NHẪN ĐỢI THỜI CƠ



Vì có nhiều anh em bổn-đạo phân-vân về chỗ mùa hạ năm Quí-Mùi (1943) đã qua mà chưa thấy chuyện gì có thể cho là phù hạp với câu:

“Qua năm dê đến lúc mùa hè,

Trong bá tánh biết ai hữu chí.”


nên Đức Thầy có làm mấy bài thi dưới đây:


Bay hồn khiếp vía kể từ đây,

Nhắn gởi cho ai vội trách Thầy.

Trời hạ năm dê chưa nữa nữa,

Tuần-huờn máy tạo cũng lần xây.

Lần xây thiện-tín rõ chơn Thầy,

Chờ nóng tánh phàm chớ vội quây.

Ngày lụn tháng qua năm sẽ đến,

Trẻ già sẽ thấy cái hay hay.

Hay hay nam-nữ thỏa lòng khuây,

Nếu chẳng thì ra lại trách Thầy.

Muốn sớm tạn nhìn e úa rụng,

Trì tâm tu niệm để rồi đây.

Rồi đây úa rụng xót lòng thay,

Uổng tiếc công-trình bấy đến nay.

Có khó mới khôn, khôn rảnh khó,

Gìn tâm thiện niệm bớ râu mày.

Râu mày biết giữ đạo tâm chay,

Đắc quả thành công cũng có ngày.

Thất-Tổ Cữu-Huyền nơi chín suối,

Những mong hậu tấn biết tâm chay.

Tâm chay hậu tấn rán tu thân,

Bến giác chẳng xa cũng chẳng gần.

Trời Phật thương người lo độ tận,

Muốn lo giải-thoát phải tu thân.

Tu thân thiện-tín phải chuyên cần,

Lục-tự Di-Đà giữ Tứ Ân.

Rán nhẫn trăm phần dầu khó nhẫn,

Dạ thưa quan chức phận làm dân.

Làm dân bá nhẫn thị lương hiền,

Chữ nhẫn lời truyền Phật, Thánh, Tiên.

Gương trước Hớn, Tần, Hàn-Tín nhẫn,

Đã không khổ nhục khỏi ưu-phiền.

Ưu phiền trăm mối suốt canh thâu,

Thiện-tín chưa thông lẽ nhiệm-mầu.

Mảng sợ sông Ngân cầu lỗi nhịp,

Lo chi ô-thước chẳng xong cầu.

Xong cầu bờ giác bến sông mê,

Thế-sự nhân-sanh hết nhún trề.

Đạo-pháp huyền-vi thâm diệu diệu,

Chẳng màng thế sự tiếng khen chê.


Sàigòn, năm Quí-Vì (1943)






< TrTrước | Sau >