i

Trong thời gian thực hiện Đặc San Khoa Học Xuân năm Canh Tý 2020, Ban Biên tập nhận được một câu thách đối vui "CÂU ĐỐI BÁO XUÂN" của bạn Minh Hà, kính mời quý Thầy Cô cùng bạn hữu tham gia đối chơi cho vui những ngày Xuân.

Xin chép lại nguyên văn bức điện thư của bạn Minh Hà.

Năm mới, xin kính chúc Thầy Cô và chúc các bạn một Năm Mới an bình, nhiều sức khỏe và gặp được nhiều điều như ý.

Ngày xưa, H. nhớ một vài bác gốc miền bắc thường phát âm chữ “sửu” thành “xỉu”. Hôm nay xin cho mình mượn cách phát âm không đúng này để gửi đến các bạn một câu đối ngày Xuân.

Tý tỵ mùi hợi, tý tỵ mùi ngọ, thân “xỉu” dần dần.

Mời các bạn cùng đối lại nha.

Thân mến

Cho đến nay, Ban Biên Tập chúng tôi đã lần lượt một số câu đối lại của quý Thầy Cô cùng bạn hữu, xin chép lại lần lượt như sau:

Tý tỵ mùi hợi, tý tỵ mùi ngọ, thân “xỉu” dần dần

1-

Hình như bà Hồ Xuân Hương mà sống lại thì sẽ đối là

Anh đào bướm hồng, anh đào bướm vàng, mồng gà cúc cúc

(Thanh Bui)

2-

Vạn thọ, Trinh nữ, Mồng gà, Hoa Khế

Hoa hậu, Người mẫu, Chân dài, Chân ngắn

Trinh vẫn mất trinh

(Soan Nguyen - NTS)

3-

Mắm mặn hơi muối

Muối mặn hơi mắm

Mắm muối bốc hơi

(Soan Nguyen – NTS)

4-

Câu đối khó quá xin thử đối lại bằng tên các notes nhạc theo lối Pháp

đồ mi, mi fá, đồ mi, mi rê, "rề (rầy)" mi la "xí xọn" (xôn / sol)

do mi mi fa do mi mi ré ré mi la si sol

(Huu Chi Tran)

5-

Tiền lạc, lạc tiền

Lệ chi, chi lệ

Chi tiền lạc lệ

Ha ha hu hu

(Soan Nguyen – NTS)

6-

Nếu Minh Hà xin xí xái " sửu" thành" xỉu", thì M cũng xin gọi má theo giọng Huế: Mẫu thành Mậu.

Thân Tí mùi hợi,

Mậu thân dần Tí.

Tí nhâm canh gà.

Diễn nghĩa: Thằng Tí hôi như heo, mẹ đánh cho một trận. Sau khi tắm sạch sẽ, mẹ cho Tí nhâm (nhi) canh gà.

(Mo Lai)

7-

TLQuan

CÂU ĐỐI BÁO XUÂN

Chào bạn Minh Hà,

Cám ơn bạn gởi câu thách đối cho Đặc San Khoa học Xuan Canh Tý 2020 và mời quý Thầy Cô và các bạn đối chơi cho vui.​

Tý tỵ mùi hợi, tý tỵ mùi ngọ, thân “xỉu” dần dần.

Trước hết Quan xin ghi lại nghĩa câu thách đối theo sư suy diễn và hiểu biết của mình.

- Câu này dùng toàn tên các Địa Chi để ra vế đối

(Tý, Sửu, Dần, Mẹo, Thìn, Tỵ, Ngọ, Mùi, Thân, Dậu, Tuất, Hợi

- Dùng các tiếng đồng âm và biến âm để câu có nghĩa:

​ - Đồng âm:

Tý Tỵ - đồng âm "tí tị" có nghĩa một ít, một chút xíu, tí xíu,

Mùi - đồng âm "mùi": mùi vị, mùi huơng, mũi ngửi được​

Thân - đồng âm "Thân", Thân thể​

Dần - đồng âm "dần dần" có nghĩa từ từ, lần lần, ​

- Biến âm:​

Sửu - biến âm "xỉu" có nghĩa mệt quá xỉu, bất tỉnh

- Giữ nguyên từ, nhưng hiểu theo nghĩa khác:​

Hợi, Ngọ là tên hai địa chi, nhưng có thể hiểu là con heo và con ngựa (Heo biểu trưng cho chi Hợi, tiếng Hán Việt là "trư", cũng như Ngựa biểu trưng cho chi Ngọ, tiếng Hán Việt là "mã").​

- Có thể hiểu vế thách đối này có nghĩa như sau:

Một chút xíu (tí tị) mùi của heo (Hợi) và một chút xíu (tí tị) mùi của ngựa (Ngọ), làm cho ta (thân) từ từ / lần lần (dần dần) bị "xỉu" (Sửu).

--------------------------------

Cám ơn Thầy Chí, Thầy Soạn, chị Mơ tham gia gởi câu đối cho vui.

Xin cám ơn Thầy Soạn đã gợi ý dùng tên riêng của các bạn để đối.

Cám ơn bạn Minh Hà gởi câu thách đối cho Đặc San Khoa Học Xuân Canh Tý 2020 và mời quý Thầy Cô và các bạn đối chơi cho vui.​

Tý tỵ mùi hợi, tý tỵ mùi ngọ, thân “xỉu” dần dần.

TLQuan xin thử tạm đối chơi (3 câu)​

Dĩ nhiên thử tạm đối chơi, chơi chữ cho vui, chớ thực tế không ai nói các câu như các vế đối cả ..

TLQuan

1/ Dùng tên riên

- Tiền quan soạn chi?

- Tiền quan soạn mơ!

Cần xin tiếc tiếc ...

- Soạn mấy đồng tiền quan để làm chi vậy?

- Soạn mấy đồng tiền quan đó để mộng, chơi vậy thôi!

Mà hễ có ai cần, xin (Sinh) mấy đồng tiền quan đó, nếu cho thì cũng tiếc tiếc (Tiết), không muốn cho.

Hoặc Cần Sinh Lý có xin mấy đồng tiền quan đó, nếu cho Cần Sinh Lý thì cũng thấy tiếc tiếc!

