NHỮNG BÀI THI CỦA THẦY SÁNG TÁC NĂM CANH THÌN 1940 (Phần 3)
- đăng bài : huyencuongcusi
NHỮNG BÀI THI CỦA THẦY SÁNG TÁC NĂM CANH THÌN 1940 (Phần 3)
- đăng bài : huyencuongcusi
Trời thanh lặng gió đưa hiu-hắt,
Ngồi thơ phòng thân bắt lạnh lùng.
Gẫm xác trần còn cách cội thung,
Đâu có được giũ mùng quạt gió.
Cơn mừng vui nào ngờ lũ ó,
Vội bay ngang rồi xớt đi luôn.
Chữ ngậm-ngùi lụy ngọc ứa tuôn,
Nào phải giống chim muông điểu-thú.
Lìa quê-hương quên câu nghĩa cũ,
Bởi xác phàm hấp thụ đã lâu.
Cuộc lung-tung rối-rắm trời Âu,
Nên còn ngại bước đường trở gót.
Tiếng riêng than tai nghe thảnh-thót,
Trăm ngàn nhà bổn-đạo ước mơ.
Con lạc cha con hỡi u-ơ,
Thầy xa tớ ngẩn-ngơ thương mến.
Ngóng trông chờ vận-thời đưa đến,
Đặng chung cùng môt tiệc quỳnh-tương.
Cây ngô-đồng hứng vẻ đượm sương,
Cho chim phụng mặc tình sè múa.
Cảnh sum-vầy mây lành bay tủa,
Cả trời Nam lưới bủa thiên-la.
Chữ Thánh Hiền mới được nôm-na,
Ta thỏa chí hô-hào trung nghĩa.
Giống hiền xưa bây giờ mới tỉa,
Dốc chờ ngày bông trổ thơm tho.
Tuy ngày nay chưa được ấm no,
Sau được dựa nơi non nhược thủy.
Đây trưng bày khuyên gìn cang-kỷ,
Đờn những câu tỉ-mỉ rung hồn.
Cho người lành dạ ái bắt nôn,
Cúi đầu trước qui-y Phật-Pháp.
Quản chi thân bị mưa, nắng táp,
Nơi sang giàu ấm-áp mặc ai.
Vẽ cho dân lập chí râu mày,
Phá tan óc tinh-thần nhu-nhược.
Thân nặng-nề như chim ô-thước,
Quyết làm xong cầu đá sông Ngân.
Nên chẳng màng báu ngọc châu trân,
Miễn con thảo nhuần ân Thánh-Đế.
Đứng anh hùng dựng nên thời-thế,
Sá chi loài trùn dế nhỏ-nhen.
Vội đem lòng cượng lý ghét-ghen,
Thêm cùng bớt tiếng kèn lời huyễn.
Chốn âm-ty ngưu đầu, mã diện,
Đang trông ngày tới số bắt hồn.
Cõi âm thần bịnh sái dịch ôn,
Chờ mãn phước ra tay bẻ họng.
Cửa Tiên-bang hãy còn khóa cổng,
Nhà cha xưa cửa đóng then gài.
Con nào hiền thì vẹn thảo ngay,
Đứa ngỗ-nghịch một mai đứt cổ.
Nhìn gương kiếng sao không biết hổ,
Lũ gian thần nào biết Tổ Tông.
Làm âu-sầu một góc trời Đông,
Bị miệng sói thổi lông tìm vít.
Văn cang-thường đem ra bày trích,
Vạch chỉ lời cổ tích người xưa.
Nghĩ vì đâu có cuộc giày bừa,
Cho lăn-lóc những người mới tỉnh.
Phải chi Phật lấy ngay bình tịnh,
Rưới cho trần được tỉnh chút tâm.
Mãi để câu vi diệu thậm thâm,
Cho sanh-chúng rừng lâm khó mở.
Được gió nhẹ ngờ đâu dễ thở,
Bỗng dông luồng âm khí nặng-nề.
Phải ngóng chờ cho phụng gặp kê,
Ấy thời đại Thánh Tiên trổ mặt.
Càng nhìn dân lòng tơ siết chặt,
Đau chi bằng đau khúc đoạn trường.
Ước sao mà thuận gió buồm trương,
Đò bát-nhã rước tôi lương đống.
Ngày vui tươi cũng đà lố bóng,
Cớ sao đời còn mãi say-sưa?
Không tìm Thầy đặng hưởng phước thừa,
Ngày lập Hội tay vin nhành quế.
Trau thân phận rạng danh hiếu đễ,
Thỏa dạ Thầy nơi chồn mây rồng.
Đừng chi lìa Bắc tổ Nam tông,
Chỉ biết giống Lạc-Hồng Thượng-cổ.
Tai nghe chi những câu ái ố,
Lòng từ-bi chớ cố lời gièm.
Đạo hiểu rồi ngon tợ gỏi nem,
Tuy cõi thế lấm-lem trần-tục.
Mây ganh hờn đầy lòng nghi-ngút,
Giữ dạ trong đừng đục mới mầu.
Thân bần tăng mặc bộ sồng nâu,
Cuộc thiên-lý một bầu đều hãn.
Đến kỳ thi danh Thầy chạm bảng,
Trên đài cao gọi các linh hồn.
Nay ngu khờ len-lỏi hương-thôn,
Sau đắc Đạo tiếng đồn bốn biển.
Giảng với sấm ra tài sửa kiểng,
Kệ cùng ca lựa tuyển con lành.
Tuy là Ta không thể sanh thành,
Nhưng thương hết ra tài dạy-dỗ.
Đời phải biết suy kim nghiệm cổ,
Thông cơ-đồ dựng nghiệp Thánh Hiền.
Ta quyết lòng rứt nợ oan-khiên,
Cứu bá-tánh khỏi nơi lao-khổ.
Gà lôi sớm mượn oai tố-hộ,
Có một ngày rớt lốt hổ-hang.
Nhu hiền hòa nhược ắt thắng cang,
Đời cùng đạo bi hoan, ly hiệp.
Tấm lòng thành gian-truân chớ khiếp,
Đức từ-bi tiếp-dẫn linh-hồn.
Nén hương nguyền cầu với Phật-Tôn,
Ban phước-huệ cứu nàn dương-thế.
Nhớ thuở nhỏ nhờ ơn bồng-bế,
Nay được nên vai-vế trưởng thành.
Ngẫm cuộc đời hai chữ trược-thanh,
Thân hành đạo vang danh khắp chốn.
Nhưng ngặt nỗi gặp đời hỗn-độn,
Câu quân-thần, phụ-tử rã-rời.
Khuyên tu hành hao sức tổn hơi,
Chẳng hề mở miệng ra than trách.
Hãy bỏ dứt tánh tình kiêu-cách,
Các con lành khá chọn ngay đường.
Tuy thân Thầy lướt cuộc gió-sương,
Mà thỏa chí tang-bồng hồ-thỉ.
Câu trượng-phu là trang nghĩa-sĩ,
Chữ anh-tài của đấng trung-lương.
Phận tu hành đạm bạc ra tương,
Miễn cầu được an-khương bốn-bể.
Rung chuông lành bằng muôn tiếng kệ,
Gọi hồn người hành thiện truy kinh.
Ra khuyên dân hẹn có sơn minh,
Dìu bá-tánh hứa câu thệ hải
Miễn tâm được hư-vô tồn-tại,
Sống ở trần hối cải tiền phi.
Sống làm sao vẹn chữ tu mi,
Sống vùng-vẫy râu-mày nam tử.
Tự như nhiên oai-phong thiên tứ,
Bút thần-linh mượn mực tay đề.
E dương-trần công việc trễ-bê,
Nên giục-thúc nhơn-sanh cày cấy.
Dụng Bá-Nha lên dây đờn khảy,
Lo cho đời quên vóc ốm gầy.
Ngày hằng mong gặp hội Rồng-mây,
Xanh men-mét cũng thây thịt xác.
Đi tới đâu giúp người khao-khát,
Ngặt giếng sâu khó múc mau đầy.
Trong suốt ngày làm việc lây-quây,
Dùng giấy, mực trưng-bày đạo-đức.
Biết bao giờ gái trai tỉnh thức,
Trẻ cùng già đồng hiểu Phật-gia.
Nương hùng-phong trổi giọng cuồng-ca,
Ca cuộc thế ca câu khuynh-đảo.
Buổi nhập tiệc trải qua tràng pháo,
Khói mịt-mù văng xác đầy đường.
