NHỮNG BÀI THI CỦA THẦY SÁNG TÁC NĂM KỶ MÃO 1939 (PHẦN 2)
- đăng bài : huyencuongcusi
NHỮNG BÀI THI CỦA THẦY SÁNG TÁC NĂM KỶ MÃO 1939 (PHẦN 2)
- đăng bài : huyencuongcusi
Giục thúc đạo đồng kiến thúy uyên,
Chư bang điềm tĩnh sĩ danh hiền
Sa-vi đông-hải tri thiều nhạc,
Nam-đỉnh ngọc đài lộ kỷ tiên
Đởm lực hà quê trung trực thử,
Hùng ca báo quốc nghĩa đào thiên
Sơn ly Phật-cảnh hồi Nam-Việt,
Diệt khổ sanh kỳ vị trưởng miên
BỬU-ngọc trường quan ẩn tích kỳ,
SƠN-đài lộ vẻ liễu huyền-vi
KỲ-thâm tá giả thi thành thủy,
HƯƠNG-vị âm thầm mộc túy vi
NĂM năm lục ngoạt cơ hàn thử,
NON lịch đài mây rạng tu mi
BẢY niên hòa địa nhơn hiền thủ,
NÚI ngự hoàng san tự Đỉnh-chi
Hòa bình thế-giái kiến Tiên-bang,
Ngô giả tùng nhung khí đởm gian
Hồ thiên tiểu ẩn quân tu ký,
Lương thứ dương-trần đạo dĩ an
Đào nguyên di khả tứ hồ-văn,
Khảo đảo tâm trung mãi vạn năng
Thì lai đãi ảnh chơn thiên xuất,
Vận thới thô trình trực bỉnh thăng
Hòa-Hảo, lối tháng 9 năm Kỷ-Mão
THẦY BA ĐẠO ở Hòa-Hảo hỏi thuốc:
Nghe tiếng ơn trên dốc cứu đời,
Dám xin khép nép ngỏ đôi lời
Nhơn dân sắp đến vương bịnh khổ,
Tiên dược phương nào được thảnh-thơi
ĐỨC THẦY đáp họa:
Mượn xác ra cơ dốc dẫn đời,
Bày tỏ cùng ai ngỏ mấy lời
Lục châu xao-xiến nhơn dân khổ,
Phật-Giáo khẩn cầu đặng thảnh-thơi
THẦY BA ĐẠO hỏi:
Thảnh-thơi dầu đặng phước tại trời,
Đau ốm qua rồi trẻ ăn chơi
Cho thuốc chỉ đường nhờ phương-phép,
Ngàn năm ơn đức nguyện y lời
ĐỨC THẦY đáp họa:
Thành tâm khẩn Phật với lạy Trời,
Muốn khỏi hội nầy trẻ ăn chơi
Lục tự trì tâm là phương-phép,
Nhắn nhủ cùng ai có mấy lời
THẦY BA ĐẠO hỏi:
Y lời dám hỏi lén một câu,
Tiên-Phật rộng xa rất nhiệm mầu
Đạo đời bốn chữ đây là gốc,
Tà chánh xin nhờ tiếng ngọc-châu
ĐỨC THẦY đáp:
Trả lời ý-kiến đó một câu,
Ẩn xác phàm phu chửa nhiệm-mầu
Đạo đời mầy chữ đây là gốc,
Tà chánh tâm trì rõ ngọc châu
Muốn đó gần đây giải mộng sầu,
Bốn chữ xuống phàm chớ ở đâu
Khuyến-khích cùng ai mau tỉnh ngộ,
Lai vãng gần ta rõ Đạo mầu
Văn-sĩ nhắn-nhen có mấy lời,
Đó muốn tỏ tình có mấy hơi
Ra ngõ lên xe chừng một lát, (1)
Sáng ngày tiếp kiến chuyện trò chơi
Hòa Hảo, năm Kỷ-Mão
____________________________________________
(1).-Đức Thầy mời thầy ba Đạo sang chơi vì thầy ấy ở nhà và 3 bài thi gởi Đức Thầy là do một em học trò đem đến
Nhẫn năng xử thế thị nhơn hiền,
Nhẫn giái kỳ tâm thận thủ tiên
Nhẫn giả hương lân hòa ý hỉ,
Nhẫn hòa phu phụ thuận tình duyên
Nhẫn tâm nhựt nhựt thường an lạc,
Nhẫn tánh niên niên đắc bảo truyền
Nhẫn đức bình an tiêu vạn sự,