"Xí xóa" đồng âm:

cần: ai có cần xin, hoặc Cần Sinh Lý

Xin = Sinh, tên anh Sinh

Tiếc = Tiết, tên anh Huỳnh Khánh Tiết chuyên gia sưu tầm đồ cổ, trong đó có nhiều đồng tiền quan xưa.

2/ Dùng Thiên Can để đối:

- Vế ra thách đối dùng các Địa Chi

(Tý, Sửu, Dần, Mẹo, Thìn, Tỵ, Ngọ, Mùi, Thân, Dậu, Tuất, Hợi)

- Thì Vế đối xin dùng Thiên Can

(Giáp, Ất, Bính, Đinh, Mậu, Kỷ, Canh, Tân, Nhâm, Quý)

Tý tỵ mùi hợi, tý tỵ mùi ngọ, thân “xỉu” dần dần.

Giáp tân mậu đinh, giáp tân mậu nhâm. Quý, canh kỹ kỹ !

​- Đồng âm, biến âm:​

Kỷ, một Thiên Can, biến âm “kỹ”, kỹ lưỡng, ..

- Giữ nguyên từ, nhưng hiểu theo nghĩa khác:​

Giáp: Đi giáp vòng hết

Tân: Bến sông, bờ sông, bờ biển, ...

mậu: không có, tiếng lóng, như ta hay nghe, nói "mậu lúi" - hổng có tiền!

đinh: tráng đinh, đinh phu = thanh niên trai tráng

nhâm: nhâm phụ, người đàn bà có thai

Quý: quý giá, đồ đạc quý giá

Canh: canh gác, canh chừng, canh giữ, ...

- Có thể hiểu vế đối này có nghĩa như sau:

Đi giáp vòng hết (Giáp) cái bến sông (Tân) mà chẳng thấy (Mậu) ai, chẳng thấy một thanh niên (Đinh) hay một bà bầu nào (Nhâm).

Nhưng đồ quý giá (Quý), phải canh chừng, canh giữ (Canh) cho kỹ kỹ (Kỷ)

(nhưng không có ai canh giữ hết!).

3/ Dùng Bát Quái để đối:

Thử dùng 8 quẻ Bát Quái: Càn, Khảm, Cấn, Chấn, Tốn, Ly, Khôn, Đoài.

Tý tỵ mùi hợi, tý tỵ mùi ngọ, thân “xỉu” dần dần.

Khôn, ly cấn chấn ; Khôn, ly cấn khảm. Đòi càng tốn tốn !

- Dùng các tiếng đồng âm và biến âm để câu có nghĩa:

​- Đồng âm, biến âm:​

Đoài: biến âm đòi, đòi hỏi, xin xỏ

Càn: biến âm càng - càng bị đòi thì càng tốn tiền, …

- Giữ nguyên từ, nhưng hiểu theo nghĩa khác:​

Khôn: khôn ngoan, khôn khéo, ...

Ly: xa lìa, rời bỏ, không dính dáng, …

Cấn: cộm, lấn cấn, vướng víu

Chấn: như chấn động, rung động, sợ hãi, ...

Khảm: cẩn vô, như đồ khảm xà cừ, khảm vàng bạc, ... ; khó khăn trắc trở, ... ; tấm thảm

Tốn: Tốn tiền, hao tốn, ...

- Có thể hiểu vế đối có nghĩa như sau:

Nếu khôn khéo (Khôn) thì xa lìa, lìa bỏ, đừng có dính dáng gì đến (Ly) …, đừng có lấn cấn (Cấn) mấy điều làm ta sợ hãi (Chấn), khó khăn trắc trở (Khảm), ...(tại vì bị đòi quá cho nên làm ta sợ và cảm thấy khó khăn), vì bị đòi (mua đồ), càng (Càn) bị đòi (Đoài) thì càng bị tốn tiền (Tốn)!

8-

Xin cúi đầu bái phục Tiền Lạc Quan với ba câu đối thật là khá chuẩn và thú vị. Tôi cũng xin được đóng góp câu đối của mình cho thêm phần rôm rả báo tết nhé.

Vì là Tết sắp đến rồi nên khi đi vào chợ Bến Thành nghe có người chỉ trỏ gian hàng trái cây, bánh mứt, bông hoa mà nói rằng:

Bơ Tết, xê-ri, bơ Tết, mơ xưa (cũ), me, lê, bông, bông.

Té ra hổng phải người ta nói chuyện về trái cây bông hoa gì hết, mà là một anh chàng Việt Nam đang nói chuyện với người yêu và một ông Tây cạnh đó về chuyện kẹo kiếc gì đó như sau:

Peut être... chérie, peut être ... monsieur. Mais les bonbons ...

Tạm dịch như sau:

Có thể là vậy đó cưng, có thể là vậy thưa ông. Nhưng mà những viên kẹo thì....

Xin chúc quý thầy cô và thân hữu đại học khoa học một mùa xuân canh Tý thật vui và an lành.

(Tâm Cao)

Tý tỵ mùi hợi, tý tỵ mùi ngọ, thân “xỉu” dần dần.

Bơ Tết, xê-ri, bơ Tết, mơ xưa (cũ), me, lê, bông, bông.

Peut être... chérie, peut être ... monsieur. Mais les bonbons...

Bạn Minh Hà cám ơn:

Em thật vui và cảm ơn thầy Chí, thầy Soạn và các bạn đã đối lại câu đối của em. Thật là hay, súc tích và nhiều màu sắc.

Em không khỏi khâm phục vì những nốt nhạc của thầy Chí, haha cười vì “Tiền lạc Lệ Chi” của thầy Soạn. Các câu đối của anh Thanh, chị Mơ và anh Tâm đều lạ và rất hay. Và rất cảm phục tài văn chương của anh Tiền Lạc Quan. (Tên anh Quan lạ quá ha. Vậy “đối” lại có phải là “nghèo bi quan” không ha?).

Chỉ còn hai tuần nữa là đến Tết rồi, em xin kính chúc Thầy Cô và các bạn một năm mới an bình, khỏe mạnh, hạnh phúc và may mắn.

