NHỮNG BÀI THI CỦA THẦY SÁNG TÁC NĂM CANH THÌN 1940 (phần 1)
- đăng bài : huyencuongcusi
NHỮNG BÀI THI CỦA THẦY SÁNG TÁC NĂM CANH THÌN 1940 (phần 1)
- đăng bài : huyencuongcusi
Tam sắc cờ bay phất-phới mà,
Ngồi nhìn nhớ kỹ héo lòng ta.
Thuở xưa đâu có cờ tam sắc,
Gặp cảnh vong bang úa ruột-rà.
Lúc Đức Thầy ở nhà thương Chợ-Quán, Ngài có gởi về Hòa-Hảo bài dưới đây và dặn bôi bỏ bài trên. Anh em bổn-đạo lúc đó cũng chưa hiểu vì sao Đức Thầy bảo sửa. Bỗng một bữa nọ, Cai-Tổng Pho đến nhà Đức Ông đem vấn-đề thi-văn của Đức Thầy ra nói chuyện, có ý muốn làm khó dễ Đức Ông về bài thi “Cờ tam sắc” nói trên. Liền đó, Đức Ông bảo ông Hương-quản Diệp (ngẫu nhiên có mặt trong lúc đó) đọc bài dưới đây. Nghe xong, Cai-Tổng Pho vỗ tay nói : “Vậy mà người ta nói lại khác chớ !”
Tam sắc cờ bay phất-phới mà,
Ngồi nhìn khoan-khoái cõi lòng ta.
Thuở xưa đâu có cờ tam sắc,
Gặp cảnh Tây Đông thể ruột-rà!
Hòa-Hảo, ngày 1 tháng giêng Canh-Thìn (1940)
(Chép theo bản chánh do Ông Nguyễn-Chi-Diệp giữ)
Đầu năm tục lệ gọi ngày mùng,
Tiếng pháo đốt hoài cũng thấy chung.
Xóm trên xóm dưới cùng nhau đốt,
Khúc giữa phần ta mãi nghe hùn.
Nghe hùn lỗ nhĩ cũng lùng-tung,
Ngày một tiếp xuân mới vô cùng.
Mèo lui rồng tới bay vơ-vẩn,
Thế-giới chiến-tranh nổ khắp bùng.
Mồng một năm nay rõ thiệt Thìn,
Hẹn cùng non nước vẫn đinh-ninh.
Cố chí tấm lòng gìn đạo-đức,
Mặc tình bá tánh chẳng thèm tin.
Nam-hải Quan-Âm lấy tịnh bình,
Cầm nhành dương-liễu rảy tà tinh.
Quyết lòng độ tận trong sanh-chúng,
Ai ghét ai ưa cũng mặc tình.
Xuân sang ảm-đạm ánh dương mờ,
Thệ quyết một lòng chẳng bỏ ngơ.
Có sông có núi cùng cây cỏ,
Độ tận chúng-sanh khỏi dại khờ.
Lòng ta gặp cảnh rối tơ vò,
Gan ruột phổi phèo một bộng to.
Lo hoài lo mãi không sao xiết,
Tiên cảnh chúa tôi vẫn hẹn-hò.
Hò hẹn Phật-Tiên hiệp một ngày,
Một ngày thế-giới khỏi bi-ai.
Trung-Ương tam cõi đều hòa mặt,
Ta mới thảnh-thơi trở gót hài.
Gót hài muốn trở phải làm sao?
Đạo-đức thâm sâu hãy bước vào.
Sớm chiều lo liệu rèn tâm trí,
Niệm tưởng Phật Trời thỏa ươc-ao.
Hòa-Hảo, ngày 1 tháng giêng Canh-Thìn (1940)
(Chép theo bản chánh do ông Nguyễn-Chi-Diệp giữ)
Lẹt-đẹt rồi đây lẹt-đẹt bùng,
Đùng-đùng lẹt-đẹt nổ lùng-tung.
Lùng-tung lúng-túng dân ta túng,
Ngao-ngán cho xuân Lão bắt khùng.
Đoái thấy xa xa một cái đèn,
Ngoài đường trời tối thiệt len-nhen.
Tiết xuân buồn-bã vì ngập lúa,
Nên phải ăn chơi cách quá hèn.
Hòa-Hảo, ngày 1 tháng giêng Canh-Thìn (1940)
(Chép theo bản chánh do ông Nguyễn-Chi-Diệp giữ)
Nhuần gội ơn trên rải Đạo mầu,
Thương đời chỉ-vẽ nẻo cao sâu.
Khai rừng kinh kệ câu huyền-bí,
Để cứu nhơn-sanh khỏi thảm-sầu.
Hương đăng nghi-ngút lễ vọng cầu, (1)
Cám lòng bá-tánh nguyện từ câu.
Chí quyết một lời ta độ tận,
Dắt chúng lánh xa cảnh mộng sầu.
Giữ nguyện đinh-ninh tiếng tạc thù,
Làm lành đâu phải tốn tiền xu.
Mà sau lại được về Tiên cảnh,
Thêm thoát ngục mê chốn
Diêm-phù.Diêm-phù chơn Chúa chọn người tu,
Hành phạt ác-hung chốn cửa tù.
Tiếp nghinh những kẻ lòng nhơn-đức,
Hỡi bớ dương-trần hãy rán tu.
Rán tu vẹt phá đạo lu-bù,
Thấy chúng đời nầy lạc chữ tu.
Sớm tỉnh kệ kinh tìm hiểu lý,
Một ngày hội hiệp hết mờ lu.
Mờ lu được sáng rắn hóa cù,
Hiệp mặt phân trần nỗi ám-u.
Tớ Thầy tôi chúa cùng nhau gặp,
Khắp hết thế-gian thoát chốn tù.
Chốn tù vốn thiệt cõi ta-bà,
Tiên cảnh được về mới lánh xa.
Chúng-sanh chìm đắm trong vòng khổ.
Khuyến dạy bởi vưng sắc
Ngọc-tòa.Ngọc-tòa Phật-Tổ nấy sai ta,
Xuống cứu thế-gian nẻo vạy tà.
Hiệp sức tớ Thầy truyền diệu-pháp,
Cho đời thấu tỏ Đạo ma-ha.
Ma-ha thoàn nhỏ dọn rồi đa,
Bước xuống đi qua bến giác mà.
Sao hỡi còn chờ ta réo mãi?
Dân tình xem giảng cứ ngâm-nga.
Ngâm-nga việc khổ tới bên a,
Bổn phận tu hiền phải lánh xa.
Biết Đạo tùy thời mau tránh khổ,
Chớ đừng thi-thố những tài ba.
Tài ba khoe sức uổng thây mà!
Nhựt dạ yêu đời dụng khuyến ca.
Tỉnh thức nhơn dân đang mờ ám,
Nên làm thi phú đặng ngâm-nga.
Ngâm-nga hiểu nghĩa đáng kim ngà,
Huyền-bí nhiều lời chỉ thiệt xa.
Bổn-đạo rán tìm cho cặn-kẽ,
Lòng hiền Phật độ khỏi tinh-ma.
Hòa-Hảo, đêm mồng 1 tháng giêng Canh-Thìn
(Ông Nguyễn-thanh-Tân có họa mấy chục bài thi xuân trên đây nhưng xin miễn đăng.)
(Chép theo bản chánh do ông Nguyễn-Chi-Diệp giữ)
____________________________________________
Đêm ấy ông Hương-Kiểm Chương và anh em ở Hưng-Nhơn (Châu- Đốc) đến dưng bông lễ Phật.
Thầy giáo XOÀI (tức SOÀI, tức MẠNH-XUÂN-QUẢ) xướng:
Đạo-đức bao nhiêu dám gọi Thần,
Bia danh mô-phạm để lừa dân.
Trời Âu tấn hóa nhờ khoa-học,
Đất Á suy đồi tại biếng thân.
