KHUYẾN NÔNG


Hỡi đồng-bào! Hỡi đồng-bào!

Thần chết đã tràn vào Trung-Bắc,

Ngày lại ngày siết chặt giống nòi;

Lật qua các bài báo mà coi,

Thấy con số chết xem mòi kinh nguy.

Cũng tại vì Tây-di bày kế,

Phá-hoại nền kinh-tế nước ta.

Làm cho điên-đảo sơn-hà,

Làm cho điêu-đứng con nhà Lạc-Long.

Bỗng phút đâu cuồng phong một trận,

Quân Phù-Tang khai hấn bất kỳ.

Còn đâu mưu khéo giải vi,

Còn đâu hoãn kế trong kỳ viện binh?

Dầu những kẻ vô tình với nước,

Cũng tỉnh hồn mơ-ước tự-do.

Tiếng vang độc-lập reo hò,

Từ Nam chí Bắc nung lò khí thiêng.

Quyết phen nầy kết-liên một khối,

Đem máu đào tắm gội giang-san.

Giờ đây đem lại mùa-màng,

Năm rồi miền Bắc tan-hoang còn gì.

Chỉ có xứ Nam-Kỳ béo-bở,

Cơ-hội nầy bỏ dở sao xong.

Cả kêu điền-chủ phu-nông,

Đứng lên đừng để ruộng đồng bỏ hoang.

Muốn cứu khỏi tai nàn của nước,

No dạ dày là chước đầu tiên.

Nam-Kỳ đâu phải sống riêng,

Mà còn cung-cấp cho miền Bắc, Trung.

Quân-đội Nhựt cần dùng lương thảo,

Cũng phải ăn lúa gạo Nam-kỳ.

Ta còn ngần ngại nỗi chi,

Mà không cày cấy kịp thì hỡi-dân?!

Điền-chủ phải một lần chịu tốn,

Giúp áo quần, giúp vốn thêm lên.

Muốn cho dân được lòng bền,

Mua giùm canh-cụ là nền khuếch-trương.

Giá mướn phải thường thường dễ thở,

Xử ôn-hòa niềm-nỡ yêu nhau.

Cùng chung một giọt máu đào,

Phen nầy hiệp sức nâng cao nước nhà.

Kẻ phu-tá cũng là trọng trách,

Cứu giống-nòi quét sạch non sông.

Một phen vác cuốc ra đồng,

Thề rằng ruộng phải được trồng lúa khoai.

Mưa nắng ấy đâu nài thân xác,

Chí hy-sinh dầu thác cũng cam.

Miễn sao cho cánh đồng Nam,

Dồi-dào lúa chín gặt đam về nhà.

Chừng ấy mới hát ca vui-vẻ,.

Ai còn khinh là kẻ dân ngu.

Không đem được chút công-phu,

Không đem sức-lực đền-bù nước non.

Gởi một tấc lòng son nhắn-nhủ,

Khuyên đồng-bào hãy rủ cho đông.

Nắm tay trở lại cánh đồng,

Cần-lao, nhẫn-nại Lạc-Long tổ truyền.


Sàigòn, tháng tư năm Ất-Dậu (1945)



< Trước | Sau >