Thân kính

Minh Hà

Minh Hà ơi. Tiền Lạc Quan có nick name là "Hậu Bi Đát" lúc còn đi học. Chi thường gọi là Tiền Loạng Quạng.

Chi cám ơn Minh Hà đã ra câu đối ... khó cho mọi người "ra tay". Từ trước đến giờ Chi đâu biết anh Tâm cũng giỏi chữ nghĩa đâu.

Cheers,

LêChi

Petro Nguyen có lời bình luận về câu thách đối:

Đâu là sự thật trong câu đối của Cô Minh Hà trong groupe Khoa Hoc DAI HOC SAIGON

Đâu là sự thật trong câu thách đối của Minh Hà?

Khi tôi đọc lời nói đầu của Minh Hà để đưa ra câu đối là tôi hiểu ngay cái ẩn ý của tác giả. Vì tôi là người miền Nam nên thường phát âm sai. Ngay cả đứa cháu nội tôi mới có 4 tuổi cũng nói “Ông nội nói sai rồi: Huy chứ không phải UY.”

Tôi thấy ngay cái ẩn ý của tác giả khi ra câu đối là không phải chỉ hiểu “Sỉu” là lỗi phát âm sai của “Sửu” của người miền Bắc, mà phải hiểu là “Xỉu” phát âm của người miền Nam không phân biệt S hay X. Từ “Sỉu” thành “Xỉu” (tức là say rượu). Vì tôi chợt nhớ đến Thầy CN, là người rất sành rượu Tây, ngày xuân, ngày Tết thì phải uống rượu, phải nhăm nhi chút đỉnh chứ ... rồi thì có thể không “Xỉu” (nếu tửu lượng cao) …

Phép Đối của người Việt Nam rất phức tạp, không những đối theo Âm (Bình Trắc), mà còn phải đối theo Ý Nghĩa nữa, ...

Lỗi chính tả (như câu ĐÁP của Ông nội tôi, do Ba tôi kể lại):

Câu Đối: Thầy Long nói chuyện ròng ròng (Long = Rồng, chữ rồng “Ô” có dấu mũ).

Câu Đáp: Thợ Hổ đi giày cộp cộp (Hổ = cọp, chữ “cọp”, O không có dấu mũ).

Lại còn phải đối theo văn phạm nữa: danh từ theo danh từ, động từ theo động từ, …), và lại còn đối theo Ý nữa như câu đối dưới đây do Ba tôi kể lại:

“Ra cửa Đông Nam, Tây Bắc lại.”

Tác giả ra câu đối lấy 4 phương Đông, Tây, Nam, Bắc (danh từ), nhưng phải hiểu ý tác giả muốn ra câu đối với ý nghĩa như sau: Ra cửa Đông Nam, bị thằng Tây bắt lại (“Bắc” là phương hướng, là danh từ, Tây bắt lại, “bắt” là động từ).

Thành ra câu đáp đúng phải có lỗi trật chánh tả này nữa, tôi muốn biết được câu đáp của Minh Hà đã cho câu đối này, bởi vì tôi nhận thấy câu đối của Minh Hà quá siêu đẳng khó mà có câu Đáp có thể chấp nhận được.

Trở lại câu thách đối của Minh Hà, không phải đơn thuần là 12 con giáp (Tý, Sửu, ...), mà còn phải đối Ý, lỗi chính tả, văn phạm nữa, và từ đó tôi nghĩ đến câu đối của Minh Hà có ẩn ý như sau: nhăm nhi chút đỉnh (tý tỵ ) cái gì có mùi heo (mùi hợi), ... và rồi xỉu dần dần.

Có một số lời bình luận về câu đối (không chép lai hết tất cả):

Đề nghị mọi người cứ “đáp” câu đối của Mình Hà theo lối bình dân. Chứ bây giờ mà “chiết tự” theo kiểu: tượng ý tượng thanh, bằng bằng trắc trắc như ngày xưa Thầy Việt Văn dạy, coi bộ khó quá.

Đó là thiển ý của bà già U 70.

Rời KHSG gần 45 năm, học câu đối (lớp 8) hơn nửa thế kỷ, còn nhớ “Can Chi” của Tiền Lạc Quan (nhắc) là may lắm rồi.

PS: Đối đi các bạn cho mùa Xuân thêm rôm rả

CAN CHI TIỀN LẠC HẬU SAI

SOẠN CHI BẰNG TRẮC TƯỢNG THANH TƯỢNG HÌNH.

MIỄN VUI LÀ ĐƯỢC THÔI MÀ.

NẾU MÀ KHÓ QUÁ XIN ĐÀNH RÚT LUI.

(Mo Lai)

Có bạn thấy vui quá muốn tham gia nhưng không biết Phép đối làm sao nên hỏi Lệ Chi và nhờ Quan giải đáp.

Hi Quan,

Mấy hôm nay thấy các bạn đối vui quá. Có chị cũng muốn tham gia và hỏi Chi về phép đối. Thật tình Chi chịu thua.

Nhân tiện nhờ Quan giúp dùm. Cám ơn Quan.

LeChi

TLQuan xin mạo muội trả lời:

CÂU ĐỐI BÁO XUÂN

Kính chào Petro Nguyen, bạn Minh Hà, anh Tâm, Lệ Chi, BBT, quý Thầy Cô cùng các bạn,

Hổm rày nhận được nhiều emails của quý Thầy Cô, cùng nhiều bạn hữu gởi câu đối, cũng như góp ý, bàn luận sôi nổi về câu đối của bạn Minh Hà. Rất là vui, quý Thầy Cô, bạn hữu từ khắp nơi kết nối lại tình Thầy trò, bạn hữu trong những ngày cuối năm.

Cũng xin cám ơn Petro Nguyen đã có lời khen ngợi TLQuan.

Như Petro Nguyen nhắc, có lẽ TLQuan cũng đã được hầu chuyện cùng Petro Nguyen nhân kỳ Hội Ngộ Paris năm 2012. Lâu quá không có liên lạc, nên TLQuan cũng không nhớ rõ lắm. Xin cáo lỗi và xin Petro Nguyen thông cảm.

Cũng xin cáo lỗi cùng Petro Nguyen và Lệ Chi về sự chậm trễ trong việc trả lời email về đề tài câu đối này.