Nhồi sọ nhơn-sanh kêu thức tỉnh,
Mê hồn bá tánh gọi người ân.
Dạy đời mở Đạo mình coi dở,
Sánh lại khác xa Việt với Tần.
ĐỨC THẦY đáp họa:
Ngu muội Khùng Điên chẳng thuyết Thần,
Đôi lời cuồng-sĩ gọi lòng dân.
Văn-minh lợi dụng nhờ hay học,
Giỏi chữ lòe đời để lập thân.
Ham sướng dương-trần ôi! khó tỉnh,
Ưa vui dân sự chẳng thi ân.
Ỷ mình chê chúng rằng hay dở,
Ganh-ghét hiền như thứ ác Tần.
Thầy giáo XOÀI xướng:
Biết ai là Thánh biết ai Thần,
Học hỏi thầy mô dám dạy dân.
Khuyên-nhủ thiện nam nên để tóc,
Vỗ-về tín nữ lại tu thân.
Niết-bàn dành để người phàm tục,
Trần-thế màng chi cuộc ái ân.
Muốn dắt đồng bào qua bể khổ,
Đạo mầu xin luyện mấy non Tần.
ĐỨC THẦY đáp họa:
Đâu màng bá tánh gọi danh Thần,
Tự giác huyền cơ để giáo dân.
Bắt chước ông cha ta để tóc,
Noi theo tổ phụ đặng gìn thân.
Lòng yêu chi sá lời thô tục,
Dạ ái nào thèm chúng đáp ân.
Hồng-Lạc chỉ đường qua cảnh khổ,
Kìa ai chớ tập tánh dân Tần.
Thầy giáo XOÀI xướng:
Mê-tín dị-đoan mới tặng Thần,
Noi gương hiền-triết lại chăn dân.
Sám kinh lấy nể răn truyền giáo,
Giảng dạy là mưu để ấm thân.
Khai sáng đứa mù đời trách oán,
Làm ngu kẻ trí gọi là ân.
Ông ôi! nay đã bao nhiêu tuổi?
Sao chẳng có lo cuộc Tấn-Tần?
ĐỨC THẦY đáp họa:
Lọc lẽ tà tâm ấy gọi Thần,
Trượng phu người phải biết thương dân.
Nồi cơm thiếu bữa tranh nghề giáo,
Trách cá hụt dùng đoạt mối thân.
Ở phải giúp giùm sao nói oán?
Ôi thôi, làm mướn chớ rằng ân.
Đạo đời chẳng luận người cao tuổi,
Xin miễn cho ta cuộc Tấn-Tần.
Chẳng phải lòng ta muốn họa thơ,
Ví như văn-sĩ đáp lời ngờ.
Đạo mầu giữ phận không cao thấp,
Ai đọc qua rồi phải bỏ lơ.
Thi phú dầu cho thấu đến tai,
Cũng đứng giận-giũi mới là hay.
Bóp lòng chìu ý nên lời trả, (1)
Tôn-chỉ người tu sái việc bài.
Tôi làm như thế khác lời tu,
Giả dạng nhà nho muốn trả thù.
Người xỏ tới mình, mình đáp lại,
Chớ tình chẳng chịu viết thi ru.
Hòa-Hảo, Tết năm Canh-Thìn
____________________________________________
Đức Thầy không muốn trả lời ba bài thi của thầy giáo Xoài, nhưng vì ông giáo Long, người đưa thơ, cố nài-nỉ mãi nên bất đắc dĩ Ngài mới chịu đáp họa.
Ông HUỲNH HIỆP-HÒA (làng Bình-Thủy, tỉnh Long-Xuyên) xướng:
Phỏng cầu Tiên Phật dẫn kim châm,
Phạn ngữ truyền lai tối thậm thâm.
Phanh luyện ô kim mong điểm đạo,
Tiễn ngao thế chỉ hóa khai tâm.
Thuấn Nghiêu thọ thọ nguy duy hiển,
Phật Lão hư không bí khuyết thầm.
Thị nhị giáo-sư đoàn thuyết-pháp,
Tảo tương thích điển chúng-sanh tầm.
ĐỨC THẦY họa:
Mã hồi nhơn diện ngã kim châm,
Pháp-giáo phạn-văn bát diệu thâm.
Lam thất thanh chơn hà khuyết Đạo,
Qui hồi bí hiểm trị nhơn tâm.
Môn-gia khảo sát lai duy hiển,
Vị-khí nan thông ký cảm thầm.
Ngã thị vô biên nhiên lập pháp,
Hòa giai Nam-đỉnh tác thi tầm.
Hòa-Hảo, mùng một Tết năm Canh-Thìn
Ông HUỲNH HIỆP-HÒA xướng:
Chúng-sanh tầm đắc đạo nan minh,
Bửu-bối trừng tâm thể dụng tinh.
Cầm-kiếm đảnh lư an trí thủ,
Càn khôn nhựt nguyệt vị đồng linh.
Siêu phàm ôn dưỡng âm-dương số,
Nhập thánh đề khai thế-tục tình.
Thái-Thượng, Thích Ca luân kiếp giáo,
Đơn song đồ-đệ cổ kim minh.
ĐỨC THẦY họa:
Chúng-sanh khố diệt diện nan minh,
Ly cấu từ-bi cái thế tinh.
Nhan-Thước duyên-do tam diễn thủ,
Can trừ danh-vi nã kỳ linh.
Ngộ thâm nan liễu âm-dương số,
Xác tục trần gian cố dục tình.
Thổ phỉ nam lương toàn khuyến-giáo,
Tam tồn ngôn xuất biện kim minh.
Ông HUỲNH HIỆP-HÒA xướng:
Hội trung bửu-cái cổ-kim truyền,
Tri giác hư linh kế lập thiên.
Siển, triệt phân minh Châu-Võ kỷ,
Âm, dương chuyển luyện Hớn-thê tiên.
Lôi-Âm kinh-ký khai đàn việt,
Sơn-Thứu từ tăng phản bổn nguyên.
Gia bác na thời di phổ hóa,
Huyền-cơ như thử kiếp trần yên.
ĐỨC THẦY họa:
Bửu gia nan hối thế-gian truyền,
Tam thế hư không tế kiệm thiên.
Nhơn ngã hạ-nguơn phân bất kỷ.
Qui hồi thượng-cổ bút thê tiên.
Chất âm, thinh, sắc phi tiêu-diệt,
Bài phỏng liêm-gia bế hộ nguyên.
Lập chí hiền-nhu đương kế hóa,
Thi thần ký chú định hòa yên.
Ông HUỲNH HIỆP-HÒA xướng:
Ngọc quang cảnh nội chủ càn-khôn,
Tam nhứt vô cùng kiến thúc tôn.
Âu-Á chiến tranh thùy thắng lợi?
Kim lê uổng-tử sắc hà môn?
Hà môn giáp tý giáng lâm trần,
Đào-tạo lương-tâm khổ não dân.
Xuất hiện mạng chơn phi quyết chiến,
Cấu ai trị địa hội quân thần.
ĐỨC THẦY họa:
Thành tha ngũ nội nã càn-khôn,
Cái thế vô linh mạng thích tôn.
U lịch bá trừ nô bính lợi,
Tiền đồ lê dị đắc giang môn.
Tam thiên lục bá giáng lâm trần,
Khóc tử lang tâm biến họa dân.
Tà quái hạ nguơn khai ác-chiến,
Ất niên bình thự kiến quân-thần.
Ông HUỲNH HIỆP-HÒA xướng:
Phiến ngôn đại chấn điểm nam cương,
Khẩu tụng Văn-Vương vị bốc tường.
Dữ thiện ngôn ngôn tung nhứt nhị,
Hành nhơn tịch tịch muội tâm lương.
Mã lai thủ thị danh thương pháp,
Thủy kiệt chưởng thâm tẩy khổ trường. (1)
Thi vấn hồi âm tri bửu hiệu,
Tứ minh tam vị hiển văn-chương.
