân người Âu giúp, và Béhaine thuê khoảng một vài trăm lính đánh thuê người Âu trực tiếp huấn luyện quân, chỉ dẫn đóng tàu chiến, và trực tiếp tham chiến mà thôi. Đổi lại, sau khi đánh bại Nhà Tây Sơn, lập nên vương triều Nguyễn, chỉ có một ít lính Âu đánh thuê ấy ở lại làm quan tại Huế và Thiên Chúa giáo La Mã của Pháp được tự do truyền giáo tại nước ta. Tuy thế, triều đình Gia Long vẫn là triều đình được thiết lập theo cách truyền thống như các triều Trần, Lê của nước Đại Việt ta. Chính Gia Long Nguyễn Ánh đã dặn dò thái tử Đảm, tức vua Minh Mệnh, phải thấy mối lo mất nước bởi Thiên Chúa giáo La Mã của Pháp. Minh Mệnh là ông vua ban dụ cấm đạo Thiên Chúa quyết liệt. ~ Ngô Thời Nhiệm đỗ đạt và làm quan to dưới triều Lê – Trịnh, lại cộng tác, được bổ chức lớn và có công lớn với triều Tây Sơn. Đến khi Gia Long đánh đổ Nhà Tây Sơn, nhất thống toàn quốc, Ngô Thời Nhiệm cùng nhiều kẻ sĩ danh tiếng Bắc Hà từng cộng tác với triều Tây Sơn đều bị đánh phạt. Trong đó, Ngô Thời Nhiệm bị đánh roi đến ốm nặng và chết. Theo giai thoại, Đặng Trần Thường, cũng kẻ sĩ Bắc Hà theo Nguyễn Ánh từ lâu, khiêu khích Ngô Thời Nhiệm bằng vế thách đối: “Ai công hầu, ai khanh tướng, vào trần ai, ai dễ biết ai”. Ngô Thời Nhiệm bị trói, vẫn đáp: “Thế Chiến quốc, thế Xuân thu, gặp thời thế, thế thời phải thế” (hoặc, dị bản: “thế nào vẫn thế”). ~ Nguyễn Huy Lượng là quan triều Lê – Trịnh, cộng tác với Nhà Tây Sơn, làm bài “Tụng Tây hồ phú”, bị Phạm Thái đánh bút lại. Khi triều Tây Sơn bị diệt vong, Nguyễn Huy Lượng cộng tác với Gia Long Nguyễn Ánh, cũng được thu dụng, nhưng chức quan nhỏ hơn. Phải chăng Nguyễn Huy Lượng đã “cơ hội chủ nghĩa”, không giữ được liêm sỉ, khi Gia Long nắm quyền, hay ông tuân theo lẽ biến dịch lịch sử một khi triều Tây Sơn đã suy vong sau cái chết của Quang Trung, và bởi thái sư Bùi Đắc Tuyên lũng đoạn triều chính vì quyền lợi cá nhân, khiến các tướng bất tuân, sát phạt lẫn nhau? Nguyễn Du cũng trăn trở về tình thế lịch sử ấy: “Không có triều đại nào bền vững nghìn năm”! Theo một số tài liệu, sáu năm sau, Nguyễn Huy Lượng bị bức tử, chết (1808) – chết trước Phạm Thái năm năm. Phạm Thái chỉ chết vì bệnh. ~ Ngô Thời Nhiệm, Nguyễn Huy Lượng, Nguyễn Du và một số danh sĩ khác, hiện nay danh tính các ông đều được đặt tên đường phố, nhưng hình như chưa có đường phố nào mang danh tính Phạm Thái. Tuy nhiên, trước và sau 1975, ở Miền Bắc và ở Miền Nam đều có sách nghiên cứu, tôn vinh Phạm Thái.

https://www.facebook.com/tranxuanan.writer/posts/2909789902628275/

Xem trích dẫn tư liệu về Phạm Thái (bài “Chiến ‘Tụng Tây hồ phú'”):

https://www.facebook.com/tranxuanan.writer/posts/2903426429931289/

&

MƯỠU HẬU BÀI “NỘI CHIẾN…”

Ảnh: Tượng Quang Trung – Google search

.

Bài 48, 49, 50 (03 bài)

CÁC THỨ NGOẠI CƯỜNG MỘT GIUỘC

& VIẾT TIẾP… (03 bài)

Trần Xuân An

1.

CÁC THỨ NGOẠI CƯỜNG MỘT GIUỘC

Afghanistan bị mấy ngoại cường giằng xé

máu đổ xương lìa bởi Mỹ đối đầu Liên Xô

(trước đó, Anh và Nga Sa hoàng thực dân cũ)

Chiến tranh Lạnh, Trung Quốc chợt đổi tuyến,

nhào vô

biên giới Việt Nam, Kh’Mer Đỏ – Trung Quốc

bị rơi mặt nạ! Afghanistan làm mặt nạ rơi

các ngoại cường thực chất đều xâm lược

đau xứ hoang mạc, nỏ cây xanh, đẫm máu tươi

yêu Đỗ Phủ, Shakespeare, Tsekhov

Hemmingway, Gorki, Pasternak thiên lương

và sợ hãi vua chúa, tổng bí thư, tổng thống

mọc trên Afghanistan,

lẽ ra chỉ các cổ thụ văn chương!

cây đa cây đề nội địa văn chương tâm ruỗng

tự chuốc hay bị gặm vào, mộng xâm lăng

nịnh ngoại cường này nọ, thù đồng nghiệp

họ chỉ làm hoang mạc trào máu Afghanistan!

văn chương nội chiến địch – ta, quá rồ dại

các phe đều dựa ngoại cường, ai địch ai ta?

thế cũng viết bằng máu, hát khi xốc tới

ôi đất nước nhân dân chưa ngớt khóc la

đâu chỉ bằng gậy chỉ huy ý hệ, cà rốt “ruble” *

Liên Xô đổ quân đánh chiếm đến tự rã rời

Mỹ thay chân, cũng đang sắp sửa rút *

cây công nghệ, kinh tế, văn chương nội địa,

chúc tốt tươi…

nhưng muôn họng súng còn khét lửa

muôn lưỡi dao găm còn máu tanh

nội chiến Afghanistan đang còn đó

xứ hoang mạc bao giờ nhiều nhà máy, cây xanh?

hình dáng Afghanistan: trái sầu riêng chín

gai chĩa súng tự vệ thôi, đừng khủng bố đời

các sắc tộc là các múi thơm chung cuống

mở lòng ra với thế giới loài người

cờ đỏ Búa liềm Sao vàng đã rút

cờ Năm mươi Sao trắng đang rút, sắp xong rồi

Afghanistan độc lập, văn hoá cổ truyền sẽ hiện đại

đau cờ Liên Xô vẫn quốc kì Đất nước chúng tôi.

2.

VIẾT TIẾP SAU NGÀY TALIBAN THẮNG

KHÔNG HOÀ GIẢI HOÀ HỢP *

Taliban tiến quân như gió vào nhà trống

mọi sắc tộc Afghanistan đều lặng im

cả Liên Xô lẫn Mỹ đều bị xem là xâm lược

chả viễn chinh ý hệ nào vào đây

thắng được bằng đạn mìn

Hồi giáo quá lâu đời, thành truyền thống

chỉ giao lưu, truyền thông tương tác,

cách tân dần

nhưng Taliban nếu xuất khẩu khủng bố

chắc thêm một lần 2001 nát tan!

