Bản Sấm Truyền của tông phái Phật Thầy khi được sao chép năm Kỷ Dậu, bị thất lạc từ nhiều chục năm nay, vừa tìm thấy tại Tòng Sơn là một bản Nôm có thể coi như một bản văn rất xưa. Đó chỉ nói về phần bản sao, còn về nguyên tác thì không rõ được là tác giả viết tự bao giờ. Nhưng có điều cầm chắc là xưa hơn nữa,hằng trên trăm năm.
Nhờ có đề tháng năm sao chép mà ta tính được bản sau đó có từ 1909 và nhờ có đề tên người chép mà chúng ta biết những nét chữ bay bướm kia là của Đồ Trương hoặc Nôm đúng theo cách đọc miền Nam thì là Trò Trương
Tại sao chỉ có khoảng sáu bảy chục hoặc 100 năm mà cho rằng xưa? Thế thì những án văn Nôm (thi, kệ, văn tế) của Nguyễn Biểu, của Trần Trùng Quang, của nhà sư chùa Yên Quách còn lại từ trên 500 năm, hoặc chắc chắn hơn, như các bài thơ nôm đời Hồng Đức còn truyền cách nay cũng đến hơn 400 năm, thì là xưa đến bực nào?
Vốn đã biết vậy nhưng đó chỉ là những ghi nhận thời gian sáng tác của tác giả đối với các văn phẩm còn truyền, chứ thử hỏi có mấy ai hiện giữ được một bản Nôm sao chính thức các tác phẩm ấy còn lại kể từ trăm năm?
Tại các thư viện tại viện khảo cổ nước nhà những bản chép tay xưa ngần ấy cũng còn khá hiếm thì đừng nói chi là phía dân gian. Mà nhất là dân gian miền Nam Kỳ Lục Tỉnh một nơi xưa kia ít ai muốn làm gia phả, ít ai muốn ghi chép để đời và rất ít người chịu khó sưu tập tham khảo. Huốn gì để nhiều binh lửa, đất nước rách nát vì biến cố nhỏ lớn dài dằng dai, cơ sở văn hóa quốc gia mà còn lâm cảnh biển dâu thì nói chi đến gia đình và cá nhân
Một bổn cũ như vậy, lại bị thất truyền đến không còn một ai đời nay đọc thuộc dù là chỉ thuộc một đôi câu, thì thật là khó khăn mà giữ được tại một thôn ấp lẻ loi hẻo lánh trải đầy tan thương kinh khủng. Bởi vì vậy mà nó phải được coi rằng rất xưa, đặc biệt là xưa ở miền Nam Kỳ Lục Tỉnh
Nói đến xưa thường là nói đến hoặc cổ, quí hóa
Bản Sấm truyền của tông phái Phật thầy do "Đồ Trương" sao chép, quả thật là một quí hóa chung cho văn học Miền Nam và riêng cho giới tu học tông phái. có nó là văn học miền Nam được đóng góp thêm một bảng văn Nôm, một cách viết Nôm cho các nhà tham cứu chuyên môn và nhờ đó mà tông phái Phật Giáo Hòa hảo phong phú hơn nữa ở tư tưởng và giáo pháp
Nhằm vào các lợi lạc đó chúng tôi khảo sát lại căn cội Bửu sơn kỳ hương do Đức Phật thầy Tây An sáng khởi phiên âm bản Sấm Truyền và chú thích một ít đều thấy cần để các độc giả tiện bề theo dõi
Kính xin hồi hướng công đức cho Ban Quản Tự Tòng Sơn Cổ Tự ,Ban Chấn Tế Giáo Hội Phật giáo Hòa Hảo cùng toàn thể thập phương tín hữu.
Thánh địa Hòa hảo ngày 28 tháng 8 năm 1973
Nguyễn Văn Hùng
Linh địa Tùng Sơn
Bãi Tòng Sơn kề cận bên bãi Hổ Cứ xưa, đời Minh Mạng năm thứ 13 , thuộc phủ Tân Thành, huyện Vĩnh An . Nơi đây một vùng linh địa, từng phát tích những bậc thần công thánh đức và được các cổ thư ghi nhận là chốn phong thủy thanh Kỳ
Cả hai nơi, theo Đại Nam thống nhất trí (1) và Gia Định Thành Thông Chí (2) thì đều nằm về phía đông sông Mỹ An và sông Mỹ Luông, thuộc Tiền Giang trên đó có cả thôn Tòng Sơn và Tân Tịch. Các Thôn này, khoảng trên 100 năm trước đây, đều được nằm chung trong một tổng, gọi là An Tịnh.