ĐỨC THẦY họa:
Hồi đầu điểm Đạo chuyển phong cương,
Háo thắng bi ly đạo khổ tường.
Tề tướng Cam phong an diện nhị,
Hàn nhơn thọ khóa tác tâm lương.
Thiên-tôn mật sát nhơn-gian pháp,
Phật-lý di khai đại-hội trường.
Tam bá ngoại niên chơn bút hiệu,
Hàn lâm nhứt đấu vịnh thiên chương.
Hòa-Hảo, mùng một Tết năm Canh-Thìn
___________________________________________
Nếu chiết tự 6 câu của đầu bài nầy thì chúng ta thấy mấy chữ sau đây: Trạng Trình, Cử Đa, Đề Thám. Ông Huỳnh Hiệp-Hòa muốn hỏi coi Đức Thầy có phải là một trong 3 ông đã kể trên đây chăng?
Ông HUỲNH TRUNG-HÒA (thầy ba Tươi)
ở làng Kiến-An (Long Xuyên) xướng:
Lưng chưng khó hiểu khách trần-gian,
Sớm mặn chiều chay lắm nhộn-nhàng.
Đặc đất phấn tình tô láng mép,
Cả trời lửa chướng đốt nồng gan.
Khéo đam điệu hạnh trêu màu Phật,
Đành để xương da nhuộm máu phàm.
Riêng tưởng trồng gieo rừng bác-ái,
Những mong trông ngóng đến Thiên-đàng.
ĐỨC THẦY đáp họa:
Từ rày đặng nẻo lánh trần-gian,
Chẳng hiểu mặn chay mới nhộn nhàng.
Ngao ngán cho người ôi quá mép,
Thương đời mê muội luống bầm gan.
Đạo mầu chẳng hiểu nên lừa Phật,
Hiển diệu ra cơ giác tỉnh phàm.
Dạ luống ước mong đời bác-ái,
Quyết lòng chỉ rõ nẻo Thiên-đàng.
Hòa-Hảo, mùng 3 Tết Canh-Thìn
Non Tiên gió mát toại lòng thay,
Tức cảnh thi văn nhả một bài.
Cố tưởng ước mơ về nhược thủy,
Ngặt vì không cánh lấy gì bay.
Dắt xác phàm phu viếng non Đoài,
Hỏi nhờ đá cục ngủ đêm nay.
Chư sơn Bảy núi đều qui tựu,
Thầy tớ cảnh Tiên rõ mặt mày.
Nhìn xem cây lá gió lung-lay,
Sáng lại lui chơn trở gót hài.
Vậy hỡi chư Thần mau nối gót,
Theo Thầy dắt chúng khỏi nồng cay.
Lầu đài núi Cấm lộ nay mai,
Thức tỉnh chúng-sanh mới tỏ bày.
Khuyên dạy dân tình minh đạo-đức,
Tu hành được thấy cảnh Bồng-Lai.
Trên non, ngày 14 tháng giêng năm Canh-Thìn
(Đức Thầy đọc bốn bài nầy cho ông Hương-giáo ở Thới-sơn (Châu-Đốc) viết tại trên non và khi về nhà, Đức Thầy còn đọc lại cho anh em tín-đồ chép).
Ông TÙNG (ở vàm Cái-Đầm,
thôn Hòa-Hảo) hỏi ĐỨC THẦY:
Càn-khôn Tạo-Hóa ở một bầu,
Kính hỏi thăm Thầy vậy ở đâu?
Sắc ở Tà-Lơn hay núi Cấm?
Cán còn khâu mất cất ở đâu?
ĐỨC-THẦY họa:
Cũng biết càn khôn vẫn một bầu,
Tây-Phương yêu chúng chẳng ngồi lâu.
Sắc của A-Di là Phật-Tổ,
Bốn chữ xuống trần chớ ở đâu?
Ông TÙNG hỏi:
Cắc-cớ vì đâu khéo vấn-vương,
Đem lời Phật Thánh dám bày tường.
Thiên-cơ bất khả sao ông nói?
Phật Thánh Tiên Thần dám phô trương.
ĐỨC THẦY họa:
Vì tình nhơn loại mới vấn vương,
Thương đời lầm lạc Lão bày tường.
Thiên cơ được lịnh nên ta nói,
Phật Thánh phần ta mới bày tường.
Hòa Hảo, năm Canh ThìThìn
Hồng nhạn ô qui thán giả hồ,
Thi thần đởm khí ngộ hà mô.
Điện phong vạn hộ vô thiên ảnh,
Tổn khí thao tồi vọng nhứt vô.
Nhứt vô tam kiến cái thiên hồng,
Tông tích kỳ sanh chuyển kiếp thông.
Khai cảnh nguyệt đài minh hạ giái,
Thới lai diện mục tác hài công.
Hòa-Hảo, tháng giêng năm Canh-Thìn
(Ông Nguyễn thanh-Tân có họa hai bài thi trên đây, nhưng xin miễn chép).
Viếng làng MỸ-HỘI-ĐÔNG (Long-Xuyên)
Canh-niên trổi bước thừa nhàn,
Để chơn đến viếng xóm làng Hội-Đông.
Về non dạ luống ước-mong,
Cám tình lê-thứ tuôn ròng lụy châu.
Lời thăm cùng khắp đâu đâu,
Hương thôn bổn-đạo lo âu mối giềng.
Tu là tu Phật tu Tiên,
Tu cho rõ biết chữ hiền ra sao.
Mùa xuân chưa có mưa dào,
Cũng như Đạo hạnh sắc màu chưa thanh.
Sớm chiều phủi sạch lợi-danh,
Tầm nơi chánh-giác cõi thanh đặng về.
Hỡi ôi, thấy chúng bớt mê,
Đạo mầu siêu-việt tập-đề là đây.
Tinh-thần hiệp vén ngút mây,
Vẹt cho rõ mặt tớ Thầy Hạ-nguơn.
Lòng thương bá tánh đòi cơn,
Dầu ai mua oán chác hờn mặc ai.
Chuông linh giục thúc bên tai,
Chúc cầu thạnh-trị thới-lai xóm làng.
Hiệp chung một cuộc chi-lan,
Rồng đà lố bóng đá vàng biết nhau.
Lọc-lừa hiểu đặng vàng thau,
Đem thân mua lấy mận đào thiên-nhiên.
Duyên lành rõ được Khùng Điên,
Chẳng qua kiếp trước thiện duyên hữu phần.
Làm sao khỏi chốn mê-tân,
Đào-nguyên vạn lượng tỏ phân kính sùng.
Thánh-nhơn ghi sách Trung-Dung,
Hiền-nhơn thức-tỉnh biết dùng người ngay.
Hội thanh hiệp mặt vui-vầy,
Gắng công cố chí lòng nầy chẳng phai.
Vinh-hoa dường thể cúc mai,
Cuối mùa tàn rụi lâu dài đặng đâu.
Thích-Ca Đạo vị huyền-sâu,
Rạch tim xem được một bầu linh-quang.
Mảng còn tư-lự tình-tang,
Thuyền từ tới bến thanh nhàn bớ dân.
Hóa-công chí thiện cầm cân,
Công-bình thưởng phạt thứ-dân nào tường.
Sum-vầy chiếc nhạn sâm-thương,
Nho-văn cảm-kính hiền lương của người.
Se-sua nói nói cười cười,
Cao sâu lý-diệu vàng mười khó mua.
Trần-gian thiếu trái chi chua,
Bây giờ trái ngọt không mua bởi mình.
Tới đây cạn lẽ phân-minh,
Quyết đem chơn-lý đặng gìn Phật gia.
Tài sơ trí siển nôm-na,
Mặc tình chê ghét phận ta ta tường.
Thoảng qua mùi diệu phô-trương,
Kêu dân mau tỉnh trong trường mộng xuân.
Keo sơn đâu cật liền lưng.
