NHỮNG BÀI THI CỦA THẦY SÁNG TÁC NĂM CANH THÌN 1940 (Phần 2)
- đăng bài : huyencuongcusi
NHỮNG BÀI THI CỦA THẦY SÁNG TÁC NĂM CANH THÌN 1940 (Phần 2)
- đăng bài : huyencuongcusi
Mắt nhìn Kỷ-Mão vừa qua,
Gẫm trong thiên hạ nhiều nhà thiếu cơm.
Ruộng đồng chẳng có rạ rơm,
Trâu bò ngóng cổ nhà nông héo lòng.
Canh Thìn bước tới thiệt Rồng,
Trông cho mùa khác ruộng đồng ra sao.
Nhà nghèo dạ tợ như bào,
Vợ đau con yếu phương nào cho an.
Cả kêu cùng khắp xóm làng,
Mấy ông điền chủ cứu nàn mới qua.
Làng gần chí những tỉnh xa,
Lúc xưa thì cũng ruột-rà với nhau.
Ngày nay tốt phước sang giàu,
Xin thương kẻ khó giúp hào một khi.
Cậu cô chú bác cùng dì,
Khắp nơi thầy chú một khi hảo lòng.
Việc nhà quí bạn đã xong,
Hiệp nhau làm phước rõ lòng hiền nhơn.
Lão đây thân khó chẳng sờn,
Tỏ lời khuyến-khích tợ đờn Bá-Nha.
Ông nào lòng dạ hải-hà,
Động tình bác-ái ra mà làm đi.
Giúp người đói khó nhu-mì,
Dạy nó tâm trì niệm Phật làm ngay.
Bà nào góa bụa hữu tài,
Tiền nhiền đất rộng cò bay mút đồng.
Cơn nầy bố thí cho xong,
Để khi nhắm mắt bên chồng giành chia.
Ông bang các chợ, xẩm hia,
Tiệm hàng thạnh mậu nhờ dân ruộng vườn.
Ngày nay thất bát khá thương,
Tiền nong chẳng có cơm lường cho qua.
Mắt nhìn lòng ứa ruột-rà,
Cả kêu bổn đạo ai là thiệt tu.
Muốn cho rắn đặng hóa cù,
Xả thân làm phước Diêm-phù vượt qua.
Giữ bo đến lúc phong ba,
Gặp cơn bát loạn khó mà yên thân.
Phong trần ai cũng phong trần,
Được sang nhờ của người bần góp thâu.
Thấy đời lao-lý mà rầu,
Giúp cho chúng nó ngõ hầu làm ơn.
Xin quên mấy lúc giận hờn,
Ra tay tế-độ nghe đờn Tây-qui.
Xây vần trời đất tiết thì,
Hết cơn bĩ cực tới kỳ thới lai.
Cổ kim hiếm lúc nạn tai,
Hưng vong suy thạnh bằng nay lẽ thường.
Lớn ròng nạn ách phải vương,
Muốn qua truông khổ tìm đường Bồng-lai.
Ngày kia được trở gót hài,
Về nơi Tiên cảnh ngàn ngày đẹp tươi.
Giàu sang nghèo khó cũng người,
Nên ta thương hết dầu cười hay khen.
Lòng nhơn xin khá tập rèn,
Thạch-Sùng Vương-Khải sách đèn ai ưa.
Thánh-hiền roi tích đời xưa,
Nhờ tâm từ thiện người ưa kính thờ.
Chết rồi bỏ của bơ-vơ,
Chi bằng làm phải truyện thơ ghi đời.
Xác phàm có mấy lăm hơi,
Hỏi vay có một mà lời đôi ba.
Của dư cho mượn mới là,
Hảo tâm bố thí ngọc-tòa được lên.
Chê nghèo, giàu nọ đâu bền,
Chi bằng bố đức lập nền từ-bi.
Con hiền khá sớm hồi qui,
Nghe lời Thầy dạy kịp thì bớ dân.
Dòm xem kẻ khó tảo tần,
Ruộng tâm sang-sớt dắt lần với nhau.
Nghèo thời cũng rán cháo rau,
Chớ đừng gian-xảo ngày sau thanh-nhàn.
Bần cùng cũng sớm liệu-toan,
Giữ tâm ngay thảo xóm làng mến yêu.
Mộ khan thần tỉnh cần triêu,
Khỏi cơn hoạn-nạn Lam-kiều được lên.
Ít ai giữ đặng chí bền,
Tu theo nước lớn ròng bèn thả trôi.
Tuy xa mà tới mấy hồi,
Đất còn lở thét phải bồi tự nhiên.
Thảm thương cho kẻ tá-điền,
Gặp cơn lúa ngập của tiền ráo tay.
No chiều rồi lại đói mai,
Gia bần trí đoản đắng cay nhiều bề.
Lo tròn cha mẹ nhi thê,
Nhằm năm lưng túc não-nề tâm trung.
Khá thương những kẻ bần cùng,
Tâm lành dư của hãy dùng vào đây.
Sột-sột nhà sau mụ vét nồi,
Ông chồng quần áo rách lôi-thôi.
Bầy con ngơ-ngác đòi xơi bữa,
Lũ nhỏ giành nhau lấn chỗ ngồi.
Khua đũa mèo mun ngờ chủ thảo,
Muỗng rơi chó vện tưởng cho mồi.
Lầm than đói khó vì tai-ách,
Hỡi kẻ sang giàu cứu nạn trôi.
Nạn trôi lúa ngập đói còn xa,
Điền chủ mau mau nghĩ tận mà!
Tế-độ dân nghèo trong lúc túng,
Giúp giùm kẻ rối buổi vừa qua.
Có ăn dư huệ nhờ thân nó,
Nghèo khổ bần phu thảm dữ a!
Nếu đã xả thân tầm đạo-đức,
Mở lòng bố thí ngộ thần ca.
Tỏ lời nhắn-nhủ khắp đâu đâu,
Vạn-vật từ nay luống thảm sầu.
Áo-não thương đời đa đói khổ,
U-buồn trăm họ vẽ vài câu.
Hòa-Hảo, ngày 25-2 Canh-Thìn
(Đức Thầy viết bài nầy để kích-thích lòng bác-ái của những bà giàu có ở xứ xa đến viếng Ngài).
Tháng năm mười tám rõ-ràng,
Cùng xóm cuối làng ai cũng cười reo.
Xuống trần nhằm buổi nạn eo,
Gẫm trong dân-sự còn nghèo chữ tu.
Hạ-nguơn sanh-chúng ám-u,
Tây-Phương sắc lịnh vân-du Nam-kỳ.
Mượn nhằm một xác nhu-mì,
Giảng dân sáu tháng vậy thì xem sao.
Rất buồn bá tánh biết bao,
Nạn nguy sắp đến mà ngao-du hoài!
Viết ra giảng kệ bốn bài,
Giã-từ trần-thế lui hài bôn-phi.
An-Nam phong-hóa lễ-nghi,
Đời nay văn-vật bỏ đi chẳng gìn.
Mảng lo chế nhạo chống kình,
Chẳng toan đạo-đức mà gìn thôn hương.
Ta đây dường thể như lươn,
Cứu dân chẳng nệ nắng sương lấm đầu.
Sáu trăng Thầy tớ dãi-đầu,
Quyết lòng truyền bá Đạo mầu mà thôi.
Bồng-Lai Điên dại có ngôi,
Tây-Phương Cực-Lạc Khùng ngồi tòa sen.
Từ-bi ngọn đuốc mới nhen,
Giả như mở cửa mà then còn cầm.
Dân tình xài-xể dập bầm,
Nào hay ta đã thương ngầm sanh linh.
Xác trần ta mở oai thinh,
Đạo mầu truyền pháp thình lình không hay.
Trớ-trêu con tạo thày-lay,
Lôi-âm sắc lịnh đòi rày hỏi han.
Cúi đầu tâu trước Phật đàng:
“Lê dân ngoan-ngạnh xóm làng cừ-khôi.
Đầu đuôi tâu lại khúc nôi,
Một trăm mới đặng ối thôi mười người!
Mãng lo cao thấp ngạo cười,
Bởi chưng trần-hạ biếng lười không lo”.
Di-Đà nghe tấu buồn xo,
Vạn dân bá tánh đắn-đo nhiều bề.
Làm sao cửa Phật dựa kề,
Hung sùng tàn ác khó bề dạy khuyên.
Thầy khùng trò lại hóa điên,
Khùng điên mấy tháng tình riêng ai ngờ!
Tượng xưa dấu cũ còn mờ,
Không lo tìm kiếm bến bờ mà nương.
Nói cho bổn-đạo đặng tường,
Dạy dân nào có gạt lường chi dân.
Chim ô đà dựa cầu Ngân,
Người Xưa trở gót mấy lần ai hay.
Đời nầy chưa vẹn thảo ngay,
Thì là khó thấy mặt mày người xưa.
Dạy đời nào quản nắng mưa,
Ước mong bá tánh sớm ưa tu hành.
Đục trong bốn cuốn ngọn ngành,
Khuyên đời trau trỉa chữ lành cho xong.
