Còn hai tuần nữa là Noel, bầu không khí từ nơi làm việc, ngoài đường, cho đến trong những shopping đều vui hẳn lên, ai ai mặt mày cũng nhẹ nhàng bởi vì sắp được nghỉ xả hơi sau một năm trời lao động cực khổ. Giới trí thức thì thư giãn để dưỡng tâm, dưỡng lực. Đám trẻ từ tiểu học, trung học đến đại học, tất cả đều cảm thấy nhẹ nhõm, lâng lâng và phơi phới gạc sách vở qua một bên, dành thì giờ cho việc xem phim, chơi game và party cùng bạn bè... những gia đình khá giả hơn thì đi du lịch nước ngoài.
Riêng tôi, ở cái tuổi mãn kinh mà hầu như đã là đàn bà thì phải bước tới giai đoạn này, tối ngày toàn là những căn bịnh vặt vãnh còn gọi là bịnh giả vờ. Tôi mất ngủ triền miên, mặt mày lúc nào cũng bơ phờ, hốc hác, tóc thì rơi rụng và thưa dần, trông xơ xác như kẻ ốm liệt giường, ngay chính tôi còn phải trốn cái cảnh soi gương mỗi ngày nói chi đến chuyện hẹn với hò cùng ai! Ấy vậy mà mùi vị của không khí Giáng Sinh và Đầu Năm luôn cuốn hút tôi đó các bạn à! Bởi vì những ngày cuối năm tất cả anh chị em và con cháu đoàn tụ, và cũng là thời gian bạn bè thân thương luôn tìm đến nhau, đó là lý do tôi thích cuối năm là vậy.
Chiều Ba Mươi Tết, tiệm Việt nào cũng đầy rẫy các loại bánh mứt... món nào cũng được trịnh trọng bọc giấy bóng kiếng đỏ, cột những cái nơ xinh xinh kèm theo hàng chữ``Chúc Mừng Năm Mới`` để làm quà biếu xén nhau vào những ngày Tết. Những chiếc bánh chưng, những đòn bánh tét vẫn còn thơm ngát mùi lá chuối. Trái cây thì đa dạng nào là đu đủ, dưa hấu, táo, cam, bưởi, nho, xoài, quýt, quất, chuối, vú sữa, măng cụt, mảng cầu xiêm, mảng cầu dai, dừa. Thứ ăn, thứ uống, thứ bày, thứ chưng trong ba ngày Tết! Tha hồ dân ta mua sắm. Nhiều tiệm còn bày la liệt những chậu cúc, vạn thọ đang nở rộ khoe hương sắc, những cành hoa mai vàng, mai đỏ, cành đào hồng, đào trắng, cùng nhau nằm xen kẽ những chậu quất chi chít trái màu vàng cam nhìn rất đẹp và vui mắt.
*****
Tôi nhớ nhiều nhất kỷ niệm vào cuối năm 1980 ở Việt Nam, ngoài căn nhà ở Sài Gòn được giữ lại để anh em tôi đi học, Ba Má tôi mua thêm căn nhà ở Long Toàn để tiện việc trông coi ruộng rẫy.
Trước Tết 3 ngày, sau buổi học cuối, mấy anh em tôi và ba người con của Bác Tư, anh kế của Ba tôi, anh Tâm, anh Linh và chị Thu kéo quân về Long Toàn. Mới 5 giờ sáng, bến xe An Đông đã tấp nập như cái chợ, họ xô đẩy, chen lấn, cãi nhau inh ỏi để tranh giành chỗ xếp hàng. Mất 2 giờ đồng hồ mới mua được vé cho mấy anh chị em, cộng thêm 1 giờ cho việc sắp xếp hành lý của hành khách, chuyến xe Sài Gòn - Vũng Tàu mới từ từ lăn bánh, bấy giờ anh em tôi mới cảm thấy nhẹ người. Hai tiếng sau anh em chúng tôi về tới căn nhà ấm áp có ba má và thằng em út đang mong.