Cuộc đời nay như ngựa buông cương,
Khó dừng lại vó cu lụp-bụp,
Mặt nước biển lô nhô lặn hụp,
Chim đua bay, cá lại tranh mồi.
Ngọn thủy-triều nô nức sục-sôi,
Bầu trái đất một phen luân-chuyển.
Ta là kẻ tu hành thiển kiến,
Xét thế-trần luận-biện đôi điều.
Chớ đâu nào bày việc trớ-trêu,
Muốn giác-tỉnh người mê trở lại.
Mong sanh-chúng học điều thông-thái,
Rèn tâm lành bác-ái trau-tria.
Hành đạo thiền cấp-cấp sớm khuya,
Lòng thương chúng khuyên-răn đủ thế.
Mà nào khác chợ trưa đồ ế,
Bán rẻ-rề ít kẻ hỏi mua.
Mảng lo theo lối mới tranh-đua,
Lại bỏ ngón se-sua học-thức.
Thân hèn-yếu lại vô năng-lực,
Chẳng tìm nơi thuốc nhiệm sửa gân.
Miệng toàn lời bắt-chước chúa Tần,
Muốn chôn sống anh-tài nhu-sĩ.
Nhưng mắc phải từ-bi lập chí,
Lược cùng thao, thao lược vẹn hai.
Của Thần Tiên đã sắp sẵn bày,
Nhờ ơn mọn giúp thêm chí cả.
Miệng nhích môi đầy văn tao-nhã,
Hạ bút thần thơ đã đề khai.
Khó làm cho Hiền-Thánh lung-lay,
Chỉ tưới nước vun phân cây quí.
Thêm mắc phải tay chàng Nhạc-Nghị,
Cận Thầy xưa định việc an dân.
Tiết trung-lương hiếu-nghĩa rạng ngần,
Ông Bàn-Cử mẹ ghi chạm thịt.
Luận sơ-sơ cho dân rõ tích,
Để chờ ngày hoán võ hô phong.
Ban cho đời thoát chữ cay-nồng,
Nay giục thúc câu quân tu ký.
Ngày nào mà Phật Tiên tọa vị,
Ấy thời lai bình trị muôn dân.
Khắp các nơi chư quốc xưng thần,
Trong bốn biển chúng dân lạc nghiệp.
Theo dõi gót người xưa mới kịp,
Vừng mây lành ngũ sắc hào quang.
Phật, Thánh, Tiên, Đông-Độ lướt sang,
Miền Nam-địa phân chia đẳng-cấp.
Nước cờ mới nay đà khởi sắp,
Trổ tài hay biển lấp non dời.
Dưới cùng trên ảm-đạm khí trời,
Cả thế-giới mưa hòa gió thuận.
Tạo nền móng Thánh-quân đặt vững,
Nơi triều-ca gầy-dựng tôi hiền.
Giờ mắc câu thiên lý vị nhiên,
Nên còn đãi thiên oai nấy lịnh.
Tỏ tình đời ít câu cung thỉnh,
Mong khán-quan vào cửa xem tuồng.
Cỏ cùng cây điểu-thú chim-muông,
Nhơn với vật huờn lai bổn-tánh.
Đó mới biết ai là Phật Thánh,
Ai thảo-hiền ai lỗi đạo nhà.
Đồng hát câu phụ-tử khải-ca,
Chúc trăm họ muôn nhà thạnh-thới.
NGÂM
Bồ-đào rượu thánh trà tiên,
Muôn năm cọng lạc chúa hiền tôi trung.
Nhơn-Nghĩa, ngày 29-5 Canh-Thìn
Hỏi HẰNG-NGA: (Cổ-thi)
Ớ ớ Hằng-Nga dám hỏi đon,
Cớ sao khi khuyết lại khi tròn?
Ba mươi mồng một đi đâu vắng?
Nay về hỏi đặng mấy thằng con?
ĐỨC THẦY họa:
Cõi thế nhìn ta gọi tiếng đon,
Phàm nhơn chẳng rõ nói eo tròn?
Hoàn-cầu luân chuyển nên mờ mắt,
Tháng cuối rồi qua cũng một con.
Nhơn-Nghĩa, ngày 14 tháng 6 dl. 1940 (Canh-Thìn)
Ớ ớ Hằng-Nga dám hỏi đon,
Cớ sao khi khuyết lại khi tròn?
Đông qua Dương-cốc bao nhiêu dặm?
Tây đến U-đô cách mấy hòn?
Uống thuốc trường-sanh đà mấy lượng?
Lấy chồng Hậu-Nghệ bấy nhiêu con?
Ba mươi mùng một đi đâu vắng?
Hay có tư tình với nước non?
ĐỨC THẦY họa:
Bởi tại vì ai có tiếng đon,
Luân luân chuyển chuyển mãi eo tròn.
Nam-thiền quê cũ mù xa dặm,
Bắc-lý nhà xưa mịt núi hòn.
Tiên trưởng đơn hay dầu ức lượng,
Phật Thần dược giỏi gắng tìm con.
Thương đời phi pháp tuy nhà vắng,
Những để đền bù với nước non.
Vịnh HẰNG-NGA: (Cổ-thi)
Khen ai cắc cớ bám trời tây,
Tỉnh giấc Hằng-Nga khéo vẽ mày.
Một phiến linh-đinh trôi mặt biển,
Nửa vừng lửng-đửng dán trên mây.
Cá ngờ câu thả tơi-bời lội,
Chim tưởng cung trương sập-sận bay.
Nên một nên hai còn bé tuổi,
Mười lăm mười bảy bốn phương hay.
ĐỨC THẦY họa:
Mây hồng năm sắc ở phương tây,
Sáng-suốt ô kim bởi vẹn mày.
Miệng nhỏ tiếng to vang bốn biển,
Lưỡi mềm lời lớn dậy Rồng Mây.
Lòng trong Thánh kệ tình bơi lội,
Dạ sạch Phật kinh ý luyện bay.
Dầu cho thân mỗ thanh xuân tuổi,
Thức giấc đời mê phải được hay.
Nhơn Nghĩa, ngày 14-6 Canh Thìn
Diệu-vợi đàng xa đến Bạc-Liêu,
Thiền-môn vẹn-vẽ quá tiêu-điều.
Bồng-lai tại thế non dường sánh,
Đẹp-đẽ cho ta trổi nhạc thiều.
Bổn-đạo trông chừng chữ Bạc-Liêu,
Cớ sao giành muốn cấm lời diêu.
Lưng-chưng bèo giạt thân hành đạo,
Bị lũ a-dua cá út thiều.
Lá phép xin về tỉnh Bạc-Liêu,
Ngụ nơi gia-trạch Hội-đồng Điều.
Lòng trông Chánh-phủ cho hay chẳng,
Khó dễ làm gì việc bấy nhiêu?
Nhơn-Nghĩa (Xà-No), lối tháng 6 năm Canh-Thìn
Kể từ mười tám tháng tư,
Canh-Thìn lưu chữ thiện-từ tới đây.
Cho làng Nhơn-Nghĩa biết Thầy,
Đem truyền mối đạo thang mây chỉ chừng.
Nay vì thời vận chuyển luân,
Ở trong cõi tạm đã từng đổi thay.
Cầu cho già trẻ gái trai,
Rủ nhau niệm Phật liên-đài ắt lên.
Thế-gian ngay thảo đáp đền,
Ngày sau sẽ được chăn mền thơm-tho.
Tục kêu là rạch Xà-No,
Vàm kinh ông Bổn eo-co khúc đường.
Ngày Thầy lìa cách quê-hương,
Về đây nương ngụ bởi thương dân lành.
Phủi trần xóa bỏ lợi danh,
Quyết lòng lánh trược tầm thanh mai chiều.
Thuở xưa thời buổi Thuấn-Nghiêu,
Thái-bình thạnh-trị mến yêu khắn tình.
Chớ đâu đồ-thán sanh-linh,
Bởi nay lỗi đạo kệ kinh ngạo cười.
Lo cho mình được đẹp tươi,
Phụ-phàng nghĩa cả lại cười Phật Tiên.
Luật Trời báo ứng nhãn tiền,
Khắp trong thiên-hạ đảo huyền từ nay.
Ra đi để lại một bài,
Cho trong bổn-đạo hôm mai rèn lòng.
Băng chừng tách dặm xa trông,
Dân-sanh gặp trận trời long hầu kề.