Nhẫn thành phú quới vĩnh miên miên
H.H. năm Kỷ-Mão
Tâm hành từ thiện vị an nhiên,
Phổ hóa hiền nhơn kiến Phật tiền
Huỳnh long lộ vĩ năng kỳ diệu,
Xuất thế điều đình chửa hiệu Tiên
Danh-Sơn khai bút dìu sanh-chúng,
Trung-Trực phò nguy đãi lịnh thiên
Tạo xác phù vân khai nhứt điểm,
Qui hồi tự lập diệt tiền khiên
Kỷ-Mão hạ san mượn xác trần,
Cảm tình đồng loại Lão khuyên dân
Thậm-thâm đây đó niềm liên ái,
Hợp-tác cùng nhau nối bút thần
Vi lộ thiên oai bảo giác dân,
Ngọc nam ẩn-sĩ dị-thường nhân
Sơn giang thủ lĩnh thừa tiên định,
Tứ hải hòa giai tất hữu phân
Muốn thấy người xưa phải vẹn mày,
Nam-nhân hữu chí kiến Bồng-lai
Nhìn xem hiệu Lão trong thơ ấy,
Tứ cú nho gia đã cạn bày
Hòa Hảo, lối tháng 9 năm Kỷ-Mão
Say mùi tục lụy vẫn lao-đao,
Say nỗi kẻ ngu rất hỗn-hào
Say thấm Đạo lành ban vạn vật,
Say đời chưa rõ chuyện vàng thau
Say ngọc bồ-đề đức hạnh cao,
Say dân ngu muội tưởng điên nào
Say chừng nó biết ta Tiên-trưởng,
Say chén quỳnh-tương chốn núi cao
Say thời vận bĩ vẫn còn xa,
Say chuyện trần gian lắm cáo-xà
Say lấy gậy thiền toan dẹp hết,
Say chờ Thiên-lịnh phán cho ta
Say Đạo huyền-vi nước tịnh-dương,
Say câu Bồ-Tát rưới cho thường
Say mê Tiên-cảnh ôi thanh-nhã,
Say việc trần-gian lắm họa-ương
Say-sưa chuyện cổ nhắc chừng đời,
Say nói với trần việc tả-tơi
Say biểu trì tâm đừng vội-vã,
Say buồn lũ chó sủa mùi dơi
Say của Thần-Tiên rứt cuộc đời,
Say câu diệu lý hỡi người ơi!
Say như Lưu-Khánh ai thèm chịu,
Say thể Trần-Đoàn mới thảnh thơi
Say mãi say hoài say vẫn say,
Say cho bá-tánh tập xong bài
Say như Nhơn-Quí thì mang họa,
Say của lão Khùng ách nạn bay
Say cho tiêu hết giống con buôn,
Say của Thánh-Nhơn xuất lập tuồng
Say tạo một nền qui vạn vật,
Say dìu trăm họ vượt mây truông. (1)
Hòa-Hảo, lối tháng 9 năm Kỷ-Mão
___________________________________
(1) Ông Nguyễn Thanh-Tân có họa tám bài thơ trên đây, nhưng xin miễn in vào tập này
Quan trường nhiều lũ sói tà,
Miệng là mãnh hổ, ý là sài lang
Vinh-quang đâu có vinh-quang,
Tâm còn ích-kỷ, tánh còn hại dân,
Có thân chẳng liệu lấy thân,
Cười người điên dại sao gần Tiên-bang
Nực cười cho đứa võ-phu,
Đui mù chẳng sợ cứ mà gièm pha
Sau nầy sẽ biết mặt ta,
Tiên, Thần cũng chịu quỉ tà cũng cam
Dương-trần lắm nỗi đớn-đau,
Tu hành chẳng chịu, đạo mầu chẳng theo
Cứ lo ngửa mặt cười reo
Trước cười sau khóc, khóc rồi lại than
Than rằng: tà quỉ ác-gian,
Chẳng cho bá-tánh được toàn thây thi
Mấy năm trí óc còn ghi,
Lời Thầy để lại có thì sai không?