Ba và hai anh lớn lo chuyện đón tiếp các anh chị ở Sài Gòn ra. Tôi và chị Thu giúp mẹ làm cơm. Xong bữa ăn thì 1 giờ chiều. Mấy anh em ngồi bàn tán sôi nổi về mục vô rẫy ngủ lại đêm nay cùng thể để đi săn heo rừng.
- Tuyệt! Cả bọn lao nhao lên đồng ý.
Anh Tỵ hào hứng:
- Thịt heo rừng thơm lắm, ngon không chê được!
Anh Vũ họa thêm:
- Thịt mển và thịt nhím tuyệt! Mấy con chó nhà này săn thú rừng giỏi lắm, muốn ăn con gì đặt bẫy con đó sẽ có ngay!
Ba anh em con ông Bác cứ tròn xoe đôi mắt ra hết nhìn ông Chú, rồi lại nhìn qua mấy đứa em!
Anh Di:
- Đẹp như chị Thu, coi chừng bị khỉ bắt cóc đó!
- Xạo vừa thôi, chị Thu chồm người qua búng tai anh Di.
Được rồi, mấy đứa mau chuẩn bị thức ăn và tắm rửa cho kịp giờ đi kẻo tối, Ba hối mấy anh em tôi.
Mẹ lại lật đật lo sắp xếp thức ăn tối cho tám cái miệng.
Bốn chiếc xe đạp thay phiên nhau đạp lọc cọc trên đường lộ, gió ngược chiều nên mắt ai cũng cay cay, mái tóc bay bay rối bời.
Di quay lại với bộ dạng hai mắt lờ đờ như kiệt sức:
- Chị, chắc phải hơn 1 tạ!
- Ừa, hơn một tạ, rồi sao?
Di làm như hết hơi, ra sức khòm lưng cố đạp xe.
- Ê, bị ho lao hả?
- Trời đất! Mắt chị lé rùi? Em là cầu thủ số 1 bóng rổ đó!
Chị bấm bấm ...vào eo Di:
- Hoan hô cầu thủ số 1, giỏi quá... giỏi quá...
- Thôi, thôi, em chịu thua... nhột quá… bà nội!
Bỗng dưng xe lạng quạng! Chao qua... chao lại làm tôi giựt mình túm chặt vạt áo anh Linh! Anh nhăn mặt khổ sở:
- Trời ơi, sao mà nặng quá!
- Hừm, tướng anh như voi mà không kéo nổi đứa em gái còi hè...
- Nè, con bé cao hổ cốt này, nặng thật đấy!
- Tôi cũng bắt chước chị Thu làm anh Linh nhột nên bật cười.
Ôm chặt eo anh, tôi đạp xe ké. Anh cao hứng:
- Đua xe, đua xe... đua xe nè... về trước được làm vua... nè, lẹ lên...
- Thua, rửa chén, chụm củi nấu cơm... hà... hà...
Anh đạp xe hăng quá, tôi vội rút chân trở lại, ngồi vẫy tay trêu anh Di và chị Thu đang lọc cọc phía sau:
- Hà... hà... hai người thua rùi... ha... ha...
Suỵt... suỵt... anh Tâm ngưng xe, quay đầu lại đưa tay lên miệng ra dấu!
Tôi bấm bụng anh Linh:
- Chậm lại ‘kiến lửa’ đó anh!
Chúng tôi im lặng đạp xe chờ hai đồng chí áo vàng phóng Honda vượt qua một quãng, rồi tiếp tục đạp nhanh. Cứ mỗi lần nghe tiếng Honda từ phía sau vọng lên hay trước mặt là mấy anh em tôi, do bản năng tự vệ, đề cao cảnh giác, như cái máy tự động, giảm tốc độ đạp xe và nín thinh.
Tết đến nơi rồi mà dân Bà Rịa đón Xuân sao thấy oải quá vậy! Hai bên đường vắng hoe, nhìn nhà nào nhà nấy chẳng có nét gì Tết cả! Mỗi ngày như mọi ngày, họ vẫn âm thầm cố chịu đựng, cặm cụi với công ăn việc làm bấp bênh, vội vội, vàng vàng mặc cho thời gian trôi qua nhanh.
