Như chúng ta vừa thấy Đức Phật Thầy Tây An giáo tổ tông phái thái Bửu Sơn Kỳ Hương, tên thật là Đoàn Minh Huyên đản sanh vào giờ ngọ ngày rằm tháng 10 năm Đinh Mão (1807) , đời vua Gia Long thứ sáu. so với triều đại Trung Hoa thì bấy giờ nằm đời Thanh Nhân Tông, niên hiệu Gia khánh thứ 12
Chánh quan của Phật Thầy tại Tòng Sơn, tổng An Tịnh,huyện Vĩnh An, Phủ Định Viễn, trấn Vĩnh Thanh (1). Tỉnh An Giang hồi ấy chưa có. Mãi đến niên hiệu Minh Mạng thứ 13 (1832), một chỉ dụ hạ lệnh cho Gia Định Thành cắt đặt tỉnh An Giang với hai phủ, bốn huyện,thì Tòng Sơn thuộc về An Giang. Hiện nay, Tòng Sơn nằm về bản đồ hành chính quận Lấp Vò, tỉnh Sa Đéc
-----------------------------
chú thích:
(1).Năm Gia Long thứ bảy (1808) bắt đầu đặt trấn Vĩnh Thanh, thuộc quyền Gia Định Thành, có một phủ Định Viễn và ba huyện Vĩnh Bình, Vĩnh An, và Tân An.
-----------------------------
Thuở nhỏ học hành làm sao, sinh hoạt thế nào, không biết. Lớn lên rời quê quán, có lẻ là để đi tu hành. Nhưng cả thân thuộc Ngài cũng không ai biết tông tích.Hình bóng của Ngài đã vùi mất từ lâu trong ký ức của mọi người có ít nhiều liên hệ.
Nhưng Phật Thầy lại trở về làng Tòng Sơn sau khi đã xuất hiện tại Gò Công năm giáp thìn (1844) rồi vân du qua các xứ Mõ Cày, Bến Tre, Cần Chông, Sóc Trăng, Bạc Liêu, Cà Mau, Rạch Giá và Miền Thất Sơn.
Thật ra , Ngài trở về đúng vào tháng năm nào, không có gì để xác nhận. Tuy vậy, vẫn có dấu hiệu cho biết, rõ là vào đầu năm Kỷ Dậu (1849) thì Phật Thầy đã hiện diện ở đây. Với dáng dấp của một người ngây ngây,lời ăn tiếng nói khi hư khi thực,rồi cộng với những việc làm có vẻ huyền diệu, Ngài mới bắt đầu gây được sự chú ý cho ít kẻ hiếu kỳ. Chẳng hạn như chuyện cây da bên rạch Tòng Sơn trốc ngã, làm tắt nghẽn luwu thông mà chỉ bằng một cử chỉ nhẹ nhàng, Phật Thầy đã giúp làm cho cây da xếp lại. Như chuyện Ngài hằng đêm đốt lá da để lấy ánh sáng thay đèn, để lấy lửa đun nước và khi thấy có người lo sợ rằng hỏa hoạn có thể xảy ra do hành động đó của Ngài, thì Ngài trả lời bằng những câu úp mở, tỏ ra có đủ quyền năng để bảo đảm việc ấy.
Nhưng như đã nói , mới đầu Ngài chỉ gây được sự chú ý cho những ai hiếu kỳ, còn phần đông thì hoặc họ không biết đến Ngài, Hoặc có người biết đến thì tỏ vẻ khinh bạc. Nhưng hình như Đức Phật Thầy không buồn nghĩ đến việc ấy mà hàng ngày lộ vẻ trầm ngâm, thường tìm đến chổ tịch mịch để suy tư. Cái suy tư của một đại nhân mang hoài bão lớn, muốn giải thoát cho đời mà thời cơ chưa đến.
Ngài nghèo nàn, cô độc, một mình hiu quạnh nương tựa mái hiên sau của ngôi đình Tòng Sơn cũng nghèo nàn như Ngài.