Thấy trong bá-tánh nửa mừng nửa lo.
Mừng là mừng việc hay-ho,
Lo là lo việc ốc-sò trải qua.
Tỉnh tâm mượn lấy thi-ca,
Giác-dân hướng-thiện chánh-tà phân-minh.
Rèn lòng giữ dạ sắt-đinh,
Đừng phai đừng lợt thân mình thảnh-thơi.
Biển trần lao-lý diệu-vơi,
Khổ tâm chắt lưỡi chiều mơi phủi rồi.
Nhìn xem tâm não bồi-hồi,
Sơ nhi đã lậu phá mồi vinh-vang.
Chừng nào kim phụng hòa-loan,
Đông Tây vô lự mới an sự đời.
Thừa vưng sắc-lịch của Trời,
Cùng ông Phật-Tổ giáo đời khuyên dân.
Bấy lâu chạnh cám ô-ngân,
Bây giờ hiệp mặt phân-trần sạ-dươn.
Dập-dồi gió kép mưa đơn,
Đau thương vì bởi nghĩa ơn chẳng tròn.
Bày ra thiên-lý héo-von,
Giấu trong tim-óc lòng son chẳng đành.
Trải qua một lúc sỏi-sành,
Trung-Ương hòa-hiệp mới đành lòng đây.
Hoàn-cầu trái-đất chuyển xây,
Gớm-ghê cho chúng phơi thây muôn ngàn.
Ngày nay đạo-đức chẳng màng,
Rồi sau dẫu có tiền ngàn khó mua.
Biển sông lặn-lội hơn thua,
Tự thân tạo lấy mà mua cái sầu.
Phật, nhơn, tạo hóa một bầu,
Kẻ thanh người trược mới hầu khác nhau.
Thân nầy sá quản cần lao,
Miễn cho bá tánh được mau an nhàn.
Ngũ niên viễn lự cơ hàn,
Đến chừng qui phuc Hớn-Đàng mới yên.
Bao la cảnh Phật cõi Tiên,
Tòng mai liễu trúc hữu duyên khoe màu.
Ngũ vân năm sắc năm màu,
Kia qui nọ phụng lao-xao vui mừng.
Vang-vầy sấm nổ chuyển-luân,
Kiểng-tiên lộ vẻ vui mừng cha con.
Bấy lâu nghĩa nọ tiêu mòn,
Ngày nay hiệp mặt hết còn thở-than.
Các nơi liệt-quốc chư-bang,
Chúc cầu bình-trị trướng-loan sum-vầy.
Bây giờ làm việc tà-tây,
Ngày sau bị khốn tội rày điêu-ngoa.
Biết khôn tìm kiếm ma-ha,
Một-câu lục tự nhà nhà bình-an.
Xa-xuôi đường sá dặm tràng,
Khó bề lui tới rỗi nhàn lao-lung.
Lo bề cúc-dục cội thung,
Nghe lời Thầy dạy việc chung của đời.
Bút nghiên tạm gát đợi thời,
Chúc cho bá tánh xét đời biết ta.
Mỹ-Hội-Đông, ngày 22-1 Canh-Thìn
Ông NGUYỄN THANH-TÂN
(tức Hương-Thân Ướng) xướng:
Bóng thỏ đà lu rạng mặt rồng,
Bốn phương sĩ-tử nhóm càng đông.
Trời Nghiêu phụng múa vòng tay áo,
Đất Thuấn voi cày ruộng trổ bông.
Biển lặng sông trong chờ lịnh chánh,
Nhà an nước trị lẽ thiên công.
Kìa ai gói-gấm lời cơ-mật,
Ức bụng kẻ hiền bớ núi sông!
ĐỨC THẦY họa:
Non Lịch rừng nhu lộ vẻ rồng,
Danh hiền bao rải khắp Tây-Đông.
Chòm ong còn múa trong the áo,
Nam-Việt giống nòi trổ nhụy bông.
Mặt đất địa cầu qui lập chánh,
Một nền Đạo hạnh lấy tâm công.
Văn nhu áo não tìm cơ-mật,
Sẽ hản việc đời hỡi núi sông!
Mỹ-Hội-Đông, ngày 22-1 Canh-Thìn
Ông NGUYỄN THANH-TÂN xướng:
Tiết phong một võ nhứt thân khinh,
Háo đạo thơ sanh cảm khốc tình.
Cực vọng nam minh dân tiếp thủy,
Tường khan bắc chỉ thạch tranh vinh.
Mộng hồi cố quốc tam canh nguyệt,
Tỉnh khởi cô bang vạn lý trình.
Kim nhựt phùng chơn tu tận túy,
Hưu tương ly biệt não bình sanh.
ĐỨC THẦY đáp họa:
Hải qui thiết lượng ngốc nhơn khinh,
Cố viễn hà qua kiến hữu tình.
Qui hóa ai thi hà quốc thủy,
Đài phi sơn lãnh vị thành vinh.
Phù vân lộ thức nhiên âm nguyệt,
Tố giả vong bang kỷ tráng trình.
Phúc họa trù phong nhiên Bính tí,
Trùng lai hữu nhựt tại hoài sanh.
Mỹ-Hội-Đông, ngày 22-1 Canh-Thìn
Ông NGUYỄN KỲ-TRÂN tức Chín Diệm
(làng Định-Yên, tỉnh Long-Xuyên) xướng:
Cường-khấu xâm lăng kỷ thập niên,
Vị tri đại-đức giáng, hà Tiên?
Hi-Di ngũ quí kim an tại,
Thái-Thượng tam vương cổ bất truyền.
Độc nhãn sa-đà tàng Bắc-địa,
Liên mi chơn mạng ẩn Nam-thiên.
Phòng ngư xích vĩ đương kim nhựt,
Dẫn lãnh minh lương trứ tổ tiên.
Tổ-tiên cứu loạn hựu phò nguy,
Hướng thiện khử tà chúng bất tri.
Vô tránh vô tranh thiên hạ thiểu,
Toàn trung toàn hiếu thế gian hy.
Ái mao vị tiện ngô đồng phụng,
Tiết giác thâm tàng trạch thủy qui.
Bất tận tam tâm danh lợi khách,
Đáo đầu thâm mãnh niệm từ-bi.
ĐỨC THẦY họa:
Thiên ký Lạc-Hồng đắc ngũ niên,
Sơn-Trung hồi giả bí danh tiên.
Trần-nhơn đãi thế Nam tồn tại,
Lão đạo tiền phong Bắc ý truyền.
Trình mỗ ngộ kim khuê Cổ địa,
Xích mi hải hội luật trừng thiên.
Vị phi minh đế đồ tôn nhựt,
Thạnh khí đào thinh giác kỷ tiên.
Kỷ tiên hữu nhựt ngã đình nguy,
Lượng trí bồi thành thử tất tri.
Võ kỷ hùng phong nhơn mạt thiểu,
Thần-Tiên tiểu ẩn cổ lai hy.
Thí-sanh tán địa liên đài phụng,
Nam-sĩ bài kỳ phục kiết qui.
Vạn vật an-ninh thông điện khách,
Nhứt trường lê-thứ kiến vô bi.
Ông NGUYỄN-KỲ-TRÂN xướng:
Gió xuân muôn vật toại lòng rồi,
Nghĩ lại bâng-khuâng đạo Chúa tôi.
Cá phụ vẫy-vùng trong dấu cạn,
Trông chừng đấu nước luống ngùi ngùi.
Ngùi ngùi trông thấy đám mây xanh,
Thoạt vậy mưa tuôn đượm nhánh nhành.
Thẩm đến rừng nhu tơi vật sắc,
Dù ai đấp lũy nguyện bồi thành.
ĐỨC THẦY đáp:
Đạo-đức truyền ban cũng chửa rồi,
Xa đường nguyện ước chuyện con tôi.
Mưa tuôn vừa tiết ngư thong-thả,
Dạ thảm lòng vui cũng bắt ngùi.
