Như chúng ta đọc thấy ở chương trước, Sấm Truyền Bửu Sơn Kỳ Hương hiện nay còn được lưu hành thật quá hiếm hoi và chắc rằng trong số còn lại đó phần lớn bị sai chạy quá nhiều sai chạy từ việc không đúng nguyên tắc cho đến việc lẫn lộn tác giả.
Một lẻ giản dị để hiểu lý do sai chạy nguyên tắc là vì tất cả Kinh Kệ ấy đều không được khắc in mà chỉ được chép tay. người ta đã tam sao thất bổn từ các bản Hán bảng Nôm dẫn cho đến lúc được phiên âm quốc ngữ. Vấn đề chính tả quốc ngữ còn thêm một lần nữa làm cách tội xa nguồn nếu người phiên âm không có một trình độ kiến thức khả quan. Còn về việc lẫn lộn tác giả thì thường do thông lệ cử tên. Người ta vì kính trọng người lớn, muốn quý tên người lớn. Vả lại với quan niệm thông thường ngày xưa là một tác phẩm chép tay dù có truyền bá rộng đến đâu thì ắt "những người truyền tay nhau chép cũng đã biết tên tác giả rồi", vậy cần gì phải phô trương để có thể đưa đến ít nhiều hậu quả này nọ...
Đã sai chạy văn từ trên nguyên tác, lại cũng không biết tác giả là ai, tác phẩm còn dễ bị mai một bởi công việc chắc tay thì số lượng phổ biến rất giới hạn chúng chịu đựng làm sao nổi trước những biến cố của thiên tai, chiến họa, của những lần Pháp nạn và của mối mọt làm tàn hoại lần hồi. Đó là một lý do khác khiến tác phẩm hiện nay còn lại rất hiếm hoi.
Trong số những quyển Sấm Giảng bị thất truyền mà chúng ta đoán rằng khá nhiều đó, có một quyển chúng ta vừa may mắn tìm được. Nó có một lịch sử lâu dài ngót cả trăm năm kể từ lúc được khai sinh cho đến ngày trâu về hiệp phố. Xin phép được trần thuật nguyên Lai.
Độc giả hẳn còn nhớ, xưa kia khi Đức Phật Thầy Tây An rời Tòng Sơn đến Trà Bư, thì dân chúng Tòng Sơn rất bối rối vì chứng bệnh thời khí tại đó càng lúc thêm nhiều. Ông Đoàn Văn Điểu cùng với Hương chức làng đã phải đến Trà Bư để thỉnh Đức Phật Thầy trở lại. Nhưng Đức Phật Thầy không về Tòng Sơn, Ngài chỉ mách cho họ một cái mo nang để lại tại đình mà trong đó có bức Trần Đỏ, có một quyển Sấm Truyền và có một cây cờ ngũ sắc. theo lời thuật đích xác của ban quản tự Tòng Sơn Cổ Tự cũng như nhiều bô lão trong vùng, thì chính quyển Sấm Truyền đó được dân chúng truyền tay nhau đọc và rồi thì vẫn đem về trả lại để trân tàng tại bàn Phật tại đình Tòng Sơn. Cũng theo lời các bô lão ấy kế tiếp đó là một truyền thống lưu liên tại đây từ xưa.
Đến thời ông Võ Văn Đống làm hương cả (1), thì quyển Sấm Truyền này được sao chép ra và được truyền về thôn Mỹ Chánh một bổn. Bổn còn lại lần hồi cũng được chép lại bởi quá cũ vì trao tay quá nhiều người.
Trải qua biết bao nhiêu biến cố nào khi Pháp chiếm ba tỉnh miền Tây (1867), dân Tòng Sơn phải chịu nhiều khốn đốn ; rồi tiếp đến những cuộc nổi dậy của các phong trào bình Tây sát tả, dân chúng tự vệ, nhất là cuộc kháng chiến của Quản Cơ Thành (tức Đức Cố Quản) từ những năm 1868 đến 1873. Vì nghe theo tiếng gọi của người cùng một đạo mà dân chúng Tòng Sơn đã chạy theo Bình Gia Nghị (2) khá đông, bởi thế mà khi bộ đội của ông Đạo Thành bại trận (tháng 2 năm 1873), Tòng Sơn đã bị khủng bố tơi bời.