Trải qua lắm lần dâu biển, cho đến ngày nay, khu vực địa lý đã biến hình cải dạng tất cả ; bãi Tòng Sơn lỡ mất quá nhiều ; còn bải Hổ Cứ thì tiêu mòn đến hết để rồi danh xưng của nó bị đưa lạc về phía bên kia tiền Giang thuộc về tỉnh Kiến Phong. Những cù lao nhỏ gọi là Cồn Lân, Cồn Chài, chỉ là thối thân của những miếng đất nạc của Tòng Sơn- Hổ Cứ bị xói mòn và hợp với một phần phù sa từ thượng lưu đổ xuống mà bồi đắp nên.
Người địa phương lớn tuổi ai cũng còn nghe biết câu chuyện tranh chấp giữa các thôn xã ở Hữu và tả ngạn tiền Giang là Tân Phước -Tòng Sơn và An Nhơn -Tân Thuận. Nguyên là khi các bãi Tòng Sơn - Hổ Cứ bị lỡ lỡ nặng và những còn nhỏ sắp được bồi lên khỏi mặt nước Tiền Giang, thì cũng đúng là lúc mà các xã thôn ở hai bên bờ ờ tranh nhau để đòi hợp pháp hóa địa bộ những cuộc đất mới ấy về phần mình. Các thôn bị lở đất đòi hỏi gần chính do đất của họ mà có chuyện sông hoá nên cồn; còn các xã bên kia sông, không bị đất lỡ thì tranh chấp gần không cần biết đất ở đâu, miễn là cồn ấy nổi kề bên thôn ấp mình, thì là của mình. Và vịnh vào các cớ riêng ấy, các xã hai bên bờ sông liên miên Tố tụng nhau hàng chục năm trời.
Tương truyền rằng để cho chắc ăn, các thôn xã ở tả ngạn Tiền Giang đã phải yêu cầu đến một thầy lỗ ban danh tiếng tên là Thợ Đức để yếm trấn cho các cồn mới nổi ấy đừng nổi lên ở Hữu ngạn Tiền Giang(3)
---------------------------------------------------------------
Chú thích
1 sách đã dẫn, do Quốc sử quán Triều Tự Đức, soạn suốt 17 năm, từ năm 1865 đến 1882 mới xong, phần An Giang tỉnh, mục Sơn Xuyên
2. Tác giả là Cắn trai Trịnh Hoài Đức, từng giữ chức Hàn Lâm chế cáo chiều Gia Long và Hiệp biện Đại học sĩ triều Minh Mạng
3. Theo một quyển sách chép tay bằng Hán văn, không có nhan đề nội dung chỉ dẫn các phép tắc xây chầu, các câu thiệu đọc trong lễ xây chầu, phép niệm chú đã cổ và các lá bùa lỗ ban dùng trấn yếm tà qủi để cho các vị đầu mục trong các xã thôn dùng trong mỗi khi có thiết lễ hát bội cúng thần trong các cuộc Kỳ Yên đáo lệ, thì do Thợ Đức tên là là Trần Huyền Đức. Tên Trần Huyền Đức được viết rõ bên trong bìa sau của quyển sách nói trên và theo lời của vị bô lão còn giữ của gia Bảo, thì chính Trần Huyền Đức là tác giả sách ấy. Tôi có mượn được nó và có đọc kỹ để tham khảo cho vấn đề liên hệ
-------------------------------------------------------------------
Thợ Đức nhận làm chuyện hoán Thiên chuyển địa ấy. Ông dùng phù chúc cột vào cổ hai con ngỗng, một trống vào một mái, rồi giữa đêm khuya thả thuyền trên sông, kêu mây hú gió nó và cùng lúc đem thả hai con ngỗng xuống sông. Con mái cột chân ở tả ngạn còn con trống thì cho tự do thả về Hữu ngạn. Cứ hễ mỗi lần ngỗng trống kêu tiếng kêu lẻ bạn của ngỗng mái thì nó bươn bả từ hữu ngạn bơi sang tả ngạn để đoàn tụ trụ vụ với "tình nhân". Nhưng liền đó ngỗng trống bị bắt, lại bị thả về hữu ngạn bạn rồi cũng lại được tự do bơi về tả ngạn như trước. Hành động này có dụng ý vận chuyển cho bãi đất được kéo từ hữu sang tả ngạn
Cuộc trắng ếm dài suốt ba đêm như vậy vào một mùa nước nổi. Cùng năm ấy khi mùa khô đến qủa nhiên một dải còn cát nổi lên phơi mình về tả ngạn và chính thế mà cuộc tranh chấp được ngã ngũ . Đất lở của Tòng Sơn- Hổ Cứ đã bị các thôn ấp tả ngạn nấm chủ quyền.