Tới lui bùa thuốc bộn-bề,
Chơn dời khỏi cửa ra về phủi ơn.
Thấy đời tu dối khuyên lơn,
Từ đây sửa lại gặp cơn thái-bình.
Phật Trời đâu dụng phép linh,
Chỉ dùng đạo-đức mặc tình ghét ưa.
Nghinh-ngang làm thiếu lấy thừa,
Mẹ cha chẳng kể dối lừa ngỗ-ngang.
Ngày nay mới đến Phật-đàng,
Niệm một tiếng Phật đòi an bịnh liền.
Chậm lành chê Phật ngạo Tiên,
Rồi sau tội nghiệp liên-miên tới mình.
Dương-trần phú trọng bần khinh,
Mảng lo bươi móc cầu vinh thân phàm.
Biết sao đầy được túi tham,
Không ngăn không đáy càng làm không kiêng.
Mỉa-mai đến kẻ tu hiền,
Làm cho thỏa chí mới yên giấc nồng.
Gẫm đời bụng dạ gai chông,
Nên còn khổ sở trời đông túng nghèo.
Nhìn dân ruột thắt gan teo,
Rán tầm gậy cũ mà leo qua bờ.
Nếu không, gặp cảnh bơ-vơ,
Thuyền ghe chẳng có bến bờ cũng không.
Một mai thấy được non Bồng,
Cảnh Tiên rực-rỡ mây rồng đẹp thay.
Lại thêm thấy chốn Phật-đài,
Không già không bịnh chẳng ngày nào lo.
Bây giờ Lão lại thúc đò,
Đưa qua bến giác dông to tới nhà.
Vậy mà còn ghét kệ ca,
Không gây tình cảm để Già nhọc khuyên.
Thương đời ta phải truân-chuyên,
Bạc-Liêu xứ ấy ta liền đến nơi.
Giã từ bổn-đạo ít lời,
Gìn câu nguyện vái chớ lơi nghĩa Thầy.
Bớt lòng thương nhớ từ đây,
Chẳng nên bịn-rịn để Thầy an tâm.
Nhớ lời dạy dỗ ca ngâm,
Di-Đà sáu chữ trì tâm chớ sờn.
Cuộc trần Thầy tỏ thiệt hơn,
Mấy người bê-trễ chậm chơn tới Thầy.
Nghe theo lời chỉ sau đây,
Lãnh bài cầu nguyện về rày mà tu.
Dạy dân đầu tóc rối bù,
Mà trong bá-tánh hềm-thù chi ta.
Trễ chơn Thầy mắc đi xa,
Hỏi thăm Hương-bộ vậy mà cách tu.
Trăng còn khi tỏ khi lu,
Cho nên phận Lão viễn du đổi dời.
Càng đi càng biết nhiều nơi,
Càng đem chơn-lý tuyệt-vời phổ thông.
Người Khùng trí lại cuồng-ngông,
Cớ sao thế-cuộc lảu thông cũng kỳ,
Xả thân tầm Đạo vô-vi,
Nhiệm-mầu thâm-diệu nan-tri Lão bày.
Cầm hương chắp lại hai tay,
Đưa lên trên trán nguyện bài qui y.
Nguyện rồi xá xuống tức thì,
Cắm hương rồi cũng đứng thì thẳng ngay.
Đọc qua lời nguyện một bài,
Lạy luôn bốn lạy tạ rày tông-gia.
Bàn tay lật ngửa vậy mà,
Chớ đừng lật sấp vì Thầy tái sanh.
Đi xa thì phải dặn rành,
Bàn thông-thiên cũng thiệt hành như y.
Bốn phương đều đọc vậy thì,
Cúi đầu bái tạ từ-bi Phật Trời.
Sớm chiều bình-đẳng chớ lơi,
Thường hành như vậy nhớ lời đừng sai.
Có đau xem thuốc ba bài,
Tâm thành cầu nguyện ắt nay bịnh lành.
Giấy vàng xé nhỏ đành rành,
Để trên bàn Phật chí thành uống ngay.
Thánh Thần phưởng-phất hồn bay,
Ở đâu cũng đến độ rày chúng-sanh.
Con rồng mới nửa gút nanh,
Mà trong bá-tánh thất thanh hãi-hùng.
Chừng nào Thầy lại gia trung,
Thì trong bổn-đạo bóng tùng phủ che.
Trách dân còn tiếc lụa the,
Chẳng làm phước-thiện họa e đến mình.
Hết nhục rồi lại đến vinh,
Nghe không thì cũng mặc tình thế-gian.
Để cho dân-sự luận bàn,
Nếu tu thì phải chọn vàng lừa thau.
Cá to mà phải ở ao,
Muốn ra biển rộng phải nhào kiếm sông.
Một mai dạo được Tây, Đông.
Khắp trong thế-giái thỏa lòng ước-mơ.
Nuôi tằm ắt được nên tơ,
Nếu ta làm phải phước hờ bên lưng.
Núi non rừng thẳm cũng từng.
Bây giờ phiêu lạc ta mừng khắp nơi.
Cho dân đều hiểu cuộc đời,
Thiên-cơ để dạ Lão thời yên thân.
Đại-đồng chuông Đạo bon ngân,
Cho người say ngủ tỉnh lần giấc mê.
Biết lo sửa kiểng trồng huê,
Thơm-tho gia-trụ danh đề Tổ-Tông.
Bấy lâu lòng những ước-mong,
Cha con hội hiệp thì lòng mới nguôi.
Từ nay ai có tới lui,
Cúi đầu bái Phật lòng vui tu hành.
Xin đừng đeo-đắm lợi-danh,
Bỏ trôi đạo-đức hư danh dạy truyền.
Mai sau được gặp cõi Tiên,
Phỉ tình nguyện ước khỏi phiền lòng ta.
Vài lời để lại khuyến ca,
Truy phong tách gót đường xa xứ người.
Trò buồn Thầy lại tức cười,
Đâu đâu bá tánh cũng người Trời sanh.
Gần xa Thầy chỉ đành-rành,
Quyết tuyển con lành đem lại Phật-gia.
Cáo từ làng xóm trẻ già,
Chúc cầu lạc nghiệp nhà nhà ấm no.
Nhơn-Nghĩa (Xà-No), ngày rằm tháng 6 Canh-Thìn
Ngao-ngán tình đời gẫm cuộc âu,
Đông, Tây, Nam, Bắc cũng chung bầu.
Vì sao thế sự người sang cả,
Phân biệt tước quờn áo rẽ bâu.Rẽ bâu dầu có, có mà chi,
Những mảng say sưa mặt cố lỳ.
Múa mỏ khua môi tài biệt thự,
Giống nòi Nam-Việt mãi chia ly.
Xà-No, năm Canh-Thìn
Nghĩ việc đời xưa gẫm việc nay,
Ai người tri kỷ ai là ai?
Tái sanh chọn lựa trang hiền thảo,
Thức tình tâm trung sẽ vẹn mày.
Vẹn mày mới đẹp, đẹp Tiên-gia,
Tông-Tổ thơm-tho phước hải hà.
Tịch mịch huyền sâu ai hiểu đặng,
Ắt là thấu tích sĩ cuồng ca.
Cuồng ca nẻo Đạo chốn huyền thâm,
Nghĩ việc xa xa ruột tím bầm.
Đau-đớn cho đời ôi thảm họa,
Mạch sầu có miệng lại dường câm.
Dường câm khó nói, nói còn e,
Thiện tín thờ-ơ nỗi rụt-rè.
Tiếng động bên tường nghe vẳng vẳng.
Sức hèn như chấu chống ngàn xe.
Ngàn xe muốn nghiến chấu còn bay,
Nước túng tìm phương chống kẻ tài.
Rốt cuộc tương-lai do quyết định,
Phương trời xa thẳm nắm quyền oai.
Quyền oai thế-hệ cực ta mang,
Luân chuyển nhơn-sanh lắm cuộc nàn.
Ai hỡi dân lành ta sẽ đợi,
Đạo người sửa trọn dứt lầm than.
Lầm than khói lửa với binh đao,
Âu á lung-tung nhuộm máu đào.
Bá tanh say sưa mùi phú-quí,
Sau nầy sẽ vướng cảnh đồ lao.
Đồ lao muốn lánh sớm nghe ta,
Bố thí trì chay giữ giới mà.
Phật Đạo trau dồi tâm tánh lại,
Giác thuyền chuyên chở lúc can qua.