Cũng như Petro Nguyen đã email bàn về câu đối và Lê Chi cũng hỏi, muốn biết thêm về làm câu đối, phép đối thế nào, TLQuan cũng xin được mạo muội viết ít lời, biết được bao nhiêu thì chép lại bấy nhiêu, có điều chi sai sót kính xin quý Thầy Cô cùng các bạn chỉ giáo cho.

Thật ra muốn viết về Câu Đối cho đầy đủ thì phải cả một bài viết riêng, có khi cả một quyển sách!

Câu Đối là một nét Văn Hóa đặc sắc (và cả nghệ thuật nữa) của người Việt Nam và của những dân tộc Á Đông như Trung Hoa, và có lẽ Nhật Bản, Triều Tiên (Đại Hàn) nữa?

Như chúng ta đã biết và đã từng thấy Câu Đối ở khắp nơi trên đất nước, trên những cột ở hầu hết các đền thờ, đình miếu, chùa chiền, ... và ngay cả ở tư gia, ở những căn nhà xưa cổ kính (và ngây cả bây giờ, ở những nhà "đại gia" mới nữa). Đâ số những câu đối này đều bằng chữ Nho (Hán tự), có khi bằng chữ Nôm nữa!

Cổng Trường Petrus Trương Vĩnh Ký trước 1975 cũng có hai câu đối hai bên, bằng chữ Nho.

Năm 1951, Thầy Ưng Thiều, Giáo Sư Hán văn, đặt hai câu đối để chỉ rõ đạo đức học tập và trí dục cho học sinh, được Ông Hiệu Trưởng Phạm Văn Còn chọn khắc trước cổng trường như sau:

孔孟綱常湏刻骨

西歐科學要銘心

Khổng Mạnh cương thường tu khắc cốt

Tây Âu khoa học yếu minh tâm

Sau 1975, đổi tên Trường là Lê Hồng Phong, họ đã đục bỏ hai câu đối trước cổng Trường thật là uổng hết sức! Họ không biết Tôn Sư Trọng Đạo, họ không tôn trọng Đạo Đức, Học Vấn, Văn Hóa, và bảo tồn Văn Hóa và bảo tồn gì cả!

(Xin kèm hình bìa Đặc San Petrus Ký số 8 có hình cổng Trường trước 1975 có hai câu đối này).

Khi xưa người ta thuờng làm câu đối trong những dịp quan hôn tang tế: tặng câu đối để mừng sinh nhật, mừng thọ 40 tuổi, 50, 60, 70, 80 tuổi, v.v... mừng đựơc thăng quan tiến chức, đám cưới đám hỏi, v.v... hoặc đi phúng diếu tang lễ, ... hoặc để “thử tài” văn chương chữ nghĩa, ứng đáp nhanh, v.v...

Trong phép làm thơ việt Nam, cũng dùng câu đối nữa:

1/ Trong một bài Hát Nói (hay còn gọi là Hát Ả Đào hay Ca Trù), Câu 5 và câu 6 bắt buộc phải là hai câu đối. Có thể tự làm hoặc thuờng lấy từ những bài thơ khác. Thường hai câu đối này bằng chữ Nho (viết Hán tự Chinese Characters và âm tiếng Hán Việt). Hai câu đối này thuờng là đề tài chính (Topic sentences) của bài Ca trù, từ đó mới khai triển ý …

2/ Trong một bài thơ Đường Luật, Bát cú (8 câu), có thể thất ngôn (7 chữ) hay ngũ ngôn (5 chữ), hai câu Thực (câu 3 và 4) và hai câu Luận (câu 5 và câu 6) phải là hai cặp câu đối

3/ Câu đối cũng được dùng nhiều trong nhiều thể văn khác như Văn Tế và Phú ...

Trong các thể văn này, nhất là Phú, không những có những cặp hai câu đối nhau, mà nhiều khi, hai đoạn trong cùng một câu cũng đối nhau.

Như tiếng Anh gọi Câu đối là “Paralleles”, một câu đối gồm 2 vế là hai câu song với nhau: vế 1 (vế ra hoặc vế thách đối) và vế 2, gọi là vế đối (nếu chỉ có 1 vế mà gọi là “câu đối” thì không chính xác).

Như trong Câu đối Tết:

Thịt mỡ, dưa hành, câu đối đỏ

Cây nêu, tràng pháo, bánh chưng xanh

“Câu đối đỏ” ý nói câu đối có đủ hai vế.

Trong câu đối, hai vế đối song đôi với nhau thế nào để được cân xứng nhau về từ ngữ, thanh âm, cấu trúc câu, ngữ pháp và ý nghĩa.

1/ Đối ý: hai ý tưởng cân xứng nhau

2/ Đối từ ngữ, loại từ:

- danh từ đối với danh từ

- động từ đối với động từ

- tính từ đối với tính từ

- trạng từ đối với trạng từ

- v.v...

- Lại nữa, về loại từ, trong tiếng Việt phải xét đến các từ ngữ Hán Việt và các từ ngữ tiếng Nôm.

Vế đối ra dùng tiếng Hán Việt thì vế đối cũng phải dùng tiếng Hán Việt, vế ra dùng tiếng Nôm thì vế đối cũng phải dùng tiếng Nôm.

- Lại còn tiếng lóng nữa (slang, argot), vế ra dùng tiếng lóng, vế đối cũng phải dùng tiếng lóng.

3/ Đối về cấu trúc câu, ngữ pháp (Grammar, Grammaire)

- Chủ ngữ đối với chủ ngữ (subject of a verb, sujet du verbe)

- Bổ ngữ đối với bổ ngữ (object of a verb, complément d'objet)

- Thể Chủ động đối với thể Chủ động (active voice, voix active)

- Thể Bị động đối với thể Bị động (passive voice, voix passive)

- v.v...

4/ Đối Thanh

Trong tiếng Việt, thanh âm rất quan trọng. Các câu nói, câu thơ, câu hát đưa em, hát ru, dân ca, đồng dao, v.v... có nghe hay hoặc không hay là nhờ vào thanh âm phong phú lên bổng xuống trầm của tiếng Việt.