Suốt quãng đường hơn 5 cây số, những chiếc Honda bóng bẩy của mấy anh áo vàng, áo xanh, những cặp vợ chồng cán bộ đi sắm Tết về. Họ ôm eo ếch phóng xe ào ào, người nào người nấy mặt mày tươi rói, giỏ xe chở đầy ắp những túi to, túi nhỏ, có người ngồi sau còn xoạc cả hai chân ra, hai tay ôm hai giỏ đầy nhóc, ở giữa còn kẹp thêm chậu hoa. Thỉnh thoảng, vài ba chiếc xế hộp láng coóng của các đồng chí gộc lướt qua, mấy tay ngồi trong xe mặt mày phơi phới, họ về dinh đón xuân. Ngược lại, những chiếc xe đạp cà rịch cà tàng của những bác nông dân đang trên đường trở về nhà sau một ngày lao động, phía sau xe họ chở những bao to tổ bố, nào là khoai mì, khoai lang, không thì là bắp hoặc đậu phộng, có xe còn đèo theo một bó củi thật to nữa kìa. Lẽo đẽo theo sau một con chó còi sắp hết hơi.
Chừng nửa cây số quẹo trái, từ đó đi tới ấp Bình Chánh mất khoảng 3 cây số, và nhắm hướng khu nhà máy nước tiến tới thêm 3 cây số nữa, cuối đường thì nhìn thấy ba dạng núi nằm gần bên nhau gọi là núi Ba Guồng, cái tên do người địa phương đặt ra. Ba ngọn núi khá lớn, nhìn chúng giống như ba chị em sinh ba. Đường vắng xe dần, chỉ còn lại hai người đàn bà bên kia đường với đôi quang gánh lục tạp rảo bước đi như chạy về nhà lo cho kịp bữa cơm tối. Nhà hai bên đường cũng thưa thớt dần, nhà nào cũng nằm thụt sâu vào bên trong, đất thật rộng với vườn cây ăn trái rậm rạp xanh rì. Có nhà nhiều cây chồm hết cả ra ngoài.
- Cho em xuống đây. Đưa tay chỉ vào căn nhà để anh Linh thắng xe lại.
Hàng rào cao làm bằng gỗ, nhọn trên chóp, sơn màu nâu, cổng kiểu cọ đã cuốn hút tôi chú ý vẻ nên thơ của nó. Từ ngoài cổng bước vào là hai hàng cau kiểng đang trổ bông, lối đi trải sỏi trắng, kéo dài sâu tuốt vô bên trong là căn nhà khang trang bằng gỗ sơn mầu trắng. Hai cây ngọc lan to như hai cây cổ thụ nằm hai góc đầu hàng rào đang trẩy nụ đơm bông thoang thoảng mùi thơm ngọt, bên trong rất nhiều loại cây ăn trái, mỗi gốc cây đều có vị trí riêng biệt. Trước sân nhà là một ông Lão nho nhã cốt tiên đang chăm sóc tỉ mỉ mấy chậu cảnh bonsai tuyệt đẹp đang nở đầy hoa, Ao cá kiểng có hòn non bộ nằm ở giữa vườn. Bên hông nhà chiếc ghế xích đu có hai bé trai khoảng 6, 7 tuổi đang ngồi đong đưa. Và sát bên song cửa sổ là một cặp ghế mây với chiếc bàn tròn nho nhỏ.
- Đi thôi cô nương ơi?
Tôi hay mơ mộng nên mắc phải cái tật mê nhà có vườn to và cổng đẹp.
Sau mùa gặt lúa, hai bên ruộng chỉ còn trơ những cuống mạ và cỏ dại, có nhiều chỗ ruộng được dọn dẹp sạch sẽ chờ cho qua Tết, sẽ làm cho vụ mùa khác.
Đường đi vào chân núi khá rộng, vẫn còn sình lầy sau những trận mưa lớn, và dấu vết của xe máy cày lẫn dấu chân bò để lại.