Đến cuộc đảo chánh năm 1945, Việt Minh lên nắm chính quyền kế bị Đệ tam sư đoàn rượt đuổi tại Cái Tàu Thượng, rồi tiếp theo là quân đội Pháp trở lại, quân đội kháng chiến đánh nhau với Pháp... Những dồn qua dập lại gây nên cảnh khói lửa ngút trời, Tòng Sơn bây giờ là xã Mỹ An Hưng phải gánh chịu biết bao nhiêu tang tóc. Nhà cửa tiêu tàn, tủ ghế, chõng ngựa và cả đến chén bát, Lu hũ cũng phải ném ra bờ tre để tránh lửa, ba người dân có lúc tản cư sạch ấp. Chạy mình không mà còn chưa ắt đủ vợ đủ chồng, còn sá chi đồ đạc...
Bởi vậy mà bổn Sấm Truyền chánh gốc không gõ đã bị thất lạc về đâu.
Được hỏi ra người ta biết rằng có một bổn được sao chép lại từ năm Kỷ Dậu (1909) theo một bản cũ ngày xưa để thờ trên bàn Phật đình Tòng Sơn nhưng bổn ấy được vị hương chủ trong làng là ông Võ tương Như mượn về nhà xem, hỏi ra nữa thì ông Võ Tương Như đã chuyền tay về Ông Nguyễn Thành Cự, lại hỏi phân ra lần nữa thì ông Nguyễn Thành Cự lại nhận rằng có mượn, nhưng vì trải qua bao nhiêu thế cuộc thăng trầm, không rõ đã lạc về đâu! Ông Cự bị Ông Như đòi để trả lại làm bảo vật cho làng nhưng ông Nguyễn Thành Cự đành bó tay vì nhà cửa đã bị giỡ, đồ đạc đã bị dời, lục soát lại mãi mà không thấy vật cũ đáng quí ấy. Chuyện này từ ấy lần hồi bị giải đãi bỏ trôi (3).
Mãi cho đến năm 1963, chùa Tòng Sơn được thành lập bên cạnh ngôi đình thần có mang dấu tích của Đức Phật Thầy, bang trùng tu cùng với các giới chức trong làng mới kiểm điểm lại các vật xưa còn lại (như tấm Trần Đỏ của Đức Phật Thầy, như tấm biển sơn son thiếp vàng mang ba chữ Đoàn Phật Sư) để thỉnh từ đình sang thờ tại chùa. Trong dịp này người ta bỗng nhớ ngay đến bổn Sấm Truyền ngày trước.
-----------------------------------------------------
chú thích :
(1). Theo ông Nguyễn Quang Toản, cháu gọi bằng cố ngoại của ông Võ Văn Đống là vị thôn trưởng đầu tiên của thôn Tòng Sơn. Trước kia khi Phật thầy chưa trở về làng thì chức đó dành cho ông Hổ. Tòng Sơn và Hổ Cứ kề nhau. Phương ngôn có câu: " Bãi Hổ Cứ có con cọp dữ". Ở đây rừng bụi rậm rì, Cợp Hổ Cứ- Tòng Sơn luôn luôn đe dọa làm ảnh hưởng nặng nề đến sinh hoạt của nhân dân. Nhân dân phải cắt miếu thờ Ông Hổ trước đình vào mỗi kỳ đáo lệ kỳ yên, làng phải dành nguyên cái đầu heo sống để dâng cho Ông Hổ. Đêm đến thì Ông Hổ về nhận đầu heo nếu thiếu vắng lể này thì dân làng bị hại về nạn hổ giảo. Nhưng rồi Đức Phật Thầy bảo bỏ lệ ấy, không cúng cho Ông Hổ đầu heo mà cũng không dành chức thôn trưởng cho cọp nữa. Do đó mà ông Đống mới dám nhận chức và sau này khi Tây đến, ông cũng được cử làm luôn chức hương cả trong làng này. Nếu không vậy, thì làng chỉ cử đến chức Hương Chủ thôi, còn chức Hương Cả phải cử cho cọp
(2). Xem cuộc Khởi Nghĩa Bảy Thưa, Tân Sanh xuất bản 1956
(3). Theo lời thuật của ông Trần Văn Ở, là một trong những người được thấy quyển Sấm Truyền lúc chưa bị thất lạc (Năm nay ông ở 69 tuổi), thì vào năm mậu Thìn 1928 , Ông Nguyễn Văn Thiệu là cháu rể của ông chủ Nhu, mượn quyển ấy đem đến nhà ông Nguyễn Thành Cự để hội anh em lại coi. Đêm đó có mặt các ông Trần Văn Ở, Đặng Văn Lân, Trịnh Văn Quăng, Nguyễn Phú Thọ, Nguyễn Văn Thiệu và Nguyễn Thành Cự. Nhờ có biết chữ Nôm nên Ông Thọ đọc lên cho mọi người nghe. Sau đêm đó bổn Sấm Truyền vẫn để lại tại nhà ông Cự. Vì vậy mà ông Cự mới có trách nhiệm trong vấn đề này, chớ thật ra, người đứng mượn chính là Ông Thiệu.