Algeria cũng thắng Pháp bằng độc thần Hồi giáo

Hoa, Triều Hàn và Việt Nam tam giáo, đa thần

nên bị càn sóng thần Xanh, quét sóng thần Đỏ

ngoại lai xâm nhập nội thân, chạm vỡ rồi bình an

đa nguyên tôn giáo, tách chính quyền

khỏi tôn giáo

cực quyền chạm vào thực tiễn,

vỡ mộng cực quyền

khác Afghanistan của khối Hồi giáo

Việt Nam, chỉ chủ nghĩa yêu nước

bất biến, y nguyên.

3.

BURQA NHƯ KHĂN ÁO MA-SOEUR…

phủ kín độc thần một giáo lí

nghìn năm trung cổ thành đêm dài

Phục hưng, Ánh sáng trời vỡ sấm

và sét lừng vang, đa nguyên nay *

thế giới phẳng và thế giới mở

mười phương gió Afghanistan

các ma-soeur cũng burqa đó *

đất nước ấy: tu viện Qur’an

(râu nam Afghan như râu Chúa

như Thánh Joseph tóc ngang vai

Đức Tiên tri dạy không ảnh tượng

nam Afghan đều gương mặt Ngài)

người nữ Afghan như Đức Mẹ

thôi Thập tự chinh, Thánh chiến xưa

thôi đụng đầu giữa Nga và Mỹ

Vu lan chiêu hồn Trái Đất mưa

Việt Nam: cánh tay bên biển cả

tay ôm vào đủ các loại kinh

đa tôn giáo hoà bình tương tác

phi chính trị, tôn giáo khiết trinh

thơ tôn giáo tôi phi chính trị

kính Jesus thành Chúa Phương Tây

kính Qur’an nghìn xưa đối trọng

Nga thôi đỏ rút, Mỹ rời đây

Jerusalem, Mecca thánh

Trung Đông, Trung Á khối đạo Hồi

giống gương mặt và giống trang phục

ấn tượng râu, burqa, mắt ngời…

thế giới phẳng và thế giới mở

phẳng lặng tâm và mắt mở ra

mọi giáo thuyết và mọi học thuyết

đọc vào thực tiễn cõi người ta

thời mạng liên thông và du khảo

đâu giàu công nghệ, mắt hiền hoà?

đâu nhân quyền đẹp, lành văn hoá?

bất khuất, độc lập, thơm cỏ hoa?

T.X.A.

08:12-11:45, 20-07-2021

(Ngày Hiệp định Genève — Ngày Bến Hải)

& trước 17:00, 17-08-2021

(sau hai ngày Taliban chiếm lĩnh Kabul)

& 07:45-08:50, 19-08-2021

…………..

(*) Bài 1: ~ Đồng tiền Nga. ~ Mỹ ủng hộ, viện trợ cho các lực lượng Afghanistan chống lại sự chiếm đóng của Liên Xô (1979-1989). Sau sự kiện 11-09-2001, Mỹ tiến hành cuộc chiến tranh chống khủng bố tại Afghanistan (2001-2021). Bài 2: ~ Thông tin mới: Sau ngày toàn thắng 15-08-2021 ít hôm, Taliban có hứa hẹn sẽ hoà giải, hoà hợp. Bài 3: ~ Thời Phục hưng giá trị cổ đại, Thế kỉ Ánh sáng, Cách mạng Dân quyền và Nhân quyền ở Châu Âu. ~ Các nữ tu Thiên Chúa giáo La Mã, thường được gọi là các ma-soeur (nghĩa đen là chị gái, em gái tôi — cách gọi thân mật), gọi bằng tiếng Việt là “chị”, “các chị”. ~ Burqa: trang phục phủ kín mặt mày, cơ thể phụ nữ Afghanistan.

https://www.facebook.com/tranxuanan.writer/posts/2940874389519826/

https://www.facebook.com/tranxuanan.writer/posts/2962468897360375/

Ảnh: Google Maps và Google search

.

Ảnh: Tượng giám mục Bá Đa Lộc (Pigneaux de Béhaine, thường gọi là Cha Cả) và hoàng tử Cảnh trước nhà thờ Đức Bà, Sài Gòn (khánh thành 1902; hạ khỏi bệ 1945).

Nguồn: Google search

Bài 24

TRƯỚC HIỆP ƯỚC VERSAILLES 1787

VÀ MẶC CẢ 1920 TRONG “TỰ PHÁN”

Trần Xuân An

sóng thần Xanh, thập giá

sóng thần Đỏ, búa liềm

xoá rồi Lăng Cha Cả *

cờ Liên Xô còn nghiêm! *

nghiêng Gianh, Bến Hải ngả

sóng ngược chiều, nỗi niềm

văn sử không tối dạ

thắp lên một cây diêm!

sông Gianh, sấm sét loá

ruột Bến Ván còn hiềm *

Gia Long không thập giá

không thập giá Lăng Khiêm… *

Hiền Lương, Đỏ “sát tả” *

quốc sỉ ngặt nghèo liêm: *

Miền Nam, thập giá hoá

công khai, đổ, ẩn tiềm!

hậu chiến Gianh, không toả

hậu chiến Bến Hải, kiềm

búa với liềm, tự nã:

biên Bắc, Kam, tận Xiêm

sóng thần Xanh, thập giá

sóng thần Đỏ, búa liềm

Xanh, Đỏ đều mặc cả

cờ Liên Xô còn kiêm!

chính thể, cờ đôi lá

đỏ hội trường, ngoài diềm

nội chiến xương máu quá

hội nhập, thư không niêm.

T.X.A.

07:45-18:02, 07-06-2021

…………..

(*) ~ Lăng Cha Cả (Lăng giám mục Pigneaux de Béhaine, còn gọi là Bá Đa Lộc) vốn được xây dựng tại địa điểm nay thuộc Phường 4, Tân Bình, TP.HCM.. ~ Quốc kì Liên Xô: nền đỏ và búa liềm vàng, ngôi sao năm cánh viền vàng (cờ Chiến thắng của Liên Xô: nền đỏ và búa liềm vàng, ngôi sao năm cánh vàng nguyên khối). ~ Sông Bến Ván (Bản Tân) ở cực nam tỉnh Quảng Nam, chia đôi lãnh thổ (1788-1793), phía bắc sông thuộc Nguyễn Huệ, phía nam sông thuộc Nguyễn Nhạc. Chính Quang Trung Nguyễn Huệ mới là người nối liền sông Gianh. Và chính Cảnh Thịnh Nguyễn Quang Toản là người nối liền sông Bến Ván. ~ Khiêm lăng hay Lăng Khiêm: lăng vua Tự Đức (chống Pháp xâm lược và chống bành trướng Thiên Chúa giáo, mặc dù ở tình thế buộc phải kí hai hoà ước Nhâm Tuất 1862 và Giáp Tuất 1874). ~ “Sát tả” là ngữ động từ xuất hiện từ thời Trịnh – Nguyễn phân tranh, đặc biệt nổi rõ từ thời Minh Mệnh đến Hàm Nghi, và cả sau 1945, “sát tả” thành bài trừ tôn giáo, bởi chủ nghĩa vô thần Liên Xô. ~ Quốc sỉ (sỉ dấu hỏi; liêm sỉ): nỗi nhục chung của cả nước.