Ba tôi có tất cả là 14 hecta đất, được đánh dấu theo thứ tự mỗi lô một con số.
Lô 1 và lô 2 ruộng vẫn còn bừa bãi chưa dọn dẹp xong. Đường đi còn đạp xe được.
Nhưng cuối lô số 3 bắt đầu đất hơi cao. Ngay giữa đường vết tích tàn quân của lính ngụy là một xác xe Jeep cháy rụi, rỉ sét trơ sườn lỗ chỗ những lỗ đạn, nằm chổng bốn trục co quắp méo mó, nhìn mà đau xót.
Có tiếng bò kêu... lẫn tiếng nện chân thình thịch của đàn bò trong chân núi đang ùn ùn túa ra, theo sau vài ba trẻ mục đồng cùng hai chú chó săn, cũng vất vả đang cố lập công lấy điểm với chủ để lùa đàn bò về chuồng trước khi trời sụp tối.
Mấy anh em vừa đạp xe, vừa cuốc bộ vì đường sá lởm chởm sình lầy, nhiều lúc tôi và anh Linh xém té chúi nhủi vì những ổ trâu (hố có nước) và phân bò rải rác. Bắt đầu từ đây trở vào chân núi có rất nhiều những bụi cỏ dại, cỏ tranh thật cao, và những bụi tre rừng to đùng mọc rải rác hai bên đường.
Đường đi bắt đầu gập ghềnh khó khăn. Nhìn bên trong rẫy lô 4 và lô 5 đất nhô lên thật cao, hơn cả đất ngoài đường gần một mét, và từ đó thoai thoải đổ dốc chạy suốt xuống cuối rẫy là rừng và núi. Khoai mì nằm trong phạm vi khu đất cao, xanh tươi rậm rạp, cao khoảng một mét rưỡi, cỡ này ăn ngọt và dẻo hơn là để lớn nữa sẽ nhiều bột.
Cuối rẫy, những luống khoai lang bí và khoai lang dương ngọc lá dầy đặc. Và giữa lô đất, một thảm đậu phộng, đậu nành, tất cả gần tới ngày thu hoạch.
Anh Tỵ đã đi lại ba bốn lần với Ba cho nên rành đường đi lối bước, anh làm hướng dẫn viên dắt tất cả leo lên rẫy theo đường tắt cho nhanh.
Đẹp mắt nhất là những hàng cây đu đủ trong lô số 6, cây nào cây nấy đeo lủng lẳng từ hai ba chục trái thật to trở lên, có nhiều trái đang chín hườm. Gần căn chòi của thợ cũng có trồng nào là ổi xá lựu, mảng cầi dai và xoài cũng đang có trái. Chà chà anh Tỵ chặc lưỡi:
- San và Di cao nhất trong đám hái trái dễ hơn?
- Dạ.
Trong lô số 8 có mấy sào mía rậm rì, thân to đều đang vươn cao để khoe những vòng khía đều đặn làm mấy anh em tự dưng nuốt nước miếng. Chúng tôi luồn cúi, xô gạc để dắt xe và chui qua, tay chân cũng bị cà ngứa rân rân.
- Anh Linh và Vũ chặt mía nhé?
- Đồng ý...
Băng qua chòi của lô số 10, là lô trồng bắp, một bên bắp nếp, và một bên là bắp đá, mỗi cây chỉ có khoảng 2 trái nằm e ấp nép mình vào thân thấy mà thương. Anh Tỵ tiếp:
- Bắp gần chòi, ưu tiên cho hai quý cô?
- Hoan hô chủ tịt Tỵ muôn nằm... muốn nằm.
Tôi hoan hô. Chị Thu cười và đấm vào lưng anh Tỵ.
Mải mê đùa giỡn mấy anh em quên béng cả mỏi chân, vượt qua được lô 11 và lô 12 trồng toàn là chuối lúc nào không hay.
Trời bắt đầu chạng vạng, tôi túm chặt tay anh Vũ rải bước thật nhanh. Chị Thu cũng cảm thấy lành lạnh đi sát vô anh Di hơn. Anh Tỵ hô to:
- Chạy chạy...
