Vì sao linh chi được coi như vị thuốc cải tử hoàn sinh

GIỚI THIỆU NẤM LINH CHI

Nấm linh chi có tên khoa học là Ganoderma lucidum, một loại nấm có nguồn gốc ở phương Đông (Hình 9.1), có lịch sử sử dụng lâu dài để tăng cường sức khỏe và tuổi thọ ở Trung Quốc, Nhật Bản và các nước châu Á khác. Nó là một cây nấm lớn, màusáng sẫm nâu với bề ngoài bóng và có kết cấu gỗ. Từ lucidus trong tiếng Latin có nghĩa là sáng bóng, hay sáng chói và đề cập đến sự xuất hiện đa dạng của bề mặt của nấm. Ở Trung Quốc, thảo dược nấm linh chi này được gọi là lingzhi, trong khi ở Nhật Bản, tên của nó được gọi là reishi hay mannentake.

Trong tiếng Trung, cái tên lingzhi đại diện cho sự kết hợp giữa tiềm năng tinh thần và bản chất của sự bất tử, và được coi là thảo dược của tiềm năng tinh thần, biểu tượng cho sự thành công, hạnh phúc, sức mạnh thần thánh và tuổi thọ. Trong số các loại nấm được trồng, thìnấm lính chi độc đáo ở đặc tính dược phẩm của nó chứ không phải giá trị dinh dưỡng là tối quan trọng. Một loạt các sản phẩm bột sinh khối nấm linh chi thương mại có sẵn ở nhiều dạng khác nhau, như bột, bổ sung chế độ ăn uống, và trà. Chúng được sản xuất từ các bộ phận khác nhau của nấm, bao gồm sợi nấm, bào tử và thân quả. Các ứng dụng cụ thể và các lợi ích sức khỏe được cho là của nấm linh chi bao gồm kiểm soát nồng độ glucose trong máu, điều chỉnh hệ thống miễn dịch, bảo vệ gan, kìm khuẩn, v.v. Các niềm tin khác nhau về lợi ích sức khỏe của nấm linh chi chủ yếu dựa trên bằng chứng giai thoại, sử dụng truyền thống và các công việc văn hóa. Tuy nhiên, các báo cáo gần đây cung cấp hỗ trợ khoa học cho một số tuyên bố cổ xưa về lợi ích sức khỏe của bột sinh khối nấm linh chi.

Lịch sử: Nấm linh chi được coi như một nền tảng của thuốc

Linh chi đã được công nhận là một loại nấm dược liệu trong hơn 2000 năm và tác dụng mạnh mẽ của nó đã được ghi nhận trong các kịch bản cổ (Wasser 2005). Sự phổ biến của hình ảnh nấm linh chi trong nghệ thuật bắt đầu vào năm 1400 sau Công nguyên và chúng được liên kết với Đạo giáo (McMeekin 2005). Tuy nhiên, hình ảnh nấm linh chi đã vượt ra ngoài tôn giáo và xuất hiện trong các bức tranh, chạm khắc, đồ nội thất và thậm chí cả phụ kiện của Phụ nữ (Wasser 2005). Cuốn sách đầu tiên hoàn toàn dành cho việc mô tả các loại thảo mộc và giá trị dược liệu của chúng là Shen Nong Ben Cao Jing, được viết trong triều đại Đông Hán của Trung Quốc (25-220 sau Công nguyên). Cuốn sách này còn được gọi là Cổ điển của Mater Medica, hay của Shen Shen-nong’s Herbal Classics. Đây là mô tả các chất thực vật, động vật học và khoáng chất, và được sáng tác vào thế kỷ thứ hai dưới bút danh Shen-nong (thánh nông dân phạm; Zhu, 1998). Cuốn sách, được liên tục cập nhật và mở rộng, mô tả các tác dụng có lợi của một số loại nấm có liên quan đến nấm dược liệu nano linh chi. Trong phần Bổ sung từ Cổ điển của Dược liệu (502-536 sau Công nguyên), được coi là dược điển đầu tiên ở Trung Quốc (1590 sau Công nguyên; triều đại nhà Minh), nấm linh chi được cho là có tác dụng chữa bệnh các đặc tính, chẳng hạn như hiệu ứng làm săn chắc da, tăng cường năng lượng sống, tăng cường chức năng tim, tăng trí nhớ và tác dụng chống lão hóa. Theo Dược điển Nhà nước Cộng hòa Nhân dân Trung Quốc (2000), bột sinh khối nấm linh chi có tác dụng bổ sung Qi, làm dịu tâm trí và giảm ho và hen suyễn, và nó được khuyên dùng cho chóng mặt, mất ngủ, đánh trống ngực và khó thở.

Linh chi hoang dã rất hiếm, và trong những năm trước khi nó được trồng, chỉ có giới quý tộc mới có thể mua được. Người ta tin rằng loại nấm linh thiêng này đã phát triển trong nhà của những người bất tử trên con đường ba lối đi của người Hồi giáo ngoài khơi bờ biển Trung Quốc (McMeekin 2005). Tuy nhiên, danh tiếng của nó như một liều thuốc chữa bách bệnh có thể đã kiếm được nhiều hơn nhờ vào sự phân phối không thường xuyên, hiếm có và được sử dụng bởi các thành viên giàu có và đặc quyền của xã hội Trung Quốc hơn là do tác dụng thực sự của nó. Tuy nhiên, các loài nấm linh chi tiếp tục là một loại thuốc truyền thống phổ biến ở châu Á và việc sử dụng chúng đang phát triển trên khắp thế giới.