HỘI NHẬP, THƯ KHÔNG NIÊM

(Hội nhập, thư THÔI niêm)

Tư liệu:

Bản sao bức thư Chủ tịch nước Hồ Chí Minh gửi Tổng thống Mỹ Truman, 16-02-1946, cách đây 67 năm; nay Chủ tịch nước Trương Tấn Sang tặng Tổng thống Obama, 24 – 26-7-2013.

Ghi chú thêm, 11-06-2021:

Tổng thống Mỹ không trả lời, vì hồi ấy Việt Minh nắm chính quyền, mà Việt Minh là cộng sản. Và, Mỹ đã lợi dụng Pháp để chống cộng!

Bức thư Chủ tịch nước Hồ Chí Minh gửi Tổng thống Mỹ Truman, 02-1946

https://www.facebook.com/tranxuanan.writer/posts/2910851809188751/

.

Ảnh 1: Lăng Cha Cả (Pigneaux de Béhaine, 1741-1799) trước đây, tại Phường 4, Tân Bình, TP.HCM. hiện nay.

Ảnh 2: Grigori Naumovich Voitinsky (1893-1953), cục trưởng Cục Viễn đông Quốc tế Cộng sản Bolshevik (đệ tam), tại Trung Quốc, góp phần khai sinh Đảng Cộng sản Trung Quốc, là người đã mặc cả điều kiện viện trợ, đào tạo, huấn luyện cán bộ người Việt với Phan Bội Châu (xem “Tự phán” của Phan Bội Châu).

~~ Nguồn ảnh: Google search ~~

Bài 25

TU SĨ PHẬT GIÁO, PHẢI CHĂNG,

VỪA THỜ KÍNH VỪA TRÁCH OÁN BÁC HỒ

Trần Xuân An

“Nam Bắc toàn dân quy thượng chính

Á Âu thế giới kính tu mi” *

“chính mi”“Chí Minh” – nói lái *

hoà thượng thờ Người nhưng trách chi?

chơi chữ thế kia sâu bí ẩn

quang minh chính đại vướng vương gì *

phải chăng, vâng, phải chăng là vậy

tâm trạng lưỡng phân cõi trí bi

tấm bé, đã vào chùa xuống tóc

đắp y vàng phủ áo sa di

“nằm vùng” vẫn lưỡng phân tâm trạng

vẫn mặc cà sa đến tử quy

không nỡ “Quốc gia tối thượng” bỏ *

chia lòng dân tộc, sử còn ghi

Phật tâm chân chính không duy vật!

tuy kính anh hùng buộc Pháp quỳ

thờ Bác, Sài Gòn thời lửa đạn

khác xa thống nhất nể ân uy

nửa thờ nửa mắng thành tâm sử

đại thắng, sóng loa đài cuốn đi!

cầm bút, lòng tôi liền Bến Hải

hiểu Người thắng Pháp, nước phân li

Mỹ, rồi vụt Hán, quên chùa khổ

theo Bác, cờ sao, chưa quốc kì!

T.X.A.

tối 11-06-2021

…………….

(*) ~ Thông tin khách quan rút ra từ bài báo “Bàn thờ Bác Hồ và câu đối của nhà sư” của nhà báo Lam Điền trên báo Tuổi Trẻ in giấy ra ngày 09-06-2021 và Tuổi Trẻ điện tử: 09/06/2021 09:25 GMT+7. ~ Chơi chữ là kĩ xảo ngôn từ. Nếu chơi chữ cho người đọc hiểu, chứng tỏ người viết quang minh chính đại, không ti tâm, tiểu khí. Nhưng chơi chữ hóc hiểm thì ngược lại. Người cầm bút chân chính không bao giờ “gài chất nổ, cắm chông tẩm thuốc độc” một cách hóc hiểm trong văn chương của mình.

NHÀ SƯ THÍCH PHÁP LAN & TỪ KHOÁ NÓI LÁI KHÔNG PHẢI HÓC BÚA?

“Chú phỉnh tôi rồi chính phủ ơi

Chí Minh đã rõ chính mi rồi

Thi đua chi nữa thua đi mãi

Kháng chiến thế này khiến chán thôi…

… Chiến khu thóc lúa chú khiêng xơi …”

Bài thơ trên đây của nhà thơ Quách Tấn hay của ông Hồ Đệ (đảng viên Việt Nam Quốc dân đảng, người Quảng Nam, đã bị Cộng sản tử hình năm 1954)?

Hồi nhỏ, học ở Tam Kỳ, Quảng Tín (Quảng Nam), tôi biết bài thơ đó còn được lưu truyền. Lâu quá, tôi còn nhớ lõm bõm như thế!

Tạp chí Xưa và Nay số 298 (12-2007) có ghi lại, theo một thông tin trên mạng toàn cầu cho biết. Tôi chưa kịp tra cứu cho rõ.

Tôi nghĩ, không bao giờ có một xã hội với hàng trăm tâm dạng người khác nhau trong một thời đại lại hoàn toàn nhận thức và phát ngôn quan điểm giống nhau.

Có những ý kiến nhận định về Bác Hồ có lẽ không nên nhắc lại, nhưng nhắc lại như tư liệu nghiên cứu lịch sử để sử học toàn diện khách quan thì vẫn tốt hơn. Đã gọi khoa học lịch sử thì phải thế. Ví dụ như nước có kí hiệu hoá học là H2O nhưng trong phòng thí nghiệm hay trong thực tiễn thiếu đi một thành phần, chắc không có nước. Nữa là, cuộc chiến chống Pháp đã thành nội chiến trong Chiến tranh Lạnh toàn cầu!

Nói cho đúng, đó không phải vấn đề cá nhân nhân vật lịch sử, mà chính là sự phân hoá xã hội trong kháng chiến, dẫn đến nội chiến trong Chiến tranh Ý thức hệ toàn cầu! Và thiết tưởng cũng cần hiểu rõ, Bộ Luật hình sự có điều khoản, cấm xúc phạm danh nhân lịch sử. Dĩ nhiên, phải tuân hành. Ở đây và nhiều trường hợp khác nữa, là giải quyết những tồn đọng lịch sử trong quá khứ.

Mặc dù có nhiều ý kiến khác nhau về Hồ Chí Minh, Bác Hồ vẫn là anh hùng đánh thắng Pháp. Sự thật đó không thể thay đổi.

T.X.A.

12-06-2021

https://www.facebook.com/tranxuanan.writer/posts/2914633582143907/

Xem bài báo tại đây:

https://tuoitre.vn/ban-tho-bac-ho-va-cau-doi-cua-nha-su-20210609085655164.htm

https://www.facebook.com/tranxuanan.writer/posts/2914224672184798/

Link bài thơ này tại Facebook:

https://www.facebook.com/tranxuanan.writer/posts/2914241372183128/

Ảnh hoà thượng Thích Pháp Lan và bàn thờ Bác ở chùa Khánh Hưng, Q.3, Sài Gòn 1969, nhà báo Lam Điền chụp lại, đăng trên báo Tuổi Trẻ 09-06-2021.