Để kỷ niệm cái danh xưng của một vùng bị xói mòn để bồi lên phong phú cho vùng mình ở, người phía tả ngạn Tiền Giang đối diện với Hổ Cứ bị lở đem tên ấy mà đặt cho phía mình. do đó mà Hổ Cứ ngày nay không còn nằm vào một chiều Tòng Sơn như xưa.
Thật ra Tòng Sơn đã hơn một thời thạnh mậu. Trong làng dân cư đông đảo. bốn mặt làng có sông nước, làng nằm giữa như một cánh bèo vễnh tai phiêu bạt. Trong làng cá lội cò bay. Cảnh trí cực kỳ thanh tú.
Thời Gia Long tấu Quốc, nơi đây là quê hương của Tuyết Trung Hầu Nguyễn Văn Tuyên, một bậc đại công thần từng nhiếp chức Tổng Trấn Gia Định Thành và có lãnh chức Thống Chế bảo hộ Cao Miên Quốc Ấn (4)
Rồi khi Gia Long phục quốc, thì Tòng Sơn là nơi chôn nhau cắt rốn của một đạt nhân, về sau sáng khởi một tông phái Đạo Phật, làm chói loại ánh Đạo vàng dưới vòm trời Nam Việt, được dân chúng suy tôn lên hàng Hoạt Phật ngàn hở hinh hương. Đó là Đức Phật thầy Tây An
Tòng Sơn vào thời cận đại, lại là nơi quê ngoại của chiến sĩ cách mạng tiền bối Nguyễn Quang Diêu. Một dung rủi tình cờ là mộ phần của nhà chí sĩ này tại Vĩnh Hòa bị đất lở, lại được bốc lên đem về cải táng ở đây, khiến ở đây càng thêm dồi dào ý nghĩa. Tòng Sơn vùng linh địa(5)
-------------------------------------
Chú thích
4. Xem Tuyên Trung Hầu Nguyễn Văn Tuyên do ủy ban xây cất lăng miếu Tiên Trung Hầu xuất bản 1971, hoặc đọc bách khoa số 348 ra ngày 1 -7-1971
5. Xem chí sĩ Nguyễn Quang Diêu, Hương Sen tái bản 1973.
----------------------------------------
Vị thống chế nói trên, đã được nhiều cổ sử thi ghi chép; còn bậc Hoạt Phật vừa đề cập, thì chúng ta cần sưu tầm, tham khảo để càng lúc càng được hiểu biết rõ ràng hơn
Trong các nguồn tài liệu dùng tham khảo về Đức Phật thầy người sáng khởi tông phái Bửu Sơn Kỳ Hương có thể có :
Những truyền khẩu của nhân gian điều này rất dễ bị sai lầm mà người cầm bút lâu nay hết thật trọng trong việc cân nhắc sao sánh. Bởi truyền khẩu thường có thêm thắt và thường bị ảnh hưởng từ các tin tức, các tài liệu nào đó, chưa được phối kiểm. Đặc biệt về trường hợp của Phật Thầy truyền khẩu là quan trọng, bởi vì Ngài là Giáo Tổ của một tông phái, lại là một tông phái mới, nên không được Quốc sử quán cũng như cán bộ sách xưa của một danh bút nào nó đến.