- Sắp tối rồi, lẹ lên...
Mấy anh em, người dắt xe, người kéo tay nhau lao đầu vào phía trước chạy xiêu vẹo đạp tá hỏa cả lên mấy luống rau cần và rau húng quế sát bên chòi, còn anh Tâm thì bước hụt... tõm cả vào những vũng nước làm bắn tung tóe lên mọi người.
Đây là lô đất trồng toàn là cây ăn trái dài hạn như sầu riêng, chôm chôm và xoài. Cây đã cao trên dưới 2 mét. Đang bước nhanh tôi rùng mình nắm chặt tay anh Vũ! Trước mặt con đê nhỏ của rẫy, chúng tôi phải đi ngang qua ngôi mộ nho nhỏ nằm đơn độc với cây thập tự bằng gỗ khắc tên: Trần Văn Tốt, với chiếc nón sắt úp trên thập tự đong đưa trông thật ảm đạm. Nhờ chiếc thẻ bài đeo trên cổ mà biết được anh là lính binh nhì. Chú người thượng đi săn nhìn thấy anh bị bắn chết nằm ngay lô đất số 13 giữa rừng hoang, mây mù lạnh giá này vào giữa tháng 6 sau khi Miền Nam lọt vào tay Cộng Sản Bắc Việt. Một tay chú người thượng đã chôn cất anh. Cây thập tự do Ba làm lại cho anh. Tội cho thân anh cô quạnh chẳng ai biết quê quán anh ở đâu mà giúp đưa anh về nhà.
- Xin chào anh Tốt, cầu cho linh hồn anh sớm siêu thoát; Anh Tỵ vái một lạy.
Mấy anh em tôi đồng tâm cầu nguyện cho anh.
Đến lô số 14 là lô đất đẹp nhất với đặc điểm đầu đội núi, chân thì đạp đồi mà Ba tôi quý lô đất này nhất. Ba trồng đa số là loại mít tố nữ và mảng cầu gai, và hàng dừa xiêm bao bọc chung quanh rẫy. Chòi nằm dưới chân đồi, quay mặt về hướng núi, khá rộng, lớp ngoài làm bằng cỏ tranh, lớp trong bằng cót (nứa) Ba sai thợ làm rất tỉ mỉ, kín gió và vững chắc phòng ngừa thú rừng xâm nhập. Bên trong rất ngăn nắp và thoáng, giường ngủ 2 cái bện bằng tre khá lớn nằm theo hình chữ L. Bếp làm bằng đất sét có hai ô rộng để nấu nướng. Bên hông trước cửa chòi là cái giếng nước thật trong, chung quanh còn có thêm sáu cây dừa có trái ăn lai rai. Và cái chòi nho nhỏ để tắm.
Nhìn ngọn đồi thật cao và to lớn ngay đằng sau chòi cũng nên thơ ra phết, tôi tò mò và mong sẽ có một ngày leo lên đồi, băng qua bển xem bên kia vùng Châu Pha có gì lạ không?
Tiếng chim cu trong bụi cây gọi nhau da diết. Gió hú từ trên đỉnh núi vọng về nghe mỗi lúc mỗi lớn khi màn đêm buông xuống, làm tôi cảm thấy lành lạnh. Cũng may anh em tôi áo quần đủ ấm. Anh Tỵ thắp hai cây đèn dầu lên. Anh Vũ thì lo nhóm bếp sưởi ấm chòi. Bóng tám người in trên vách lung linh theo trở nên ấm cúng lạ. Bỗng Anh Tỵ thở ra:
- Tiếc thật, đặt bẫy không kịp vì trễ quá.
Vậy nghe đây:
- Một nồi chè thập cẩm gồm có: nước mía với bắp, chuối, khoai lang bí, khoai mì, đậu phộng, nước dừa tươi! Chị Thu trổ tài?
- Tuyệt cú mèo, hoan hô chủ tịt Tỵ muốn nằm... muốn nằm... mấy anh em tôi la hét um xùm.