.

Bài 51

THÁNG BẢY ÂM – DƯƠNG,

KHÓC BẰNG ĐÔI CON MẮT

Trần Xuân An

lệch lòng, người khóc một bên mắt

còn tôi, đôi mắt mặn đôi dòng

ánh vàng Tân Sở, Điện Biên đỏ

đỏ ngoại cường, rồi sẽ trả xong

lệ vàng Tân Sở cũng ghềnh thác

lệ đỏ Điện Biên cũng thác ghềnh

đánh Pháp, đoạn trường đau dựa Pháp

dựa Xô Trung đứt ruột, lênh đênh

ai khóc cũng trong veo nước mắt

sắc cờ lấp lánh hơn trăm năm

nếu mặt nửa gương tê tái liệt

úp vào quốc sử sáng đều tâm

ai chẳng khóc đồng bào nội chiến

vàng quốc nội và đỏ ngoại cường

hai quốc kì hai bờ Bến Hải

hiểu nhau rồi, nhớ lấy mà thương

Búa liềm Sao, đỏ nền Xô viết

thế nước yếu đành làm quốc kì

tháng bảy, chiêu hồn, hai mắt khóc

không quốc kì vàng, sử vẫn ghi.

T.X.A.

09:34-11:20, 22-07-2021

(13-06 Tân Sửu)

https://www.facebook.com/tranxuanan.writer/posts/2942295079377757/

Ảnh: T.X.A. đứng giữa cầu Hiền Lương, Bến Hải

.

Bài 52

QUỐC KÌ ĐẠI NAM,

BÀI HỌC THUỘC LÒNG THỜI TIỂU HỌC

Trần Xuân An

từ xa xưa triều vua là Tổ quốc

chỉ hiệu kì hoàng đế bay ngang trời

khi sứ bộ Đại Nam qua nước Pháp

sắc toàn vàng là quốc kì, nắng soi

ở châu Á cũng theo lệ thế giới

hiệu kì vua thêm quốc kì dân tâm

khác hiệu kì vẫn quốc kì, sau đó

vuông gấm vàng thêu đỏ chữ “Đại Nam”

quốc kì vàng bay sáng trời Tân Sở

vàng lụa tươi thêu quốc hiệu đỏ tươi

quốc kì ấy rời khỏi vương triều Huế

hơn mười năm chống Pháp khắp ruộng đồi

bài thuộc lòng tiểu học đều còn nhớ

bỗng thơ tôi như thể thơ thiếu nhi

hiện cụm từ: “Quốc sử Việt Nam”, rõ

cuốn sử xanh trên màu da quốc kì

ba sọc đỏ là “Đại Nam” mã hoá:

Bắc Trung Nam, trời đất nước Việt Nam

nhiều chiến công, Búa liềm Sao – cờ ngoại

bại vong rơi cờ vàng nội, xa xăm

đỏ ngoại cường đối đầu vàng nội địa

đau nội chiến, vì thế, dài máu xương

gió hoà giải hai bờ sông Bến Hải

cờ “Quốc sử Việt Nam” sáng yêu thương.

T.X.A.

08:25-09:45, 24-07-2021

…………………

(*) Trong “Nhật ký đi Tây” (Như Tây nhật ký), Phạm Phú Thứ viết là Rieunier (Lý-a-nhi) cho rằng quốc kì nước ta (toàn màu vàng) dễ bị lầm lẫn với các lá cờ hiệu của Ai Cập (Ai Cập bấy giờ còn thuộc đế quốc Ottoman Thổ Nhĩ Kỳ). Cờ của vùng Sinai (nay là The North Sinai, Ai Cập) cũng màu vàng (theo cổ truyền từ thời Ayyubid, Mamluk). Do đó Rieunier đề nghị sứ bộ nước ta nên đề cụm từ “Đại Nam khâm sứ” vào. Và sứ bộ cắt lụa đỏ bốn chữ ấy, thêu đính vào hai mặt là cờ vàng ấy.

Tuy vậy, có người hiểu lầm là cờ nước ta thời Tự Đức giống màu cờ Ai Cập thời bị xâm chiếm bởi Thổ Nhĩ Kỳ. Cờ Thổ Nhĩ Kỳ màu đỏ. Vì hiểu lầm như vậy, họ đã dịch sai. Thật ra là ý Rieunier sợ các nước khác lầm cờ vàng Đại Nam nước ta với cờ vàng Sinai như trên đã viết.

Xem cờ cổ truyền Sinai: ~~~ Từ khoá tìm kiếm: Ayyubid dynasty [1171–1260 / 1341], Mamluk Sultanate (Cairo) [1250–1517], The North Sinai ~~~

https://www.facebook.com/tranxuanan.writer/posts/2943683672572231/

1) Quốc kì nước Đại Nam ( 大南 ) — Nguồn ảnh: Google search. 2) Quốc kì Quốc sử Việt Nam (T.X.A. đề xuất, kiến nghị)

.

.

BÀN THỜ BÁC HỒ VÀ CÂU ĐỐI CỦA NHÀ SƯ

(Bài của nhà báo Lam Điền đăng trên báo Tuổi Trẻ in giấy ra ngày 09-06-2021 và Tuổi Trẻ điện tử: 09/06/2021 09:25 GMT+7)

Trích nguyên văn:

(…) “Tấm trướng thờ có 4 đôi câu đối hai bên là sự dụng tâm đáng kể: Nam Bắc toàn dân quy thượng chính / Á Âu thế giới kính tu mi.

Nếu xét nội dung, hai câu trên mang ý nghĩa thông thường, kiểu trướng thờ kính trọng một người có công với đất nước: kêu gọi người dân theo về với chính nghĩa trên hết, thế giới từ Âu tới Á đều kính trọng đấng mày râu.

Câu đối dành cho ai? Đấng mày râu nào vậy?

Chìa khóa nằm ở hai chữ cuối: vế đầu kết thúc bằng chữ “chính”, vế sau kết thúc với chữ “mi”, “chính mi” nói lái là “chí minh”. Câu đối được suy nghĩ kỳ công, rồi cắt chữ trên vải, may vào tấm trướng, thiết lập bàn thờ chỉ để đánh dấu đây là trướng thờ Chủ tịch Hồ Chí Minh. Một bàn thờ ngay tại ngôi chùa ở quận 3, trung tâm Sài Gòn” (…)

(…) “Còn lối chơi chữ ở tấm trướng thờ lại có điểm độc đáo khác. Nếu các cụ đồ Nho ngày xưa thường có lối làm câu đối theo cách “quán thủ” (tức ghép 2 chữ đầu câu để mang ý riêng), thì hòa thượng Pháp Lan trong trường hợp này dùng cách quán vĩ (ghép hai chữ cuối), lại còn ẩn thêm một lần nữa qua cách nói lái, trở thành điển hình của môtip dân gian trộn lẫn với học thuật” (…)

~~ 0o0o0 ~~

Trọn bài:

TTO – Một tuần sau ngày Chủ tịch Hồ Chí Minh qua đời, buổi sáng 9-9-1969 tại ngôi chùa Khánh Hưng ở quận 3 (Sài Gòn), nhà sư Thích Pháp Lan thiết lập bàn thờ âm thầm làm lễ truy điệu Bác…

[Chú thích ảnh 1:

Bàn thờ Bác Hồ tại Bảo tàng Hồ Chí Minh được giữ nguyên trạng từ năm 1969 – Ảnh: L.ĐIỀN]

Diễn ra lặng lẽ nhưng là lễ truy điệu đặc biệt đối với một nhân vật đặc biệt, nhà sư chuẩn bị cũng rất đặc biệt.