Những chứng tích cụ thể: một bộ chí cấm tại mộ phần của Đức Phật Thầy, một bài vị thờ Ngài đặt tại Tây An Tự ở Núi Sam (Châu Đốc), một biển thờ và một tấm Trần Đỏ còn giữ được tại Tòng Sơn (Sa Đéc), xác nhận nhiều sự kiện thực tế và quan trọng trong đời sống tôn giáo của vị Giáo Tổ
Tài liệu chép trên giấy trắng mực đen: bằng vần Nôm, ít nhất là 5 bản.
a. Tùng Sơn tăng gốc : có cả thảy 1.375 câu. Câu khởi đầu là:
"Tòng Sơn căn góc ông bà
mua đất tạo lập tại làng Cần Chông"
và câu cuối cùng là:
"Cầu cho ông Thánh Tây An
sau đây có Phật thế gian lưu truyền"
b. Giảng Phật thầy: có 214 câu. Câu khởi đầu là :
"Ngồi buồn tưởng lại là Thầy
Hồi năm kỷ dậu đông-tây nhộn nhàng"
và câu cuối cùng là :
"Mặc tình trai gái trẻ già
Tùy lòng niệm Phật đừng mà cười chê"
c. Giảng xưa nhắc tích Phật thầy : không rõ có bao nhiêu câu. Câu khởi đầu và câu cuối cùng cũng không còn ai nhớ. Bổn này chắc là xưa nhất vì ông Nguyễn Văn Kỉnh ở thôn Tân Phước (nay thuộc Bình Phước Xuân) là đệ tử của Phật thầy có chép làm gia Bảo và cháu nội ông là ông Nguyễn Ngọc Chơi còn giữ đến năm 1947. Hiện đã thất truyền. Một ít người còn nhớ, nhưng chỉ gạt đây đó năm ba câu. Thí dụ như trường hợp quan tổng đốc An Giang ở các sĩ Tân bằng cách bày cổ trên chiếu mà bên dưới có hình vẽ Phật rồi mời các sĩ tăng ngồi lên. Trong khi các sĩ tăng khác trèo lên an tọa trên chiếu thì Phật Thầy từ chối, đáp rằng :
Bấm tôi xin đứng dưới này
Hòa thượng thầy sãi ngồi dài hai bên
Tham ăn thấy thác một bên
Phật Bà ở dưới ngồi lên đặng nào!
Hoặc ví dụ như trường hợp tiên tri của Phật Thầy được dẫn lại
"Đàn bà sung sướng vô hồi
Ngày sau may vá chỉ thời khỏi se"
d. Giảng Giáp Thìn Thầy ở Gò Công : có cả thảy 269 câu. Câu khởi đầu là:
"Giáp Thìn thầy ở gò Công
Thần Linh giáng thế chiếu thông xa gần"
và câu sau cùng là:
" Con cháu hỏi han
Đặng mà nó lại"
đ. Mùa Đông phưởng phất gió Tây : toàn tập ba bổn .Gồm 106 câu cho bổn đầu. Khởi đầu bổn là câu:
"Mùa Đông phường Phước gió tây
bâng khuâng tưởng nhớ tiếng Thầy thở xưa"
và chấm dứt bởi câu:
"Năm Trai còn những một phần
Năm gái còn những hai phần mà thôi"
Bổn đầu nói qua gốc tích của đức Phật Thầy và những thiên cơ do Ngài hé lộ. Còn hai bổn sau thuyết về Năm Ông và giảng về Mười Sầu,trong đó hối thúc dân chúng tu hành để tránh oan khiên nghiệp chướng phần lớn do thiên tai và chiến họa gây nên.
Giảng mùa đông này do ông Nguyễn Văn Thửa tìm ra được tại ấp Bình Phú xã Bình Phước Xuân ,vốn của ông Huỳnh Văn Quân còn giữ được. nguyên bà nội của ông Quân xưa kia do tu theo phái Phật Thầy, nên có nhờ đông y sĩ Lê Văn Hứa chép từ năm 1915 để bà coi đó mà tu và cho đến khi bà mất thì nó được truyền xuống cho con cháu. Quyển này chép bằng chữ Nôm ngoài đầu bìa có chi : "Kinh này Phật Thầy truyền cho người làng thỉnh đặng rõ trong việc đời - Nhứt tập sanh tam bổn."