Can qua dân chúng chớ buồn lo,
Tích đức chờ ta chốn hẹn-hò.
Tiên cảnh Phật đài xem rực-rỡ,
Hoàn-cầu đến đó ấm cùng no.
Cùng no bốn biển một cha thôi,
Bỏ dứt thói hư với tật tồi.
Trên có Phật Trời soi việc thế,
Dưới đầy cơm áo Lão về ngôi.
Nhà thương Chợ-quán, đêm 18-7 Canh-Thìn (1940)
Cảm bấy lòng ta nổi thẹn thuồng,
Sắp màn cảnh trí chửa nên khuôn.
Chúng-sanh lỡ bước ngơ bờ bến,
Nhơn-loại tầm đường ngán bụi truông.
Tạo hóa khiến đời mang sống khổ,
Đất trời xui đạo bị dông luồng.
U hoài tưởng lại thân lưu lạc,
Rừng thẳm khát-khao kiếm suối nguồn.
Nhà thương Chợ-quán, năm Canh-Thìn
Bá nhựt thân nầy chịu nạn tai,
Cầu xin Phật-Tổ vẽ tuồng hay.
Giúp cho Sãi khó qua bờ giác,
Trừ lũ yêu ma khuấy chọc Ngài.
Nhưng Ngài biến hóa ở Tây-Phương,
Còn Sãi dấn thân cảnh đoạn trường.
Nam-Hải Quan-Âm bình nước tịnh,
Rưới giùm bá tánh bớt tai ương.
Phận tớ xác phàm tớ sẽ dưng,
Cúng dường cho Phật, Phật đành ưng.
Dù cho phải chịu ngàn cay đắng,
Cũng nguyện Đạo mầu sẽ chấn-hưng.
Nhà thương Chợ-quán, năm Canh-Thìn
Bóng hồng vừa mới thoáng qua,
Nhơn-sanh tỉnh giấc tìm nhà Thánh Tiên.
Thánh chúa phán ra miền Nam-địa,
Mặc cho đời mai-mỉa cười chê.
Nhìn dân châu lụy ủ-ê,
Biết sao trút hết gánh về ta mang.
Mang cho hết tai nàn thế-giới,
Kẻ tâm lành bớt đợi chờ trông.
Cốt xưa thiệt giống Lạc-Hồng,
Trên hòa dưới thuận một lòng mến yêu.
Nay hiếm kẻ ỷ nhiều tiền của,
Vội làm trò hát múa lăng-xăng.
Xâu nhau đặng có tranh ăn,
Cùng là giành mặc cho bằng ngoại-bang.
Người sao lại bỉ-bàng tôm cá.
Thức ăn thừa khiếp nỗi ném quăng.
Kẻ nghèo lo chạy ngày hằng.
Lại không đủ bữa rối nhăng đời người.
Xem thế sự biếng cười biếng khóc,
Chẳng rung-rinh quèo móc chi ta.
Cười là cười thói ranh ma,
Khóc là khóc kẻ chưa ta dỗ-dành.
Cơn lỡ-dở buồn tanh chuyện quái,
Tim non đời kinh hãi bao phen.
Từ xưa ông cống xù quèn,
Ngày nay ông bịnh ông ghen việc nhà.
Bởi mắc việc đi xa đánh chén,
Bà ở nhà sẽ lén cải trang.
Sét tin ruột nọ bàng-hoàng.
Gượng say làm tỉnh rỗi nhàn cụng ly.
Thấy hiếm kẻ vô nghì lạc Đạo,
Đua một lòng làm bạo làm xằng.
Ai mà xét đến ăn-năn,
Quày đầu hướng thiện bần tăng dắt giùm.
“BÓNG HỒNG”
(Tiếp theo bài trước)
Mắt thấy đứa vô nghì phát giận,
Ngặt nỗi mình còn bận pháp-thân.
Chờ con đầy-đủ nghĩa-nhân,
Ra tay tế-độ dắt lần về ngôi.
Có ngày mở rộng qui-khôi,
Non thần vang chuyển Khùng ngồi xử phân.
Huyền cơ máy tạo xoay vần,
Đồng về Phật-cảnh mười phần xinh tươi.
Thánh Tiên vừa nhích miệng cười,
Chúc mừng trần-thế có người chơn tu.
Ngày nay vừa lúc trăng thu,
Tiết trời ảm đạm mịt-mù gió mây.
Mưa phùn lác-đác đượm bay,
Canh tràng thơ-thẩn thân Thầy bơ-vơ.
Truân-chuyên Tạo-hóa thờ-ơ,
Đưa người lương-thiện lỡ bờ xa quê.
Ru con buồn ngủ chưa mê,
Tằm đòi lên kén sợ dê phá chuồng.
Nực cười cho lũ sói muông.
Đem điều cay nghiệt phá tuồng Thuấn-Nghiêu.
Đến sau phách lạc hồn xiêu,
Rã-rời thân thể mang nhiều họa-ương.
Ai ôi! hãy ngắm cho tường,
Nhìn ông tận mặt hùng cường làm chi?
(Viết tại nhà thương Chơ-quán, ngày 25-8 Canh-Thìn)
Vận thời luân chuyển đưa ta tới,
Tới chốn nhà thương dưỡng bịnh điên.
Lắc-lẻo Hóa-công bày tấn kịch,
Chia xa bổn-đạo xuất mộng phiền.
Phòng vắng đêm khuya lặng tiếng người,
Tâm thần phưởng-phất cảnh vui tươi.
Ươc-mơ thế giới lân Hòa-Hảo,
Nhà Phật con Tiên hé miệng cười.
Lạnh-lùng mây bạc bị luồng dông,
Cũng bởi quá yêu giống Lạc-Hồng.
Cay đắng siểm gièm thân Lão chịu,
Miễn đời thạnh trị hết cuồng ngông.
Ta bước, bước đường gặp nẻo chông,
Mà không nản chí với nao lòng.
Dắt-dìu nhơn-loại câu huyền-bí,
Bửa đức dạy đời rạng Á-đông.
Nhà thương Chợ-quán, đêm 25-8 Canh-Thìn
Tiếp đặng lời thăm viếng, ngỏ lời cám ơn chung hết thiện-nam tín-nữ trẻ già, cầu chúc cho tất cả được sáng-suốt và hăng-hái bước vững trên đường Đạo-hạnh thanh-cao của Phật-pháp.
Ở trên nầy lúc nào Thầy cũng vui-vẻ, rất sung-sướng mà làm hết phận-sự của đạo-đức.
Chốn nầy là nơi để cho Thầy tỏ dấu cho hầu hết nhơn-sanh biết rằng chấn-hưng Phật-giáo thì phải chịu những sự tang thương biến cải và khuyên tín-đồ chớ buồn lòng lo-lắng, vì Ơn Trên định vậy thôi. Rồi ít lâu có ngày sum-hiệp chớ chẳng hề chi cả.
Về Kinh Giảng, tốt hơn kỹ-lưỡng chẳng nên phát lúc nầy.
Về thuốc men cũng tùy theo tâm Đạo mà chỉ vẽ thôi. Thời-kỳ nghiêm trọng, chẳng nên làm theo ý cầu xin của người, tạm ngưng việc đó rồi sẽ cho.
Bấy nhiêu lời cho nam-nữ mừng lòng, không cần chi thi phú dông-dài. Ý Thầy tốt hơn giữ lấy bề trong, còn bề ngoài thì để cho Thầy yên tịnh thì sẽ có nhiều điều may-mắn đưa đến.
Dầu cho xoay chuyển đất trời,
Lòng ta chỉ dốc độ đời mà thôi.
Cội lành mong đặng đâm chồi,
Chặt gìn Phật-Đạo đền bồi ơn xưa.
Đừng thù kẻ nghịch thêm thừa,
Mở lòng hà-hải lọc-lừa đàng ngay.
Thế-gian hiếm kẻ Thánh tài,
Ra đời phải chịu ít ngày gian-nan.
Cổ kim nghiệm biết đừng than,
Để cho Trời Phật lo toan việc nầy.
Nhà thương Chợ-quán, ngày 25-9 Canh-Thìn
Bây giờ ngồi nghĩ những ngày qua,
Lòng tớ lạ không, chẳng nhớ nhà.
Nhớ cả vạn dân trong bốn biển,
Gặp hồi trụy lạc Đạo càng xa.