Hòa Hảo, tháng 7 năm Kỷ-Mão
BỬU châu công luyện chốn non thần,
SƠN thủy môn giang bảo giác dân
KỲ quái chờ nơi Thiên nhứt định,
HƯƠNG nồng dành thưởng kẻ tròn ân
Từ-bi hai chữ sắc nâu sồng,
Gắng chí dạy đời chẳng tiếc công
Vận bĩ xa chờ câu thạnh-thới,
Buồn ai châm-chích chữ cay nồng
Hòa Hảo, năm Kỷ-Mão
Đại-Thánh là Phật Thích-Ca,
Người còn khinh-báng huống ta phàm trần
Vàng thiệt lại nói vàng râm,
Lúc nầy vận thới đá mài cũng an
Cơn buồn phải gượng làm càn,
Cuộc đời rổn-rổn Phật mà phải kiêng
Trên đời ai tốt bằng sen,
Quan yêu dân chuộng rã bèn sạch trơn
Bề ngoài coi thể cây sơn,
Xét trong mối mọt ăn mà chẳng hay
Mặt tiền xem lại tốt thay,
Mặt hậu ngó kỹ lạnh tanh không ngờ,
Mau mau ta hãy bắt bờ,
Đặng cho bá-tánh leo bờ nầy qua
Có xạ nào phải bán xa,
Giấu trong chỗ kín cũng thơm đầy nhà
Nam-mô sáu chữ Di-Đà,
Từ-bi tế-độ vậy mà chúng-sanh
Xưa nay sáu chữ lạnh-tanh,
Kim-Sơn Phật ấy giáng sanh đành-rành
Ngưỡng cầu Thượng-Đẳng Đại Thần,
Phải ra trị nước bảo toàn lê dân
Ở nhà tụng niệm đều xinh,
Lục châu bát loạn nỡ nào ngó ngang
Bán lộ giang-hồ kính tặng Kim-Sơn Phật (1)
Năm Kỷ-Mão
_________________________________________
(1) LỜI SOẠN GIẢ: Bài thơ nầy không phải của Đức Thầy, mà chính là của một Dị Nhơn (đang đi bán chiếu) viết và trao cho một người tín-đồ Hòa-Hảo tại Kiến-An (Chợ Mới, thuộc tỉnh Long Xuyên) đem đến cho Đức Thầy. Theo lời người tín-đồ nầy nói lại thì trong lúc giữa đường, ông bán chiếu không có đem sẵn viết mực theo; thế mà chẳng biết tại sao không đầy một phút, ông viết được một bức thơ tuồng chữ sắc-sảo, giống hình chữ nôm, mà không một nho sĩ nào đọc được. Liền đó, Đức Thầy đọc cho anh em có mặt trong lúc ấy nghe
Lúc nầy khan tiếng sự sầu riêng,
Mở giọng thi nhân gợi nỗi phiền
Hơi-hám xác trần ngâm chẳng nổi,
Mực tàu đã cạn ráo ngòi nghiên
Hòa-Hảo, cuối năm Kỷ-Mão
Một cuộc phù vân có mấy hơi,
Cầu xin bá-tánh nhậm đôi lời
Cho vay mắt-mỏ từ nay bớt,
Có hỏi nới tay để giúp đời
Nạn khổ đâu đâu đều túng rối,
Tai ương chốn chốn khắp cùng nơi
Tiền ma gạo quỉ đừng nên trữ,
Sau cũng tiêu theo luật của trời
H.H. năm Kỷ-Mão
(Ông Nguyễn-kỳ-Trân ao-ước Đức Thầy giảng-giải về Đạo-đức cho ông nghe, nhưng vì lúc đó có người của sở Mật-Thám đến dò xét nên Đức Thầy chỉ làm bài thi dưới đây):
Định-Yên cụ lão mới sang chơi,
Tâm bịnh bất an khó cạn lời
Ông chớ nãn lòng chờ lúc khác,
Bây giờ mở miệng chẳng ra hơi
Hòa-Hảo, cuối năm Kỷ-Mão
Ông NGUYỄN-KỲ-TRÂN tức chín Diệm xướng (1)
Ngàn dậm nghe ông có phép tiên,
Cúi xin lời hỏi chớ ưu phiền
Thanh manh đôi mắt đường không thấy,
Cầu có ơn dư cứu kẻ hiền