Bắt ngùi cho kẻ bạc đầu xanh,
Sum-hiệp cùng nhau cội nhánh nhành.
Gặp lúc tiết hòa mưa đượm sắc,
Quyết lòng trợ thế với bồi thành.
Bồi thành mới phải đạo văn nhu,
Có lẽ ngày kia rắn hóa cù.
Lũ-lượt đoàn chim bay kiếm ổ,
Rán mà theo dõi bớ văn-nhu!
Văn-nhu vẹt phá sụp ao tù,
Nước túng dân nghèo lại thiếu xu.
Khổ, khổ thương đời luân chuyển kiếp,
Phân trần cụ lão chuyện người tu.
Mỹ-Hội-Đông, đêm 22-1 Canh-Thìn
(Để tại nhà ông hai Xòn ở Vàm-Nao thuộc tỉnh Long-Xuyên)
Bảnh chẹ ngồi chơi sướng hỡi ông!
Tâm lành sao chẳng tiếp non sông?
Nhơn dân bốn phía đương đồ thán,
Vui sướng chi mà lại tỉnh không?
Mỹ-Hội-Đông, sáng ngày 23-1 Canh-Thìn
Lưng-chưng một bước lạ làng,
Viếng thăm khắp chốn luận bàn huyền-cơ.
Người đời lòng những ước-mơ,
Một câu đạo-hạnh lỡ ngờ chuyện xa.
Đêm khuya còn vắng tiếng gà,
Bút nghiên tạm lấy tờ hoa tố-trần.
Ô-kim vàng ấy ngàn cân,
Dương-gian muốn đổi lập thân cho tròn.
Trăm năm ghi tạc miễu son,
Trung-quân ái-quốc hãy còn danh bia.
Mặc tình tiếng nọ lời kia,
Chẳng màng thế sự đặt-bia nhiều lời.
Gẫm ra chuyện lạ ở đời,
Kẻ ngu người trí nhiều lời phân-vân.
Xưa kia bạo-ngược nhà Tần,
Đem lòng hung-ác giết lần văn-nhu.
Ước mong rắn đặng hóa cù,
Đồng tâm hiệp trí chữ tu dắt-dìu.
Lòng hiền giữ vẹn sớm chiều,
Xem kinh niệm Phật mỹ-miều mặc-ai.
Hưng-vong suy-thạnh xưa nay,
Cuộc đời vay trả, trả vay đổi đời.
Mấy ai trăm tuổi ở đời,
Được như Bành-Tổ mà rời lợi danh?
Quyết lòng tầm kiếm cõi thanh,
Lánh nơi trần tục học hành đường Tiên.
Trả cho rồi nợ tiền khiên,
Đến ngày hiệp mặt kiểng tiên vui-vầy.
Làm sao rõ mặt tớ Thầy,
Tới chừng trăng rọi đài mây mới tường.
Bây giờ nạn ách còn vương,
Cha làm con chịu nhiều đường gai-chông.
Nhiều người kinh-sử lảu-thông,
Mà không sửa tánh bởi lòng còn mê.
Kiếm con hiền đức dắt về,
Về nơi cõi Phật Tây-Phương an nhàn.
Nợ trần con sớm liệu-toan,
Nghĩa-nhơn trọn-vẹn mới an tấm lòng.
Thuyền từ kêu gọi ngóng trông,
Trông cho dân-chúng bớt lòng tham-ô.
Chừng nào thấy được cơ-đồ,
Nhơn vô viễn lự gia vô nhơn đình.
Đến đây thấy cảnh sanh tình,
Lòng son đòi đoạn công trình dạy khuyên.
Cứ lo chế ngạo Khùng Điên,
Ngày sau chịu mãi chữ phiền chữ đau.
Ngọt bùi lời đạo thanh-thao,
Đời còn mê-muội chừng nào mới thôi.
Vinh-hoa một bả làm mồi,
Để câu kẻ dại việc tồi chất lên.
Muốn mình lên đặng bực trên,
Hãy lo rèn đúc mới nên Thánh-Hiền.
Giống lành xưa cùng Rồng Tiên.
Ngày nay hung ác đảo-điên khắp cùng.
Mặc tình nghe phải thì dùng,
Chớ đừng bỉ-bạc kẻ Khùng làm chi.
Buồn đời gác bút nghĩ suy,
Suy cho cạn lẽ sầu-bi quá chừng.
Cầu ngã kiến văn tối thậm đa,
Thiện duyên tác phước ý như hà.
Phô trương vạn lượng tam hài tuế,
Hội thính na thời kiến thạnh hoa.
Viễn lự ô hô chí Lão Bành!
Nhơn thì sanh dưỡng khí tồn thanh.
Hải qui thế-giái nam hòa vọng,
Nguyện dữ như hà dụng thức canh.
Kim phụng triều vương viễn khứ đình,
Bài hồi phong nhã lạc trầm thinh.
Duyên-do phước thọ lai duy hiển,
Thủ đảnh thư hùng thục sử-kinh.**
Quang-minh diện-mục khả hồ sơ,
Nhứt diệu phù-vân phú-quới cơ.
Quân-tử Thánh-nhơn hà đại lượng?
Liên hồng vạn thứ cảnh thiên-thơ.
(Chợ-Vàm (Phú-An), ngày 23 tháng giêng Canh-Thìn, tại nhà Hương-Hào Phỉ.)
Cho Thầy ba THẬN ở làng Phú-Lâm
(tỉnh Châu-Đốc)
Đêm vắng mà sao cảm quá dài,
Văn-nhu lão trưởng tiếng bi-ai.
Tầm nơi yếu lý câu huyền-diệu,
Thương thảm cho đời thưởng huệ mai.
Đoái tưởng lòng ông quá đỗi hiền,
Dậm tràng tới viếng mượn ngòi nghiên.
Tỏ tình yêu quí người lương thiện,
Trông đợi ngày kia khỏi xích-xiềng.
Phú-An, tối 23 tháng giêng Canh-Thìn
Đời đạo liên quan rạng chói ngời,
Trần-hoàn biển khổ thẳm vơi-vơi.
Thanh minh đạo-đức câu huyên-bí,
Mượn lấy bút nghiên tỏ ít lời.
Hồng-Lạc giống xưa rất tuyệt vời,
Sao mà dương-thế mảng lo chơi.
Sớm chiều tự liệu rèn tâm trí,
Đạo-đức nhiệm sâu Lão khuyến mời.
Thiên sanh thiện tánh tác thì gia,
Tông-tích cổ kim lượng thử hà.
Sư giả hạ trần nhơn mạt kiếp,
Ngã hồi dương-thế thuyết huyền ca.
Đài phong liễu khước tạo Nam-gia,
Thiện chí hồ thiên thức Ngọc-tòa.
Trung sơn tế giáng Lư-Bồng kiểng,
Giác tỉnh sanh kỳ tối diệu đa.
BỬU ngọc mai danh ẩn nhục tràng,
SƠN đài hồ-hải luyện tứ phang.
KỲ sanh tạo giả thi truyền tục,
HƯƠNG giải thao tồi thị Bảo-giang.
Ngũ hồ ly cấu tạn hài tiên,
Nguyền thuyết thanh danh tác thiện duyên.
Thậm thâm tối thiểu kim tàng cốc,
Đa giả khứ hồi giải nghiệp-duyên.
Canh tràng dạ đoản, đoản canh sơ,
Ngã thứ trung sanh trực thế thờ.
Ngỡi khí yên hùng ghi đảm liệt,
Hà giang lương thố vẽ thiên-cơ.
Khởi điệu tầm vương Phật cổ hồi,
Vạn năng sĩ-tử hiệp hòa ngôi.
Tam thanh truyện tích ghi biên tự.
Khán giả tận tường liệt võng khôi.
Canh niên viễn lự tối thi thần,
Kê thủ nhứt tràng vạn địch nhân.