Mộng hồn trong bóng vẩn-vơ bay,
Sương tỏa trắng trong chói rạng đài.
Bóng xế tà-tà về núi ngủ,
Trông chừng ông Tạo vẽ tuồng hay.
Ông hỡi khách chờ khách sẽ xem,
Cảnh cũ ôi thôi quá cũ mèm!
Vùng-vẫy đỡ nưng cơn sấm chớp,
Vinh-hoa phú-quí chẳng mơ thèm.
Phút chốc vui mừng cuộc trí tri,
Cùng nhau hiệp mặt hết sầu bi.
Tình yêu nhơn loại càng thêm đậm,
Có lẽ chơn nhơn lúc thạnh thì.
Xúc-động tâm hoài gọi chúng-sanh,
Thoát ly cảnh tuc sớm tu hành.
Giác thuyền đến bến đưa người thế,
Chớ đắm hồng trần nẻo lợi danh.
Nhà thương Chợ-Quán, năm Canh-Thìn
Đêm nay lại sao ta không buồn ngủ?
Đi, đứng, nằm, ủ-rũ nỗi niềm xa.
Hình như say chén rượu quá khề-khà,
Nhớ những kẻ bê tha trong ảo mộng.
Đường danh-lợi đua chen mùi ong-ỏng,
Đâu có màng tiếng vọng của người tu.
Cảnh thế-gian dường thể chốn ao tù,
Trong biển khổ mấy ai mà thoát đặng.
Nơi cửa Thánh, ôi! người càng quạnh vắng,
Chốn nhà ma chen-chúc quá thêm đông.
Biết làm sao gieo Đạo khắp đại đồng,
Đưa nhơn-loại đi vào vòng hạnh-phúc.
Thương trăm họ ruột tơ thêm vò khúc.
Để trí suy giục-thúc cả muôn dân.
Bỗng hay đâu nghi-ngút khói vua Tần,
Tăng-sĩ phải gắng vùi mơi hắc ám.
Nào ai biết tâm ta đời bác lãm,
Kiếp người dường chùm gởi bám vào cây.
Ở thế-gian ai rõ kẻ chơn Thầy,
Dắt sanh-chúng lìa nơi sông mê khổ.
Cõi trần-thế biết bao điều ái ố,
Hơn cùng thua nhắm mắt cũng ra ma.
Chi cho bằng:
Lúc sống sanh tìm lấy cuộc nhơn hòa,
Chữ thuận thảo hay hơn là tranh-đấu.
Thuở ít tuổi ấy là thời thơ ấu,
Ơn mẹ cha dạy-dỗ lúc nâng-niu.
Lớn lên rồi cần giữ lấy qui điều,
Của Phật-Thánh dạy người trung lẫn hiếu.
Con nghịch phản đều mang câu đàm tiếu,
Giữ sao tròn đạo nghĩa mới khôn ngoan.
Lòng sắt son dám sánh nỗi ngàn vàng,
Khó mua chuộc những người đầy liêm-sỉ.
Đường xa mới rõ biết tài ngựa ký,
Lúc nguy nàn tường tận kẻ vô lương.
Phụ ông cha làm lắm thói bạo cường,
Giành ăn uống ganh em cùng ghét cháu.
Trời sanh muỗi là loài thường hút máu,
Cũng lắm người mượn kế ấy dung thân.
Nên thuở xưa Trời sắp cuộc Phong-Thần,
Diệt kẻ quấy lọc-lừa dân lương-thiện.
Mong Tạo-hóa sắp xong tuồng cổ-điển,
Đặng nhơn-sanh kiến cảnh thái bình hòa.
Ngỏ lời khuyên nhơn-loại khắp gần xa,
Rán tu tỉnh hưởng đời chung cực-lạc.
Trên cửa Phật mùi hương thơm bát ngát,
Dưới quân thần phụ tử khải hoàn ca.
Ấy là xong bốn biển hiệp một nhà,
Không ganh-ghét dứt câu thù hận oán.
Trên kẻ trí lấy công-bình phân-đoán,
Dưới vạn dân trăm họ được im-lìm.
Trẻ với già gìn hai chữ từ-khiêm,
Không còn thấy loạn-luân nền cang-kỷ.
Đạo tôi chúa chặt gìn câu chung thỉ,
Đạo thầy trò khắc cốt với ghi xương.
Đạo cha con chặt-chẽ chữ miên trường.
Đao chồng vợ thuận-hòa cho đến thác.
Biết lẽ nghĩa kính yêu cùng cô bác,
Nội tông cùng ngoại tổ với cậu dì.
Thêm kính nhường anh chị kẻ cố tri,
Mắt chẳng thấy lũ gian phi xảo trá.
Đạo bè bạn bất phân nhơn với ngã,
Chữ nghĩa tình sắt đá mãi bền gan.
Trên non Tiên văng-vẳng tiếng phụng-hoàng,
Phật, Tiên, Thánh an bang cùng định quốc.
Đời xuất Thánh tỏ bày câu tiêm-tất,
Rán giữ-gìn kẻo mất giống hiền xưa.
Những thói hư tật xấu phải răn chừa,
Sau sẽ thấy người xưa tường tận mặt.
Ta kể sơ ít điều cho vắn tắt,
Ước mong đời xét kỹ đặng tu hành.
Phật từ-bi đặng chữ cao thanh,
Người lương-thiện hưởng muôn điều hạnh-phúc.
Đến đây ngao-ngán việc trần,
Thôi dừng bút lại định thần xét suy.
Giàu-sang lắm kẻ vô nghì,
Ỷ mình trên bực kể gì nghĩa-nhân.
Chẳng kiêng chẳng nể Phật Thần,
Suy mưu làm quấy nghiệp trần phải mang.
Vì chưng ta mắc tai nàn,
Lòng thương trăm họ lỡ-làng từ nay.
Cầu Trời, Phật độ tiêu tai,
Cứu trong thiên-hạ Đạo khai khắp trời.
Nhà thương Chợ-Quán, năm Canh-Thìn
(Bài nầy không có tựa. Chép theo bổn chánh do Đức Ông giữ)
Thu đã cuối bấc lai-rai thổi,
Xét cõi lòng chạnh nỗi thương tâm.
Canh tràng thổn-thức đứng nằm,
Phiền-ba xe ngựa ù-ầm bên tai.
Nguồn mây bạc cuốn quay mũi viết,
Chấm vào nghiên chi xiết ngại-ngùng.
Cũng bung sao lại khuấy bung,
Một bầy ngơ-ngác cội tùng còn xa.
Thấy Tăng-Sĩ thiệt-thà hữu chí,
Vội đem lòng ích-kỷ hại nhân.
Ôi, đời yểm cựu nghinh tân,
Rùng-rùng xóa bỏ Phật, Thần, Thánh, Tiên.
Làm cho Lão nửa phiền nửa tủi,
Ước sao mình như cuội trên trăng.
Đặng soi khắp cả dương-trần,
Cho người trong tối đặng lằn điển quang.
Kể đến lúc băng ngàn đất khách,
Đem thân nầy cắt mạch sầu đông.
Dầu ai trao đổi lạt nồng,
Trao chua chế ngọt tấm lòng chẳng nao.
Nhưng nghĩ lại héo xào tim phổi,
Biết gốc lành sao cội không gìn.
Ngạt-ngào tiếng kệ lời kinh,
Ơn nhờ chư Phật oai thinh giáo-truyền.
Thân làm Đạo ba giềng năm mối,
Dù gặp cơn gió thổi mưa tuôn.
Bại rồi thành lại nên tuồng.
Vạn dân hưởng được nước nguồn Ma-ha.
Trải một lúc cuồng ba sóng dậy,
Chắc nhơn-sanh sẽ thấy việc chi?
Trời đà sắp-đặt ly-kỳ,
Tới ngày trả quả ầm ỳ biết bao.
Thỏa cho kẻ khát-khao đạo-đức,
Danh Thánh tài thơm rực non sông.
Theo đòi học cổ của ông,
Nguồn văn kêu gọi người đồng tâm tu.
Lòng đừng chất mối thù chi cả,
Lũ bạo tàn tất tả nay mai.
Bấy lâu khoe giỏi khoe tài,
Trời xanh rọi thấu diệt loài kiêu căng.
Lời ta nói có ngằn lắm nhỉ,
Để đây rồi chúng quỉ hiểu lầm.
Điệu đờn trổi khúc huyền thâm,
Nhà nghề chọn bản tri âm đâu nào.