Tấm trướng thờ công phu

Theo lời kể của những vị trong sơn môn chùa Khánh Hưng, hòa thượng Pháp Lan bấy giờ hãy còn là một vị thượng tọa. Khi hay tin Chủ tịch Hồ Chí Minh qua đời, ông đã âm thầm bàn với phật tử thân tín dùng vải thiết kế một tấm trướng thờ với quy cách dùng các chữ Hán được cắt lộng từ vải và may lên nền một tấm vải khác.

Tấm trướng thờ có 4 đôi câu đối hai bên là sự dụng tâm đáng kể: Nam Bắc toàn dân quy thượng chính / Á Âu thế giới kính tu mi.

Nếu xét nội dung, hai câu trên mang ý nghĩa thông thường, kiểu trướng thờ kính trọng một người có công với đất nước: kêu gọi người dân theo về với chính nghĩa trên hết, thế giới từ Âu tới Á đều kính trọng đấng mày râu.

Câu đối dành cho ai? Đấng mày râu nào vậy?

Chìa khóa nằm ở hai chữ cuối: vế đầu kết thúc bằng chữ “chính”, vế sau kết thúc với chữ “mi”, “chính mi” nói lái là “chí minh”. Câu đối được suy nghĩ kỳ công, rồi cắt chữ trên vải, may vào tấm trướng, thiết lập bàn thờ chỉ để đánh dấu đây là trướng thờ Chủ tịch Hồ Chí Minh. Một bàn thờ ngay tại ngôi chùa ở quận 3, trung tâm Sài Gòn.

Điều thú vị của trường hợp tự làm câu đối để thờ Bác Hồ ở đây chính là câu chuyện hình thành từ sự pha trộn giữa tâm thức dân gian và lối chơi chữ của người bình dân Nam Bộ có học.

Xuất phát từ lòng người

Câu chuyện một nhà sư tự mình vì kính ngưỡng Chủ tịch Hồ Chí Minh nên lập bàn thờ khi nghe tin Bác mất được biết đến khi vào đầu những năm 2000, Bảo tàng Hồ Chí Minh chi nhánh TP.HCM (bến Nhà Rồng) có kế hoạch tìm hiểu sưu tầm và tổ chức phòng trưng bày đền thờ Bác Hồ ở Nam Bộ.

Thật bất ngờ, qua tìm hiểu, tại các tỉnh thành Nam Bộ có đến 40 cơ sở gồm gia đình và đền chùa lập bàn thờ Bác. Trong số đó, bàn thờ do hòa thượng Thích Pháp Lan tại chùa Khánh Hưng thiết kế với những nét độc đáo như đã thấy lập tức thu hút giới nghiên cứu và cán bộ bảo tàng.

Sau khi hòa thượng Thích Pháp Lan viên tịch năm 1994, Bảo tàng Hồ Chí Minh đón bàn thờ này về vào năm 2003. Từ đó, tại tầng 2 trong không gian trưng bày các đền thờ Bác, bàn thờ với đôi câu đối chữ Hán kỳ đặc kia được duy trì trang trọng, để vừa phục vụ khách tham quan vừa là nơi tưởng nhớ Bác trong các dịp lễ hằng năm.

Theo ý kiến của một số nhà nghiên cứu, việc hòa thượng Thích Pháp Lan (pháp danh Trừng Tâm, thuộc dòng Liễu Quán của ngài Thiệt Diệu, tông Lâm Tế) lập bàn thờ Bác Hồ phản ánh một nét riêng của Phật giáo Việt Nam nói chung và Phật giáo Nam Bộ nói riêng.

“Điều này xuất phát từ lòng người, tự ông thầy Pháp Lan thấy nên thờ Bác Hồ thì ông và phật tử của ông thu xếp để qua mắt chính quyền và làm lễ truy điệu. Việc ấy không xuất phát từ một chủ trương nào hay do ai hướng dẫn. Mà có như vậy mới trở thành giá trị tồn tại ở đời” – một nhà nghiên cứu tại Sài Gòn xin giấu tên nêu nhận xét như vậy.

Dân gian trộn lẫn học thuật

[Chú thích ảnh 2:

Ảnh hòa thượng Thích Pháp Lan – trụ trì chùa Khánh Hưng – hiện được treo tưởng niệm tại Bảo tàng Hồ Chí Minh chi nhánh TP.HCM – Ảnh: L.ĐIỀN chụp lại]

Tâm thức dân gian quan niệm những ai có công, được nhiều người kính trọng và hướng về, khi chết đi đều đáng được thờ. Chính vì vậy mà giữa lòng Sài Gòn với nhiều tai mắt của chính quyền lúc bấy giờ săm soi những ai đang “hướng về miền Bắc” thì một bàn thờ dành cho Bác Hồ và lễ truy điệu vẫn được tổ chức.

Còn lối chơi chữ ở tấm trướng thờ lại có điểm độc đáo khác. Nếu các cụ đồ Nho ngày xưa thường có lối làm câu đối theo cách “quán thủ” (tức ghép 2 chữ đầu câu để mang ý riêng), thì hòa thượng Pháp Lan trong trường hợp này dùng cách quán vĩ (ghép hai chữ cuối), lại còn ẩn thêm một lần nữa qua cách nói lái, trở thành điển hình của môtip dân gian trộn lẫn với học thuật.

Tác giả bài báo: LAM ĐIỀN

-------- o0o0o --------

Tư liệu:

THƯỢNG TOẠ THÍCH PHÁP LAN (chùa Khánh Hưng, Q.3, Sài Gòn cũ) LÀ “CỘNG SẢN NẰM VÙNG” (Tôi dùng từ ngữ có tính lịch sử – cụ thể — T.X.A.)

—————————————

Nguyên văn bài viết:

Lễ truy điệu Bác Hồ giữa lòng địch

Được đăng: 06 Tháng 9 2013 trên website Ban Quản lý Lăng:

https://www.bqllang.gov.vn/index.php?option=com_content&view=article&id=1616:l-truy-di-u-bac-h-gi-a-long-d-ch&catid=99&Itemid=743&lang=vi

Những ngày đầu tháng 9-1969, tin Chủ tịch Hồ Chí Minh qua đời đã gây xúc động sâu sắc đến tình cảm của mọi người con dân nước Việt. Từ đô thành còn chịu sự kìm kẹp của địch đến bưng biền Đồng Tháp, đất Mũi Cà Mau, từ Nhà tù Chí Hòa, Côn Đảo đến chiến khu giải phóng, những người chiến sĩ cách mạng và nhân dân miền Nam, bằng nhiều hình thức, đã tổ chức truy điệu Người với lòng kính yêu vô hạn.