Nam thức quân thần cuồng lão-sĩ,
Châu nhi phục thỉ cổ đồng lân.
BỬU kiến trừng tâm dụng thể tiên,
SƠN sanh giả kế chưởng huyền thiên.
KỲ thâm hạ giái ly đài nguyệt,
HƯƠNG vị trầm thinh bí kỷ niên.
Phú-An, đêm 23-1 Canh Thìn
Long rày năm mới thiệt là rồng.
Mèo-mả bạc-bài bỏ được không?
Hiệu, Khuynh cùng gã mau liền lại,
Kẻo để ngày sau chịu não-nồng.
Trường học Phú-An, ngày 24-1 Canh-Thìn
Bồng-Lai như khứ khổ nan truyền,
Cảm tác quyền hồ tố thiện duyên.
Quốc-thủy đài chương trung liệt cổ,
Trần gian ngã đáo diệt tiền khiên.
Vạn lý trường đồ mộ nhứt sơn,
Danh tiên liễu bá định hồi yên.
Vị phi lai tục đa ưu lự,
Sơn hải diền viên tất tảo nan.
Hòa-Hảo, tháng giêng năm Canh-Thìn
Để chơn đất bắc Thầy trò,
Dân còn quê kịch hát hò nghêu-ngao.
Xóm làng Đồng-Thạnh xôn-xao,
Cùng nhau bàn-tán khác nào trong Nam.
Chúng dân tựu ngũ tùng tam,
Kẻ ma người mị kẻ ham người cười.
Làng nầy đông-đúc nhiều người,
Dân tình cũng được đôi mươi tu hành.
Nhiều người già cả lòng lành,
Có nhiều kỳ lão biết rành tích xưa.
Tới đâu cũng ít người ưa,
Nằm lăn ca hát sớm trưa dỗ-dành.
Trưng bày tích cũ đành-rành,
Thiên-cơ đạo-đức tu hành phận tôi.
Dân quê nghe nói hỡi ôi!
Hung-đồ cường nghịch một hồi cười reo.
Đâu đây mà có hùm beo,
Khéo bày bá-láp nghe theo làm gì?
Thấy trong lê-thứ cũng kỳ,
Đi đâu cũng bị dân thì ghét vơ.
Ngày đầu nhiều kẻ còn mơ,
Trị chơi ít bịnh ngẩn-ngơ xóm diềng.
Cũng không thèm trọng bạc tiền,
Quyết lòng tìm kiếm người hiền mà thôi.
Bắc-kỳ dân ít mép-môi,
Cũng còn cúng kiếng chè xôi ê-hề.
Thương dân nên chịu nặng-nề,
Lời ăn tiếng nói nhiều bề thấp cao.
Tớ thầy nào nệ cần-lao,
Thương dân dạy-dỗ xiết bao nhọc-nhằn.
Ngũ-luân lễ nghĩa năm hằng,
Tam cang trung-trực người rằng ngu-si.
Viết ra mới bốn bài thi,
Đặng cho trần thế biết thì Thần Tiên.
Cũng xưng rằng hiệu Khùng Điên,
Nhắc ra nhiều khúc Rồng-Tiên Hồng-Bàng.
THƠ rằng:
Nam-thiền vô ngại đại Hoành-Sơn,
Nhiên khước hành vi kỷ khách huờn.
Tân tạo huyền sanh hồi châu ngọc,
Hữu nhựt Tiên Thần hiệp luyện đơn.
Vân-vân bạch-bạch thức sinh thần,
Cổ quán thôn-hương nhứt dị nhân.
Tiên-sinh hiện kiếp phò Lê-chúa,
Hậu truyền độ chúng cảm hoài ân.
Liên hồng cảm-kích vĩ long tuyền,
Đồng-Thạnh hàng kỳ tác thiện duyên.
Kiển-sám truyền danh lưu hậu thế,
Nam-Việt trung-thần đệ nhứt Tiên.
Nhơn danh ly biệt ngạn Bắc-hà,
Cổ súy lương thần vị phong ca.
Thọ tử tâm trung trưng hùng khí,
Qui hồi quốc thủy tiện phương hoa.
Bốn bài thơ đã làm xong,
Văn-nho bàn-bạc nhiều ông lắc đầu.
Nghĩ ra mới biết cơ cầu,
Người chi thi-phú công-hầu cổ nhơn.
Nghiệm suy lời lẽ thiệt hơn,
Dặn-dò bá tánh thi ơn xóm làng.
Nào ta có nói bướng càn,
Về An-Giang tỉnh rõ ràng ai hay.
Từ đây Nam Bắc chuyển quay,
Khi đây khi đó ra tài khuyên dân.
Tuần-huờn tạo hóa cầm cân,
Ở đây cũng dạy hương-dân đủ đều.
Xác nghèo nhà tợ cái lều,
Cơ-hàn rách-rưới nhiều điều nan nguy.
Tuy là gia-trạch hàn-vi,
Nhưng mà hiền-đức khác gì người xưa.
Nhiều người lối xóm đẩy-đưa,
Tấm lòng không mến mà ưa bề ngoài.
Nước tràn ruộng lúa lạc loài,
Bắt đầu lo chuyện miệt-mài bắp khoai.
Giáo-truyền lời lẽ thẳng ngay,
Hương-lân trùm-trưởng đắng cay nhiều bề.
Thầy trò ra sức làm hề,
Ca tuồng ly-loạn dựa kề biên-cương.
Có nhiều chệc khách Minh-hương,
Đau lòng nhiều khúc thê-lương bên Tàu.
Chú lùn Nhựt-Bổn hùng-hào,
Chẳng thương sanh-mạng dân Tàu dại ngu.
Bởi chưng hung-bạo chẳng tu,
Cho nên gây sự lu-bù chiến-tranh.
Bắc-Kỳ Trung-Quốc giáp ranh,
Sao không xem đó tu hành hiền lương.
Cá không ăn muối cá ươn,
Chẳng nghe lời dạy lâm đường chông gai.
Hát tuồng Trung-Quốc quá dai,
Ta bèn bỏ bản hát bài tà-tinh.
Cả kêu lớn nhỏ đệ-huynh,
Từ đây nhẫn nại chống kình làm chi.
Bút nghiên lôi lại làm thi,
Đặng cho sanh-chúng bớt nghi tinh-tà.
Cổ qui tài tận hận do Tần,
Thiện chí tu trì lập vĩ thân.
Tồn tại hư vô tầm Bát-nhã,
Tiên kiếm thần thông chỉ huy cần.
Điền tan gia phế tế nhiên hàn,
Khổ đáo ly kỳ ảo viễn cang.
Nghị xuất Thần Tiên yên truyền đạo,
Bần phú cơ đồ bất tự sang.
Nôn nảy kìa ai nhọc mưu cầu,
Thê thảm cho đời nẻo huyền sâu.
Kiên cố của tiền thiên đạo lý,
Cấp hồi ái truất trót canh thâu.
Thiên ý bất tư hoạnh trữ tài,
Biên hình liên huệ tất ư giai.
Kiệm kỷ tha lam mi hài-chí,
Long trì phi ẩn tạo kiền khai.
Ngạo cảnh du vân triện Bắc-hà,
Quá khứ trú đình vịnh ngân ca.
Thanh tích cổ nhân tân cừ khí,
Nghiên tòng bí khuyết bích-lư xa.
Thâm canh bất mến công hầu,
Trông cho lê thứ gặp chầu vinh-huê.
Ở đâu dân cũng còn mê,
Tham câu danh lợi khó kề Thần-Tiên.
Tư lương một mối sầu riêng,
Long thiền đãi ảnh vị thiên cô phần.
Ngảnh ngao tái chí thi ân,
Biện minh chí hứng đền lân dựa kề.
Huy hoàng hương nến tự thiên chi,
Hội kiến truyền linh thuyết vĩnh kỳ.
Lôi chất khai âm vô sắc thí,
Ngại hồi bi hiện án tiền phi.