Giọng Tăng-Sĩ thanh thao như kiểng,
Hạn đã lâu sông giếng cạn mòn.
Cỏ cây khô héo thon-von,
Nay nhờ mưa đượm mà còn khát khao.
Nghĩ đến đây gió ào-ào thổi,
Ngẩng mình ra nhìn ngọn đông-phong.
Khổng-Minh nhờ gió dụng công,
Còn ta nhờ được muỗi-mòng bay tan.
Khuyên chớ chấp kẻ lòng lang sói,
Để đức lành ta rọi khắp nơi.
Non sông rực-rỡ chói ngời,
Mảnh gương Phật-Đạo soi đời cổ kim.
Nhơn loại sẽ khỏi chìm bể khổ,
Khắp muôn loài nguyện độ siêu-thăng.
Kể chi miệng mối lưỡi lằn.
Mặc tình thế-sự kêu thằng hay ông.
Chớ chia rẽ phải đồng tâm lực,
Khua giọng vàng đánh thức bốn phương.
Chấn-hưng Phật-Giáo học-đường,
Dưới trên hòa-thuận chọn đường qui nguyên.
Tay Tăng-Sĩ gậy thiền quyết nắm,
Lần bụi bờ xuống thẳm lên đèo.
Dầu cho gặp lắm hùm beo,
Từ-bi vẫn niệm quyết leo khỏi rừng.
Đâu nản chí mà ngừng việc phải,
Cuộc tang thương biến cải cảnh trần.
Bực mình đeo đắm pháp-thân,
Chờ cơn gió tạnh sẽ lần bước ra.
Thấy thiện-tín chan hòa giọt lụy,
Tâm não nùng chạnh nghĩ xa vời.
Chim trời dựng ổ chiều mơi,
Bầy con chiu-chít cả đời nhàn thân.
Còn một đoạn mưa Tần nắng Sở,
Trải qua rồi việc dở hóa hay.
Thế-gian sẽ biết Thánh-tài,
Bế-bồng con dại hát bài khải-ca.
Ai mà được trông qua cảnh ấy,
Cội phúc nhà tạo lấy mà nhờ.
Thương đời tả ít lời thơ,
Nẻo tu dân-sự còn chờ dịp nao?
Phận Tăng-Sĩ nài bao gió bụi,
Miễn xổ lồng tháo củi ta-bà.
Theo đòi gương-phẩm Thích-Ca,
Dốc đem tâm chí tầm ra Đạo mầu.
Cả vạn vật chung bầu thế-giái,
Vì oán thù dựng bãi chiến-trường.
Cũng đồng xưng bá xưng vương,
Tranh quyền đoạt lợi đởm đương xé giành.
Ta nguyện một lời hành chánh đạo,
Chẳng phải người thông thạo hoàn toàn.
Nhưng mà gắng chí kêu vang,
Người ôi! thức tỉnh lánh nàn tu thân.
Nguồn bạch thủy trong ngần mát-mẻ,
Múc rưới vào độ kẻ chúng-sinh.
Thần-thông phép Phật muôn nghìn,
Cội lành nắm chặt ắt mình thảnh-thơi.
Nay Tăng-Sĩ có lời kêu gọi,
Dụng tinh-thần chống-chỏi quỉ tà.
Đừng cho chúng đến gần ta,
Nhơn-sanh còn hỡi ngà-ngà giấc say.
Phật, Tiên, Thánh muôn loài vạn-vật,
Cũng ở trong quả đất dựng gầy.
Siêu-thăng nhẹ tách đường mây.
Trầm-luân oan-nghiệt càng gây thêm hoài.
Ta chí dốc tầm đài-nguyệt-kiến,
Cho dương-trần rọi chuyện sai lầm.
Định thần dẹp hết tà tâm,
Huờn lai bổn-tánh Thần khâm quỉ nhường.
Bỏ cái tánh tự cường tự trọng,
Gẫm cuộc đời cái bóng theo hình.
Tu hành đâu kể nhục vinh,
Ta làm bổn-phận ngạo khinh mặc đời.
Đầu ngưỡng-vọng đất trời minh chứng,
Tấm lòng thành quyết dựng Đạo đời.
Đôi điều hòa-nhã nơi nơi,
Thân nầy mới chịu ngồi ngơi thạch-bàn.
Lòng trẻ thảo biết đoàn biết kết,
Phí xác phàm mê mệt đâu nài.
Băng rừng vẹt phá gốc gai,
Đưa người lương-thiện đến ngay Niết-Bàn.
Thấy biển khổ đâu an lòng đặng,
Xông thuyền ra cứu vớt sanh-linh.
Miễn cho bá tánh vẹn mình,
Hết cơn bịnh tật hết tin đạo tà.
Cúi nhờ nước ma-ha mát mẻ,
Xin Phật ban cho kẻ khát lòng.
Chim khôn thì uống nước trong,
Người khôn mau sớm rửa lòng bợn nhơ.
Để ma bịnh theo hờ bén gót,
Thần chết kia ôm hót bên mình.
Đạo lành sao lại chẳng tin,
Dầu cho thông thái cũng gìn cốt xưa.
Nỡ đâu lại vày bừa đồng loại,
Cũng gốc Ngài Thượng-Đế xuống trần.
Quày đầu nghe tiếng chuông ngân,
Trở về nơi cũ cho gần Phật, Tiên.
Thấy sanh-chúng quá ghiền cảnh tục,
Nên nhiều lần giục thúc muôn dân.
Bạch trinh giữ lấy nghĩa-nhân,
Muốn về cõi Phật, lập thân cõi trần.
Vượt cảnh khổ muôn phần u-ám,
Ganh, ghét, hờn, thì thảm muôn bề.
Khuyên trong nam nữ chợ quê,
Cúi đầu thiện-niệm trông về Tây-Phương.
NGÂM:
Tu cho kẻ bạo khâm-nhường,
Đẹp lòng cha mẹ Cửu-Huyền chờ trông.
(tiếp theo bài trước)
Riêng phòng vắng-vẻ một mình ta,
Đèn điện bật lên ánh sáng lòa.
Trí não nghĩ suy tuồng biến đổi,
Tâm hồn liệu lượng cảnh thay nhà.
Tai nghe bốn phía xe cùng ngựa,
Mắt thấy chung quanh vách trắng ngà.
Cô độc nhưng lòng nô-nức mãi,
Cố tình kinh-nghiệm những ngày qua.
Nhà thương Chợ-Quán, ngày 30-9 Canh-Thìn
Cảnh trời mây mịt vẽ lăng-quằng,
Mười bốn tháng mười lại khuất trăng.
Ngẫm việc thiên-cơ càng biến chuyển,
Xem chừng địa-lý quá xung xăng.
Tơ lòng vương-vấn đời thêm bận,
Tâm dạ ai-hoài cuộc nhện giăng.
Biết đó biết đây thời với vận,
Để ngày kết cuộc khó ăn-năn.
Nhà thương Chợ-Quán, ngày 14-10 Canh-Thìn
(trước khi Cộng-Sản nổi dậy ở Xoài-Hột)
(Chép theo bổn chánh do Đức Ông giữ)
Chạnh lòng nghĩ lại cảnh phiền ba,
Nghi-ngút bợn nhơ khói vạy tà.
Lăn lóc phong-trần dày dạn mặt,
Truân chuyên bể ái kiếp mày hoa.
Hố sâu chất chứa người bạc-ác,
Hang thẳm chôn chồng kẻ thiết tha.
Trời đã hoàng hôn mau chợt tỉnh,
Tìm đèn Trí-Huệ lánh thân ra.
Lánh thân ra khỏi kẻo mang tai,
Tầm nẻo cao siêu đến Phật-đài.
Bến giác Thần, Tiên mau chực sẵn,
Bể mê phàm tục phải cao bay.
Nợ duyên đeo-đắm nơi đời tạm,
Kiếp số luân-chìm chốn gốc gai.
Rày gặp mưa nhuần ân Thánh-đế,
Cam-lồ rưới tắt lửa trần-ai.
Nhà thương Chợ-quán, ngày 3-12 Canh-Thìn
(Chép theo bổn chánh do Đức Ông giữ)
Đôi lời cạn hỏi Táo-quân ông,
Sắp tính về chầu Thượng-giới không?
Nếu có việc trần tâu thẳng lẽ,
Đừng như những kẻ bén hơi đồng.