Năm ấy thời hành dịch bệnh tả nỗi lên, tại làng Tòng Sơn bắt đầu thấy có người nhiễm bệnh. Dân làng Tòng Sơn lo sợ vái van, dự phòng thuốc men ngừa khi tăm tối xa thầy vắng chợ; còn hương chức làng thì tự thấy có trách nhiệm trước thánh thần, cho nên họ hợp lại để làm lể "tống gió", gà, heo vái cúng.
Thấy hành động của hương chức làng trái với chánh pháp, Nên Phật Thầy ra trước mặt họ tỏ ý không tán thành.Ngài khuyên đừng nên làm việc sát sanh vô lý và ít kỷ như vậy. Mình không ưa "gió" thì "tống gió" cho ai! Nhưng Chức việc làng bác bỏ lời Ngài, họ thản nhiên làm theo ý định.
Những lời biện giải nhân từ và hợp lý của Phật Thầy hay đâu lại là điều làm phật ý mọi người. Người ta đồng lòng xua đuổi Ngài ra khỏi mái hiên đình, Một nơi tuy âm thầm quạnh quẻ nhưng lại là tổ ấm thân yêu mà Ngài đã nghỉ đổ tự bấy lâu nay. Ngài chấp nhậ lời họ, nhưng xin được thiết lễ ra mắt để tự chiêu khai lý lịch đã.
Trước đông người, Ngài cho biết tên họ của mình, nói rõ danh tánh ông bà cha mẹ mình và xin mời những người thân thuộc của Ngài đến. Dòng họ của Đức Phật Thầy bấy giờ chỉ còn có vài người, nhưng trong vài người ấy, Ông Đoàn Văn Điểu và Ông Đoàn Văn Viên, cũng không nhận diện được Ngài. Ngài phải nói hết căn do lưu lạc, việc tu hành của Ngài như thế nào, thì anh em mới nhìn được nhau.
Rồi Đức Phật Thầy cáo biệt.
Chuyện vỡ lẻ, mọi người dều bịn rịn, khẩn cầu Ngài ở lại. Nhưng Phật Thầy quyết định lên đường, vì thời cơ và sứ mạng đã đến lúc khế hợp. Từ ấy người ta thấy Phật Thầy vân du nhiều chỗ. tại Trà Bư (cách chợ Cái Tàu Thượng chừng non 10 cây số), tại Tân Phước (trên lòng Rạch Cái Dứa) Tại Mỹ Hưng (khoản đầu Cù Lao Giêng),
tại Cái Tre (bên kia bờ Tiền Giang, ven Đông Tháp), thiên hạ đều thấy có bóng dáng Ngài thoạt đó thoạt đây.
Ngài đi trên một chiếc xuồng bần, bơi bằng một thanh tre, gặp bịnh thì trị bịnh, gặp người thiện duyên thì thuyết pháp dạy tu. Cá nhân Ngài gắn liền với đám dân cùng khổ. Ngài an ủi, cứu trợ, khuyên đỗ, thương xót họ như tình thương bao la của mẹ đối với con.
Nhưng chổ Đưc Phật Thầy ngụ lại hơi lâu là tại Trà Bư.
Bấy giờ bệnh dịch lan tràn dữ dội. Đầu trên xóm dưới chết. mà chết nhiều không kịp chôn. Thiên hạ hoản sợ. Bè tống ôn tống gió bồng bền đầy sông. Ngoài đường vắng người đi. Ban đêm chó không dám sủa. mà thỉnh thoảng có vài tiếng chó sủa thì người ta tưởng tượng có âm binh về. Hễ nghe tiếng lộp cộp là ớn da gà, biết rằng trong xóm có nấp quan tài vừa đậy lại. (2)
Nhân dân Tòng Sơn sợ hãi, hối tiếc rằng mình có Phật trong nhà mà đi cầu ma ngoài đường, nên yêu cầu ông Doàn Văn Điều cùng đi với chức việc làng đến Trà Bư thỉnh Đức Phật Thầy trở về. Báy giờ tại Trà Bư người ta đến cầu Ngài chửa bệnh đông như kiến cỏ, nên Phật Thầy không về Tòng Sơn. Ngài dạy các ông ấy hãy trở về đình, nơi Ngài nghĩ đỗ trước kia, tìm cái nang bằng mo cau dùng làm đảy đựng vật dụng mà Ngài còn để lại, sẽ có "cây thẻ năm ông" trong đó. Hãy cầu vái Phật Trời rồi thỉnh thẻ ấy mà uống thì tật bệnh tiêu trừ.