Con người có Tổ có Tông,
Học hay chữ nghĩa sao không phượng thờ?
Hiếu trung truyện tích sờ-sờ,
Người đời phải biết phượng thờ mẹ cha.
Từ đây ta mắc bôn-ba,
Dời chơn ra Bắc đặng mà dạy khuyên.
Vạn dân nên trọng Phật Tiên,
Dể ngươi lời dạy dọa riêng một mình.
Bắc, Nam chờ đợi cuối Thìn,
Sẽ lo vận chuyển thân hình xác ta.
Viết thêm một khúc ngâm nga,
Dặn dò bổn đạo vậy mà mấy trương.
Ta dầu có cách thôn hương,
Vạn dân cứ chữ hiền lương mà làm.
Thích-Ca còn phế tước hàm,
Lầu cao cửa rộng mà ham tu hành.
Phật, Tiên dụng kẻ lòng thành,
Đạo chơn thì ít ai hành thiệt tâm.
Trí phàm như chốn sơn lâm,
Dạy dân như phá rừng cầm cho dân.
Nào đâu dân có biết ân,
Mạnh rồi tưởng Phật vái Thần làm chi.
Đây nầy lời lẽ rán ghi,
Thương đời nên mới làm thi khuyên đời.
Ra đi dặn lại ít lời,
Khuyên trong bổn-đạo vậy thời rán nghe.
Dầu ai tài phép bày khoe,
Ham linh ham nghiệm sợ e mang nghèo.
Lựa cho phải cột phải kèo,
Phải vai phải vế mà theo kẻo lầm.
Ngọc kia ẩn dạng khó tầm,
Chọn nơi chơn chánh khỏi lâm khổ hình.
Ách trời nạn nước thình-lình,
Người hung cứ mãi chống kình với ta.
Theo tài học cũ nôm-na,
Hỡi ai trí-thức tầm mà cạn sâu.
Lúc nầy chưa thể ngồi lâu,
Tách dời chốn khác ngõ hầu dạy răn.
Tín-đồ cùng các chư-tăng,
Từ rày sắp đến nói năng chọn lời.
Bớt phiền bớt não cuộc đời,
Rán nghe lời dạy vậy thời hành y.
Đạo mầu bát-chánh rán ghi,
Thứ nhứt chánh-kiến việc chi xem nhìn.
Luận bàn chơn-lý cho minh,
Chuyện chi xét đoán xảo tinh mới là.
Thứ nhì chánh-mạng vậy mà,
Việc làm do lịnh tâm hồn khiến sai.
Thứ ba tư-duy bằng nay,
Các điều tưởng nhớ thẳng ngay mới mầu.
Thứ tư chánh-nghiệp mặc dầu,
Nghề chi thì cũng ngõ hầu làm ngay.
Tà gian tánh ấy tù đày,
Của người tham nhũng nghề nầy chớ ham.
Thứ năm tinh-tấn hội đàm,
Sạch trong kỹ lưỡng mà làm mới ngoan.
Thứ sáu chánh-ngữ liệu toan,
Nói năng điều chánh thì an chớ gì!
Thứ bảy chánh-niệm vậy thì,
Khi cầu khi nguyện chuyện gì thành tâm.
Thứ tám chánh-định chớ lầm,
Từ-bi hai chữ đứng nằm chớ quên.
Ngồi đâu cũng định mới nên,
Đừng cho công việc hớ-hênh với người.
Hành y thì đáng vàng mười,
Tùy lòng tùy sức của người đời nay.
Tu nhơn hiền hậu cũng hay,
Dạy đời phải viết ngày rày cho tinh.
Rút trong các luật các kinh,
Tùy lòng không ép làm in giảng nầy.
Thấp cao các bực chớ chầy,
Kẻ ngu người trí nghe Thầy dạy khuyên.
Sớm khuya bá tánh cần chuyên,
Nghe lời dạy bảo cảnh Tiên dựa kề.
Ít lâu ta cũng trở về,
Khuyên cùng bổn-đạo chớ hề lãng-xao.
Trì lòng chớ có núng-nao,
Từ đây nhơn-vật mòn hao lần-lần.
Mấy lời nhắn lại ân-cần,
Bổn-đạo xa gần nghĩ cạn mới hay.
Tu trì nguyện ước cầu may,
Thượng-Nguơn hồi phục là ngày an cư.
Học câu hỉ-xả đại từ,
Noi gương nghĩa-sĩ dạ tư chớ gần.
Bôn Nam tẩu Bắc tảo tần,
Chúng-sanh rán nhớ thì gần cùng ta.
Xác trần Ta đã rời xa,
Bá-gia ở lại vậy mà bình-an.
Kìa-kìa anh hố hò khoan,
Tình lang về mất hổ-hang mặt-mày.
Sớm lo sắp đặt luyện tài,
Phật Trời phân định mặt mày mới xinh.
Ơn trên lượng rộng thinh-thinh,
Từ-bi khuyến dạy mặc tình nghe không.
Giống hiền như thể gieo bông.
Nhụy đơm thơm phức màu hồng xuê-xang.
Dân ta dòng giống Tiên-bang,
Chớ đâu có giống ngỗ-ngang hung sùng.
Mặc tình bá tánh có dùng,
Ai muốn nghe Khùng chép lấy mà coi.
Lấy tâm lấy trí xét soi,
Thầy đi dạy Bắc thử coi lẽ nào?
Thôi thôi dân chớ hùng-hào,
Khùng từ bổn-đạo tẩu đào Bắc-đô.
Hòa-Hảo, lối tháng 2 Canh-Thìn
(Chép theo bản chánh do ông Nguyễn-Chi-Diệp giữ)
Đạo mầu diệt khổ có từ lâu,
Thần-Tú ra đời lại góp thâu.
Chuông mõ, sám kinh bèn cải sửa,
Xá phướn truyền-lưu lấp Đạo mầu.
Niệm chữ A-Di dẹp lòng sầu,
Rán trì kinh-kệ hoặc mau lâu.
Cũng có ngày kia ta giải-thoát,
Giải-thoát thì ta rõ Đạo mầu.
Tây-Phương Cực-Lạc Phật hằng-hà,
Ta rán bền lòng Phật chẳng xa.
Trong cõi trần mê còn mong đợi,
Thấy Phật trì tâm đến năm gà.
Hòa-Hảo, năm Canh-Thìn
Phiêu-phiêu mây bạc trắng lòa,
Ấy la tại lịnh Ngọc-tòa sai Ta.
Xuống trần thấy chúng thiết-tha,
Vì đâu sắp đến hằng hà lụy rơi.
Chừng nào mới đặng thảnh-thơi?
Qua năm Tuất-Hợi Phật Trời định phân.
Tây-Vức liên Nam hiệp định phân,
Tam giáo qui nguơn viện lý cân.
Hùng anh Phiên-quốc lai hàng phục,
Đinh Hợi đáo niên tạo thiện nhân.
Hòa Hảo, năm Canh Thìn
(trong khi Đức Thầy cảm hứng)
THƯỢNG thẩm đạo mầu nẻo cao sâu,
ĐẲNG đẳng hãy làm chớ để lâu.
ĐẠI pháp vô-vi là chơn lý,
THẦN làm trọn vẹn khỏi lo âu.
Huỳnh long tự thế gần sanh-chúng,
Bổn tánh Hòa thôn Hảo dĩ đầu.
Tiên cảnh thoát-ly truyền bá kỷ,
Năng tầm Phật-lý rạch từ câu.
Oai hùm chấn động một góc trời,
Độ chúng ra Kinh rải khắp nơi.
Cứu thế chẳng mong ơn ai trả,
Nương xác phàm phu ngõ đợi thời.
Huỳnh sanh cơ thẩm đáo trung đàn,
Tự giác âm thầm kiến Tiên-bang.
BỬU ngọc SƠN trung KỲ-HƯƠNG chí,
Tứ hải bất hòa khởi liên giang.
Hòa-Hảo, năm Canh Thìn
Trước đài sen báu ngát hương đăng,
Hai chữ Nam-Mô ấy lẽ hằng.
Thề-sự biếng đua bề lợi-hại,
Tâm-trần rửa sạch mới siêu-thăng.
Khuyên trong sư vãi mau mau tỉnh,
Luân hồi quả báo rất công bằng.
Mang tiếng xuất gia sao chẳng liệu?
Đạo-đức xong chưa hỡi chư tăng?
Hòa-Hảo, năm Canh-Thìn
Sĩ điềm tịnh tiểu-nhơn lấn-lướt,
Thời-vận hèn dụng nhược thắng cang.
Cầu cho bốn biển bằng an,
Chúc câu lai thới xóm làng vĩnh-miên.
Xưng danh hiệu nửa Tiên nửa tục,
Đứng trung-thần gạn đục tầm trong.
Gìn câu thủ cựu gia phong,
Gom nhành lá rụng vun trồng giống xưa.
Tơ lòng nhiều đoạn đẩy-đưa,
Mong ơn Phật-Thánh phước thừa cho dân.
Chúng lấy thuyết vô thần bài bác,
Quyết một ngày thông đạt địa thiên.
Chúng-sanh nghe thửa lời truyền,
Cùng nhau thảo thuận danh hiền mới thơm.