Nhiều nguồn sử liệu cho thấy, Lễ truy điệu Chủ tịch Hồ Chí Minh tại chùa Khánh Hưng, do Hòa thượng Thích Pháp Lan, khi đó là Thượng tọa trụ trì, làm chủ lễ với sự tham dự của hàng trăm người. Đây là nơi duy nhất ở Sài Gòn – Gia Định công khai tổ chức truy điệu Người mặc dù bị địch theo dõi, khủng bố gắt gao.

[Chú thích ảnh:

Một góc chùa Khánh Hưng]

Chùa Khánh Hưng ngày nay ngụ tại hẻm 390 đường Cách mạng Tháng Tám (thời đó là đường Lê Văn Duyệt), phường 11, quận 3, TP Hồ Chí Minh, được khởi tạo từ cuối thế kỷ XIX, do Phật tử hai vùng Khánh Hội và Hòa Hưng góp tiền của xây nên. Năm 1947, Hòa thượng Thích Pháp Lan được cung thỉnh về trụ trì chùa. Hòa thượng pháp húy Trừng Tâm, pháp danh Thiện Hảo, thế danh là Lê Hồng Phước, sinh năm 1913, quê ở làng Tây An, huyện Tây Sơn, tỉnh Bình Định, xuất gia quy y từ năm 14 tuổi.

Là một nhà tu hành yêu nước, trong kháng chiến chống Pháp, Hòa thượng vừa tiếp tục công việc tiếp dẫn hậu lai, vừa bí mật tham gia hoạt động cách mạng, được giao phụ trách an ninh Khu 4 – Mỹ Tho và giữ chức vụ Chủ tịch Lực lượng Phật giáo cách mạng Sài Gòn – Gia Định. Năm 1953, Hòa thượng được đề cử làm Tổng Thư ký Tăng đoàn Liên tông Việt Nam. Năm 1963, cùng chư tôn giáo phẩm, tham gia trong Ủy ban Liên phái bảo vệ Phật giáo, Hòa thượng đã tích cực đấu tranh chống chế độ độc tài gia đình trị Ngô Đình Diệm đàn áp Phật giáo.

Năm 1969, được tin Bác Hồ qua đời, Hòa thượng Thích Pháp Lan vô cùng đau xót, mong muốn làm một việc gì đó để tỏ lòng thành kính tiếc thương bậc đại trí, đại nhân, đại dũng của dân tộc.

Để che mắt bọn mật vụ tay sai địch, Hòa thượng cho trang trí bàn thờ thật khéo, vừa có hình ảnh cờ đỏ sao vàng vừa bày được bài vị Chủ tịch Hồ Chí Minh. Thông thường bàn thờ có mâm hoa, mâm quả. Bên mâm hoa, Hòa thượng cho bày bông trang màu đỏ thay cho nền cờ và bông điệp làm ngôi sao vàng. Bên mâm quả, Hòa thượng bày quả xoài cát Hòa Lộc màu vàng làm ngôi sao và quả mận hồng đào (quả bồng bồng) làm nền cờ. Trên bàn thờ, chỗ trang trọng nhất, nơi thường đặt bài vị có mấy chữ Hán “Quốc gia tối thượng”, nghĩa là “Quốc gia trên hết”, cũng có thể hiểu đó là bài vị “Người cao nhất nước nhà”, người đó là Hồ Chí Minh. Tuy đã công phu như vậy, nhưng những người đứng ra tổ chức buổi Lễ còn dụng tâm tìm cách thể hiện được tên Bác Hồ trong lễ cầu siêu. Trong hoàn cảnh chính quyền Sài Gòn o ép, khủng bố gắt gao, không cho bất kỳ cá nhân, đoàn thể nào công khai tổ chức truy điệu Cụ Hồ, Hòa thượng Thích Pháp Lan đã thức trọn đêm, nghĩ ra đôi câu đối:

Nam Bắc toàn dân quy thượng chính

Á Âu thế giới kính tu mi.

Vế đối thứ nhất nói được tình cảm của toàn dân Việt Nam từ Nam chí Bắc đều quy phục người vĩ nhân chân chính. Vế thứ hai nói lên tình cảm của nhân dân thế giới vô cùng kính phục đấng tu mi nam tử. Nếu chú ý, cũng có thể thấy dụng ý ở hai từ cuối mỗi vế đối: Chính, Mi nói lái thành Chí Minh, tên Cụ Hồ.

Nội dung quan trọng nhất, vấn đề quan trọng nhất của buổi Lễ truy điệu là bài điếu văn. Bài điếu phải nói được công lao của Bác, tấm lòng của nhân dân hướng về Bác, không dài quá để tránh bị cảnh sát, mật vụ chế độ ngụy quyền phát hiện khủng bố giữa chừng và phải linh hoạt dễ phi tang, không để địch ập vào dùng vũ lực thu mất. Bài điếu văn được Hòa thượng tẩm sáp ở mặt sau tờ giấy và cho đặt ngay sát nơi đứng chủ lễ hai ngọn nến to. Ban Tổ chức cũng bố trí nhiều nhà sư, chú tiểu, các Phật tử là nam thanh niên khỏe mạnh, lực lưỡng làm thành hàng rào danh dự bảo vệ lễ đàn để tăng thêm vẻ trang nghiêm, tôn kính của buổi Lễ và sẵn sàng xả thân đối phó với cảnh sát, mật vụ nếu chúng xông vào.

Theo “HCM Citynet” của UBND TP Hồ Chí Minh, đúng 2h chiều 9-9-1969, chỉ sau Lễ truy điệu Chủ tịch Hồ Chí Minh tại Quảng trường Ba Đình, Hà Nội vài tiếng đồng hồ, Lễ truy điệu Người tại chùa Khánh Hưng bắt đầu. Nhiều trí thức có tên tuổi ở Sài Gòn như bà luật sư Ngô Bá Thành, luật sư Trần Ngọc Liễng, các vị Nguyễn Long, Dương Văn Đại, Đặng Văn Ký… cùng hơn 200 thanh niên, học sinh, bà con Phật tử yêu nước đã tề tựu dự lễ. Hòa thượng Thích Pháp Lan dáng vẻ uy nghiêm, đĩnh đạc chủ lễ, giọng trầm ấm truyền cảm đọc bài điếu văn tưởng nhớ Chủ tịch Hồ Chí Minh trong không khí trang nghiêm, thành kính. Đọc xong, Hòa thượng châm tờ giấy vào ngọn nến.

Phụ đính tư liệu xem thêm, thuộc bài 25 ===>>> xem tiếp ở cột chữ bên phải

.

.