Thật vậy, trong cái mo nang còn lại, người ta thấy có một quyển Sấm Giảng được truyền tay nhau đọc; Còn cờ ngũ sắc thì chỉ trong ít ngày, người ta thỉnh về uống sạch (3). Chẳng những vải cờ mà cho đến cả cán cờ, chưn nhang và tro nhang trên bàn thờ cũng không còn.
---------------------------------------------
chú thích :
(2). Nữa tháng trong miền Thất sơn, Hương Sen xuất bản.
(3) Phải chăng là để nhắc lại việc nầy, Đức Huỳnh Giáo Chủ có viết trong bài Thiên Lý Ca hai câu rất đúng với sự kiện và cảnh ngộ :
"Bữa xưa Giảng kệ một nang
Bởi vì ta mắc dời thoàn cảnh xa"
Đức Phật Thầy quả để lại đình Tòng Sơn một mo nang Giảng kệ và trên chiếc xuồng bần, Ngài đã dời thoàn ra đi, không trở lại.
----------------------------------------------
Bằng phương pháp đơn sơ như vậy, Đức Phật Thầy đã chận đứng được con bịnh ở Tòng Sơn.
Tháng 8 năm ấy, Ngài đến Xẻo Môn, thôn Kiến Thạnh (Giờ đây là xã Long Kiến), xuất hiện như một người cuồng, gây kinh dị không ít cho dân chúng. Nhưng rồi ai nấy vô cùng thán phục bởi đức độ và tài năng của Ngài. Ngài vừa chửa bịnh,vừa thuyết pháp dạy tu, người quy y đông vô số.
Chỉ bằng một mảnh giấy vàng xé nhỏ, một chút nước lã hoặc một miếng giấy áo nhang, Phật Thầy không những trị bịnh thiên thời mà còn trị cả đến bịnh ho, suyễn, cùi, phong, điên, bịnh hậu thổ huyết,bịnh trùng tang thằng bố. mà trị đâu thì hết đó, tiếng đồn vang khắp, khiến người đến chiêm ngưỡng Ngài như nước triều dâng.
Những người quy y với Phật Thầy đều được phát cho một lòng phái bằng giấy vàng hay giấy bạch, trên đóng dấu ấn triệt có bốn chữ Bửu Sơn Kỳ Hương.Tông phái nầy coi như được sáng khởi vào mùa thu năm Kỷ Dậu (1849) mà Đức Phật Thầy Tây An là Giáo Tổ.
Ngài luân lưu chữa bịnh, thuyết Pháp và truyền giáo tại làng Ông Chưởng ít nhất là vào mấy tháng của mùa thu năm ấy; các địa điểm có mang vết chân Ngài được biết chắc chắn là tại đình thần thôn Kiến Thạnh (xưa ở Chưng Đùng), tại cốc Ông Kiến ( nay là Tân An Cổ Tự) và tại chùa Sư Nhựt (thôn Kiến An). Nhưng kế rồi Ngài lâm nạn,phải tạm ngưng hoạt động
Viễn nhân đưa đến hoạn hạo cho Đức Phật Thầy là do sự nghi kỵ của chính quyền đương nhiệm. Nguyên là miền Nam cho đến cuối đời Gia Long, vẫn còn là một biên phương ô tạp. Theo Đại Nam Chánh biên liệt truyện, Đại Nam thực lục chánh biên và nhiều cổ sử thư thì người thổ, người Minh Hương,Người Đồ Bà, người Chàm ... và người Việt ta chung sống trên một vùng đất rộng ven các nhánh sông Tiền và Hậu. Tín ngưỡng quá phức tạp. Mê tín thì dẫy đầy. Đồng bóng ma quỉ như thường xuyên lẫn lộn bên nhau. Những tụ tập làm loạn thường dựa vào tình trạng phức tạp đó mà nổi dậy, khiến chánh quyền phải cấm ngăn phù thủy. Cãi thì trừng phạt bằng roi, hoặc bắt khổ sai,xay lúa, giã gạo. Thế mà các đám giặc chòm vẫn cứ tiếp tục nổi lên, trong đó thường có các tăng sãi chủ mưu.Theo sách Bản triều bạn nghịch luyện truyện (4) thì giặc Sãi Kế là một loạn đảng quá dữ dằn, dám xưng vương, cướp phá lung tung các hạt trên Miên và tràn xuống đến Định Tường để cáp duồng, cướp bóc vào những tháng thượng bán niên Canh Thìn(1802). Kế đến năm Thiệu Trị nguyên niên (1841) nhiều cuộc loạn lại nổi lên ở Miên do các tên đầu Đảng là Đột và Cố.