Về thanh âm, tiếng Việt có 6 thanh âm chính gồm 2 thanh bằng, 4 thanh trắc và 2 thanh âm phụ gọi là thanh nhập, cùng 3 bậc âm thanh chính gồm bậc bổng, bậc trung (ngang) và bậc trầm, gồm trầm thượng và trầm hạ.

Trong phạm vi bài này chỉ xin nói sơ về 2 Thanh Bằng Trắc.

Thanh Bằng: những chữ không dấu và những chữ có dấu huyền

Thanh Trắc: những chữ có dấu sắc, dấu hỏi, dấu ngã và dấu nặng

Trong phép đối,

Hễ vế trên ra những chữ Thanh Trắc thì vế đối, đối lại phải dùng những chữ Thanh Bằng ; và ngược lại, vế trên ra Thanh Bằng, vế đối phải dùng những chữ Thanh Trắc.

Nhất là chữ cuối của hai vế và những chữ ở những chỗ ngắt câu.

Để hiểu rõ về các phép đối như trên, xin phân tích hai câu Luận (câu 5 và câu 6) đối nhau rất chỉnh trong bài "Qua Đèo Ngang" của Bà Huyện Thanh Quan.

Nhớ nước đau lòng con quốc

Thương nhà mỏi miệng cái gia

1/ Về ý, tình cảnh và tâm trạng như nhau trong hai câu: “Nhớ nước”, “Thương nhà”.

2/ Về loại từ và văn phạm, cấu trúc câu:

- “Thương nhà” đối với “nhớ nước”

- “mỏi miệng” đối với “đau long” (tả tâm trạng, cảm giác)

- “cái gia” tức con chim đa, danh từ đối với “con quốc” là chim quốc, danh từ, loài chim đối với loài chim

- hai chữ “quốc” lặp lại, cũng phải đối bằng hai chữ lặp lại “gia”

- Về tiếng Hán Việt và tiếng Nôm,

“gia” 家 là tiếng Hán việt tương ứng với tiếng Nôm “nhà” - “gia” 家nghĩa là “nhà” đối chỉnh với “quốc” 國(国) là tiếng Hán Việt tương ứng với tiếng Nôm “nước” – “quốc” 國(国) nghĩa là “nước” (đất nước, không phải là nước uống - water).

Để nói rõ hơn về phép đối, TLQuan xin chép lại một đoạn phân tích một câu đối trong đó có đối các chữ nói lái (những chữ tô đậm):

Chợ Thủ Đức năm canh thức đủ

Bến Đồng Tranh sáu khắc đành trông

Chợ Thủ Đức năm canh thức đủ.

t t t b b t t

Bến Đồng Tranh sáu khắc đành trông.

t b b t t b b

(t : trắc ; b : bằng)

Câu đối này hay, vì:

1- Âm thanh đối nhau:

Chợ (hạ thanh), đối với Bến (thượng thanh)

Thủ Đức (trắc), đối với Đồng Tranh (bằng)

Năm canh (bằng), đối với sáu khắc (trắc)

Thức đủ (trắc), đối với đành trông (bằng)

Tiếng trên thuộc hạ thanh thì tiếng dưới thuộc thượng thanh.

Tiếng trên trắc thì tiếng dưới phải bằng và ngược lại.

2- Loại từ phải đối nhau:

Danh từ đối danh từ: trên chợ thì dưới bến

Địa danh đối địa danh: Thủ Đức // Đồng Tranh

Số từ đối số từ: năm canh // sáu khắc

Động từ đối động từ: thức // trông

(//: đối, đối với)

3- Tiếng lái đối tiếng lái:

Thủ Đức // thức đủ

Đồng Tranh // đành trông

(//: đối, đối với)

(Trích Tìm hiểu tiếng Việt, chữ Việt của chúng ta, tác giả Tiền Vĩnh Lạc, Nhà Xuất Bản Tiền Lê, 2017)

Xin xem thêm những phân tích vế các câu đối ghi lại sau đây (câu của Petro Nguyen và các vế đối lại câu của bạn Minh Hà).

Lại một rắc rối nữa:

- Người ra câu thách đối dùng các chữ trong một “bộ đề tài” (TLQuan không biết dùng chữ gì cho đúng?) thì khi đối lại để đối lại cũng phải dùng các chữ trong một “bộ đề tài” khác để đặt vế đối.

Thí dụ như câu thách đối của bạn Minh Hà, dùng những chữ trong 12 Địa Chi (12 con Giáp)

Tý tỵ mùi hợi, tý tỵ mùi ngọ, thân “xỉu” dần

Cũng như trong bài email của Petro Nguyen, có nhắc đến câu thách đối thân phụ của Petro Nguyen kể lại:

Ra cửa Đông Nam, Tây Bắc lại

Người ra câu đối dùng những chữ trong "bộ đề tài" phương hướng: Đông, Tây, Nam, Bắc.

Để đối lại, phải dùng những chữ trong một "bộ đề tài" khác.

Thí dụ TLQuan xin dùng đề tài "Cầm Kỳ Thi Tửu" để thử đối

Ra cửa Đông Nam, Tây Bắc lại

Vào bàn Thi Tửu, Kỳ Cầm theo

* Phân tích 2 Vế đối này:

Như Petro Nguyen đã phân tích,

1/ Đối từ ngữ, loại từ:

1.1.

- Vế ra dùng Đông Tây Nam Bắc chỉ phương hướng, đều là danh từ

- Vế đối phải dùng những chữ cùng một đề tài khác, cùng đều là danh từ

Cầm Kỳ Thi Tửu (đề tài những thú vui chơi: Đàn, Đánh cờ, Làm thơ, thưởng thức rượu ngon - Có khi người ta dùng Họa, Hội Họa, thay vì Tửu, nhậu xỉn xỉn!)

- Lại nữa, về loại từ, trong tiếng Việt phải xét đến các từ ngữ Hán Việt và các từ ngữ tiếng Nôm.

Vế đối ra dùng tiếng Hán Việt thì vế đối cũng phải dùng tiếng Hán Việt, vế ra dùng tiếng Nôm thì vế đối cũng phải dùng tiếng Nôm.

Vế ra, những chữ về phương hướng đều là tiếng Hán Việt

Vế đối, những chữ Cầm Kỳ Thi Tửu cũng đều là tiếng Hán Việt

1.2.