Đêm ngồi nghĩ hỏi thăm ông Táo,
Sổ-sách trần ông tính đã xong chưa?
Năm Canh-Thìn nhiều trận gió mưa,
Chơ nhơn-loại trăm cay cùng ngàn đắng.
Còn một tháng trông coi dài dặn,
Chắc hăm-ba theo lệ cũng chầu Trời.
Đêm nay trò chuyện với tôi chơi,
Thêm dặn trước ít lời ông xin nhớ.
Táo cười rằng! có chi nhắn-nhở?
Mới hôm nay sao lại gấp quá chừng?
Có điều chi lo liệu bâng khuâng,
Mà vội-vã dặn-dò tôi sớm vậy?
Sãi cả cười, vuốt-ve tấm đãy:
Sợ ngày về ông bận lắm chè xôi.
Của chúng-sanh làm lễ vãng hồi,
E quên mất những lời tôi gởi-gắm.
Nên tính trước trao tờ cáo-thẩm,
Cuộc trần-gian đà trải một năm qua,
Luôn từ ngày Tăng-Sĩ xa nhà,
Đều uất-kết tâu qua cùng Thượng-Đế:
Ngày vâng chỉ đáo-lai trần-thế,
Cõi Trung-Ương nhằm đất nước Việt-Nam.
Chọn một chàng tuổi trẻ tục-phàm,
Mượn tay gã, tờ hoa Thần hạ bút.
Khuyên bá-tánh tầm Tiên rời tục,
Chỉ máy Trời bày tỏ việc về sau.
Gái cùng trai già trẻ bước vào,
Đường trí-huệ qui-y gìn Đạo-pháp.
Thần cũng chẳng say mê chùa tháp,
Chẳng tham tiền, tham vật, món chi chi.
Hơn năm dư quyết chí duy trì,
Truyền sanh-chúng phải kính thờ Trời, Phật.
Cũng lắm kẻ phàm phu sơ thất,
Vội trêu đùa lũ quỉ ngạo đoàn ma.
Lúc ăn-năn sửa tánh rất thật-thà,
Còn lắm kẻ nghinh-ngang theo chọc rối.
Mượn luật-pháp ẩn trong bóng tối,
Mãi làm điều phi nghĩa chuyện bất lương.
Dạ hiểm sâu không thước đo lường,
Dốc phá hoại đường ngay, bôi lẽ thẳng.
Thêm lời tiếng thấp cao nhẹ nặng,
Làm cho người tu tỉnh phải xót-xa.
Nên hạ thần kính-cẩn tâu qua,
Xin Ngọc-Đế phân minh giùm trần-thế.
Nay cũng lắm người ưa kinh-kệ,
Muốn tu mà gặp lúc quá gay-go.
Xác trần còn mắc phải neo đò.
Giờ rước khách đã ngưng rồi năm tháng.
Thiên-số định cũng chưa quá hạn,
Nên phải còn bận mãi ách nàn tai.
Vọng Thánh-minh đức rạng khắp nhơn-loài,
Ban phước xuống dân lành cho bớt khổ.
Gạo lúa kém là đồ sản-thổ,
Hàng hóa cao, ấy của ngoại bang vào.
Kẻ nghèo hèn thêm nỗi đói, đau,
Rất mong-mỏi an-cư cùng lạc nghiệp.
Oai trời đất, thế-trần khủng-khiếp,
Nhưng ngặt loài thỏ-cáo cứ đua tranh.
Lũ sói hùm hươi gút múa nanh,
Cho trăm họ hãi-hùng cơn sấm nổ.
Thần rán sức ra công khuyến dỗ,
Gìn thuần-phong mỹ-tục của Rồng-Tiên.
Tập ở ăn theo nết Thánh-hiền,
Lòng tu tỉnh, dòm Phật-Tiên nối chí.
Bày tường-tận trước sau chung thỉ,
Đời văn-minh vật-chất bỏ gương xưa.
Nghiệp Tổ Tiên con cháu vày bừa,
Học thói mới lăng loàn theo sở dục.
Khắp thế-giới binh lương cụ túc,
Quyết tranh-giành quyền-lợi, xé-xâu nhau.
Thấy nhơn-sanh tuôn giọt máu đào,
Lòng bác-ái động tình rơi nước mắt.
Tiếng ai-bi thở than véo-vắt,
Khắp Đông, Tây, Nam, Bắc chịu ưu sầu.
Kẻ lương-hiền chờ giọt mưa ngâu,
Người bạo ngược thừa cơ nguy thủ lợi.
Ở thị thiềng đua chen xướng-khởi,
Những tuồng hư, cho bọn gái lẫn trai.
Nào hút thuốc phiện, hội ve chai,
Nào trùm-đĩ, ma-cô, nghề hút máu.
Ai để mắt xem đời chu đáo,
Chẳng khỏi than giùm dân-tộc hư hèn.
Diện áo quần, son phấn lấn chen,
Miễn cho mình được lên xe xuống ngựa.
Mảng điểm-tô huy-hoàng nhà cửa,
Ai khốn-cùng để mặc đất, trời xây.
Thấy nhơn gian khuynh đảo tỏ bày,
Cho Thương-Đế lãm tường trong sanh-chúng.
Bấy nhiều điều xét xem nhân-chủng,
Táo đệ giùm cho thấu đến Thiên-cung.
Còn nhiều điều gớm-ghiếc hãi-hùng,
Lấy yếu lược đôi câu mà trần tố.
Nay cùng ông hữu duyên tương ngộ,
Chúc ông về Thượng-giái được ban khen.
Phần Sĩ-Tăng tay trống miệng kèn,
Giác thiện-tín chấn-hưng nền Phật-giáo.
Nếu chừng nào khai thông đại Đạo,
Đuốc từ-bi rọi khắp cả nhơn-gian.
Bể trầm-luân khô cạn sáu đàng,
Tăng-Sĩ mới trở về nơi thanh-tịnh.
Nhà thương Chợ-Quán, ngày 3 tháng chạp Canh-Thìn
(Chép theo bổn chánh do Đức Ông giữ)
Vì đâu bốc ngọn lửa Tần,
Mà lòng Tăng-Sĩ như dần nát tan.
Nghĩ mình chọn kiếp con hoang,
Quê hương rày đã dặm tràng sơn-xuyên.
Tổ-đường còn một cành huyên,
Từ-đường hôm sớm luống phiền chờ trông.
Hai em thiểu trí thơ-đồng,
Chị đà an phận theo chồng đàng xa.
Từ mang một tấm áo dà,
Mùi thiền đã thắm ơn nhà lợt phai.
Sống sanh ra phận râu mày,
Một đời một Đạo đến ngày chung thân.
Tuy là xa cách cố nhân,
Nơi đời tríu mến sớm gần cửa không.
Từ-bi buộc chặt cõi lòng,
Còn ơn cúc-dục để hòng mai sau.
Bể trần sóng cuộn lao-xao,
Xông thuyền bát-nhã lướt vào một phen.
Quản chi lực kém tài hèn,
Dù đời bạc đãi ngọn đèn cứ nêu.
Soi từ đài các xá lều,
Cho người trụy-lạc biết điều nghĩa-nhân.
Tài tai hai chữ cân phân,
Trời ban họa phước một lần cho ta.
Mắt đen thấy mắt trắng lòa,
Phật ma, ma Phật mới ra vở tuồng.
Trời già tay khéo, khéo luôn,
Sắp chi chua ngọt pha buồn lẫn vui?
Năm canh luống những sụt-sùi,
Cám trong nhân-chủng lắm người dở-dang.
Sầu chung ta cất tiếng than,
Phù-sinh kiếp có đoạn tràng thì thôi.
Bon bon chuông giục mấy hồi,
Rầm rầm sấm nổ trên đồi xa xa.
Đầu canh tiếng động bên nhà,
Chờ ba canh một thì gà gáy tan.
Ngày xuân cách cội xa làng,
Người quê Quán-Chợ như thoàn linh-đinh.
Vừa cơn sóng gió bất bình,
Số trời đã định phận mình biết sao.
Ngày xưa mấy bực yên-hào,
Vào sanh ra tử dạ nào trách than.
Thân nầy đã ngấm trầm nhang.
Vui câu bác-ái bền gan đợi chờ,
Đêm khuya vắng lặng như tờ,
Vài hàng nhủ hết chớ ngơ-ngẩn lòng.
Gắng tình đừng lắm ngóng trông.