Nước xiêm nhân đó đưa Nặc ông Đôn về Miên cướp quyền bảo hộ của Việt Nam, xúi dân làm loạn, cướp phá đến kinh Vĩnh Tế,(5). Rồi thầy sãi Lâm Sâm (cũng gọi là Sư Sâm) thừa cơ dậy giặt ở Vĩnh Long và Trà Vinh, y có tới bảy tám ngàn đồ đảng, tất nhiên là có nhiều "thầy tu" chỉ huy, chiếm cứ Lạc Hóa, giết chết cả đến quan Bố Chánh Trần Tuyên và quan tri huyện Huỳnh Hữu Quang (6).
------------------------------------------
chú thích:
(4). Mục Minh Mạng nguyên niên, tờ 8a
(5). Xem Thoại Ngọc Hầu và những cuộc khai phá miền Hậu Giang, hương sen xuất bản 1973.
(6). Bản triều bạn nghịch liệt truyện, mục Thiệu trị Nguyên niên tờ 21b
--------------------------------------------
Tiếp theo là Thiệu Trị thứ 5 và thứ 6 (1845 - 46 ). Cao Miên liên tiếp có loạn, làm rối rấm Nam Kỳ, trong đó thường có sự tham gia của các sư sãi người Miên. Chính vì vậy mà khi nghe tin Đức Phật Thầy có uy luật tụ tập mỗi ngày hàng ngàn người, tự nhiên là triều đình phải sợ.
Còn cận nhân gây ra tai nạn cho Phật Thầy là do bọn thầy cúng, bọn lang băm và bọn phù thủy bất học vô thuật. Chúng ganh tị trước sức thu hút quần chúng quá lớn lao của Đức Phật Thầy, vì Ngài có thể gây thất nghiệp cho chúng. Chúng tìm mọi cách để chỉ trích các phương pháp chữa bệnh, truyền giáo và hành giáo của Ngài. Đói ăn rau đau uống thuốc, Đức Phật Thầy chữa bệnh không dùng thuốc là một cái nghi. Thầy chùa thì phải đầu tròn áo vuông, Ngài đầu vẫn búi tóc, càm vẫn để râu, là hai cái nghi. Lễ Phật thường thì tụng kinh gõ mõ, giờ sao dạy lâm râm mặc niệm, không la ó gì là ba cái nghi. Thờ Phật lâu nay chỉ thờ tượng cốt, nay lại thờ Trần Điều, là bốn cái nghi. Cúng Phật Thường cúng chè xôi, lý do gì lại bác bỏ hết mà chỉ cúng hoa tươi nước lã, là năm cái nghi. Tất cả các nguyên cớ dẫn trên tập hợp lại thành một lưới nghi, khiến chánh quyền kết luận rằng Phật Thầy không phải là một nhà tu hành chân chính, mà là một gian đạo sĩ, chuẩn bị quần chúng để làm một cuộc nội loạn.
Đức Phật Thầy bị quan tổng Đốc An Gaing xuống lịnh bắt Ngài đưa về Châu Đốc câu lưu.
Tại Châu Đốc, Phật Thầy đã đã đem tài hùng biện và dùng những huyền nhiệm để ứng phó với các viên chức chánh quyền. Những lời đe dọa, những cuộc thẫm vấn gắt gao, cùng với những trò thử thách đều được đưa ra, nhưng không hề làm lung lay được tâm hồn hiền thánh. Sau đó, không rõ bao lâu, người ta phòn thích Ngài.