Dốc chờ ngày sen đơm nhụy trổ,
Khỏi bùn lầy tông-tổ hiển vang.
Bá-Nha hiệp mặt tao-đàn,
Tử-Kỳ trổi giọng khải hoàn bốn phương.
Lòng chạnh cảm quê-hương nghèo-ngặt,
Các nước ngoài bán mắc hàng lên.
Ơn cha nghĩa mẹ phải đền,
Một ngày hiệp mặt lập nền từ-bi.
Những mơ-ước hồi qui thượng-cổ,
Thì hết câu ái-ố gièm-pha.
Phương Nam rạng ngọc chói lòa,
Lưu-ly hổ-phách mấy tòa đài cung.
Dành cho kẻ lòng trung chánh-trực,
Quân cùng Thần náo-nức vui-tươi.
Liên-hoa đua nở nụ cười,
Rước tôi lương-đống chào người chơn tu.
Thế-gian thoát chốn ngục-tù,
Thần Tiên hiệp mặt thì cù hóa long.
Mắt nhìn thấy thần thông biến hóa,
Đức Di-Đà hiện chóa hào quang.
Việt-Nam là giống Hồng-Bàng,
Không còn hung-bạo lăng-loàn như nay.
Dòm khắp chốn rồng mây chơi giỡn,
Dân hai lòng hết bỡn Khùng-Điên.
Thiên cơ biến ảo diệu huyền,
Hiệp chung tam cõi dưới miền trần ai.
Bút nghiên hạ viết bài an lạc,
Dẫu cho người dốt nát cũng nghe.
Kìa kìa con cuốc gọi hè,
Chẳng lo gieo giống đậu, mè, bắp, khoai.
Thi tả cảnh Bồng-Lai tại thế,
Mãi chần-chờ e trễ kỳ thi.
Muôn năm Trời định khắc kỳ,
Ngặt ông thất thủ Hạ-bì khó toan.
Ta điên thuở Tam-Hoàng Thượng-cổ,
Khùng thế thời khùng lộ ngoài da.
Ghét dòng con nịnh độc xà,
Khinh-khi trung nghĩa hải hà lòng nhơn.
Đường gai gốc thiên sơn vạn hải,
Dẹp cho rồi tướng bái đàn đăng.
Tử-Nha như thể cát-đằng,
Tùng quân dựa bóng vui bằng hưng Châu.
Các nơi Tiên-trưởng đâu đâu,
Lư-bồng hội hiệp đồng chầu Thánh-vương.
Trụ kia bạo-ác phải nhường,
Võ-vương hữu đức đường đường trị dân.
Thì rõ việc Phong-Thần trở lại,
Thuyền Đông-Pha lèo lái cánh trương.
Con lành mau lại Phật đường,
Cùng Thầy cọng hưởng một vườn từ-bi.
Chớ nóng-nảy sân-si hư việc,
Phải đợi thời vua Kiệt hồi qui.
Xử phân những đứa vô nghì,
Mới là khỏa lấp vít tỳ ngọc son.
Khuyên rán giữ cho tròn đời đạo,
Đừng cho loài cầy cáo lung-lăng.
Yêu tinh chực nuốt Đường-tăng,
May nhờ Đại-Thánh phi đằng cứu nguy.
Lôi-Âm tự đường đi chưa đến,
Nên giữa chừng kẻ mến người khinh.
Thôi thôi ta để mặc tình,
Dầu ai chê nhạo phận mình mình toan.
Hòa-Hảo, tháng tư năm Canh-Thìn
Canh-Thìn năm thiệt là rồng,
Từ ngày mượn xác trần-hồng đáo lai.
Tháng năm Kỷ-Mão đến nay,
Khắp trong bá-tánh gặp bài sám-kinh.
Lời văn tao-nhã hữu tình,
Bởi vưng sắc-lịnh Thiên-Đình sai ta.
Xuống trần Lão dụng khuyến-ca,
Đầu đuôi cạn tỏ ngâm-nga ít bài.
Tạm đây Ta mắc lui hài,
Vì trên bệ-ngọc triệu rày hồi-qui.
Không đành tách gót ra đi,
Nên dùng lời lẽ từ thì bá gia.
Thiên đường lộ ấy nào xa,
Muốn cho khỏi khổ xem qua lời truyền.
Dấu xưa noi tích Thánh-hiền,
Thương trần mượn xác bút liền ra cơ.
Thấy trong bá tánh ngẩn-ngơ,
Nay Thầy xa tớ bơ-vơ một mình.
Gẫm trong hai chữ nhục-vinh,
Xưa nay thiên hạ kệ kinh ít dùng.
Cúi đầu tâu lại cửu trùng,
Ngọc-Hoàng ban chiếu lão Khùng giáo-dân.
Gái trai lớn nhỏ ân cần,
Chùi lau vẹn mặt thì gần Thánh Tiên.
Tây-phương đua nở hoa liên,
Chờ người hữu phước thiện duyên từ-hòa.
Nhắn cùng bổn-đạo gần xa,
Ta về âm cảnh thiết-tha tâm tràng.
Đời nay hiếm kẻ nghinh-ngang,
Chẳng kiêng lời lẽ Phật-đàng từ-bi.
Lang tâm trắc-nết vô-nghì,
Nhỏ không biết nể kính vì bề trên.
Nhỏ to lời lẽ chớ quên,
Rán mà nguyện vái đặng đền ơn sâu.
Bá gia bá tánh đâu đâu,
Xem lời ta chỉ về cầu tại gia.
Có đau thì thuốc đó mà,
Dòm trong bản chữ về nhà kiếm cây.
Nay Thầy chịu lịnh về Tây,
Tạm ngưng đạo-đức ít ngày Thầy qua.
Dạo trong khắp cõi ta-bà,
Nơi nơi chốn chốn quỉ ma rối loàn.
Chữ rằng: “Nhơn thiện vi nan”.
Dầu cho tài trí cũng mang nợ nần.
Có đeo bịnh tật vào thân,
Giấy vàng xé nhỏ vái Thần độ vô.
Thành lòng nước lã nên hồ,
Hữu tâm chí đức cam-lồ Phật ban.
Cám thương bá-tánh tai nàn,
Gặp cơn dông tố nào an lòng nầy.
Đờn ta vốn thiệt không dây,
Vô duyên khó biết lời Thầy nói xa.
Từ trên tới dưới thuận hòa,
Hay hơn châu báu ngọc-ngà giàu sang.
Thầy về tâu lại Phật-đàng,
Cúi xin nhỏ phước xóm làng bình yên.
Giống nòi thiệt cốt Rồng Tiên,
Mà nay lạc mất gương hiền nơi đâu.
Muốn xem bốn chữ Long-Châu,
Bền gan sắt đá sồng-nâu tu trì.
Tu hành mà mãi nan nghi,
Sợ ta gạt-gẫm cũng kỳ cho dân.
Giã từ khắp hết dương-trần,
Vân du chốn cũ lưới Thần bủa ra.
Non cao nhiều thứ cáo-xà,
Trừ loài độc-địa mới là yên thân.
Biết sao cho toại lòng dân,
Kẻ ưa đạo-đức người cần vinh-hoa.
Xót lòng cậy nước ma-ha,
Hớp vô ba hớp ắt là lặng tâm.
Thân Khùng đêm vắng khóc thầm,
Cựa mình cũng nhớ giấc nằm nào an.
Từ nay cách biệt xa ngàn,
Ai người tâm đạo đừng toan phụ Thầy.
Giữa chừng đờn nỡ đứt dây,
Chưa vui buổi hiệp bỗng Thầy lại xa.
Tỉnh say trong giấc mộng hoa,
Mơ-màng cũng tưởng như ta bên mình.
Tuy là hữu ảnh vô hình,
Chớ dân lòng tưởng sân trình đáo lai.
Nghe sơ lời lão cạn bày,
Tìm trong não óc gặp ngày bình-an.
Kim-lân, xích-phụng lâm nàn,
Cho nên phận lão đâu an thân già.
Tảo-tần lo liệu năm ba,
Biết sao hiệp mặt lòng già mới nguôi.
Mặt ngoài gượng-gạo bải-buôi,
Chớ trong tim phổi rối nùi như tơ.
Tuồng đời như cá trong lờ,
Thọc tay vô bắt còn ngờ kẹt hom.
Bao nhiêu tâm não góp tom,
Dặn-dò kỹ-lưỡng chăm-nom khắp cùng.
Chừng nào tôi được hết Khùng,
Thì là dân-sự còn dùng làm chi.
Bận lòng cạn tỏ vân-vi,
Bớ dân hai chữ công-trì sớm khuya.
Nhớ câu ăn giấy bỏ bìa,
Được thân sung-sướng vội lìa Tổ-Tông.
Kể ra lại bắt mủi lòng,
Ngán đời mua bưởi bán bồng chát-chua.
Cứ theo cái lối a-dua,
Dạ toan đốt miễu phá chùa từ-bi.
Vàng kho thêm gánh ích gì,
Thôi ta than lắm vậy thì thẹn thêm.