----------------------------------------------------------
Chuyện cũ dở ra thành mới, ai nấy đồng xuýt xoa tiếc rẽ. Ông Phan Tấn Xưa (tức Do) lúc đó là Trưởng ban trùng tu chùa Tòng Sơn, bèn đề nghị với ông Nguyễn Văn Phú (là con của Ông Nguyễn Thanh Cự, cũng có chân trong ban trùng tu) nên cố sức về nhà lục soát lại để may ra, vì trước kia ông Nguyễn Thanh Cự già cả, có thể tìm sót chăng? Ông Nguyễn Văn Phú gượng gạo nhận lời với hi vọng cầu may mà thôi, vì ông tự biết gia đình của ông đã bị trải nhiều biến cố nên thân phụ ông xưa kia từng đã không tìm được rồi!
Nhưng sau đó bất ngờ Ông Nguyễn Văn Phú lại kiếm gặp nguyên vẹn bổn Giảng xưa nói trên, nằm thu mình trong một ngăn tủ đầy bụi nhện mà trước đó ông đã nhiều lần lục soát nhưng không thấy.
Ông Phú đã mang quyển ấy đến chùa với sự hân hoan của toàn thể những người trong cuộc. Và quyển Sấm truyền từ ấy được trân tàng cùng chung trong một chiếc hòm bằng gỗ quý đang đựng tấm Trần Đỏ thờ ở Chánh điện của chùa Tòng Sơn.
Muốn hiểu biết nội dung Sấm Truyền khuyến dạy điều gì, cũng như muốn đem phổ biến quyển ấy cho đại chúng cùng hiểu, nhưng ngặt vì tác phẩm toàn bằng chữ Nôm, mà trong Ban Quản Tự thì không ai đọc và phiên âm quốc ngữ được, cho nên rồi cũng đành thôi.
Trong thời gian từ 1963 đến nay, Ông Phan Tấn Xưa đã yêu cầu nhiều người đọc, hoặc nhờ họ nhờ lại người khác đọc và phiên âm giúp. Trong số những người ấy có Ông Phan Văn Nghi ở xã Bình Phước Xuân và Đại Uý Phan Thành Công ở Long xuyên. Nhưng không ai làm thỏa mãn được yêu cầu đó của ông, nên chuyện vẫn đâu còn nguyên đấy.
Cho đến ngày 14-7 - 1973, nhân một phiên họp tại Tòng Sơn Cổ Tự giữa Ban Quản Tự chùa này cùng với Ban Chẩn Tế giáo hội Phật giáo Hòa Hảo để lo chỉnh trang sân và đường vào chùa. chuẩn bị cho kỳ đại lễ kỷ niệm lần thứ 117 ngày viên tịch của Đức Phật Thầy Tây An vấn đề trên mới được đề cập trở lại. Tất cả đồng đề nghị mang quyển Sấm Truyền ấy đến chúng tôi.
Ngày 20 tháng 7 năm 1973, các ông Trịnh Văn Tại, Nguyễn Trường Chấp, Đỗ Văn Lùng và Bùi Ngọc Hưởn, đại diện cho Ban Quản Tự và Ban Chẩn Tế, đích thân đưa quyển Sấm truyền ấy đến tận tư thất của chúng tôi và ngỏ ý muốn tôi nghiên cứu để nếu thấy quả thật đây là Sấm truyền căn góc Bửu Sơn Kỳ Hương thì biên khảo, phiên âm để các ông hoan hỷ ấn hành.