Tuy nhiên để hợp thức hóa Phật Thầy như một nhà sư bình thường của Đạo Phật và để kiểm soát, theo dõi mọi hoạt động của Ngài, người ta buộc Ngài phải thế phát và phải vào tu tại chùa Tây An, một ngôi chùa do chính quyền cất sẳn từ năm Thiệu Trị thứ 7 (1847) qua bàn tay kiến trúc của quan Tổng Đốc Doãn Uẩn (7)
Từ đó Phật thầy trên phương diện pháp lý là một nhà sư của chùa Tây An để tự túc sinh sống, chính quyền có cấp cho Ngài tám mẫu ruộng bên chân núi Sam. Tại đây đã sẵn có một sư trụ trì thuộc phái Lâm Tế, có nhiều tượng cốt Phật, có gõ mõ tụng kinh.
Ngộ biến tùng quyền, mặc dù trong một hình thức trái với chủ trương cải cách tôn giáo của Ngài, Phật Thầy vẫn ẩn nhẫn tuỳ thời để thi hành sứ mạng lập tông thành giáo.
Tưởng nên nói rõ ràng chủ trương của Phật Thầy là lấy đạo Phật làm căn, nhưng không thờ Phật cốt, không gõ mõ tụng kinh, không đầu tròn áo vuông, không hành nghề thầy đám, không cúng kiếm chè xôi và tu đâu cũng được. Theo giáo lý của Ngài thì người tu cốt tránh ác làm lành, rửa lòng trong sạch, giữa tâm thanh tịnh và hằng thực bốn ân lớn: ân tổ tiên cha mẹ, ân đất nước, ân tam bảo, ân đồng bào và nhân loại.(8)
Cũng tại chùa Tây An núi sam thật thì cảm giác được vị thiền sư Vũ chùa và thu hút ngàn chục vạn thập phương thiện tín. người ta xem Ngài là một vị Hoạt Phật và tôn xưng Ngài là Phật Thầy Tây An. Danh hiệu này là do thế tôn, không phải do Ngài tự dặt.
Ngài cũng chỉ thị cho các đại đệ tử mở rộng việc truyền giáo ra khắp bốn phương, tiếp tục phát phù trị bệnh, tiếp tục cấp lòng phái Bửu Sơn Kỳ Hương để thu nhận thêm nhiều đệ tử. cái bối cảnh Xẻo Môn trước kia giờ đây bộc hiện tại núi Sam với một niềm tin mãnh liệt và với một tinh thần phấn khởi hơn trước đối với người tin. Để tránh sự khủng bố của chánh quyền mà Phật Thầy tiên liệu là sẽ khó tránh khỏi là nếu cho tập trung ở đó để truyền giáo theo chủ trương của mình, nên ngày cho lệnh di tản tính đồ đi khai hoang tản mạn nhiều nơi. Các vùng cực xa xôi hoanh vắng chưa có vết chân ai bén mảng, là chỗ tốt cho sự thành lập các cơ cấu Bửu Sơn Kỳ Hương.
Các cơ cấu tôn giáo vừa nói đều được Phật Thầy mệnh danh là trại ruộng. Tất cả tín đồ đều là cư sĩ tại gia vừa làm lụng sinh nhai vừa tu hành tinh tấn. Các nông trại được coi như các chùa chiền và các đại đệ tử của Ngài được gọi là các Ông Đạo để làm những việc như các tăng sư truyền giáo.
Năm 1851, từng đoàn tín đồ của Phật Thầy chia nhau ra đi.
Đoàn khai hoang thứ nhất vào Thất Sơn bên chân núi Két, nơi mà rừng bụi rặm rì hổ báo lúc nào cũng có thể xuất hiện để đe dọa và làm hại người ta được. Đoàn này chia làm hai nơi, một do Ông Bùi Văn Thân tức Ông Tăng Chủ Bùi Thiền Sư, một do ông Bùi Văn Tây tức ông Đình Tây chỉ huy. Nơi đây nông trại Hưng Thới và Xuân Sơn được dựng nên(9)
----------------------------------------------
chú thích:
(7). Đại Nam Nhất Thống Chí, phần An Giang tỉnh, mục Tự quản tờ 29b. Trong quyển Mùa Đông đã chép sai chi tiết này.