“Ra cửa” đối với “Vào bàn”

- “ra” là động từ đối với “vào” cũng là động từ, “ra”, “vào” đều là tiếng Nôm

- “cửa” đối với “bàn”, đều là danh từ và đều là tiếng Nôm.

2/ Đối Thanh:

“Ra cửa” – (X) Trắc đối với “Vào bàn” – (X) Bằng

“Đông Nam” – Bằng đối với “Thi Tửu” – Trắc Trắc

“Tây Bắc lại” – (X) Trắc Trắc đối với “Kỳ Cầm theo” – (X) Bằng Bằng

(X): những chữ này không cần phải đối Thanh

3/ Đối ý:

Ra cửa Đông Nam, Tây Bắc lại

Khi đi ra cửa Đông Nam, thì bị lính Tây bắt lại

Vào bàn Thi Tửu, Kỳ Cầm theo

Khi vào bàn “nhậu”, uống rươu ngâm thơ, thì cũng cầm theo bàn cờ tướng (Kỳ).

(Nhưng nếu bắt bẻ về ý thì hoàn cảnh tả trong hai vế không có liên quan gì với nhau hết!)

4/

Nếu xét 3 tiêu chuẩn trên thì vế đối này khá chỉnh.

Nhưng nếu xét về chính tả và văn phạm thì vế đối này chưa được chỉnh, vì những điểm sau:

1. Cách dùng từ ngữ

“Tây” đối với “Kỳ”

Dùng từ đồng âm khác nghĩa:

- chữ “Tây” chỉ phương hướng, dùng để chỉ người Pháp, lính Pháp

- vế đối không dùng từ đồng âm khác nghĩa, chữ “Kỳ” nghĩa là bàn cờ tướng.

2. Dùng chữ đồng âm nhưng sai chính tả:

- chữ “Bắc” chỉ phương hướng, dùng là động từ “bắt”, phải đổi cách viết “bắt

- vế đối, dùng chữ “cầm” là động từ, đúng chính tả, không cần đổi cách viết

3. Về cấu trúc câu (văn phạm):

- Vế ra “Tây bắt lại”

“Tây” là chủ ngữ (subject, sujet) của động từ “bắt” - “Tây bắt người đi ra cửa Đông Nam

- Vế đối “Kỳ cầm theo”

“Kỳ” là bổ ngữ trực tiếp của động từ “cầm” (subject, complément d'objet direct) - Người đi vào bàn nhậu cầm theo bàn cờ tướng (Kỳ)

Trở lại câu đối của bạn Minh Hà

Chào bạn Minh Hà,

Cám ơn bạn gởi câu thách đối cho Đặc San Khoa học Xuan Canh Tý 2020 và mời quý Thầy Cô và các bạn đối chơi cho vui.​

Tý tỵ mùi hợi, tý tỵ mùi ngọ, thân “xỉu” dần dần.

Trước hết Quan xin ghi lại nghĩa câu thách đối theo sư suy diễn và hiểu biết của mình.

- Câu này dùng toàn tên các Địa Chi để ra vế đối

(Tý, Sửu, Dần, Mẹo, Thìn, Tỵ, Ngọ, Mùi, Thân, Dậu, Tuất, Hợi)

- Dùng các tiếng đồng âm và biến âm để câu có nghĩa:

​ - Đồng âm:​

Tý Tỵ - đồng âm “tí tị” có nghĩa một ít, một chút xíu, tí xíu,

Mùi - đồng âm “mùi”: mùi vị, mùi huơng, mũi ngửi được​

Thân - đồng âm “Thân”, Thân thể​

Dần - đồng âm “dần” có nghĩa từ, lần lần, ​

- Biến âm:​

Sửu - biến âm “xỉu” có nghĩa mệt quá xỉu, bất tỉnh​

- Giữ nguyên từ, nhưng hiểu theo nghĩa khác:​

Hợi, Ngọ là tên hai Địa Chi, nhưng có thể hiểu là con heo và con ngựa (Heo biểu trưng cho chi Hợi, tiếng Hán Việt là “trư”, cũng như Ngựa biểu trưng cho chi Ngọ, tiếng Hán Việt là “mã”).​

- Có thể hiểu vế thách đối này có nghĩa như sau:

Một chút xíu (tí tị) mùi của heo (Hợi) và một chút xíu (tí tị) mùi của ngựa (Ngọ), làm cho ta (thân) từ từ / lần lần (dần dần) bị "xỉu" (Sửu).

Vế thách đối, Minh Hà dùng các từ ngữ trong “bộ đề tài” Địa Chi, thì để đối, Thầy Chí dùng đề tài các nốt nhạc, TLQuan dùng Thiên Can và Bát Quái. Thầy Soạn dùng tên riêng.

Nhưng để đối cho thật chỉnh thì ... Khó lắm!

TLQuan cũng bắt chước dùng tên riêng, nhưng khó mà đối chỉnh lắm:

Ban đầu định viết “Tiền quan soạn chơi”, vì có ông bác bạn của Ba tên thật là Chơi, hay chơi chữ, người ta hỏi “Anh chơi đi đâu đó?” - Trả lời “Anh Chơi đi chơi ...”.

Nhưng hình như không có tên “Chơi” trong Nhóm Khoa Học, nên tạm dùng tên “Mơ”.

Tý tỵ mùi hợi, tý tỵ mùi ngọ, thân “xỉu” dần.

- Tiền quan soạn chi?

- Tiền quan soạn chơi!

Cần xin tiếc tiếc ...

- Soạn mấy đồng tiền quan để làm chi vậy?

- Soạn mấy đồng tiền quan đó để chơi vậy thôi!

Mà hễ có ai cần, xin (Sinh) mấy đồng tiền quan đó, nếu cho thì cũng tiếc (Tiết), không muốn cho.

Hoặc Cần Sinh Lý có xin mấy đồng tiền quan đó, nếu cho Cần Sinh Lý thì cũng thấy tiếc!