Rừng thông bên cạnh gần kề,
Bôn-phi lê-thứ nhiều bề gian-nan.
Bắc-kỳ còn hỡi hò khoan,
Chúng dân đi cấy reo vang ruộng đồng.
Thấy đời cũng luống động lòng,
Xứ quê nghèo cực muỗi mòng thiếu chi.
Dạo miền thành-thị một khi,
Chán-chê thế sự sầu-bi trong lòng.
Ca xang thảm cảnh não-nồng,
Cả kêu dân-chúng Lạc-Hồng hỡi ơi!
Giống xưa Tiên cảnh tuyệt vời,
Ngày nay đã lạc đạo đời nhuốc-nhơ.
Người hiền nghe thấu ngẩn-ngơ,
Đớn đau sắp đến bơ-vơ một mình.
Muốn xem được hội Long-Đình,
Thì dân hãy rán sửa mình cho trơn.
Ở ăn cho vẹn mười ơn,
Cảnh tình hiền-đức gặp cơn khải hoàn.
Gắng công khỏi buổi nghèo nàn,
Sum vầy một cuộc Hớn đàng toại thay.
Người nào vẹn được thảo ngay,
Dựa kề cửa Thánh đài mây an nhàn.
Khuyên răn cuối xóm cùng làng,
Giàu sang nắm giữ của ngàn làm chi.
Việc đời nhiều nỗi sầu-bi,
Hạ-nguơn đã hết loạn-ly cơ đồ.
Bây giờ còn hỡi mờ-hồ,
Chẳng nghe dạy chỉ cơ-đồ về sau.
Thử xem cho biết vàng thau,
Tình yêu sanh chúng chẳng nao tấc lòng.
Tu hiền như thể phụng rồng,
Mắt nhìn Tiên cảnh mây hồng toại thay.
Bây giờ rán chịu đắng cay,
Ngày sau mới biết mặt mày Khùng Điên.
Đạo đời nào có tư riêng,
Minh-Vương sửa trị mới yên ngôi Trời.
Xa-xăm các chỗ các nơi,
Đâu đâu cũng rán nghe lời tiên tri.
Kẻ hung ngạo-nghễ khinh khi,
Nữa sau đến việc sầu-bi nhiều bề.
Tớ Thầy non núi dựa kề,
Cũng tìm am cốc liệu bề dạy khuyên.
Quyết lòng rửa sạch tiền khiên,
Ra oai ra lực hùng-yên mới là.
Bây giờ còn liệu tây tà,
Cho nên đạo-đức khó mà cạn phân.
Nam-thiền báu ngọc châu trân,
Phật Tiên phân định tấm thân mới nhàn.
Duyên sự đê-mê cảnh Hớn-đàng,
Lần dò cho thấu nẻo Tiên-bang.
Xuê-xang mấy kiểng nhìn sương gió,
Lòn cúi chờ trông lúc khải hoàn.
Mê-man danh-lợi cõi hồng trần,
Có một hội nầy lập lấy thân.
Nếu để trễ chầy e chẳng kịp,
Khuyên ai khuya sớm gắng chuyên cần.
Huyền-vi cơ đạo kiến linh kỳ,
Tự thán dương-trần tốc kham bi.
Vô vị phi liên tâm phế kỷ,
Điểm hồng nê địa tự thiên chi.
Chừng nào thấy được phụng hoàng,
Rồng chầu chớp-nháng Hớn-đàng hiển-vinh.
Sớm chiều rèn đúc kỉnh-tinh,
Ngày sau mới thấy phép linh của Trời.
Ai ai cũng ở trong đời,
Chốn nào không đạo là đời vô liêm.
Xét suy cho cạn cổ kim,
Hết tâm bền chí rạch tim xem nhìn.
Ta đây ưa ghét mặc tình,
Dương-gian cứ mãi chống-kình làm chi.
Chừng nào thượng-cổ hồi qui,
Thế-trần mới hết khinh-khi Phật Trời.
Tu hành đạo-đức rao mời,
Như người ngu dại với đời loạn-ly.
Ở sao cho biết tôn-ti,
Dể-ngươi Phật Thánh sầu-bi mãn đời.
Khùng-Điên ẩn-nhẫn tùy thời,
Có-cơn giả dạng dắt đời hạ-nguơn.
Mặc tình ai nói thiệt hơn,
Thấp cao tai tiếng làm ơn cho đời.
Luân phiên Thầy Tớ tách vời,
Chẳng nài lao-lý miễn đời bình an.
Tiếng đờn hò liếu cống xang,
Đêm khuya khuyên nhủ khắp tràng chúng-sanh.
Buổi nay nhằm lúc vắng thanh,
Lời ta khuyên đó như cành ghẹo chim.
Trau dồi đúng bực thanh liêm,
Nữa sau mới biết thành kim đền đài.
Việc đời nhiều lúc khôi-hài,
Quyết lòng cho thế một bài học hay.
Chuyển miền Nam địa lung-lay.
Nam Trung cùng Bắc một tay giáo đời.
Thiếu ai mà bị réo mời,
Đầu trên xóm dưới thỉnh mời liên thinh.
Trớ-trêu phải mượn kệ kinh,
Mặc tình dân-sự biện minh lẽ nào.
THI
Thâm-trầm đạo-đức quá thanh-thao,
Rừng-rú kệ-kinh cắt khoen rào.
Rước đưa sanh-chúng rời bể ái,
Thử-thét cho cùng cạn thấp cao.
Liên lụy trần mê bể ái hà,
Bỗng xuất thoàn tình mượn thi ca.
Thể-thống Thần Tiên kiên bế chí,
Tương đồng sanh-chúng gội ma-ha.
Si lung á giá tọa phú hào,
Tiên kiến hậu hiền quí kỷ cao.
Thố tử hồ bi ghi chí hứng,
Đại đồng đạo cả khắp trùm bao.
Toan ly bể khổ, khổ tới à!
Dân-sự an-nhàn sướng dữ a!
Ta mảng lòng lo gìn sanh-chúng,
Gội nhuần ân-đức vịnh phong ca.
Ma-ha thoàn nhỏ đã dọn rồi,
Chèo lái trương bườm chớ thả trôi.
Bến giác bờ mê, mê phải tránh,
Ly-biệt hồng trần hỡi ai ôi!
Liên-hoa chín phẩm ở ngọc tòa,
Được lịnh Thiên-Hoàng nấy sai ta.
Hạ-giái dạy khuyên truyền đạo-lý,
Giả dạng Điên-Khùng mượn thi ca.
Ham vui đào mận chẳng xong rồi,
Trung hiếu giữ-gìn phận con tôi.
Thế-sự bao la ta chẳng quản,
Tiên-cảnh non Bồng sẵn vị-ngôi.
Nước non náo-nức giống nòi Hồng,
Gắng chí kiếm tìm chủ-nhơn ông.
Tuổi trẻ đầu xanh khoanh tay rế,
Liệu-lượng thâm tình tợ biển sông.**
Thay cảnh đổi lòng nỗi biệt-ly,
Muốn gặp bảng son với linh-kỳ.
Noi sức bình-sanh quanh nước lửa,
Có một ngày chờ hội ứng thi.
Hồn thơ Tiên Thánh sánh đạo mầu,
Chẳng thấy việc đời mảng góp thâu.
Tóm tắt ít lời âu diệt chủng,
Thế-sự mê hồn lụy song mâu.
Cha nọ bồng con vợ khóc òa,
Tan nát xóm diềng khổ dữ a!
Nhà không kẻ ở, ôi! nói trước,
Nếu chẳng tin lời gặp thiết-tha.
Lời xưa di tích rõ việc nầy,
Ai muốn mắt phàm gặp Rồng Mây.
Hãy rán nghe lời ta mách trước,
Không gìn đạo-đức phải phơi thây.
Thương dân xuống bút tay đề,
Dặn-dò bá-tánh chớ hề lợt-phai.