- Một nồi bắp tươi nóng hổi vừa thồi vừa cạp nè! Cô nương ơi?
- Dạ, em đây.
- Một chậu trái cây chín mọng ăn vô trị bón! Di và San nhé?
- Tuân lệnh.
- Một nồi mía luộc cắt xâu từng khoanh ngọt chết lịm đây! Vũ và anh Linh trổ tài nhen?
- Chuyện nhỏ.
- Và nồi đậu phộng, đậu nành luộc, béo ngậy với khoai mì dẻo kẹo! Của anh Tâm và Tỵ.
- Đồng ý, đồng ý.
- Trước khi khởi hành hãy mang thức ăn chiều ra bộp cái đã?
Anh Tâm đói bụng mở mấy bọc thức ăn bày lên giường.
Mấy anh em tháo giầy ngồi quây quần trên giường, vừa nhai vừa bàn chuyện rôm rả cho cuộc hành quân đêm nay với sự mê say và hào hứng.
Lâu lâu tiếng kêu của thú rừng vọng ra nghe rờn rợn rồi chợt tắt.
Những nắm cơm vắt và chà bông với cá thu kho tộ, kèm thêm bao rau xà lách trộn rau thơm được anh em chúng tôi chiếu cố sạch sẽ.
Anh Vũ bỏ thêm củi vô lửa. Anh Di thì lấy nước vô cái ấm và đặt lên bếp. Chum nước mưa dự trữ để uống nằm sát bên cửa sau. Anh Tỵ pha cà phê và châm trà. Hai chị em gái tôi thu rác sau bữa ăn và lo rửa mặt.
Đồng hồ điểm hơn 6 giờ chiều, còn sớm mà bên ngoài trời đã tối. Bước ra ngoài ngửa mặt nhìn lên bầu trời sáng lờ mờ, tôi cố tìm kiếm những vì sao cũng không được, bởi những đám mây đen dầy đặc kia đang che lấp chúng. Tôi bắt đầu hồi hộp pha lẫn nỗi sợ khi xung quanh chỉ toàn là bóng đêm của đồi, rừng và núi. Lúc vừa mới tới tôi còn đứng nhìn khu rừng xanh xanh chập chùng đẹp như trong tranh, và những dãy núi khổng lồ ngạo nghễ, hùng vĩ cao siêu bao nhiêu thì, đêm xuống chúng lại rờn rợn làm tôi không dám nhìn lâu những khối đen khổng lồ như ma quái đó đang di chuyển trong sương mù. Tôi rùng mình, khi ánh mắt chạm vào quả đồi xám xịt, sừng sững u ám ngay phía sau chòi giống như đang đe dọa tôi.
- Thôi thôi tôi sợ ông núi, ông đồi lắm rồi. Tôi lật đật chạy vô trong ngồi bên cạnh mấy anh.
- Trà, cà phê đã thấm đậm làm mấy anh em thêm sảng khoái ? Chúng ta bắt tay lên đường nhé? Anh Tỵ mang giầy, đứng lên trước.
Phải công nhận anh Tỵ có tướng chỉ huy và nhìn anh oai ra phết. Chúng tôi chia ra làm bốn cặp, mang theo đèn pin, dao, bao cát và xẻng, cuốc, dây thừng lên đường.
Thấm lạnh khi bước ra ngoài mấy anh em rùng mình so vai lại. Sương đêm ướt đẫm cỏ cây, làm đất ẩm hắt lên mùi ẩm mốc.
Đêm Ba Mươi mà lị, không tối thì cũng đen thủi đen thui, bầu trời không có nổi ánh trăng soi mà lại còn nhiều mây xám che khuất những ánh sao. Mùi hương rừng thơm thoang thoảng, và mùi cỏ cây thơm ngai ngái. Văng vẳng tiếng gió hú và thú rừng vẫn tru rít lên từng cơn hòa lẫn tiếng côn trùng rên rỉ là nhiều. Tôi ghét nhất tiếng ve sầu và tiếng con ễnh ương, chúng kêu nghe não nùng buồn như chấu cắn, khó chịu lắm.