* Về hình thức thì vế đối này cũng tạm chỉnh, xét về đối Thanh thì cũng khá chỉnh:

- “Tiền quan” (Bằng) đối với “Tý Tỵ” (Trắc)

- “soạn” (Trắc) đối với “mùi” (Bằng)

- “chi”, “chơi” (Bằng) đối với “Hợi”, “Ngọ” (Thanh Trắc)

Nhưng nếu phân tích kỹ thì chỉ để ... chơi vậy thôi!

* Về đối ý thì ý vế đối không "dính dáng" gì với ý của vế ra.

* Về loại từ:

- “Tiền quan” là danh từ, không đối với “Tý Tỵ” là trạng từ được

- “soạn” là động từ không đối được với danh từ “mùi”

- cũng như “chi” và “chơi” không đối được với “Hợi” và “Ngọ”.

Chỉ có 3 chữ cuối tạm đối chỉnh:

- “Cần” (nếu là tên riêng) danh từ riêng tạm đối chỉnh với “Thân” là danh từ chung

- “xin” (biến âm chính tả của “Sinh”), động từ, Thanh Bằng, đối khá chỉnh với “xỉu” (Biến âm chính tả của “Sửu”), động từ, Thanh Trắc

- “tiếc tiếc” đối chỉnh về Thanh: Thanh Trắc đối với “dần dần”, Thanh Bằng

Nhưng lại không đối chỉnh về từ ngữ, phải viết lại chính tả tên riêng “Tiết”, trong khi chữ “Dần” ở trên không cần viết lại về chính tả.

* Về câu tiếng Pháp của anh Tâm.

Câu này ngộ nghĩnh vì là tiếng Pháp, có những từ ngữ đồng âm hay phát âm tương tự như tiếng Việt.

Bơ Tết, xê-ri, bơ Tết, mơ xưa (cũ), me, lê, bông, bông.

Peut être ... chérie, peut être ... monsieur. Mais les bonbons...

Nhưng để đối với câu của Bạn Minh Hà thì “chịu”! Tuy cấu trúc câu cũng tương tự. Xin chỉ phân tích 4 chữ cuối, vế này không theo đúng phép đối.

1/ Đối Thanh:

Vế ra của Minh Hà Thanh Bằng (dần dần), vế đối lại cũng Thanh Bằng (bonbon - Bông Bông)

2/ Loại từ:

- Vế ra: Thân: danh từ, “xỉu”: động từ, dần dần: trạng từ

- Vế đối: mais: trợ từ (conjunction), le: giới từ (article), bonbon: danh từ

Nếu áp dụng đúng phép đối, hai chữ cuối “dần dần” là trạng từ có nghĩa là từ từ, lần lần, thuộc Thanh Bằng thì phải đối lại là “lẹ lẹ”, trạng từ thuộc Thanh Trắc.

Anh Tâm có câu đối tiếng Pháp, vậy TLQuan xin tạm dùng câu tiếng Anh:

Tý tỵ mùi hợi, tý tỵ mùi ngọ, thân “xỉu” dần.

Pick one cream cheese, pick one cream milk! Check out quick quick!

Đọc tiếng Việt nghe như có một số tên riêng:

Bích Oanh Khiêm Chi, Bích Oanh Khiêm Miêu. Chách ao quít.

Câu này TLQuan mới nghĩ ra viết chơi cho vui chớ nếu đối với Câu của Minh Hà thì không chỉnh về Ý và từ loại.

Chỉ có 2 chữ cuối là đối chỉnh thôi!

“dần” đối với “quick” là nhanh nhanh, lẹ lẹ - trang từ Thanh Trắc, đối với trạng từ Thanh Bằng, đối ý: chậm chậm đối lại nhanh nhanh.

Tóm lại, như Petro Nguyen đã nhận xét, câu thách đối của bạn Minh Hà quả là “siêu đẳng” khó mà đối cho thật chỉnh được.

Nhưng tham gia đóng góp câu đối cũng hay và vui, chủ yếu là Vui thôi! Vui cùng Thầy Cô, các bạn trong những ngày cuối năm xa xứ.

Xin chúc quý Thầy Cô, các bạn cố gắng nghĩ ra những câu để đối lại cho chỉnh hơn.

Cám ơn quý Thầy Cô và các bạn.

TLQuan

Petro Nguyen có thắc mắc:

Tôi cho Quan câu Đối ấy lại như sau: như nếu ngày xưa người ta viết “man” không có g, tôi nghĩ có lẽ cái đèo ở miền trung có cái tên là Tượng Mã và một cái tên nữa là Hổ Man có trên Bản Đồ trước năm 1960?

Ra cửa Đông Nam, Tây Bắc lại

Xuống Đèo Tượng Mã, Hổ Man đi

Thành ra nếu viết sai chính tả thì “mang đi” là động từ kép đối lại được với “bắt lại” (động từ kép) có đúng không?

Cái hay nữa là đia danh đó có thật.

Quan có biết địa danh Đồng Tranh (Đối lai với Thủ Đức)có trên bản đồ không? Hình như nó ở bên kia dòng sông Vàm Cỏ Đông.

Tôi có quan niệm xem những người sinh viên của tôi ngày xưa là người đàn em theo sau tôi trên đường học vấn mà thôi. Do đó Quan có thể publier câu đối này

Tôi sắp rời nhà để đi dự Lễ Ba vua để ăn cái bánh Galette des Rois (theo truyền thống catholique đây!

Bonne journée

Petro Nguyen

Thấy cần góp ý với Quan Trong câu đoi Chợ Thủ Đức (tr, tr ,tr)

Bến Đồng Tranh (tr, b, b)

như vậy có cái sai rồi (Mấy thơ trước viết cho Quan, tôi chỉ liếc mắt qua bài viết của Quan thôi nên không thấy điêm sai này).

Như vậy câu đối

Trai Thủ Đức năm canh thức đủ

Gái Đồng Tranh sáu khắc đành trông

là đúng nhất.

Trước đó Ông Trần văn Hương có đối lại là:

Kẻ cơ thần trở lại cần thơ

Như vậy chỉ chú ý cách nói lái và sai nhiều chỗ lắm như danh từ riêng, danh từ đối với động từ ...

Còn bài thơ Đường luật của Bà Huyện Thanh Quan hay là vì đúng niêm, đúng luật, và 2 câu trạng và luân lại đối hoàn hảo (điều này không bắt buộc lắm đâu)

Có lẽ chúng ta không có đủ trang để bàn về thơ Đường đâu.