Bóng trăng cậy đỡ ban đêm,
Trầu ăn nhả bã lại têm mời hoài.
Khùng ngồi nói chuyện quá dai,
Bị lòng bác ái nói hoài chẳng thôi.
Thấy đời mặt lọ không bôi,
Lại khoe kép giỏi một hồi múa men.
Từ nay cửa Khổng gài then,
Chờ ta trở lại thì đèn hết lu.
Thân Khùng là phận sĩ-phu,
Chẳng ham danh-diệu miễn tu vuông tròn.
Khôn thì lánh chốn đau đòn,
Dại thì lòn cúi đồ ngon ăn thừa.
Hai lòng uốn lưỡi đẩy đưa,
Ỷ hơi Hạng-Võ mắc lừa Trương-Lương.
Nhớ qua hồi lúc đời Đường,
Hiền thần Nhơn-Quí người đương ẩn mình.
Cửu-Thiên còn giấu tại dinh,
Chờ ngày mãn hạn phép linh ban rày.
Giảng kinh đọc tụng chiều mai,
Làm theo lời chỉ ngày rày gặp ta.
Xác trần để lại làng Hòa,
Lời thăm bốn phía Ngọc-tòa ta lui.
Âm dương cách trở xa-xuôi,
Nhắn cùng bá tánh chớ nguôi tấc lòng.
Phận Khùng thân hỡi long đong.
Còn lo cho thế hai lòng toan mưu.
Ta không gây oán kết cừu,
Cớ sao dân-sự phiền ưu nỗi gì?
Khoa tràng lịnh mở hội thi,
Nên Ta xuống bút dạy thì trần-gian.
Chớ mình hồn dựa lâm-san,
Thảnh-thơi còn xuống thế-gian làm gì?
Ước-mơ Thượng-cổ hồi qui,
Thế-trần no ấm phú thi an nhàn.
Quân-thần, phụ-tử vinh-vang,
Hết lo cay đắng, Khùng an phận khùng.
Tới đây từ biệt khắp cùng,
Thầy lìa khỏi xác Thiên-cung phản hồi.
Đục trong cạn tỏ khúc nôi,
Thấy dân tu dối nghĩ thôi bận lòng.
Lang tâm như thú thiếu lông,
Trớ-trêu cửa miệng trong lòng gươm đao.
Ra đời chẳng nệ công lao,
Chẳng hờn không giận, hùng-hào còn ganh.
Hiệp chung một cội nhánh-nhành,
Sum-sê lá thắm chim xanh nối đường.
Từ-bi tình ấy đoạn trường,
Kể qua tích cũ mà lường lòng đây.
Như ai có đọc đoạn nầy,
Xin đừng chê nhạo rằng Thầy nói nhăng.
Muốn sao có phép phi đằng,
Cũng như Đại-Thánh, Đường-Tăng thoát nàn.
Rưng-rưng nước mắt hai hàng,
Lánh nơi cõi tục Phật-đàng lui chơn.
Hòa-Hảo, ngày 1-4 Canh-Thìn
(Đức Thầy viết bài nầy vì Ngài tiên-tri rằng Ngài sẽ xa cách bổn-đạo. Quả thật ngày 12-4 Canh-Thìn nhà chức-trách ở Châu-Đốc dời Ngài đi Sa-Đéc).
Gặp buổi gian-truân tiếng nhộn-nhàng,
Cảm-tình bổn-đạo sự riêng than.
Thầy an nghỉ xác trong đôi bữa,
Đây cũng trải qua hết nhộn-nhàng.
Nhộn-nhàng già trẻ có lòng lo,
Mà ấy chẳng qua ngược gió đò.
Đậu lại ít ngày chờ lặng sóng,
Tớ Thầy sẽ gặp việc hay-ho.
Hòa-Hảo, ngày 10-4 Canh-Thìn
(Đức Thầy viết bài nầy vì lúc ấy có nhân-viên sở Mật-thám ở Châu-Đốc đến dòm ngó)
(Khùng Điên tự cảm tác)
Gươm trí-huệ từ-bi chớp nhoáng,
Bóng quang-âm ngày tháng dập-dồn.
Ta thừa vưng sắc lịnh Thế-Tôn,
Khắp hạ-giái truyền khai đạo-pháp.
Tùy phong-hóa dân-sanh phù-hạp,
Chấp bút thần tả ít bổn kinh.
Bởi luật trời mở rộng thinh-thinh,
Tri phong-võ bất kỳ chuyển kiếp.
Giống Hồng-Lạc kim chi ngọc diệp,
Nay đổi dời nhiều sự thấp hèn.
Từ ngàn xưa Phật-pháp gài then,
Nên ít kẻ tu hành đắc Đạo.
Ta cũng tỏ đôi lời khờ khạo,
Ngắm cảnh đời tâm não bắt cuồng.
Hiệu Điên Khùng ban rải dư muôn,
Khùng đạo-đức Khùng câu tuyệt-diệu.
Khùng toán biết âm-dương kết-liễu,
Khùng huyền-cơ Khùng Đạo Thích-Ca.
Huơi bút thần dẹp lũ cáo-xà,
Loài độc-địa toan trừ dứt nọc.
Noi tục cổ xác Khùng để tóc,
Phải đua chen tập tánh ông cha.
Mong dương-trần tỉnh giấc Nam-Kha,
Trừ vật-dục trì chơn bất hoại.
Cặp mắt Thánh dòm xem tứ hải,
Thương hồng-trần mượn xác tái sanh.
Bởi vì đời văn-vật cạnh-tranh,
Nên cấu xé cùng nhau thảm-não.
Sá chi kẻ ngu si khinh-ngạo,
Vì trên đời nhiều hạng khác nhau.
Đấng trung-thần dạ ngọc ước-ao,
Người bội phản ghét-vơ đạo-lý.
Khùng cảm mến truyền câu hồi vị,
Thà làm hiền mà biết non sông.
Điên như ta Điên giống Tiên Rồng,
Điên gở ách xích-xiềng thế tục.
Chuông Linh-khứu ba hồi giục-thúc,
Đờn Lôi-âm khởi điệu êm tai.
Con lành duyên khá trở gót hài,
Điên quyết chí dắt người lánh tục.
Đạo mở cửa bày câu minh mục,
Nước ma-ha tưới tắt lòng phàm.
Cõi Trung-Ương luân chuyển phương Nam,
Mở hội Thánh chọn người trung hiếu.
Tử vì nước còn ghi linh miếu, (1)
Thác vì đời thanh-sử danh bia.
Mũ cánh chuồn, đai giáp, mang hia,
Tuy thô-kịch mà tâm chánh-trực.
Nước văn-minh chê đồ ấy nực,
Mảng trau-tria xác thịt thanh bai.
Cảnh dương-trần khó sánh Bồng-Lai,
Về Tiên cảnh say mùi rượu Thánh.
Chén quỳnh tương gác đều gai ngạnh,
Vui tinh-thần bày biện cuộc cờ.
Khi thừa nhàn trổi giọng ngâm thơ,
Bày thi phú than qua thời thế.
Xuống dương-gian thân Điên nào nệ,
Chốn hồng trần đuốc huệ liền khai.
Cho nam-nhi sửa mặt râu mày,
Hàng phụ-nữ giồi câu trinh-liệt.
Rán bắt chước những trang tuấn-kiệt,
Gái anh hùng xưa có Trưng-Vương.
Đuổi quân Tàu cứu vớt quê-hương,(2)
Rửa xong hận thù chồng dốc trả.
Xưa Châu-Xáng thanh long phải tá,
Ngăn Sư-Đồ đặng cứu Ngũ-Viên.
Nói cho đời rõ biết Khùng Điên,
Điên vận bĩ điên câu ái quốc.
Viết một ngọn lưỡi nầy một tấc,
Đem Đạo lành ban rải nơi nơi.
Mảng chờ trông bá tánh thảnh-thơi,
Khắp bốn biển liên dây hòa-hảo.
Rừng bác-ái điên đời biến ảo,
Điên như ta vì Đạo vì dân.
Điên tu cầu Quân thánh rải ân,
Cho bốn biển dân lành được hưởng.
Điên dẹp gác âm thinh sắc tướng.
Tầm vô vi kiếm cảnh Niết-Bàn.
Thuyền từ-bi thẳng cánh lướt sang,
Qua Đông-độ vớt người hữu đức.
Bể ái hà gươm linh sớm dứt,
Lòng bồ-đề sắt đá dám kình.
Cả tiếng kêu lớn nhỏ đệ-huynh,
Noi chí ấy sửa-sang thời-thế.
Trời quá buổi chinh chinh vừa xế,
Chờ ít lâu cũng lặn về Tây.
Lúc huỳnh-hôn đèn trí soi đầy
Tìm nẻo thẳng đi về Cực-Lạc.
Điên đàm luận ít câu dốt nát,
Mong chị anh bàn-bạc thể-nào?
Lời văn thô ý-kiến chẳng cao,
Nội quang-cảnh tâm vô kỳ vật.
Đường đạo-đức bước đi từ nấc,
Ngoại quan hình bất chấp kỳ hình.
Phải bền lòng chặt nẻo sắt đinh,
Rán kiếm chữ bất sanh bất diệt.