Nhờ thả dốc tám anh em chúng tôi bắt đầu đi đếm ngược lại con số của từng lô đất rất nhanh.
Chẳng mấy chốc tới lô số 10, anh Tỵ dừng chân dặn thêm:
- Bẻ đúng 50 trái bắp, lựa những trái thật to, nắm trong tay thấy cứng và tròn đều nhen hai cô nương?
Tôi cảm thấy sợ và, hết hào hứng với những món ăn mà anh Tỵ đã vẽ ra, chưa kịp nói bỏ cuộc để chạy theo mấy anh, thì sáu tướng đã ào ào biến nhanh trong màn đêm, chỉ còn lại tiếng nói đứt đoạn... xa dần… văng vẳng rồi im lặng hẳn.
Hai chị em đi sát vào nhau. Chị Thu thích thú cho chuyến đi đêm này lắm mà, bây giờ đang dở khóc dở cười trong lòng không dám hó hé. Bóng tối đồng lõa của sự dữ, vừa nghĩ đến, tim tôi như thóp lại, ngay đến cả tiếng lá rơi, hay lá cọ vào nhau, cũng làm tôi giựt mình sợ hãi. Ánh mắt tôi vừa chạm vào bụi bắp... tóc gáy tôi như muốn dựng đứng lên, đã vậy chị Thu lại cứ bấm chặt tay vào tôi làm cho tôi trở nên run nhiều hơn lạnh, gỡ nhẹ tay chị, làm dạn vấn an:
- Có gì đâu.
Đứng trước bụi bắp chị vẫn còn túm chặt vào tôi:
- Chị, rọi đèn… em bẻ, lẹ lên?
Bất chợt chị Thu hổn hển run rẩy:
- Á, á... rồi ôm chầm lấy tôi! Làm tôi cũng nhảy dựng lên hét toáng theo:
- Má ơi...
Trống ngực tôi đánh thình thịch... bóng con thỏ phóng nhanh vô bụi bắp, rất lâu tôi mới hoàn hồn.
- Đau tim quá Vân! Chị rên lên.
- Chị mới làm em đứng tim nè.
Tôi cố trấn tỉnh, rón rén đưa tay nắm quả bắp mà trong đầu cứ tưởng tượng bàn tay ai đó đang từ từ thò ra túm chặt lấy tay tôi mà lôi tuột vào trong bụi bắp là người tôi lại run lên, tim đập mạnh, quay lại nhìn chị Thu cũng đang run rẩy đứng lom khom rọi đèn.
Vượt qua bao cú thóp tim, và hồi hộp, cuối cùng hai chị em cũng hoàn tất công việc.
Cả hai khệ nệ bê bao bắp lần mò tìm đường về chòi. Ánh sáng đèn pin yếu ớt, chỉ vạt ra một tia sáng nhỏ trước mặt, vừa đủ cho một bước chân dài tránh khỏi vấp té, ấy vậy mà run quá chị em tôi loạng quạng té xuống rẫy làm gẫy vài cây bắp và văng cả bao bắp xuống đất. Bất cứ tiếng động nhỏ nào chung quanh cũng làm hai chị em giật bắn người lên, tóc gáy cứ rờn rợn, chân tay thì lạnh ngắt.
Lần theo bờ đê, đi được vài mét tôi lại bị trợt chân lần nữa xuống đất trũng, làm cả hai chị em té chúi nhủi thật mạnh, vồ lên mô đất làm đổ cây thập tự và chiếc nón sắt rơi xuống đất, tiếng chị Thu rên lên rồi đứt đoạn làm tôi điếng hồn, tim như nhảy ra ngoài, tôi lồm cồm cố đứng dậy, nhưng người và tay chân cứ bủn rủn, va cả vào chiếc nón sắt, làm nó cũng lăn qua rồi lại lăn lại như nhìn hai chị em và cười khà khà...