(8). Nhận thức Phật Giáo Hòa Hảo, Hương Sen xuất bản 1969
(9).Thất Sơn Mầu Nhiệm, Từ Tâm tái bản, 1972.
-----------------------------------------------
Đoàn khai Quang thứ hai ai do ông Quảng Thành tức Đạo Thành (10), điều khiển đem nhau đến Láng Linh một vùng bùn lầy,mà mùa lục như biển cả, mà mùa hạ thì như bãi cát hoang. địa thế không thuận lợi mới cho nông nghiệp nhưng rất đắc địa cho khách ẩn cư tịch mịch. Tại vùng này một trại ruộng mệnh danh Bửu Hương Các được dựng lên.
Đoàn thứ ba do ông Đặng Văn Ngoạn đưa về miền Cần Lố, bên kia bờ Tiền Giang (vùng Đồng Tháp Mười), khi một ngôi chùa được dựng lên tại Trà Bông để các tính đồ chiêm bái; còn ruộng rẫy thì ruộng rẫy rộng mở khắp nẻo gạch Trà Bông trong lòng Cần Lố lạch Ông Bường.(11)
Đoàn thứ tư về Cái Dầu, nay là xã Bình Long ,sát hữu ngạn Hậu Giang, nơi có nhiều phù Sa, tuy không phải chỗ hoàn toàn hoang lâm, nhưng vẫn còn mênh mông đất rộng, ông Nguyễn Văn Xuyến tức Đạo Xuyến, đã cai quản các tính đồ sinh hoạt tại địa điểm này.(12)
Tất cả các nhân vật điều khiển các nông trại Bửu Sơn Kỳ Hương mà chúng ta vừa biết đều là những người đạo đức gương mẫu, thông Phật Pháp, giỏi võ nghệ, đầy lòng vị tha:
"Bùa Linh đốt cứu người đau đớn
Phù phạt dành rừng kẻ Thiện Duyên"
Họ kiên nhẫn và bất vụ lợi tinh thần khoáng đạt.
"Giày cỏ đến nuôi trời đất rộng
Áo sen xài sạc núi sông dài"(13)
Cho nên với cuộc sống đơn bạc, họ đã động viên hằng ngàn nhân lực, đến mỗi nơi để sau đó lập thành thôn ấp, phát triển đạo đức.
Nhiều làng xã như Hưng Thới, Xuân Sơn, Bình Long, Thạnh Mỹ, Vĩnh Hanh,...( thuộc Long Xuyên - Châu Đốc) hoặc ở Đồng Tháp (thuộc Sa Đéc - Kiến Phong) ở Trà Bang (Rạch Giá)... đều đã do bàn tay, lưỡi cuốc khai phá của người tín đồ Bửu Sơn Kỳ Hương mà nên.
--------------------------------------------------------
(10). Cuộc Khởi Nghĩa Bảy Thưa, Tân Sanh xuất bản 1956.
(11). Theo Đạo Ông Giảng tập của Đặng Công Hứa, bảng Nôm lục bát, không đề năm sáng tác. Nội dung nói về cuộc hành đạo của ông Đạo Ngoạn
(12).Sự thôn thuộc và khai thác đất tầm Phong Long, sử địa số 19, 20, 1970
(13). Trích Liên Hoàn Thập Thủ của ông Đạo Lãnh (có thể do Phật Thầy bảo viết)
-------------------------------------------------------
Chặn đời từ 1851 trở đi, tuy tiếng là ở tại núi Sam Nam, nhưng thật ra Phật Thầy luôn luôn văn du hoá đạo. Tài liệu chắc chắn có thể kiểm chứng được cho thấy ngoài Châu Đốc Long Xuyên, nơi có sự trong nôm của Đức Phật Thầy và ông Đạo Thành, công việc truyền giáo về Cao Miên có ông Đạo Lãnh, Bà Năm Chòn Dầu, về Sa Đéc Vĩnh Long có ông Đạo Ngoạn, về tỉnh Biên Hòa Định Tường có Ông Đạo Xuyến, về Hà Tiên -Rạch Giá có ông Đạo Lập(14). Những tu sĩ này được mật truyền tâm pháp và thảy đều nổi tiếng là những bậc chân sư.