Hung-tinh sao ấy trời Đông lờ-mờ.
Hềm vì mắc lá thiên-thơ,
Đôi điều ghi chép cõi bờ chưa xong.
Thôi thì lòng dặn lấy lòng,
Gẫm đây đến cuộc mây rồng chẳng xa.
Đêm khuya lác-đác sương sa,
Phòng khuya lạnh-lẽo có ta với phòng.
Gật-gù suy cuộc hưng vong,
Quyết xoay máy tạo gánh gồng chưa yên.
Trí thần nhớ đến tiếng quyên,
Gọi hồn cố-quốc sầu riêng một mình.
Trầm-ngâm vẻ mặt làm thinh,
Tựa mình bên gối giấc quỳnh đã say.
Mơ tiên hồn muốn vụt bay…
Nhà thương Chợ-Quán, tháng chạp năm Canh-Thìn
(Chép theo bổn chánh do Đức Ông giữ)
Nghiệp chướng lăng-loàn hại xác thân,
Chuông lành buông tiếng vọng bon ngân.
Cương-thường gánh nặng trai gìn trọn,
Tơ-tóc vai quằn gái vẹn phân.
Nợ nước văn-chương toan báo đáp,
Ơn nhà đạo-đức quyết đền ân.
Khuyên người trí-sĩ mau mau tỉnh,
Giấc mộng nam-kha chốn thế-trần.
Thế-trần tạm giả gạt đời ta,
Lướt khỏi sông mê khỏi ái hà.
Nhân-ngã, ngã-nhân đừng cách biệt,
Sắc không, không sắc chớ lìa xa.
Diệu-huyền chơn lý noi đường sáng,
Ảo-thuật tà-tâm kiếm nẻo ra.
Lóng-lánh gương xưa lời Phật dạy,
Hồng-trần ái-dục giết tài hoa.
Tài-hoa cho lắm, lắm nàn tai,
Trụy-lạc phong-trần chốn gốc gai.
Nếu đã tỉnh tâm tầm lẽ thẳng,
Cũng nên rèn tánh gặp đàng ngay.
Sân-si phỏng có điều thêm bận,
Nhẫn-nhịn ắt không chuyện kéo dài.
Tiếng gọi hồn mê hồn được giác,
Phải toan sắm-sửa rứt trần-ai.
Trần-ai chỉ có thú phong-lưu,
Tranh-đấu thành ra mãi oán cừu.
Chung cuộc chỉ mang câu thất vọng,
Xong đời ghi chất mối sầu ưu.
Cổ kim máy tạo nhiều huyền-bí,
Lão ấu xây vần lắm mẹo mưu.
Cũng chẳng cướp xong quyền võ-trụ,
Mà còn đeo đắm thú phong-lưu.
Phong-lưu nào phải gọi người ngoan,
Sa ngã biến nên kẻ khốn nàn.
Ngày đến, đến đi đâu kéo ngược,
Năm về, về mãi chẳng ngừng ngang.
Tuổi già thân yếu đa sầu cảm,
Tóc bạc mình ve lắm rộn-ràng.
Biết được trần-gian là mộng huyễn,
Tử thần sửa soạn kéo vào quan.
Kéo vào quan-quách biết bao người,
Cảnh sống sum-vầy phỏng mấy mươi?
Lắm lúc đua chen vui lẫn giận,
Nhiều khi vùng-vẫy khóc pha cười.
Tuồng đời chuốt-ngót cho xong tiếng,
Cuộc thế trau-giồi mượn tấc hơi.
Nín thở nằm ngay không cựa quậy,
Xót thương con trẻ khóc đôi lời.
Đôi lời kể lại nỗi hàn huyên,
Ma lớn chay to phí lắm tiền.
Tưởng vậy xác thân đa hạnh-phúc,
Nào hay hồn-phách lắm oan-khiên.
Thiên-đường siêu-thoát thời thong-thả,
Địa-ngục trầm-luân ắt đảo-điên.
Nên chọn một nơi thanh-tịnh ấy,
Rứt trần bất nhiễm mới là yên.
Mới là yên-ổn lánh trần-gian,
Chí nguyện tiêu-diêu cảnh Phật-đàng.
Diệu-pháp chuyển thân vô sự thế,
Huyền-thông hoá kiếp chẳng lo toan.
Tâm linh mắt thánh xem ba cõi,
Tánh hiển tai thần lóng bốn phang.
Phổ-tế chúng-sanh qua bể khổ,
Di-Đà miệng niệm lánh trần-gian.
Trần-gian khói lửa với đao binh,
Chư Phật sớm bày phép hiển-linh.
Cứu khổ nam-mô vô lượng phước,
Diệt nàn tu-rị hữu thiên kinh.
Sóng xao dương-thế nhiều cay đắng,
Gió cuốn trần-gian nỗi bất bình.
Tín-nữ thiện-nam gìn mối đạo,
Dầu cho lăn-lóc rán kiên-trinh.
Kiên-trinh mà chịu lúc nàn tai,
Dẫu có gian-nan dạ chớ nài.
Vàng đá bao phen cơn nước lửa,
Chì thau lắm chuyện lúc non hài.
Bền gan chờ đợi ngày sum hiệp,
Gắng chí trông mong bữa tiệc khai.
Thiên địa tuần-huờn gom một mối,
Phàm-trần vẹn kiếp kiến Bồng-Lai.
Nhà thương Chợ-Quán, tháng chạp năm Canh-Thìn
(Chép theo bổn chánh do Đức Ông giữ)
Ngày Tết đến, nương mực viết thay lời, trước kính bái tông đường, sau chúc mừng ông bà đặng muôn điều hạnh-phúc. Sau có hai bài thơ, xin ông xem chơi cho rõ điều tâm sự:
Xuân đến chúc mừng tuổi thúc ông,
Đàng xa không thể viếng môn tông.
Câu thơ cao hứng thay bầu rượu,
Bài phú vui mừng thế chậu bông.
Đạo-đức gắng công nên cách mặt,
Văn-chương rèn chí chẳng phai lòng.
Ơn nhà tạm gác sau nầy trả,
Xin bớt đau lòng bớt ngóng trông.
Trước đã đem thân hiến Phật đài,
Chắc rằng sẽ được buổi trùng lai.
Ra công khai-hóa vì nhân-chủng,
Nhọc sức mở-mang bởi cốt-hài.
Sanh đấng nam-nhi toan xử thế,
Sống làm hiền-triết nghĩa gồm hai.
Thuận hòa trăm họ đời an-lạc,
Chừng ấy xe tiên thế dép giày.
Nhà thương Chợ-Quán, tháng Chạp năm Canh-Thìn
Phụ mẫu thâm ân vô lượng kiếp,
Quân-thần nghĩa trọng hữu thiên niên.
Vận phải bĩ trăm điều chua chát,
Thời đáo lai muôn chuyện ngọt ngon.
Nghĩ cuộc đời mà chan-chứa nỗi hao mòn,
Xem cảnh thế luống xót-xa niềm chích mát.
Đời nầy như thế người kia cũng thế,
Làm sao mà tránh khỏi việc lầm than.
Sống tranh đua khi chết cũng xương tàn,
Cho nên: Mượn đuốc huệ đánh tan mùi tục lụy.
Buồn vơi mượn bút tay đề,
Tu hành tâm đạo dựa kề Tiên-bang.
Nào nào trần thế có sang,
Sắp đều đau khổ nghèo nàn hỡi ai!
Thảm trong thế sự ngày nay,
Lắm điều lao-lý quá dài gian-nan.
Một tay tá quốc an bang,
Nước nhà vững đặt Hớn-đàng hiển vinh.
Bây giờ phải mượn kệ kinh,
Dắt-dìu trần-thế mặc tình nghe không.
Kêu thằng hay gọi là ông,
Cũng không có muốn ai hòng tôn-ti.
Nhà thương Chợ-Quán, tháng Chạp năm Canh-Thìn
(Bài trên đây Đức Thầy gởi về nhà, một lượt với 2 bài thơ gởi ông Mười)
(vì sợ liên-can vụ “Đạo tưởng” ở Tân-Châu, thuộc tỉnh Châu-Đốc)
Đạo ác xảy ra rất thảm phiền,
Làm cho dân sự nhổ thông thiên.
Xô ngang ít bữa rồi trồng lại,
Thần Thánh đi xa khó rước liền.
Hòa-Hảo, hạ tuần tháng Giêng năm Canh-Thìn