Công năng dược lý hoàn hảo của thảo dược bình vôi

Tầm quan yếu và phân bố của loài cây bình vôi:

Là loài mang tên khoa học là Stephania thuộc (Menispermaceae) bao gồm khoảng 50 loài phân bố từ Châu Phi qua Châu Á tới Úc. Tầm quan trọng của chi trong y khoa cổ truyền ở châu Á và châu Phi đã đc ghi nhận cụ thể rõ ràng. Củ của loài cây dây leo này thường được đặc biệt bởi tác dụng dược lý hết sức mạnh mẽ.

Stephania abyssinica là 1 cây bình vôi leo bản địa ở miền nam và miền đông châu Phi. Lá của cây này được sử dụng khiến thuốc tẩy và giải độc, khi mà ấy rễ được dùng trong điều trị giun đũa, rong kinh và nhọt. Stephania bancroftii đc cùng đồng thổ dân Úc dùng như 1 cách thức điều trị ỉa chảy và làm cho thuốc độc cho cá.

Stephania cepharantha, một dòng cây bình vôi thời gian dài sở hữu nguyên nhân từ Trung Quốc đại lục đc biết đến sở hữu tên tiếng địa phương là be be-yan-zi, thường đượcsử dụng khiến dược chất dân gian. Thuốc sắc từ củ của bình vôi (Stephania cepharantha) theo truyền thống đc tiêu dùng ở Trung Quốc để điều trị một số bệnh bao gồm viêm tuyến có tai, loét dạ dày, giảm bạch cầu, rụng tóc và rụng tóc androgenetica. các hàm lượng chính của chiếc thuốc thô này, được gọi là những chế phẩm Cepharanthin, là những alcaloid bcdenzylisoquinoline (BBI) cepharanthine, isotetrandrine và cycleanine.

Stephania dinklagei là 1 mẫu cây bình vôi dạng bụi leo của các khu rừng rụng lá ở cả Đông và Tây Phi. Rễ và thân cây được sử dụng làm thuốc ở Ghana như 1 loài côn trùng, thuốc giảm đau, thuốc kích thích tình dục, thuốc an thần và để điều trị bệnh rong kinh. Lá của cây được sử dụng trong y học dân gian như một cách điều trị vô sinh ở đàn bà và bất lực ở nam giới. Thân cây cũng được dùng làm cho chất độc cho cá. Stephania errecta đã đc bào chế thành dược liệu cao bình vôi dùng trong y khoa dân gian Thái Lan như 1 thuốc giảm đau và thuốc giãn cơ xương.

Stephania rotunda là loài cây bình vôi mọc leo ở núi bản địa ở Ấn Độ và Đông Dương, nơi nó đã đc dùng như 1 mẫu thuốc dân gian để điều trị phổi, kiết lỵ, sốt, bệnh đau bụng (củ), hen suyễn (củ và thân), đau bụng, đau bụng kinh , khó tiêu, vết thương, đau đầu, đau ngực (lá) và bệnh phong (hoa). Stephania glabra là 1 loài mọc leo trên những núi có thân cây nhẵn nhụi đạt chiều dài lên đến 7 m. Nó được phân bố ở dãy Hy Mã Lạp Sơn, Assam và ở những ghats phía tây cho tới đồi Nilgiris và Tirunelveli, lên tới độ cao 2100 m. Củ của nó đạt kích thước lớn, một số trong số chúng sở hữu các con phố kính khoảng 23 cm và nặng đến 30 kg. Chúng với vị chát và hình như chúng được tiêu dùng, như củ của Stephania rotunda, trong điều trị bệnh lao phổi, hen suyễn và con đường ruột. Họ cây này cũng sở hữu hoạt động hạ các con phố huyết. Thornber coi Stephania glabra và Stephania rotunda là cùng 1 họ mọc leo ở núi.

Stephania hernandifolia là một chiếc cây bụi mảnh mai đc tậu thấy ở Ấn Độ trên bờ biển phía tây và phía đông, ở Cachar, Sikkim, Đông Bengal và Assam. Rễ được sử dụng trong điều trị sốt, đi tả, khó tiêu và những bệnh tiết niệu. một chiết xuất của Stephania japonica đã được sử dụng ở Trung Quốc như 1 cái thuốc chống nôn, thuốc chống sốt rét, thuốc chống động kinh, thuốc bổ, thuốc lợi tiểu và là phương thuốc chữa bệnh thổ tả. Stephania pierrii là cây có căn nguyên ở Thái Lan, cây mọc leo ở núi sở hữu thân cây cực kỳ mảnh mai, thân thảo có củ to và lá tròn. Củ được sử dụng trong y khoa dân gian như một chất khiến giãn cơ xương và cũng là 1 thuốc giảm đau và thuốc bổ dưới tên gọi là bua bok.