Kẻ hiền dầu đặng sáng như xưa,
Ơn ấy bằng non dạ có thừa
Lượng rộng xin ông đừng có chấp,
Ngàn vàng dám đổi một lời ừa
ĐỨC THẦY đáp:
Chí đại còn xa chửa phép tiên,
Bịnh tình cụ lão quá ưu phiền
Nhà tôi cũng có bà không thấy,
Thương thảm trời xanh phụ kẻ hiền
Kẻ hiền lòng dạ tưởng người xưa,
Tứ khổ cổ kim vẫn có thừa
Tríu-mến tâm thành đâu có chấp,
Vọng cầu hạnh phước đặng như xưa
Di-Đà lục tự ấy phương-châm,
Ghi dạ xin ông hoặc đứng nằm
Khẩn vái trì tâm người thượng-cổ,
May trời phò hộ phước cho thầm
Khuyên đó lòng son chớ vội buồn,
Hữu thành Phật độ ắt qua truông
Nhờ ơn Tiên, Thánh trăm muôn một,
Tôi cũng giùm cho đặng thấy tuồng.
Hòa-Hảo, cuối năm Kỷ-Mão
Ông Nguyễn-kỳ-Trân là người làng Định-Yên, thuộc tỉnh Long-Xuyên, hai mắt không thấy nên đến nhờ Đức Thầy chữa giùm
(Lúc ấy ông nầy đang dạy học tại làng Phú-Lâm, tỉnh Châu-Đốc)
Tâm tánh ngày nay muốn việc lành,
Tu hiền miệng lưỡi muốn lanh lanh
Tranh đua xác thịt vừa nghe chớ,
Cố chí ngày kia sẽ đạt thành
Đạt thành mới hiểu Đạo cao thanh,
Trần-thế lánh xa phải học rành
Lục căn trừ tuyệt tầm hai chữ,
Nhân ngã, sân si hãy dẹp đành
Hòa Hảo, cuối năm Kỷ-Mão
Long-Hoa hội ấy còn xa,
Rán mà tu niệm đặng nhờ thân sau
Phải chi hội ấy hầu gần,
Thì Ông hà tất xuống trần làm chi? (1)
H.H. cuối năm Kỷ-Mão
______________________________________
(1) Có một bà già 80 tuổi xin Đức Thầy cho biết coi bà có thể sống để coi hội Long-Hoa chăng? Đức Thầy bèn đáp lại bằng mấy câu trên đây.
(tức Soài, tức Mạnh-xuân-Quả, lúc ấy dạy học tại làng Phú-An, thuộc tỉnh Châu-Đốc)
Giáo tập hôm nay thấy mặt thầy,
Vóc hình mập-mạp học khoa tây
Sớm chiều luyện tập dìu em trẻ,
Ạ, ẹ, a, b đủ một bầy
Một bầy em trẻ muốn theo tây,
Văn pháp, văn nam cũng đủ đầy
Thương thảm tấm tình hay nóng-nảy,
Bởi vì chẳng rảnh đặng vui say
Hòa-Hảo, cuối năm Kỷ-Mão
Rước xuân năm mới tiếng đì-đùng,
Cờ phất trẻ mừng chúc cội thung
Áo quần lòe-loẹt đi cùng xóm,
Bánh trái dẫy-đầy nỗi cúc cung
Chúc mừng năm mới, mới buổi qua,
Bỏ bớt dị-đoan chẳng cúng gà
Tre nêu phơ-phất không còn thấy,
Ra mắt tiêu mòn bữa thứ ba
Kỷ-Mão năm nay đã hết rồi,
Tâm thần hoài tưởng chuyện xa-xôi
Đạo mầu Nam địa càng thâm-diệu,
Dẫn dắt nhơn-sanh cũng chửa rồi
Bước qua năm mới, mới mừng à,
Khuyến-khích dân tầm đạo Thích-Ca
Tự giác, giác tha ta phải nói,
Hỡi người dương-thế bớt xa-hoa
Xa-hoa năm mới, mới khổ à,
Dân chớ chần-chờ chớ bỏ qua
Đạo-lý xem tường âu mới hãn,
Rán tìm cặn-kẽ nỗi ma-ha
Năm Thìn bước tới thiệt là rồng,
Nanh gút vẫy-vùng nỗi long-đong
Chiến-tranh thảm-khốc toàn lê-thứ,
Lo nỗi đói đau giống Lạc-Hồng
Canh-Thìn bước tới hỡi dân ơi!