Chúng-sanh mê nên đem pháp thuyết,
Giải thoát rồi pháp bất khả dùng.
Nương gia-đình kính trọng cội thung,
Lo nưng đỡ trong ngày tuổi hạc,
Thân Điên Khùng thế-gian tạm xác,
Chén rượu nồng chẳng nếm mà say.
Say lê-mê lết-mết tối ngày,
Say đạo pháp say mùi hương khói.
Biết chừng nào chúng-sanh vượt khỏi.
Bể ái hà rứt bỏ vẹn lau.
Say như xưa nhằm lúc Huỳnh-Bào,
Trần-Di ngủ say câu thành tựu.
Quyết đưa chúng về nơi non Thứu,
Tạo Lư-bồng ngõ hội quần Tiên.
Khương Tử-Nha sông Vị còn phiền,
Câu không ngạnh chờ non phụng gáy.
Thuyền bát-nhã ta cầm tay lái,
Quyết đưa người khỏi bến sông mê.
Nên phải đành mang lốt làm hề,
Mặc bá tánh khen chê cũng phải.
Chí quân-tử lòng nhơn vạn đại,
Dốc làm sao rõ mặt tang bồng.
Nghiên hai vai gánh nặng non sông,
Vớt trăm họ lầm than bể khổ.
Ví như loại sanh cầm hồ thố,
Còn thương nhau lại huống chi người.
Đứa hai lòng sao chẳng hổ ngươi,
Đáng thùa-thẹn với cây cùng cỏ.
Dấu bút tích tuôn bay theo gió,
Học sách chi phỉ báng ông cha.
Thấy dân tình xem giảng ngâm nga,
Lão xót dạ đôi lời trần tố.
Đức Khổng-Thánh người sanh nước Lỗ,
Ngài còn xưng cuồng quyến giả hồ.
Sá chi lời đạo-chích tục thô,
Kẻ ngu xuẩn khi người nhân đức.
Danh hiền-sĩ non sông náo-nức,
Giả như hồi Chiến-Quốc Xuân-Thu.
Thầy Mạnh ra dùng đạo châu du,
Lúc thập bát chư hầu rối loạn.
Bực Thánh-nhơn công lao chẳng chán,
Huống chi ta nào dám than-van.
Thấy đời mê chưa rõ Phật-đàng,
Nên tỏ ý khắp nơi đặng biết.
Coi ai có chứa bầu nhiệt huyết,
Dùng Đạo mầu cứu vớt sanh-linh.
Nếu để chờ sấm nổ vang thinh,
E bá tánh ăn-năn đã muộn.
Giảng với kệ ra đà bốn cuốn,
Ít có người khám rõ cơ huyền.
Ta dừng tay chờ đợi lịnh Thiên,
Đức Ngọc-Đế xử phân cho chúng.
Đêm dài-dặn cạn dầu tim lụn,
Chẳng thấy ai tìm kiếm bóng trăng.
Để làm cho mích bụng chị Hằng,
Nơi cung nguyệt chờ trông mõn dạ.
Thiếu chi kẻ đặng chim bẻ ná,
Hiếm bao người được cá quên nơm.
Ưa đồ ngon đút nhét đầy mồm,
Chăng thèm kể cha hiền trông đợi.
Trương-Ban-Xương đành quên nhơn-ngỡi,
Nỡ phụ-phàng vui Tống-Khâm-Tôn.
Xem truyện xưa mà bắt hết hồn,
Gớm cho kẻ thay lòng đổi dạ.
Gã Tần-Cối ít ai còn lạ,
Dụng mưu thần giết thác Nhạc Phi.
Thương trung thần ghét nịnh mặt lỳ,
Dám thiết kế hại tôi lương-đống.
Thuở Hiến-Đế có nhà họ Đổng,
Cũng chuyên quyền muốn tiếm giang-san.
Nhờ Tư-Đồ thiết lập Liên-hoàn,
Nghiệp nhà Hớn mói an một lúc,
Cảnh gian nan như Lưu-Hoàng-Thúc,
Qua ở nhờ Viên-Thiệu dung thân.
Quan-Công Hầu gìn chặt nghĩa ân,
Vượt năm ải về thăm huynh trưởng.
Kẻ nghĩa khí thiên kim vạn lượng,
Lũ nịnh-thần sách-sử nào khen.
Xem tích xưa thẹn với bóng đèn,
Đời lắm kẻ đầu trâu mặt ngựa.
Coi sự sống như Tiên nưa nửa,
Mê mồi thơm như cá lục-châu.
Sao chẳng lo thức tỉnh quày đầu,
Cho khỏi thẹn với người thiên-cổ.
Cấp-cô-Độc là nhà bá hộ,
Còn đành lòng bố thí xả thân.
Chữ vinh-hoa phú-quí chẳng cần,
Miễn hiểu đạo hơn là châu báu.
Chẳng sớm lo chần-chờ sợ Lão,
E sau nầy tâm não đoạn trường.
Lũ gian-hùng mang lấy họa-ương,
Trời đất xử những người bội phản.
Phải chỗi dậy nương dây hùng-tráng.
Chữ đại hùng đại lực từ-bi.
Vậy mới trang quân-tử nam-nhi,
Thân dốc vẹn hai câu ngay thảo.
Đời cũng lắm bao người giá áo,
Nương bả vinh nhiều hạng túi cơm.
Thấy dân ngu trong dạ sẵn hờm,
Quyết kiếm thế đặng toan lừa dối.
Ngọn bút sắt chỉ đường người tối,
Gậy kim-cang đưa chúng lên đàng.
Kíp nương theo trực chỉ Tây-phang,
Đến Cực-lạc tìm nơi an dưỡng.
Dẹp cầy cáo dùng cây thiền-trượng,
Lánh ta bà cõi thế đua chen.
Được vinh-hoa khinh-bỉ kẻ hèn,
Bạn phản bạn như ngươi Bùi-Kiệm.
Trên mặt đất hạng người ấy hiếm,
Thấy Tiên mù xô xuống giữa dòng.
Nhìn Trịnh-Hâm lão bắt mủi lòng,
Than cặn-kẽ kêu dân sớm tỉnh.
Viết ít câu cho đời ngâm vịnh,
Phận tài sơ xin hãy thứ tha.
Yêu nhơn-sanh trổi giọng hùng ca,
Tạm nghiên bút vẽ tranh thế tạo.
Trong bá tánh nhìn xem châu đáo,
Chớ vội vàng chê Lão ngu-si.
Rạch lang tâm những đứa vô nghì,
Nhắc sơ tích người xưa trong sử.
Khuyên bá-tánh vạn-dân gìn-giữ,
Lão chúc cầu thiên-hạ thái-bình.
Đứng trung cang hành thiện truy kinh,
Mong trên dưới cùng nhau thảo-thuận.
Đã thấy lộ cơ trời báo ứng,
Diệt loài gian tầm kiếm con Tiên.
Nợ hồng-trần túc trái tiền khiên,
Ta quyết dẹp cứu nàn dương thế,
Noi chí đức Hoàng Thang luật chế,
Đời không hay những việc xa vời.
Gặp cơn mưa ta hãy cho tơi,
Lúc hạn nắng từ-bi giúp nón.
Cảnh thế tạo càng ngày thỏn-mỏn,
Giống vi-trùng thường đục phổi tim.
Đến cơn đau phương thuốc phải tìm,
Gặp Biển-Thước, Hoa-Đà lai thế.
Kim với cổ nhìn xem thế-hệ,
Sợ có ngày hoạch tội ư thiên.
Nẻo đục trong cạn tỏ cơ-huyền,
Mực đã cạn lòng yêu chẳng mãn.
Ai coi qua xin đừng bỏ lảng,
Gắng công-trình vạch lá tìm sâu.
Nay dương-trần gặp buổi mưa ngâu,
Phải sớm hứng giọt sương Đông-hạ.
Điên nhơn-nghĩa điên vì Đạo cả,
Thôi chào đời khép cửa buồn duyên.
Có thiện-căn sớm lại cửa thiền,
Câu niệm Phật chờ ngày chung cuộc.
Nam-mô Định-Tâm Vương Bồ-Tát Ma-Ha Tát.
Hòa-Hảo, ngày 10-4 năm Canh-Thìn
______________________________________
(1) Vì để tránh sự khó dễ của người Pháp, Đức Thầy đã có lần đổi lại là: “Tượng Quan Thánh còn ghi linh miếu.”
(2) Câu nầy sau lại, Đức Thầy có sửa như vầy:
“Đến đời nay còn phụng lửa hương”.
(Rằm tháng tư năm Canh-Thìn)
Nhìn cuộc thế bộn bề sóng dậy,
Cửa thiền môn còn hỡi khóa then.
Nương xứ xa tạm viết với đèn,
Tỏ tâm sự của người liễu Đạo.
Sách có chữ thâm ân dục báo,
Phận làm người hiếu thảo noi gương.
Ấy chẳng qua là đạo luân thường,
Chớ Phật Thích lìa quê ngàn dặm.
Non tuyết san rú rừng thăm thẳm,
Đem thân phàm tầm đạo siêu sanh.