Xương sống lạnh buốt và tê cứng, nhưng vẫn làm tôi run lên bần bật... Cuối cùng tôi cũng đứng dậy được, và vực được chị đứng lên, một tay chị ôm lấy vai đau do bị va mạnh vào cây thập tự, người chị run lên cằm cặp tay còn lại chị vái lia vái lịa vào mộ anh Tốt với giọng đứt quãng:
- Xi...n lỗ...i anh Tốt, tụi em không thấy đường. Xin anh phù hộ cho tụi em!
Tôi như muốn khóc run rẩy lí nhí và vái theo chị Thu.
- Xin anh phù hộ cho tụi em!
Không biết có ma thuật nào không, tự dưng, hai chị em trở nên bớt sợ và bình tĩnh lại.
Cúi xuống dựng cây thập tự lại, và lượm chiếc nón sắt úp lên như cũ lại cho anh. Lần này cả hai chị em ngồi xuống và mạnh dạn nhặt thật nhanh những trái bắp nằm rải rác nơi mộ chỗ anh Tốt đang nằm.
Chị em tôi bớt sợ bóng đêm và về gần tới đích.
Chỉ còn vài mét nữa là đứng trước cửa chòi, cả hai lại một phen đứng tim vì đôi mắt hau háu của con chim cú vọ đậu trên cây mít tố nữ cứ nhìn hai chị em trừng trừng, thấy mà nổi da gà. Tôi rọi đèn pin vô mắt nó, hét thật to để đuổi, nó vẫn cứ trơ ra làm tôi phải lôi trái bắp ra ném thật mạnh... nó mới vỗ cánh bay vào bóng đêm.
- Ôi trái tim tôi...
- Em cũng vậy.
Tôi chặt đầu và đuôi trái bắp xếp vào nồi nước. Chị Thu lo mồi lửa vào bếp, và bê nồi bắp đặt lên bếp.
Ánh mắt giao nhau, cả hai chị em cùng một suy nghĩ: Chắc tại anh Tốt quá cô đơn nên mới làm hai chị em té vồ lên ngôi mộ để ôm anh?
Nồi bắp sôi... ùng ục... anh Linh và anh Vũ đẩy cửa lôi bó mía thật to vào. Lông mía làm hai anh cứ gãi tay chân xoàn xoạt.
Nồi bắp thứ hai chín là hoàn tất nhiệm vụ của tôi.
Mía của hai anh cũng vừa cắt xong. Thật sự không có mùi gì quyến rủ bằng mùi của mía luộc, nó thơm quá làm tôi không nhịn nổi, đành đưa tay nhón một khoanh vừa thồi vừa nhai rau ráu.
Tiếng chân của anh Di và San về tới. Một bao trái cây được đổ ra giữa nhà, nào là chuối, đu đủ, mít, xoài, ổi, mãng cầu dai. Tất cả nằm dưới đất lung linh trong ánh lửa bập bùng của bếp, nhìn như một bức tranh tĩnh vật tuyệt đẹp.
Cặp sau cùng cũng về tới với 2 bao khoai mì và đậu. Cả hai mang ra ngoài giếng cắt khoai, rửa đậu và lục đục với bếp.
Tranh sáng tranh tối, dưới ánh đèn dầu và bếp lửa sưởi thật ấm. Tám anh em tôi huyên thuyên kể cho nhau nghe về những cảm giác trong đêm như thế nào. Và hít hà thưởng thức những món ăn có một không hai này. Mặc cho bên ngoài những âm thanh vượn hú, khỉ kêu, mễn khóc... trong rừng vọng ra, thậm chí ngay bên ngoài chòi heo rừng đang sục sạo... và đám côn trùng rỉ rả... Tất cả đều bị tiếng nói, tiếng hát, tiếng cười đùa của đám thanh niên thanh nữ vang dội ra to hơn, lấn át, và làm dội ngược chúng trở về vị trí cũ.
Kim đồng hồ chỉ 5 giờ sáng, bên trong chòi những mái đầu xanh đã tắt tiếng dần và chìm sâu vào trong giấc ngủ vùi.
vânnam chu