Phật Thầy thọ 50 tuổi viên tịch tại chùa Tây An núi Sam vào giờ ngọ ngày 12 tháng 8 năm Bính Thìn (1856).
Nhìn Bửu Sơn Kỳ Hương qua hành chỉ của vị Giáo Tổ, qua giáo lý và các tổ chức sinh hoạt của tông phái này, chúng ta thấy thể hiện ở đây một cải cách lớn, một sáng tạo đặc biệt chẳng riêng cho Phật Giáo Việt Nam, mà là một đóng góp xứng đáng cho cả một dân tộc.
Giữa khi mà đất nước ly loạn liên miên gây ra bởi tham vọng của con người đồng chủng (chiến tranh Tây Sơn- Nguyễn Ánh, tranh chấp Minh Mạng- Lê Văn Khôi) bởi tham vọng của những kẻ dị chủng (mấy trận xâm lăng của Xiêm và những dấy loạn của Miên) kế đến là những tà quỉ mị đạo mê hoặc lợi dụng, những cướp của sát nhân của những tên gian đạo sĩ. (đồng cốt bóng chàng, lường gạt chân cháo đến phải phạt khổ sai mà không bỏ; nào loạn Sãi Kế, nào giặc Sãi Sâm) rồi tới nền kinh tế phát triển quá mức trên một vùng phì nhiêu nhất của đất nước làm thu đủ loại người chen đua, giành giựt, hư hèn (miền Hậu Giang hồi thế kỷ 19, đã tập trung nhiều giống người: Chàm, Xiêm, Miên, Lào, Đồ Bà, Trung Hoa ở lẫn với Việt Nam)..v.v... Giữa lúc ấy nếu không xuất hiện một phong trào chấn hưng đạo đức thích ứng như công đức hoàng hóa của Bửu Sơn Kỳ Hương thì chắc chắn miền Nam này sẽ trở thành một cái rún biển chất chồng tội ác, là một trong những ung nhọt của thế giới văn minh rồi.
Nói bấy nhiêu đó cũng đủ làm bừng sáng ý nghĩa trong sự hiện diện của Bửu Sơn Kỳ Hương.
-------------------------------------------------------
chú thích:
(14). Những xưng hô về sau phần nhiều là những lạm dụng hoặc lợi dụng. Người ta bắt trước theo một vài điều gì đó của căn gốc Phật Thầy rồi tự xưng mình cũng thuộc tông phái của Ngài để lấy uy tín. Sự thật đều là sai lạc Chánh truyền. Chẳng hạn họ thấy Bửu Sơn Kỳ Hương có ân đất nước có tranh đấu cứu tổ quốc nên lợi dụng để quyến rũ quần chúng. Trường hợp "lá cờ phản nghịch" có mang bốn chữ Bửu Sơn Kỳ Hương kèm theo những phù chú nhăn nhít của một nhóm Thiên Địa Hội làm từ năm Ất Mão (1915), bị thực dân Pháp bắt được năm 1916 mà giáo sư G. Coulet đã đề cập(Drapeau de I'insurrection de 1916 en Cochinchine) là một. Một trường hợp khác là có một số người lạm dụng tấm Trần đỏ của Đức Phật Thầy để tôn thờ nhưng không tu học theo đúng tôn chỉ của Ngài. Điều này đã được Đức Giáo Chủ PGHH minh giải: "từ trước chúng ta thời Trần Điều là di tích của Đức Phật Thầy Tây An để lại, nhưng gần đây có nhiều kẻ thờ Trần Điều tự xưng cùng tông phái với chúng ta là sái phép, sái với tôn chỉ của Đức Phật, nên toàn thể trong đạo đổi lại màu dà, (Tôn Chỉ Hành Đạo xuất bản tháng 6 năm 1965)