Cuộc thế-giới chuyển lay như chóng,
Khuyên dân tình hãy lóng mà nghe.
Lam-kiều hữu lộ vắng hoe,
Ngục môn không cửa mà hè nhau đi.
Thảm cho trẻ hài-nhi liệu-điệu,
Vợ xa chồng bận-bịu thê lương.
Phong trần dày-dạn gió sương,
Chư bang ham báu hùng-cường đua tranh.
Còn một cuộc chiếu manh giành xé,
Khắp hoàn-cầu ó-ré một nơi.
Dòm xem châu ngọc chiều mơi,
Sao đời không sớm tách rời cõi mê.
Để đến việc thảm-thê thê-thảm,
Mắt phàm-trần tường lãm bi-ai.
Cũng đồng cốt-nhục hoài thai,
Nên ta rán sức miệt-mài dạy khuyên.
Thơ với phú Thần Tiên giáng bút,
Bởi cơ trời đà thúc bên lưng.
Không tu chừng khổ cũng ưng.
Tu hành gặp cảnh vui mừng toại thay!
Hoàng hôn tái sắc chuyển luân tài,
Nhựt dạ yêu đời chỉ quá dai.
Tỏ thuyết huyền-vi sanh-chúng rõ,
Năng kỳ liên huệ tất biền lai.
Tư lương đeo đuổi giấc mộng sầu,
Bớ hỡi dương trần khá liệu âu.
Nước lửa đến chưn, ôi! khó nhảy,
Co giò phóng riết lọt ngoài sâu.
Huyền cơ đạo-hạnh hãy rán tầm,
Đời cùng Tiên Phật dụng nhơn tâm.
Ngàn năm Thích Đạo đành chôn lấp,
Thương tưởng bá-gia nỗi lạc lầm.
Cảnh thảm khổ chiều mai sẽ đến,
Sao dân còn tríu-mến trần-mê?
Mắt nhìn ngoại quốc thảm-thê,
Nam-bang cảnh khổ cũng kề bên tai.
Cuộc biến động nay mai nguy ngập,
Một hội nầy rán lập thân danh.
Kìa kìa các bực công khanh,
Miễu son tạc để đành rành chẳng sai.
Đất với nước hậu lai vinh-diệu,
Đạo lo tròn yểu-điệu tấm thân.
Một câu quân lý tứ ân,
Ta đừng phai-lợt phong-thần bảng ghi.
Hòa-Hảo, tháng giêng năm Canh-Thìn
(Chép theo bổn chánh của Đức Thầy do Đức Ông giữ)
Lập chí giác dân đến giọng khàn,
Cảm tình bổn-đạo ngặt lời khan.
Tạm ngưng lý-lẽ trong đôi bữa,
Xin chớ bỏ qua rất muộn-màng.
Muộn-màng chơn-lý khó bằng an,
Thế thái trần mê giải mộng tràng.
Hỡi giống Tiên-Rồng mau mở mắt,
Kiếm tìm đạo-lý lánh hùm lang.
Hòa Hảo, tháng 2 năm Canh-Thìn
(con của ông Đốc-phủ Lê-quang-Liêm tức Bảy)
Lòng buồn gặp kẻ xa-xôi,
Lân-la đến chốn buôn mồi vinh-hoa.
Xả thân tìm kiếm ma-ha,
Chẳng nài viễn-vọng dẹp tà nơi tâm.
Nay gặp bạn tri âm tri kỷ,
Cho những điều thiện mỹ cổ lai.
Đừng nên sớm vội lợt phai,
Xe dây cho chặt mà nài tánh linh.
Nền đạo-đức sắc thinh chớ mến,
Có thuyền từ đưa đến non Tiên.
Cứu người hữu phước thiện-duyên,
Về nơi cõi Phật khỏi miền trần ai.
Kẻ ác-đức hậu lai khổ thảm,
Mắt phàm trần tường lãm hồ binh.
Mấy lời dặn bảo đinh-ninh,
Gắn-ghi chạm dạ Long-Đình được xem.
Mùi đạo-diệu gỏi nem khó sánh,
Chốn trà-đình xa lánh vãng lai.
Tu hành nào luận mặn chay,
Miễn tâm thanh tịnh gặp ngày an cư.
Nền đạo-đức vị tư bất nhã,
Ta đừng phân nhơn ngã mới hay.
Nhìn đời thế thái đổi thay,
Hết vinh tới nhục lẽ nầy thường xưa.
Đời (1) vật chất văn-minh chiều-chuộng,
Vì thời lai vận bĩ trải qua.
Lòng sắt-son đây đó nõn-nà,
Tâm não bít bê-tha chậm trễ.
Tu với tỉnh bảo toàn thân thể,
Giữ đừng mòn linh tánh mới hay.
Nỗi bút-nghiên phận Lão cạn bày,
Câu diệu-lý cơ-huyền khó kiếm.
Sá chi kẻ dùng lời bao-biếm,
Chê Điên Khùng khó kiếm cho ra.
Não tâm tràng sớm dứt ái-hà,
Nên phải vội lìa xa cõi tạm.
Quyết chỉ nẻo lánh vòng hắc ám,
Đạo và đời thăm-thẳm sâu-xa.
Diệm Hồng-Liên thơ-thớ quần ca,
Tạo duyên giả phàm gian thân giả.
Chớ lấy đó mà tâm buồn-bã,
Hiệp-hòa nhau chờ đợi năm non.
Kìa hỡi ai giữ phận cho tròn,
Sau huynh-đệ có ngày hòa hiệp.
Chớ nản chí đường tu bỏ líp,
Trổi bước sang gặp Lão thế ngôn.
Trổi hùng phong cốt cách duy tồn,
Xác tuy mất hồn thiêng chẳng mất,
Lão cũng tỏ đôi lời khờ-khật,
Câu huyền sâu cho đó ngụ ngôn.
Mã song phi viễn-vọng tâm-hồn,
Hành thế lữ đêm dài cạn tỏ.
Giết cho sạch những loài sâu bọ,
Giống hại người lúc bỏ rẫy trồng.
Huệ tâm khai ngữ chuyễn huyền thông.
Sanh hồi thiện đôi câu thành-thật.
Đêm vắn tắt vài lời để cất,
Gát ngòi nghiên tạm biệt phàm gian.
Rạng vừng mây bóng thỏ lạc nhàn,
Để chuyến khác cạn câu hoài vọng.
Dậm tràng đó mới chuyến sang chơi,
Tỏ ý Thần Tiên khá nhận lời.
Huyền-pháp thâm-trầm thơm bất tuyệt,
Vô-vi chánh đạo hỡi người ôi!
Người ôi! chơn-lý thậm lâu đời,
Thâm cảnh diêu-huyền hẹn một nơi.
Hòa mặt Trung-Ương tam điệp khách,
Đợi chờ thiên-luật mới về ngơi.
Về ngơi chốn ấy rõ như lời,
Nào Lão có bày chuyện khuấy chơi.
Vẽ việc Trời xanh cho đó biết,
Một lòng gắn chặt chẳng xa lơi.
Xa lơi đạo-đức khổ tâm à!
Học cũ ít bài Lão thiết-tha.
Bóng xế tà tây ôi! lắm thể,
Dạ hiền cất bút mượn thi ca.
Thi ca nhiều nẻo thậm rồi đa,
Hồi tị sứ thần dạy chuyện xa.
Lánh thế chẳng bày danh Lão sĩ,
Ngày nay các chỗ ngộ cuồng-ca.
Hòa-Hảo, lối tháng 2 Canh-Thìn
(trong lúc ban đêm)
_______________________________________________
Lúc hầu chuyện với Đức Thầy ông Ngà có khen ông Lê-văn-Trung và nói nếu ông Trung còn sống thì câu chuyện đạo-đức với Đức Thầy ắt là lý thú lắm. Đức Thầy mới viết thêm đoạn dưới đây.