Thế-giới đao binh ruột rã-rời
Khốn nguy đa sự chào xuân mới,
Dân-chúng hoàn cầu khó thảnh-thơi
Phi phi bỗng xuất mặt Huỳnh-Long,
Dụng lối Bá-Nha réo Lạc-Hồng
Chạnh cám cha còn con chẳng biết,
Phải nhờ đạo-đức mới tường thông
Phần ta thương chúng luống âu sầu,
Dân sự nào tường nẻo cao sâu
Bôn Bắc tẩu Nam cam khổ rối,
Nhưng vì bổn-phận phải toan âu
Con người Nguơn-hạ mấy nhiêu hơi
Đạo-đức nhiệm mầu chẳng có chơi
Lê-la chậm bước đàng bụi gió,
Phải sớm lánh xa khỏi cuộc đời
Mãnh hổ đâu đua chí tang-bồng,
Rạng mày nở mặt với non sông
Quân-tử thánh-nhơn ghi Nhược-thủy,
Cơn buồn chấp bút chuyển huyền thông
Hòa-Hảo, ngày 28 tháng chạp Kỷ-Mão
(Chép theo bản chánh do ông Nguyễn-Chi-Diệp giữ)
Tết tết cùng năm tháng hết mà,
Thằng bần công nợ chạy bôn-ba
Hẹn mai hẹn mốt chờ khai hạ,
Con đòi áo tốt rối chàng ta
Năm nay ăn tết thật là nghèo,
Sanh-chúng u-buồn nỗi nạn eo
Đồng khô lúa ngập coi xơ-xác,
Cảnh đói buông lung nỗi giạt bèo
Nhắn-nhủ khắp nơi hỏi một bài,
Ba ngày xuân nhựt bởi nơi ai?
Rượu-trà, cờ-bạc, ôi phung-phí,
Chẳng biết lệ xưa của ai bày?
Tết rồi tết nữa, tết liền tay,
Năm cuối mỗi năm cũng tết hoài
Làm cho dân-sự vui nha-nhớp,
Chơi giỡn ba ngày rước xuân lai
Lòng ta cảm thấy nỗi u-buồn,
Suy xét việc đời lụy muốn tuôn
Chào xuân chẳng thấy xuân mừng nói,
Mê-mệt tâm can trí bắt cuồng
Hòa-Hảo, ngày 28 tháng chạp Kỷ-Mão
Bước tới hùng ca bước tới hoài,
Đạo đời hủy báng mặc tình ai
Cố chí nhiệm-mầu truyền diệu-pháp,
Bởi vì cốt-nhục cũng hoài thai
Diệu-vợi xa-xăm nỗi khổ hoài,
Cuộc đời lao-khổ thấy chiều mai
Chợt ngó xuân sang xuân biết khóc,
Đến thời Thiên định lối bi ai!
Giục-thúc nhơn-sanh kiếm Đạo mầu,
Sao còn hoài tưởng chuyện đâu đâu?
Sự sống người đời, ôi! thấy khổ,
Miệt-mài Đạo-đức vẻ huyền sâu
Hùng ca chuyển pháp kiếm tôi hiền,
Thiên-địa tuần huờn chẳng vị riêng
Gian nịnh phản thần, ôi! nhơ-nhuốc,
Gìn lòng trung hiếu sách ghi biên
Ghi biên những kẻ quá lương hiền,
Một mực trung thành với Phật-Tiên
Cố tưởng ước-mơ về Tiên cảnh,
Hiếu hạnh gìn lòng chí ư thiên
Ư thiên Trời Phật chẳng dụng tiền,
Tìm kiếm con lành giải nghiệp-duyên
Mê-muội ác-hung về địa-ngục,
Hiền lành nhắm mắt thấy non Tiên
Non Tiên ra sức tháo dây xiềng,
Dân-chúng an nhàn dạ mới yên
Cám cảnh thương đời, ôi! mê-muội,
Mong-ước ngày kia giải mộng phiền
Mộng phiền muốn khỏi phải làm sao?