Đến ngày nay còn rạng lấy danh,
Khắp bốn biển dân lành sùng bái.
Muốn lập Đạo có câu thành bại,
Sự truân chuyên của khách thiền môn.
Khắp sáu châu nức tiếng người đồn,
Ta chịu khổ, khổ cho bá tánh.
Tiếng gọi đời sông mê hãy lánh,
Chạm lợi quyền giàu có cạnh tranh.
Bước gai chông đường đủ sỏi-sành,
Đành tách gót lìa quê hương dã.
Ta cũng chẳng lấy chi buồn-bã,
Bởi sự thường của bực siêu nhơn.
Dầu gian-lao dạ sắt chẳng sờn,
Miễn sanh-chúng thông đường giải-thoát.
Cơn dông-tố mịt-mù bụi cát,
Chẳng nao lòng của đấng từ bi.
Vì Thiên-đình chưa mở hội thi,
Nên Lão phải phiêu-lưu độ chúng.
Kẻ ác đức cho rằng nói túng,
Nó đâu ngờ lòng Lão yêu đương.
Xe rồ xăng vụt chạy bải-bương,
Đến khuất dạng tình thương náo-nức.
Khắp bá-tánh chớ nên bực-tức,
Bởi nạn tai vừa mới vấn-vương.
Chốn liên-đài bát-ngát mùi hương,
Nhờ chỗ ấy mới thi công-đức.
Dạy con cả nào đâu than cực,
Tiếng làm Thầy phải nặng đôi vai.
Việc khó-khăn lắm lúc khôi-hài,
Ấy cũng bởi thày-lay ông Tạo.
Ông nhồi quả cho người hành Đạo,
Lúc nguy-nàn thối chí cùng chăng?
Nếu bền lòng vị quả cao thăng,
Chẳng chặt dạ bỏ lăn Phật-Thánh.
Chốn Phật-đường rán trau đức-hạnh,
Phải bền lòng mới rảnh trần ai.
Chuyện cao siêu Phật-pháp còn dài,
Khó gặp chữ không không mà có.
Lúc trồng rẫy rủi nhiều sâu bọ,
Rồi ngẩn-ngơ bỏ giống hay sao?
Nấu lọc rành mới biết vàng thau,
Ai thật tánh ai người giả đạo.
Tiếng sấm-sét bên tai xốc-xáo,
Cả muôn người ngơ-ngáo hỏi-han.
Nay thân Thầy cũng đặng bình an,
Khuyên bổn-đạo đừng than lắm tiếng.
Tuy xa đường có lời luận-biện,
Bởi bút thần bay luyện khắp nơi.
Ngọc nhờ lau ngọc mới rạng ngời,
Kim mài giũa kim kia mới bén.
Người làm phải như tằm trong kén,
Có muôn tơ bao bọc ấm thân.
Sách có câu “Minh đức tân dân”,
Được thủ trụ huyền khai nhứt khiếu.
Ta còn thương, thương trò liệu-điệu,
Chớ cũng mừng được dịp phổ-thông.
Đắc Đạo rồi cứu vớt Tổ-tông,
Cũng như Phật xuất gia thuở trước.
Các bực Thánh châu lưu nhiều nước,
Nghèo thầy Nhan bầu nước đai cơm.
Tuy cơ-hàn mà được danh thơm,
Hơn phú-quí ngồi ôm bả lợi.
Quá sung-sướng rồi quên đạo ngỡi,
Thì khác chi loại thú rừng săng.
Vật hổ-lang đâu biết đạo hằng,
Chỉ có biết ngủ ăn ăn ngủ.
Khi đói mồi mặt mày sù-sụ,
Chạy quơ quào vật nhỏ đặng ăn.
Đến chết thây đầy lũ ruồi lằn,
Bu nút thịt của loài bạo ác.
Đạo mà biết mùi thơm bát-ngát,
Rứt bụi trần mặn lạt thây ai.
Chữ Nam-mô trì giái giữ chay,
Chay được tánh chay tâm mời quí.
Trong Đạo Phật quá nên huyền-bí,
Chỗ tâm thần tọa vị nơi thân.
Muốn cho nên khuya sớm chuyên cần,
Lòng chí nguyện sở cầu Phật Thánh.
Đuốc thiền lâm phương Đông chói ánh,
Dắt hồn người vượt khỏi sông-mê.
Dầu cho nay xa cách Sở, Tề,
Sau Thầy tớ gặp nhau Phật-cảnh.
Ước trăm họ nhẹ mình có cánh,
Đồng bay về Cựu-Lạc một-đàng.
Thì thân Thầy hết phải gian-nan,
Đâu có chịu mang câu nhạo báng.
Nói thì nói chờ ngày thấp-thoáng,
Dòm êm trời thì cứ ra tay.
Quyết chèo thoàn đến chốn Bồng-Lai,
Mới ngơi nghỉ tấm thân của Lão.
Lúc Tam-Tạng Tây phương quyết đáo,
Bị loài yêu làm bạo lắm phen.
Đức từ-bi phải lộ trắng đen,
Lôi-Âm tự cũng đi đến chốn.
Đi dọc đường yêu tinh làm hỗn,
Thấy Đường-Tăng thơm thịt muốn ăn.
Nhờ môn-đồ Bát-Giái, Sa-Tăng,
Với Đại Thánh Tề-Thiên cứu vớt.
Lòng sáu chữ nhớ không có ngớt,
Thì nạn tai cũng thoát như không.
Khó tìm cho gặp chủ-nhơn-ông,
Còn ẩn ánh nơi vòng sanh-chúng.
Ai mê tâm nghe qua không phủng,
Rán suy tầm đặng mở tánh linh.
Lòng ngộ rồi chẳng đợi nhiều kinh,
Thì cũng thấy bổn lai diện mục.
Lần thứ chót gọi lời kêu thúc,
Thầy nhắc cho bổn-đạo rõ lòng.
Chừng Ơn Trên ban được Lục-Thông,
Thầy mới được Tây, Đông du thuyết.
Thâu cho được con long ác-nghiệt,
Thì khắp nơi mới biết mến yêu.
Chúng-sanh nên tầm quạt ba-tiêu,
Chữa hỏa-diệm nơi tâm cho tắt.
Thì đạo hạnh ngày kia mới đắc,
Chớ chứa hờn đứa dữ ích chi.
Phận tu-hành tai gác mặt lỳ,
Chịu cay đắng của người sang-sớt.
Lòng sầu riêng hãy nên nguôi bớt,
Đừng thở-than bận đến lòng ta.
Để cho Thầy đi dạo ta-bà,
Đặng dạy kẻ đường xa chưa rõ.
Nay rừng bụi có người mở ngõ,
Thì noi theo dấu thỏ đàng dê.
Giục vó cu nhiều nỗi thảm-thê,
Dạy sanh-chúng cho rồi mới rảnh.
Cũng hiếm kẻ nghinh-ngang cường ngạnh,
Ôi! kể sao cho hết thói đời!
Mãi say-sưa theo cuộc vui chơi,
Nên kiếp kiếp đời đời lên xuống.
Suối Tiên thanh đổ ra cuồn-cuộn,
Tràn ruộng lòng gieo giống mới nên.
Kẻ vô tình chẳng có chí bền,
Phải sa ngã theo nơi mộng-ảo.
Giấc mộng vàng đặng truyền đại đạo,
Cảnh vô sanh lòng bạo mà mê.
Mùa nước tràn ngập cả điền đê,
Đến nước hạ đồng khô cỏ cháy.
Cuộc gian-nan năm qua đã thấy,
Luận việc đời cũng khúc lớn ròng.
Khi dậy thì tràn cả bờ sông,
Lúc khô hạn đi đồng khao-khát.
Biết làm sao lên lưng bạch hạc,
Bay cả trời tỏ ý từ-bi.
Khắp thế-gian con thảo phục quì,
Chầu trước bệ cha hiền Ngọc-Đế.
Gẫm vinh-nhục sanh trong thế-hệ,
Tuồng xưa kia sắp đặt đã lâu.
Phải chuyển xây trái đất một bầu,
Đạng lừa-lọc con Tiên cháu Phật.
Gồm một nơi sửa-sang tiêm-tất,
Xử phân người cùng vật thưởng phong.
Cho dương-trần rõ luật Thiên-công,
Có Địa ngục Thiên-đường hay chẳng.
Các chúng-sanh nghe rồi yên-lặng,
Suy cho tường rồi sẽ biện minh.
Cơn vui tai từ tạ Thiên-Đình,
Cho phép Lão tố trần đôi lẽ.
Lời Thầy dạy thật là cặn-kẽ,
Bao nhiêu tình bác-ái góp tom.
Trông bá gia tìm đạo quá mòm,
Thôi giã thế ước-mong đời thạnh.
NAM-MÔ A-DI-ĐÀ PHẬT
Sa-Đéc, đêm rằm tháng 4 Canh-Thìn
(Đức Thầy viết bài nầy trước mặt một số đông người, trong đó có vài phần tử muốn thử coi, sau khi bị dời khỏi quê-quán Ngài còn đủ tinh-thần chăng).