Tôi không biết tôi có làm Quan khó chịu không, nếu có thì bỏ qua cho nhé.

Thân

Bonne soirée

Petro Nguyen

Hi Petro,

Cám ơn Petro Nguyen viết thêm nhiều góp ý lượm lặt, khá hay. ​

Dĩ nhiên là TLQuan không có “khó chịu” chi đâu.

Trao đổi những hiểu biết về văn chương, khoa học là một điều thú vị. Đương nhiên là không ai có thể hiểu biết tất cả mọi chuyện trong mọi lãnh vực được.​

Hồi xưa Q. cũng có nghe câu đối “Trai Thủ Đức … Gái Đồng Tranh …” Hai chữ đầu đối rất chỉnh (Bằng//Trắc). ​

Nay được biết thêm câu của Cụ Trần Văn Huơng đối cũng khá hay:​

Kẻ cơ thần trở lại Cần Thơ

Nhưng không được chỉnh lắm ở những chữ sau:​

- "cơ thần" không phải là một địa danh, câu ra địa danh thì phải dùng địa danh để đối lại.​

- "trở lại" là động từ không đối chỉnh với "năm canh" là số từ + danh từ chỉ thời gian, "sáu khắc" đối rất chỉnh (số từ "sáu" + danh từ chỉ thời gian "khắc")​

- "Cần Thơ" là địa danh, không đối chỉnh với động từ "thức đủ").​

Trở lại hai câu đối "Chợ Thủ Đức …" // "Bến Đồng Tranh …"​

1- Những câu văn thơ, v.v..., chuyện "tam sao that bổn" là chuyện bình thuờng, do vậy ta thấy có khi một câu văn thơ mà các sách vở, tài liệu, v.v... chép khác nhau, gọi là "dị bản". Cho nên các tác giả viết bài nghiên cứu, có trích dẫn thường có ghi chú thêm câu: "Bản khác: "...." nếu biết.​

2- Khi xét về đối Thanh, không những phải xét một từ về Thanh Bằng Trắc, mà còn phải xét từ đó thuộc "Thanh" nào (thuộc Thanh "thuợng, trung, hạ",) và thuộc "Bậc Âm Thanh" nào (thuộc các thanh nào "bổng", "ngang", "trầm thượng" và "trầm hạ")​.

Thí dụ: ​

- chữ "Chợ" Thanh Trắc, nhưng thuộc "hạ thanh", "Bậc Trầm Hạ"​

- chữ "Bến" Thanh Trắc, nhưng thuộc "thượng thanh","Bậc Bổng"​

Như vậy, chữ "Bến" vẫn đối chỉnh với chữ "Chợ", nếu xét về "Bậc âm thanh":

"Bến": Thượng Thanh, Bậc Bổng

đối với​

"Chợ": Hạ Thanh, Bậc Trầm Hạ

- chữ "Chợ" Thanh Trắc, nhưng thuộc "hạ thanh", "Bậc Trầm Hạ"​

- chữ "Bến" Thanh Trắc, nhưng thuộc "thượng thanh","Bậc Bổng"​

Như vậy, chữ "Bến" vẫn đối chỉnh với chữ "Chợ", nếu xét về "Bậc âm thanh": ​

Câu "Trai …// Gái …" vừa đối chỉnh về Thanh Bằng Trắc, vừa đối chỉnh về "Bậc Âm Thanh": ​

"Trai": Bằng, Thanh Ngang, Bậc Trung​

"Gái": Trắc, Thượng thanh, bậc Bổng ​

3/ Về Luật Bằng Trắc trong các câu đối, và trong các thể thơ, như Thất ngôn​

Thì: "Nhất tam ngũ bất luận, Nhị tứ lục phân minh", nghĩa là các chữ thứ 2, 4 và 6 (dĩ nhiên là chữ thứ 7 là chữ cuối câu) phải "phân minh" đúng Thanh Bằng hay Trắc, còn các chữ 1, 3 và 5 không cần phải theo đúng Bằng Trắc.​

Trong các câu đối dài, phép đối chỉnh xét đối Thanh quan trọng ở những chỗ ngắt trong câu (cuối mỗi đoạn), những chữ khác có thể không cần theo đúng luật Bằng Trắc (nhưng có thể các chữ đó lại đối chỉnh theo Phép "Bậc Âm Thanh" như trên).​

Như vậy hai vế đối "Chợ Thủ Đức …//Bến Đồng Tranh …" rất chỉnh, không có chi sai.​

Có lẽ trong bài viết cũng nên ghi "bản khác: "Trai Thủ Đức...//Gái Đồng Tranh…"​

Điều này TLQuan không nói trong bài Trả lời về phép đối vì hơi phức tạp … vả lại không có nhiều thời gian để suy nghĩ viết thế nào cho dễ hiểu.​

* Về hai câu Luận trong bài "Qua Đèo Ngang" của Bà Huyện Thanh Quan thì đối quá chỉnh rồi.

Có điều là không rõ "gia gia" có phải là chim đa đa và "quốc quốc có phải là chim "cuốc"/"quốc" không?​

Nhớ hồi học Việt văn, hình như Lớp 9, lớp 10, học bài "Qua Đèo Ngang" này, cô giáo cắt nghĩa như vậy, còn nhớ chớ không để ý mấy xem có phải không.

Thôi TLQuan xin ngưng ở đây, hẹn sẽ trả lời email tiếp.

TLQuan

Merci Quan đã cho biết thêm nhiều chi tiết trong phép đối. Thời tôi học tôi chỉ biết đối theo bằng trắc là được rồi, bây giờ như Quan viết có dựa trên những nghiên cứu thật sự thì tôi tin Quan chớ. Có đọc trong Giai Thoại Làng Nho mới thấy hết hết cái tính khí của những người quân tử. Nên lý thuyết của Khổng Tử cũng có những điểm hay, không phải vì tôi xuất thân từ trường Petrus Trương Vĩnh Ký (7 năm ròng) mà tôi cũng như Quan lấy làm tiếc việc hai câu đối trước cổng trường bị đục bỏ.

Thân

Petro Nguyen