Hung dữ, ác nhơn chớ bước vào
Gìn tâm nhu-nhược chờ vận đến,
Vậy mới rời xa cảnh máu đào
Máu đào khắp nước khổ vô cùng,
Nam-Việt dân tình mãi thung dung
Chẳng lo tu tỉnh cầu Phật Thánh,
Để nước đến chơn mới nhảy đùng
Nhảy đùng ắt phải lọt ngoài sâu,
Chẳng gặp xuồng ghe chững mới rầu
Làm sao lo liệu tu cho kịp,
Bập-bẹ nam-mô cũng nhọc cầu
Nhọc cầu bịnh tật nỗi nào đâu,
Lao-khổ nhơn-sanh cảnh nước Tàu
Trẻ nhỏ rã-rời xa bố mẹ,
Sao còn tranh-đoạt mảng mồi câu
Mồi câu danh-lợi chúng dân rầu,
Kim chỉ phải gìn chuyện cạn sâu
Vinh-hoa phú-quí chòm mây bạc,
Nho-nhã thi-văn nẻo nhiệm-mầu
Nhiệm-mầu hạnh-đức quá thanh-cao,
Thần, Thánh, Phật, Tiên xuống kêu gào
Dương-gian mau tỉnh trong tràng mộng,
Tầm kiếm nơi nào đạo siêu cao
Hòa thôn Hảo cảnh xứ chi ta,
Tạm dắt nhơn sanh khỏi ái hà
Tạo xác Huỳnh danh thanh sắc trẻ,
Chờ thời Thiên định thiết hùng ca
KIM ngọc nào tri Phật, Quỉ, Tà
SƠN đài ra sức dẹp loài ma
THƯỢNG thọ chúc cầu an bốn biển,
ĐẲNG đẳng dưới trên sớm thuận-hòa
Mong ước ngày kia đặng khải hoàn,
Địa cầu sanh-chúng được nhàn an
Bốn biển một nhà Cha: Phật, Thánh,
Thì là dân sự hết tàng ngang
Năm tàn tháng cuối cảnh buồn teo,
Đón rước bạn xuân lễ quá nghèo
Thượng cổ gần hồi nên sửa lối,
Theo nhà Phật-Giáo phải như keo
Dân-chúng chớ nên đốt giấy tiền,
Bởi vì Diêm-chúa chẳng tình riêng
Phán-quan tả hữu không dùng hối,
Nên phải dạy dân bỏ giấy tiền
Vàng bạc bởi tay khách trú làm,
Phật, Thần, Tiên, Thánh chẳng dùng ham
Giấy quần giấy áo không nên đốt,
Nghĩ chuyện dối ma chẳng đáng làm
Hòa-Hảo, ngày 29 tháng chạp năm Kỷ-Mão
(Chép theo bản chánh do Ông Nguyễn-Chi-Diệp giữ)
Đêm nay mới cũ hiệp hai đàng,
Xuân nhựt lễ nầy tại thế-gian
Mèo rồng cao thấp chơi cùng giỡn,
Đông hạ xuân sang khắp địa hoàng
Bóng trăng vắng mặt, tối tối hoài,
Hai giờ hiệp mặt, hai giờ hai
Một đêm mới cũ cùng nhau gặp,
Tức cảnh thi văn nhả một bài
Một bài từ cũ mới ngày mai,
Tiếng pháo xa xa vẫn đốt hoài
Dân ta nghèo túng về Đạo-đức,
Chơi giỡn đua-bơi mãi tối ngày
Một lúc lâu lâu một tiếng đùng,
Đúng giờ cũng rước ông bà chung
Từ-bi hai chữ ta ngồi tưởng,
Không có xu mua đốt miệng hùn
Hòa-Hảo, đêm 30 tháng chạp Kỷ-Mão