Vui mừng gặp chốn hiền lương,
Dốc lòng mở cửa Phật-đường độ dân.
Làng Nhơn-Nghĩa để chân đến chốn,
Thấy dương-trần trà-trộn tà tâm.
Oai Thần đem đạo huyền thâm,
Nhiệm-mầu phổ-độ âm-thầm ai hay.
Mẹo đã hết, rồng bay vơ-vẩn,
Khắp hoàn-cầu nghịch lẫn cùng nhau.
Lê-dân trăm họ xáo-xào,
Rã-rời phụ tử, máu đào nhuộm tuôn.
Thương quá sức bắt cuồng tâm não,
Quyết cứu người dùng Đạo phổ thông.
Ước-mơ cho được đại-đồng,
Tràn-trề khắp cả, Lạc-Hồng thảnh-thơi,
Nhìn vạn vật cuộc đời ngao-ngán,
Bởi hoàn-cầu thù oán cứ gây.
Vẽ hình rồi lại vẽ mây,
Vẽ tranh Thiên tạo Bồng-Lai cảnh tình.
Lại thêm vẽ phù sanh cõi tạm,
Dắt hồn người hắc ám khỏi mang.
Cầu cho cuối xóm cùng làng,
Trẻ già lớn nhỏ Phật-đàng yên thân.
THI
Luân-thường nặng nợ phải vai mang,
Nhuần gội thừa ân của Phật-đàng.
Cố-gắng tâm trì theo đến chốn,
Một ngày vinh-diệu ắt bằng an.
Bằng an bốn biển khỏi đua tranh,
Bởi khắp bá gia được chí lành.
Trau sửa tâm phàm tìm cội cũ,
Về nơi Tiên cảnh mới nhàn thanh.
Nhàn thanh tìm kiếm, kiếm nơi tâm,
Phật cũ ngày xưa hãy rán tầm.
Nhành lá sum-sê màu đượm vẻ,
Non Thần biến đổi hết rừng lâm.
Rừng lâm cây đá thấy ngày nay,
Mà ruột năm non có các đài.
Chờ đợi con hiền noi tục cổ,
Tới thời thượng-cổ điểu hòa mai.
VÕ-võ đêm thanh nức giọng vàng,
Kiểng cây sum MẬU đượm mùi nhang.
Phù dung rã gánh thân yên nhã,
THẠNH thới gia trung gặp chữ nhàn.
Chữ nhàn vô sự mới nên Tiên,
Bát-nhã từ đây gặp cửa thiền.
Bể giác bờ mê ngày vượt khỏi,
Lánh đời tục lụy rứt tiền khiên.
Tiền khiên kiếp tạo bởi trần thân,
Đạo diệu giồi-trau lập chí cần.
Luyện tánh, trau tâm cho sạch-sẽ,
Rứt rồi nợ thế khỏi ưu-phiền.
Ư-phiền thường sự chốn ta-bà,
Phật cảnh mau về ắt lánh xa.
Tỉnh ngộ từ đây người gặp chủ,
Phủi trần tìm kiếm chữ ma-ha.
Ma-ha mùi ngọt mật cùng đa!
Cảnh thế nhìn xem lũ cáo-xà.
Múa gút nhăn nanh ưa thịt béo,
Nào khờn dạ ái của thiền-gia.
Thiền-gia chí cả dốc hành thân,
Diệu diệu truyền thi cảm kích thần.
Những tưởng thói đời ôi chát lạt!
Đạo mầu siêu-việt của thiền lâm.
Thiền lâm Phật Thích thuở xưa kia,
Non tuyết rèn ra bát chánh kìa.
Phổ hóa dân lành trong khắp chúng,
Hoàn-cầu bốn biển khắp danh bia.
(Mấy bài tứ cú trên đây Đức Thầy trao cho ông Võ-Mậu-Thạnh ở làng Nhơn-Nghĩa).
Luồng thanh điển nhoáng qua như chớp,
Chuyển căn tiền nhắc lớp người xưa.
Phật, Tiên vận chuyển lọc-lừa,
Kiếm con hữu phước mà đưa trở về.
Ôi! khổ thảm bốn bề sóng dậy,
Dòm lừng trời lửa cháy liên-miên.
Tiêu-điều sản-vật điền viên,
Thần-thông biến hóa dưới miền Trung-Ương.
Ngục môn đầy quỉ vô thường,
Dắt hồn kẻ bạo Diêm-Vương luật trừng.
Nhìn xa nước mắt rưng rưng,
Thương đời mê muội trầm-luân hoài hoài.
Tay hạ bút viết bài chung cuộc,
Ai rõ lòng con cuốc khỏi kêu.
Thân khùng vận bĩ trớ-trêu,
Phiêu-lưu trôi giạt danh nêu khắp cùng.
Ai giàu có thung-dung thanh nhã,
Ta lo đời sắt đá bền gan.
Âu sầu nức giọng riêng than,
Trách dân chẳng sợ hùm lang cứ gần.
Nhơn-Nghĩa (Xà No), ngày 29 tháng 4 Canh Thìn
(đến Xà-No thăm Đức Thầy) xướng:
Cách mấy tuần dư đã vắng lâu,
Mái tây đứng xủ tóc phai màu.
Tin thơ mới đặng thông lời ngọc,
Ngòi bút khôn dằn ứa hột châu.
Khắc lụn bâng-khuâng nơi cửa Khổng,
Canh tàn thỏ-thẻ chốn thang lầu.
Ngàn trùng nước bích xa xuôi đấy,
Cúi kính lời quê gợi mạch sầu.
ĐỨC THẦY họa:
Xuống trần dạy-dỗ cũng đà lâu,
Sẵn dịp lìa quê rải Đạo mầu.
Thong-thả trau-tria đời lựa ngọc,
Thảnh-thơi chùi rửa khắp tim châu.
Trung-dung khuyên đó noi gương Khổng,
Hiếu-hạnh dạy con chớ mến lầu.
Tuyệt đích siêu mầu nơi kệ đấy,
Phàm-nhơn sớm vội gác cơn sầu.
Ông NGUYỄN-THANH-TÂN xướng:
Đạo-đức bủa ra khắp cõi trần,
Ơn Thầy phổ-hóa nặng ngàn cân.
Ngậm vành mong trả ghi muôn thuở,
Nhả ngọc làm đền nguyện một thân.
Xủ-xếp lũ bàng còn đợi gió,
U-ơ bầy bướm hỡi chờ xuân.
Hội lành rồng gặp cơn mưa móc,
Chi để nho-văn khói lửa Tần.
ĐỨC THẦY họa và cho thêm:
Thương tưởng người mê Lão xuống trần,
Ngặt vì chưa dẹp lũ Huỳnh-Cân.
Lòng yêu sanh-chúng luân chuyển kiếp,
Dạ ái dương-trần đổi sắc thân.
Lèo-lái sẵn rồi còn ngược gió,
Cánh trương chưa gặp cuộc phù-vân.
Sang hè con cuốc sầu mưa móc,
Đoái thấy đời nay học thói Tần.
Vạn lý trường thành khí khẩu chương,
Thanh phong tiết-hạnh dĩ luân-thường.
Dị nhân tái thế từ-bi thuyết,
Đào tị long xà thoát họa ương.
Dặn lòng lục tự mựa đừng sai,
Qua bể về quê ngõ chuốc hài.
Tiên-cảnh kìa kìa gần lộ vẻ,
Chờ người hữu phước đến liên-đài.
Tỏ lời thăm viếng khắp đâu đâu,
Bổn-đạo từ nay gác mộng sầu.
Vọng bái Thánh Thần đền lộc cả,
Trọng quyền chỉ bảo khắp đâu đâu.
Đâu đâu cũng mến tới mà tu,
Ngàn dậm xa-xuôi biệt tít mù.
Công-cán thăm Thầy không nại khổ,
Việc đời lắm kẻ quá là ngu.
Lập thân hành đạo phải truân chuyên,
Cứu thế Thầy đâu mến bạc tiền.
Dặn lòng con hãy bền gan dạ,
Sẵn dịp dân lành rõ Phật Tiên.
Phật Tiên thương hết cả nhơn-sanh,
Tu tỉnh trì tâm đạo rán hành.
Chớ lấy sự sầu gieo não trí,
Để Thầy an ổn dẫn quần sanh.
Thâm hiểu lòng ta nỗi cuộc đời,
Một bầu nhiệt huyết chẳng xe lơi.
Mến yêu quốc thủy tình đồng chủng,
Phải tính cho xong nỗi cuộc đời.
Xà-No, tháng 6 năm Canh-Thìn
Đường xa ngàn dặm cụ sang thăm,
Nghe Đạo huyền-vi cảm-kích thầm.
Cố tưởng ước mơ đời thạnh-trị,
Gạn tầm hoài-vọng điệu xa-xăm.
Nòi giống Lạc-Hồng nay nẩy-nở,
Nam bang vui thú buổi đồng tâm.
Ông ơi, hãy rán tìn chơn-lý,
Khác thể Thần Tiên thấm nhạc âm.
Nhạc âm Châu-Võ cuộc Phong-Thần,
Tảo Bắc chinh Nam ái nước dân.