Bài 53

CHỢT NHỚ VỀ

GHI CHÉP SỬ SEN DÂN, MÁU LÍNH

Trần Xuân An

sử liệt truyện thuở nào, nay vắng chép

những người vợ tiết hạnh, mẹ nhân từ

bao người con hiếu đễ, thơm làng tộc

đức thấm sâu, nhiều ẩn sĩ, thiền sư

sen kinh thành, đình chùa, nhà thờ họ

cũng nhân kiệt làm đất thành địa linh

sử liệt truyện thường dân đời thường ấy

mấy đời rồi hậu duệ tự khuyên mình

sử thực lục nhiều danh sách tử sĩ

đủ họ tên, tế chung hồn trận vong

thiếu quê quán nhưng lưu trong tộc phả

sen thường dân hiếm hơn máu ghi công?

trăm chiến tranh, mấy nghìn triệu tử sĩ

quốc sử ghi, hương sử, tộc sử ghi

bao đền thờ, đài ghi công, sen ngát

đỏ và vàng, dân, thương binh, cô nhi…

sử người lính mất tay chân, mù mắt

sử người vợ trọn cuộc đời nguyên trinh

sử chiến sĩ quên thân như phim ảnh

thành hát dạo, cày đồng, thương nước mình

thật khó chăng tâm bình như nước giếng

như máy ảnh, đáy tâm nhãn, thứ ba

chính nghĩa đỏ, chính nghĩa vàng, vận nước

lớn lao trong ruộng hát, vỉa hè ca…

chưa đọc hết Phan Thúy Hà, liệt truyện

những ghi chép hai phía lính già rồi

sử “Đừng kể tên tôi” – tiểu sử có

sử “Tôi là con gái của cha tôi”

bút chép sử từ phận dân, lính khổ

bao triệu người cát bụi rồi lãng quên

nhưng xương máu, nước mắt họ: lịch sử

đỏ và vàng chống ngoại xâm hai bên

bút chép sử từ phận đời có thật

nhưng lính-vàng-chống-đỏ “Mẹ Mốc” rồi

‘tự bôi lấm xoá nhoà, qua mắt tục’ *

họ từ chối, mà giấy phép siết thôi!

chưa đọc hết Phan Thúy Hà, liệt truyện

vài trăm trang sao nói hết nghìn trang

con đường khổ, bút đến gần sử thật

mong dày thêm sử máu lính, sen dân.

T.X.A.

08:12-09:56, 25-07-2021

………….

(*) Hình tượng “Mẹ Mốc” trong thơ Nguyễn Khuyến.

https://www.facebook.com/tranxuanan.writer/posts/2944366289170636/

.

Ảnh của nhà văn Phan Thuý Hà

.

Bài 54

TIẾNG HÚ HỒN

TRONG TRẦM GIỌNG CHIÊU HỒN

Trần Xuân An

rằm hú hồn “Văn chiêu hồn” *

trần gian thập loại đều còn xương tro

hồng và trắng đều ngẩn ngơ

vắng hoa cài áo, khoá trơ cổng chùa

đạo làm con tự nghìn xưa

đang đại dịch, lắng chuông đưa hồn về

nhà nhà đóng cửa, ngồi nghe

tiếng hú hồn, thắt, tái tê chiêu hồn

mẹ ai khác tín ngưỡng con

dù hồng hay trắng đâu còn chén than *

nghe kinh thập loại trần gian

dịch hú hồn, mừng bình an nhà mình

ba tháng dài ngồi lặng thinh

giới nghiêm, cái chết, thất kinh hú hồn

cách li, tâm giữ tĩnh hơn

thương mộ mẹ, vắng cháu con rằm này!

xe hú hồn cứu, như bay

người từ thiện hú hồn, lay lắt đèn

nghe kinh “Chiêu hồn”, tâm yên

lòng y dược, sức sống bền núi sông.

T.X.A.

06:40-08:45, 22-08-2021

(Rằm Vu lan năm Tân Sửu HB21)

……………..

(*) ~ “Văn chiêu hồn” hay “Văn tế thập loại chúng sinh” của Nguyễn Du (1765-1820). Ông cũng bị qua đời do đại dịch (trận dịch lớn, ngay trong nước ta, cũng đã lây lan khắp nhiều tỉnh). ~ Rằm Tháng Bảy, lễ Vu Lan, có sự tích Thầy Mục Kiền Liên cứu mẹ: Bà Thanh Đề, tín đồ Bà La Môn, thương con theo quan niệm của bà. Bà muốn con vẫn là quý tộc Bà La Môn, không cho con đi tu theo Phật giáo, nên bà đã báng bổ tam bảo (Phật, pháp, tăng). Do đó, bà bị đoạ địa ngục làm quỷ đói. Khi Thầy Mục Kiền Liên dâng cơm cho bà, bà bưng chén, cơm cháy thành lửa, thành than. Ngày nay, thời đại nhân quyền, trong đó có quyền tự do lựa chọn tôn giáo (hoặc không tôn giáo), hi vọng bi kịch và tội báng bổ dẫn đến nghiệp báo ấy không còn.

https://www.facebook.com/tranxuanan.writer/posts/2964589710481627/

.

Bài 55

BÀI ÁP CUỐI CỦA ĐẦU SÁCH 49/50

Trần Xuân An

~ tặng các bạn Hàn Quốc, Triều Tiên ~

~ & để nhớ Hiệp định Paris 27-01-1973 ~

nếu hoà giải trước nối liền

không ai phẫn hận, nước nghiêng đường mình

nhưng bạo lực đạt hoà bình

lại bôi tro, trát trấu kinh khủng thù

yên nước, bằng đầy trại tù

biển đen thuyền trốn, rừng mù khai hoang

lí lịch, trục gốc Nam vàng

để bao Bắc đỏ vô tràn Hiền Lương

Bắc quê mùa hoá, quá thương

“con người mới” cho chiến trường, quá đau

vào Nam, cái hận thêm sâu

hoà giải ư? Bắc phủ đầu, đâm lưng

đồng bào khóc trợn khóc trừng

bao năm hậu chiến cười khùng cười điên

hiện thực phiền, thơ vượt phiền

lãng mạn đỏ để nối liền núi sông *

hoà giải, lí của cái còng

lưu dung, trịch thượng “khoan hồng tàn dư”?

người thơ đâu phải người ngu

biết ơn thắng Pháp nên thu thân mình

biết hoà giải vững hoà bình

vàng oan cởi ách, đỏ khinh đỏ người

đánh Pháp, cờ Xô, Trung ngời

vàng nương Pháp, Mỹ, xua xuôi Pháp về

công bao triều cổ xưa kia

triều nào cũng đổ, sử bia không mờ *

tươi chín đoá, bình sọ khô *

Chiến tranh Lạnh, sử tưới thơ, yên đời…

công to mấy cũng đổ thôi

bền chăng, nhờ lắng nghe lời dân than

sửa sai dối, hoà giải gian

chút quyền lợi Bắc thành ngàn tội to…

đọc bài “quan Bắc, Nam nô” *

ước sử ghi, biết bao giờ sử ghi!

Bắc ở Bắc, vô đây chi

mơ thống nhất, nay không gì buồn hơn!

duy khai hoang, mấy làng thôn

Nam ở Nam, thơ mãi còn mến thương

người xa nước, mãi xa nguồn

Bắc ra Miền Bắc, sáng chương sử mình…

đồng bào Bắc hỡi, ân tình

Miền nào nấy sống, yên bình nước non

đẹp lương tâm cho cháu con

giải phóng ư? Bắc trị còn đau thêm!

sóng thần mấy vạn ngày đêm

sóng Xanh, sóng Đỏ, rã mềm da xương

đang Bắc đỏ, dân đau thương

sử làm sao khuyết được chương sử này!

hiện thực hai mặt lá cây

một lòng, viết thật đủ đầy, không hai

Triều – Hàn, yêu ai, bỏ ai

Miền nào nấy ở, trong ngoài một thôi.