Sau một tháng làm việc, khi Ban Chẩn Tế Phật Giáo Hòa Hảo và Ban Quản Tự Tòng Sơn Cổ Tự đã đệ trình Đại Diện Tổ Đình PGHH duyệt lãm, ngày 21 - 8 -1973, tôi thân hành đến Tòng Sơn Cổ Tự để sưu tầm, tham khảo thêm tại chỗ cho một số sự kiện còn lại. Hôm ấy lúc 10 giờ 30, trước sự hiện diện của hàng ngàn tín hữu, đông đủ các nhân viên Ban Quản Tự, Ban Chẩn Tế có sự tham dự của Trung Tá Nguyễn Minh Tâm, Quận Trưởng Chợ Mới, Bác sĩ Huỳnh Trung Nhì, Trưởng y tế An Giang, bác sĩ Đào Tuấn Kiệt, Giám đốc bệnh viện Long Xuyên, bác sĩ Trần Lỹ, Giám đốc bệnh viện Nguyễn Trung Trực, bác sĩ Phan Văn Bàn, Bác sĩ Ludwick và Cô Lise Côté (Canada) chuyên viên của Trung tâm y tế toàn khoa Long Xuyên và nhiều giáo sư, giáo viên, Sĩ quan, thân hào nhân sĩ, chúng tôi đã diễn thuyết về vấn đề này và liền đó, được hội thảo, phỏng vấn, chụp ảnh và ghi âm lời nói của Ban tổ chức cùng với những tài liệu chi tiết hữu ích cho việc biên khảo sát này.
Có lẽ nhờ vậy mà nguyên lai của quyển Sấm truyền được thêm phần sáng tỏ đối với quý độc giả lâu nay còn xa lạ trước nguồn cội Bửu Sơn Kỳ Hương
Quyển Sấm truyền được trần thuật nguyên lai trên đây mang một hình thức mỏng manh, nếu lập mạnh có thể bị rệu rả một cách dễ dàng nhưng may mắn là chữ còn nguyên vẹn trừ một ít dấu mối mọt gặm nhấm và một ít chỗ lần xếp có bị rách sờn.
Ngang một tất 70, dài 3 tấc 90, xưa nó được viết bằng mực đen trên nền giấy bạch, nay vì quá cũ giấy đã sẵn xuống thành một màu xám đục. Nét chữ thật đẹp, thật đều, văn lục bát có điểm dấu chấm câu và chép đầy đặt tất cả các trang không hề bỏ trống. Sách gồm 8 tờ (16 trang). Chỉ tờ cuối còn dư ra một trang. Hình như trước đây chừng khoảng 40 năm, tờ đó đã bị cũ rách, sứt ra nên được một tuồng chữ khác chép lại trang đó trên một thứ giấy "nhựt trình trắng" rồi đóng kèm thay vào.
Tuy nét chữ viết đẹp, bay bướm lắm, nhưng có lẽ vì theo một bản nào trước đó có bị chép sai, cho nên có lắm chữ không được Nôm đúng cách và có một số vần bị lạc. Có bôi xóa 6 chữ chép thừa và gạch thêm 11 chữ chép thiếu.
Đầu sách có đề năm tháng và tên người viết giúp bổn Sấm truyền nguyên văn như vầy:
"Tuế thứ Kỷ Dậu niên, nhuận nhị ngoạt, nhị thập thất nhựt - Đồ Trương trợ bút nhất quyện Giảng" (năm Kỷ Dậu, tháng 2 nhuần, ngày 27, quyển Giảng này do Trò Trương viết giúp).
Tính theo âm lịch, nhờ người sao chép có ghi rõ là tháng 2 nhuần, nên chúng ta được biết chắc Kỷ Dậu này là 1909, cách nay 64 năm. Chúng tôi đã hết xuất truy tầm, nhưng không rõ "Đồ Trương" là ai, còn có miêu duệ gì ở Tòng Sơn-Hổ Cứ không, nhưng không được một ai biết mảy may gì liên hệ để giúp chúng tôi đạt được ý nguyện.
Theo thời gian được ghi chép chắc chắn trên đây, bổn Sấm truyền này bán được coi là một bản Nôm chép tay xưa nhất trong các bản Nôm còn lại của Bửu Sơn Kỳ Hương. Xưa hơn bộ Cửu Khúc, Kiểng Tiên của ông Nguyễn Văn Thới và xưa hơn cả bộ Sấm giảng người đời của Ông Sư Vải Bán Khoai, nếu ai còn giữ được nguyên tác, bởi vì bổn Sấm truyền này là một bổn được sao chép lại chớ không phải mới được sáng tác từ năm Kỷ Dậu 1909 ấy. Nó đã có trước năm sao chép đâu rồi!