Treo sợi xích thằng chờ vận đến,
Cột dây ngọc-đái đợi người ân,
Thiên-công lắc-lẻo sao lâu quá,
Địa-phủ trớ-trêu lấp mắt trần.
Tông-Tổ mở-mang nhờ đức cả,
Giống dòng no ấm bớt trần thân.
Đường xa diệu vợi cảm tình ông,
Vậy mới nở-nang giống Lạc-Hồng.
Noi chí Thánh-Hiền tìm cội cũ,
Theo gương Phật-Tổ thấy non sông.
Hồ thiên ngọc ẩn chờ qui kiểng,
Trì địa kim sơn đến cõi Bồng.
Hãy rán sưu tầm cho rạch lý,
Một ngày hòa hiệp hết còn mong.
Còn mong cho gặp hội Mây Rồng,
Sắp đến bước đường lắm nẻo chông.
Quân tử tùy thời hơi sút bước,
Tiểu nhơn ỷ sức mạnh pha xông.
Khốn thay dân sự người cao thấp,
Đau đớn thân hèn kẻ tiếc công.
Dạ luống ai hoài than-thở chút,
Lòng lo dương-thế bắt cuồng ngông.
Cuồng ngông cửa Phật quá thêm nồng,
Thấy chúng đời nầy những ước mong.
Trời định nhơn tâm qui nhứt thống,
Đất xoay vật dụng một nền không.
Diệu thâm bát-chánh lời truyền giáo,
Xa thẳm tứ-đề tiếng giục ông.
Bớ hỡi Lạc-Hồng mau lượng xét,
Để chừng phong võ hết chờ trông.
Xà-No, năm Canh-Thìn
Nhơn-dân bá-tánh cũng con lành,
Thầy dạy cho đều khắp chúng-sanh.
May-mắn vận thời đưa đến chốn,
Tiền-khiên dẹp gác kiếm con lành.
Nhắn cùng bổn-đạo khắp đâu đâu,
Vạn vật từ nay luống thảm sầu.
Áo-não thương đời đa đói khổ,
U-buồn trăm họ vẽ vài câu.
Xà-No, tháng 4 năm Canh-Thìn
Nhắn nhủ cùng ai một ít lời,
Nhờ ơn đưa đẩy tới nhiều nơi.(1)
Ghét vơ sĩ khó trau lời hạnh,
Hạnh phúc hiền lương tiếng nức trời.
Nức trời cảm động cảnh trầm-luân,
Đừng để tim gan lửa nó lừng.
Hỏa-diệm mảng chờ cây quạt phép,
Tâm trần siêu-việt kiến thời hưng.
Thời hưng Trời Đất tảo trừng gian,
Ủa, ủa thì ra rất muộn-màng.
Vui thẩm Tiên Bồng nơi thỏa hiệp,
Hoàn-cầu sanh-chúng khỏi lầm than.
Xà-No, tháng tư năm Canh-Thìn
_______________________________________________
Nhà chức-trách dời Đức Thầy từ Hòa-Hảo đến Sa-Đéc rồi qua Nhơn-Nghĩa (Cần-Thơ)
Giấy vàng nay đã giá cao thăng,
Bìa trắng lại chê vội bỏ lăn.
Thương thảm chúng quăng nằm kẹt hóc,
Chủ nhà quét tước lượm lăng-xăng.
Xà-No, tháng tư năm Canh-Thìn
(Thấy quý ông Năm Hiệu, Năm Chơn, biện Hùm xé giấy vàng mà bỏ bìa trắng nên Đức Thầy tức cảnh làm bài thơ trên đây. Trước khi làm thơ, Ngài cười nói rằng: “Trắng hay vàng uống cũng được. Giấy mắt lắm, tại sao mấy ông xé bỏ?”).
HƯƠNG đăng thơm nức quá nhẹ nhàng,
BỘ đời còn kẹt nỗi hùm lang.
THẠNH thay thời sự đưa Khùng đến,
Đạo-đức bày ra bủa khắp làng.
Hương-bộ mang soi bận áo dà,
Đêm ngày tiếp rước khách gần xa.
Nhơn dân bá tánh đều trông thấy,
Hương-bộ mang soi bận áo dà.
Áo dà Hương-bộ bận mang soi,
Ai có tức cười hãy đến coi.
Dòm riết chú chàng vùng mắc cỡ,
Áo dà Hương-bộ bận mang soi.
VÕ nghệ ngày xưa của nước nhà,
MẬU truyền nên chẳng kiếm cho ra.
Luyện tập để dành khi đến việc,
THẠNH thời mới được hưởng vinh-hoa.
Vinh-hoa cũng phải rán công phu,
Tìm kiếm mà coi sấu hóa cù.
Kiếp trước ông cha làm đức cả,
Ngày sau con cháu rán lo tu.
Võng dù sao chẳng rán mà tu,
Gặp đặng người xưa phước bổ bù.
Bởi trước giữ-gìn nền đạo-đức,
Bảng vàng chói rạng chẳng hề lu.
HƯƠNG đèn cầu nguyện với ông cha,
BỘ đạo tìm ra nẻo chánh tà.
NHƠN ái giữ nền noi lối cũ,
NGHĨA hòa huynh-đệ phụng tông gia.
Rày mừng gặp đặng lúc ban ân,
Duyên trước ngày nay mới có phần,
Hãy rán dặn lòng lo trung hiếu,
Đến chừng gặp hội có Tiên, Thần.
Mùi hương phưởng-phất ghẹo cùng đời,
Công-tử sang giàu tiếp cuộc chơi.
Trải mặt phong-trần tìm món lạ,
Nào dè thâm nhiễm tổn hao hơi.
Bo-bo ngày tối lo nồi ống,
Chặt-chịa hằng đêm đổi tiếng lời.
Những mảng ham vui mang bịnh nghiệt,
Gầy mòn thân thể vội buồn ngơi.
Chán bịnh hiểm nghèo cậy Phật Tiên,
Tâm thành phù hộ hết nạn ghiền. (1)
Dưỡng thân đạo-đức giồi linh trí,
An thể hiền tu ắt được nguyên.
Chặt dạ tinh-thần thêm mập khá,
Bền lòng khí-lực tráng nguơn nhiên.
Dẹp mâm, dẹp chiếu cho tiêu tán,
Theo dõi Bồng-Lai lánh cõi thiềng.
Xà-No, tháng 5 năm Canh-Thìn
___________________________________________
Ông Hương-bộ Thạnh trước kia ghiền á-phiện rất nặng, sau nhờ Đức Thầy dùng huyền diệu làm cho bỏ được bịnh nầy.
Chắt-chiu trong trứng mới nở ra,
Diều đâu bay lại xớt con gà.
Mẹ kêu túc túc xè cánh đuổi.
Chủ nhà tiếc của vỗ tay la.
ĐỨC THẦY họa:
Nịnh gian hai dạ chuyện sanh ra,
Dòm ngó càng thương hại lũ gà.
Trở mặt dòm trời cao tuốt mịt,
Ức lòng thiếu cánh chớ nên la.
Xà-No, tháng 5 năm Canh-Thìn
(Bài nầy là của nội-tổ ông Hương-bộ Thạnh)
Trắng thời chịu vẻ ngọt là nêm,
Vui dạ chi bằng đọc sách đêm.
Học đủ ba dư trời chẳng phụ,
Đến ngày bẻ đặng quế cùng Thềm.
ĐỨC THẦY họa:
Tình thương thăm viếng chật như nêm,
Tưởng nhớ lòng ta chớ ở đêm (1).
Nhà nước khác chi người thiếu phụ,
Ôi thôi! chờ vận bước lên thềm.
Canh trường dạ đoản, kiến canh sơ,
Phổ-hóa nhơn-sanh trực thế thờ.
Sư giả hạ trần nhơn mạt kiếp,
Cấp hồi Nam-Việt tác cuồng thơ.
Thôn hành thế lữ ái nhi ca,
Cổ thụ huyền thi thiết nhĩ hà.
Đái bích Lư-Bồng thâm tải hận,
Đãi thì Thiên định thiết phong xa.
Xà-No, ngày 24 tháng 5 năm Canh Thìn
_______________________________________________
(1) Lúc đó có nhiều anh em bổn-đạo ở Long-Điền (Long-Xuyên) đến tại nhà ông Hương-bộ Thạnh để thăm Đức Thầy và muốn ở lại vài ngày. Đức Thầy làm bài nầy để khuyên anh em về sớm.
(Lúc Đức Thầy ở Rạch So-Đũa (Xà-No) có một nhóm nhân-sĩ đến viếng,
Ngài có cho hai bài thơ dưới đây):
Cảm tình đồng đạo hiểu tâm không,
Cuồng-sĩ bao giờ cũng ngóng trông.
Mong ước gặp người tri-kỷ ấy,
Toại thay chí cả khách non Bồng.
Non Bồng xót chúng xuống trần-gian,
Gặp buổi hoàn-cầu nức tiếng than.
Ước-vọng người hiền như khát nước,
Chóng mau liễu kết dẹp lăng-loàn.
Xà-No, năm Canh-Thìn