T.X.A.

viết trước ngày 28-07-2021

08:25-10:45, 11-08-2021

……………….

(*) ~ Lãng mạn đỏ: Viết về cái-nên-có trên mọi lĩnh vực theo lí thuyết tuyên truyền đỏ, có tính nhân văn, nhân bản. ~ Nguyễn Du: “Cổ kim vị kiến thiên niên quốc” (xưa nay chưa thấy triều đại nào nghìn năm). ~ Xem chú thích về bức tranh bình sọ chín đoá ở bài thơ thứ mười, “Đều tay không chân đất, xin hai Việt Nam mình tự vấn”, trong tập thơ này. ~ Nhiều tác giả viết về thực trạng “Bắc thực dân Nam” này.

https://www.facebook.com/tranxuanan.writer/posts/2956795744594357/

.

.

Ảnh: Cầu Hiền Lương, Bến Hải, Vĩ tuyến 17 trước 1967. Nguồn ảnh: Google search

.

Bài 56

BÀI CUỐI CỦA ĐẦU SÁCH 49/50

Trần Xuân An

trời sinh ta có quê gốc Quảng Trị

tỉnh có cầu Hiền Lương gánh hai miền

dầm đôi chân xuống nỗi đau Bến Hải

kê vai gánh, gắng không để chúc nghiêng

sau đỏ – vàng, lâu rồi hai bờ đỏ

“Mùa hè…” gần, sắc cờ thức trong ta *

ta tỉnh giấc, hiểu vì sao nội chiến

đỏ ngoại cường đối địch vàng quốc gia

bốn nghìn năm, thăng trầm nhưng hiển hách

sao quốc kì lại quốc kì Liên Xô?

nhục quốc thể, đánh nhau đến tan nát

cũ và mới, ngoại cường hai Khối vô

vàng chống đỏ – đường đỏ là độc đạo

một độc nhất, đảng trở thành tước hàm

vàng chống đỏ – trói buộc mà không tưởng

chống ngoại xâm trong xương thịt Việt Nam

(trước chào đời, sự thể là thế đó

thuở học trò, ai ai cũng hiểu rồi

nhưng chiến tranh lao nhanh, đỏ đại thắng

triệu lính vàng chiến bại nín im hơi!

thuở nối liền, hiểu đỏ cờ chính thể

vô tổ quốc, vô biên cương: đại đồng *

cờ không tưởng, ba đoá đỏ lại thật *

cờ Giải phóng đảo ngược, ngỡ hừng đông! *

ba đoá đỏ lôi cuốn đời bước tới

“Việt Nam vàng của lòng người hôm nay” *

nhưng Giải phóng cũng cờ Nga xô-viết

nghiệt ngã hơn thực dân cũ, đắng cay!)

cầu Hiền Lương chúi một đầu, thất thế

cầu lịch sử, yên mặt nước, thẳng ngay

còn nghiêng lệch, dĩ nhiên cầu còn hỏng

nối hai miền, thất thế, đoạn sử này!

a ha ha, làm người hoà giải sử

ta viết đi, viết lại, như khôn nguôi

cầu Hiền Lương, hơn bảy năm, vai gánh

cân bằng chăng chỉ ở trong tâm người

vẫn cờ đỏ thì ta công dân đỏ

đỏ ngoại cường nào phải lỗi ta đâu

cờ “Quốc sử Việt Nam” ( — sử có Bác

có cờ đỏ, cờ vàng — ) gánh vác cầu

gánh vác cầu, còn bức tranh chín đoá

có bảy đoá trước một chín bảy lăm

bình sọ người — máu xương vàng, lam, đỏ

trụ dựng tranh, cờ ”Quốc sử”, chân dầm

(cộng cho cân Chiếc-cầu-Chiến-tranh-Lạnh

Kh’Mer đỏ, Trung Quốc đỏ xâm lăng

lật Afghanistan, Liên Xô chiếm

sụp Liên Xô, Đông Âu, cộng thêm chăng?)

thương Bến Hải – Điểm nóng Chiến tranh Lạnh

Khối chống Đỏ, khắp nhân loại, thắng rồi

Nam – Bắc mình, bình sọ nở chín đoá

nội chiến nhưng chống hai Khối, rõ thôi!

cầu Hiền Lương, đúng ra từ Xô-viết…

và trước nữa… Trăm lần từ giã hoài *

ta nghề viết, viết năm mươi đầu sách

vẫn ”cởi trói”, rời cầu, đường rộng dài.

T.X.A.

09:11-11;45, 28-07-2021

…………….

(*) ~ “Mùa hè bên sông” (1997 & 2003), tiểu thuyết của Trần Xuân An. ~ Theo chủ nghĩa Marx-Lenin, lí tưởng cộng sản chủ nghĩa là tiến tới xây dựng xã hội loài người phi giai cấp, phi dân tộc, phi nhà nước, phi đảng phái, phi quốc gia, phi tôn giáo… (vô giai cấp, vô dân tộc, vô chính quyền, vô đảng phái, vô tổ quốc, vô tôn giáo…). Đó là tôn chỉ lí tưởng được công khai tuyên bố, giảng dạy trong nhà trường cho học sinh, sinh viên. L’Internationale (Quốc tế ca). ~ Xem chú thích về bức tranh bình sọ chín đoá ở bài thơ thứ mười, “Đều tay không chân đất, xin hai Việt Nam mình tự vấn”, trong tập thơ này. ~ Thơ Tố Hữu (1973): “Lá cờ nửa đỏ, nửa xanh / Màu đỏ của đất, màu xanh của trời / Ngôi sao, chân lí của đời / Việt Nam, vàng của lòng người hôm nay”: Đỏ đất ở trên, xanh trời ở dưới. Đảo ngược. ~ Giai đoạn lịch sử một trăm một trăm ba mươi ba năm (1858-1989/1991).

https://www.facebook.com/tranxuanan.writer/posts/2946609948946270/

Chú thích ảnh:

H.1: Cờ nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa xô-viết Liên bang Nga (tức nước Nga xô-viết) trong Liên Xô.

H.2: Về lá cờ Mặt trận Giải phóng Miền Nam Việt Nam, tôi ngỡ là “LÁ CỜ HỪNG ĐÔNG TRÊN BIỂN” (xem bài thơ này, bài 7, tập thơ này). Nhưng theo Tố Hữu (“Nước non ngàn dặm”, 1973), màu đỏ đất ở trên màu xanh trời! Như thế là đảo lộn trời đất!

Lá cờ Giải phóng (cờ Mặt trận Giải phóng Miền Nam Việt Nam) chỉ là một phiên bản biến thể của lá cờ Cộng hoà xã hội chủ nghĩa xô-viết Liên bang Nga, nước đứng đầu Liên Xô, thực chất là đế quốc Nga Đỏ.

H.3: Quốc kì Cộng hoà xã hội chủ nghĩa xô-viết Ukraina, thuộc Liên Xô: Một biến thể của quốc kì CHXHCN.XV.LB. Nga, thực chất là đế quốc Nga đỏ.

.

.

MỤC LỤC TẬP THƠ

Link (bấm vào đây)

_______________________

Google Sites / host

WORDPRESS, GOOGLE PAGE CREATOR, DOTSTER, MSN. & YAHOO ... / HOST, SEARCH & CACHE