Tất cả các bổn trên đây đều không rõ là do ai là tác giả
Tuy tục kêu là "Giảng" nhưng kỳ thật thì đây đều là những bổn chép về một ít gốc tích và một số lời nói của Đức Phật Thầy mà các tác giả đời sau nghe truyền miệng lại chớ họ không đích thực nghe thấy rồi ghi chép như các đệ tử và các đại đệ tử của Ngài trong đương thời.
Vì vậy mà sự kiện thường mâu thuẫn, thời gian thường đảo lộn. Nghe sao chép vậy, rất ít có dấu hiệu kiểm chứng.
Quyễn "Giảng Xưa" hiện được coi như thất truyền. Quyễn Giảng Phật Thầy nay còn lưu hành, rất có giá trị về cả hai mặt: lời văn và sử liệu. Còn quyển Tòng Sơn thì tầm thường về lời ý, và về sự kiện chứa thì mang không biết bao nhiêu chỗ sai lầm. Có thể nói sự sai lầm trong đó lên đến 30% tính theo các sự kiện chứa đựng trong nội dung tác phẩm. Điều làm cho giá trị xác thực của tác phẩm này bị sụp đổ là trong đó có chép tên Đức Phật Thầy là Lê Hướng Thiện và chép chuyện Đức Phật Thầy được mời cứu bệnh cho một bà đầm vợ viên Chánh tòa người Pháp. Bởi vì mộ trí của Đức Phật Thầy đã chép rõ tên Ngài là Đoàn Minh Huyên, và năm diệt độ của Ngài là 1856. Tấm biển tại chùa Tòng Sơn hiện còn ba chữ Đoàn Phật Sư cũng như chính sử đã xác nhận chắc chắn là năm 1862 Pháp mới chiếm được ba tỉnh miền Đông và năm 1867, ba tỉnh miền Tây mới có sự hiện diện của họ. vậy Đức Phật Thầy làm sao có thể là Lê Hướng Thiện và thực dân pháp làm gì có mặt được ở xứ này thời Phật Thầy còn tại thế.
Quyễn Giáp Thìn thầy ở gò Công viết theo thể lục bát và vãn tư, nói lai lịch Phật Thầy từ năm Giáp Thìn năm 1844 về sau. Cũng như các quyển khác trong loại này, nó không là Sám Giảng, chắc chắn cũng không do các đại đệ tử của Phật Thầy viết, mà là của người sao chép theo một số sự kiện truyền khẩu. Nội dung có chỗ mơ hồ, thiếu căn cứ, nhưng cũng có chỗ đóng góp được cho ta một số dữ kiện để so sánh và tìm hiểu gốc tích.
Riêng quyển Mùa Đông Tuy Tiếng là của "Phật Thầy truyền" (theo lời ghi) nhưng sự thật thì nội dung vẫn nói qua một ít chi tiết về lai lịch Phật Thầy và mấy điều Ngày tiên tri dặn dò bổn đạo. Xem kỹ thì bổn này viết sau khi Phật thầy viên tịch khá lâu, có một số chi tiết không được coi là chính xác.
Tuy nhiên, nói chung nhờ có các bổn ấy mà một phần gốc tích của Đức Phật Thầy và một số lời giảng hóa của Ngài được truyền lại cho đến ngày nay để giúp chúng ta lượm lặt nghiên cứu, so sánh và rộng đường tìm hiểu để kiểm chứng sự thật.
Còn những điều chính yếu trong tư tưởng giáo điều của Bửu Sơn Kỳ Hương vẫn phải là những thi văn chữ Hán và chữ Nôm do chính Phật thầy thuyết giảng rồi các đại đệ tử của Ngài ghi chép lúc Ngài du hóa. Hoặc giả của một số các vị khác có ấn chứng đắc đạo thuộc tông phái này.
Bổn Sấm truyền của tông phái Phật thầy (bằng chữ Nôm ) vừa tìm lại được tại Tòng Sơn mà tôi sẽ phiên âm quốc ngữ để trình bày ở phần sau, là một phẩm kinh thuộc loại chính yếu với những bằng chứng đủ tin là nó được xuất phát đúng vào thời Đức Phật Thầy và các đại đệ tử của Ngài cùng du hóa rồi sau đó được ghi lại.