Cây Stephania suberosa là loài bình vôi thân nho có cội nguồn từ Thái Lan, thường được sử dụng để điều trị rộng rãi loại bệnh khác nhau dưới tên địa phương là bor boret pungchang Thay. Stephania sutchuenensis là người bản địa ở phía đông nam Trung Quốc, và rễ của nó được sử dụng trong y học dân gian để điều trị cảm lạnh bình thường, đau họng và đau khớp.

Stephania tetrandra là loài bình vôi mọc ở Trung Quốc. Rễ của dòng cây này là thành phần chính của y khoa cựu truyền Trung Quốc, fen-fan-ji, đã đc tiêu dùng làm thuốc giảm đau, lợi tiểu và dẫn đến nghiện trong hàng ngàn năm ở Trung Quốc. Stephania tetrandra đã được Báo cáo là với công dụng chống bạch huyết cầu và chống oxy hóa, và miêu tả năng suất trong các mô phỏng silic lâm sàng và thí điểm. Nó được biết là mang tính năng ức chế cung ứng interleukin-1 và nhân tố hoại tử khối u-a được tiết ra trong khoảng những tế bào đơn nhân của người. những tetrandrine alkaloid đã đc dùng như 1 chất chống nhiễm trùng và chống nâng cao áp huyết. Hơn nữa, tetrandrine và các dẫn xuất của nó đc Báo cáo để thúc đẩy vai trò não và đã được phát triển như một loại thuốc chống sốt rét và cũng là 1 chất kích thích cho sự tăng trưởng của tóc.

Thân rễ của loài cây bình vôi than nho Đông Nam Á Stephania venosa, được biết đến ở Thái Lan dưới tên gọi là sabu-le-ad-hay xà phòng máu do mủ đỏ, đôi khi được tiêu dùng như 1 chiếc thuốc bổ đắng.

Các nghiên cứu về alcaloid:

Các alcaloid thuộc chi bình vôi (Stephania) đã đc Novains nghiên cứu và coi xét, như là một phần của một bài viết về các alcaloid của họ thực vật Menispermaceae. Theo tác nhái, 45 ancaloit đã đc quyết đinh trong khoảng 9 loài bình vôi (Stephania). những alcaloid trong những loài Stephania đã đc những nhà nghiên cứu tại Novains coi xét thêm. những alcaloid ở S. Cepharantha, S. Glabra, S. Hernandifolia và S. Japonica đã đc nghiên cứu đa dạng hơn những mẫu khác. dựa vào thông báo rút ra từ tóm tắt hóa học, hơn 130 ancaloit mới đã được Con số trong công đoạn 1969 đến 1997. Bao gồm các hợp chất đã biết, tới bây giờ, khoảng 300 ancaloit đã được quyết đinh trong khoảng khoảng 40 loài Stephania. dựa trên những kết cấu và những nhóm chức, những alcaloid đc chỉ định cho một số hàng ngũ bao gồm benzylisoquinoline, bcdenzylisoquino-line (BBI), aporphin, proaporphine, oxoaporphine, morphine, protoberberine và hasubanane.

Dòng Kết luận cuối :

Chi bình vôi(Stephania) bao gồm khoảng 50 loài phân bố trong khoảng châu Phi qua châu Á tới Úc. Củ mọc ngầm của cây bình vôi họ nho hết sức quan yếu vì công năng dược phẩm mạnh mẽ của chúng.

Nuôi cấy rễ cây Stephania cepharantha đã đc thiết lập, dùng rễ phiêu lưu trong khoảng mô sẹo và rễ trong khoảng củ làm vật liệu ban sơ. Rễ nuôi cấy sản xuất ít ra năm alkaloid bcdenzylisoquinoline; homoaromoline, aromoline, isotetrandrine, berbamine và cycleanine. hàm lượng chính là aromoline và berbamine, và thành phần tương ứng của chúng đạt hơn 2 và 1% trong điều kiện nuôi cấy tuyệt vời để cung cấp alkaloid. những giá trị này lớn hơn phổ biến so mang trị giá trong nhà máy còn nguyên lành.

Các thử nghiệm với tyrosine, tyramine và dopamine mang nhãn 14C và tyrosine và tyramine dán nhãn 13C đã chứng minh rằng aromoline và berbamine bao gồm bốn phân tử tyrosine và hai công ty coclaurine với cộng một cội nguồn sinh vật học. Hơn nữa, các kết quả này cho thấy aromoline và berbamine với nguyên nhân từ một tiên sư charộng rãi berba-munine, và giai đoạn hydroxyl hóa tyramine tiến hành mau lẹ hơn thời kỳ oxy hóa của nó hoặc quá trình chuyển hóa tyrosine thành hợp chất benzyl keto tương ứng với sở hữu axit oc-keto tương ứng của nó. .