(//: đối, đối với)
3- Tiếng lái đối tiếng lái:
Thủ Đức // thức đủ
Đồng Tranh // đành trông
(//: đối, đối với)
(Trích Tìm hiểu tiếng Việt, chữ Việt của chúng ta, tác giả Tiền Vĩnh Lạc, Nhà Xuất Bản Tiền Lê, 2017)
Xin xem thêm những phân tích về các câu đối ghi lại sau đây (câu của Petro Nguyen và các vế đối lại câu của bạn Minh Hà).
Lại một rắc rối nữa:
- Người ra câu thách đối dùng các chữ trong một “bộ đề tài” (TLQuan không biết dùng chữ gì cho đúng?) thì khi đối lại cũng phải dùng các chữ trong một “bộ đề tài” khác để đặt vế đối.
Thí dụ như câu thách đối của bạn Minh Hà, dùng những chữ trong 12 Địa Chi (12 con Giáp)
Tý tỵ mùi hợi, tý tỵ mùi ngọ, thân “xỉu” dần dần
Cũng như trong bài email của Petro Nguyen, có nhắc đến câu thách đối thân phụ của Petro Nguyen kể lại:
Ra cửa Đông Nam, Tây Bắc lại
Người ra câu đối dùng những chữ trong "bộ đề tài" phương hướng: Đông, Tây, Nam, Bắc.
Để đối lại, phải dùng những chữ trong một "bộ đề tài" khác.
Thí dụ TLQuan xin dùng đề tài "Cầm Kỳ Thi Tửu" để thử đối
Ra cửa Đông Nam, Tây Bắc lại
Vào bàn Thi Tửu, Kỳ Cầm theo
* Phân tích 2 Vế đối này:
1/ Đối từ ngữ, loại từ:
1.1.
- Vế ra dùng Đông Tây Nam Bắc chỉ phương hướng, đều là danh từ
- Vế đối phải dùng những chữ cùng một đề tài khác, cùng đều là danh từ
Cầm Kỳ Thi Tửu (đề tài những thú vui chơi: Đàn, Đánh cờ, Làm thơ, thưởng thức rượu ngon - Có khi người ta dùng Họa, Hội Họa, thay vì Tửu, nhậu xỉn xỉn!)
- Lại nữa, về loại từ, trong tiếng Việt phải xét đến các từ ngữ Hán Việt và các từ ngữ tiếng Nôm.
Vế đối ra dùng tiếng Hán Việt thì vế đối cũng phải dùng tiếng Hán Việt, vế ra dùng tiếng Nôm thì vế đối cũng phải dùng tiếng Nôm.
Vế ra, những chữ về phương hướng đều là tiếng Hán Việt
Vế đối, những chữ Cầm Kỳ Thi Tửu cũng đều là tiếng Hán Việt
1.2.
“Ra cửa” đối với “Vào bàn”
- “ra” là động từ đối với “vào” cũng là động từ, “ra”, “vào” đều là tiếng Nôm
- “cửa” đối với “bàn”, đều là danh từ và đều là tiếng Nôm.
2/ Đối Thanh:
“Ra cửa” – (X) Trắc đối với “Vào bàn” – (X) Bằng
“Đông Nam” – (X) Bằng đối với “Thi Tửu” – (X) Trắc
“Tây Bắc lại” – (X) Trắc Trắc đối với “Kỳ Cầm theo” – (X) Bằng Bằng
(X): những chữ này không cần phải đối Thanh
3/ Đối ý:
Ra cửa Đông Nam, Tây Bắc lại
Khi đi ra cửa Đông Nam, thì bị lính Tây bắt lại
Vào bàn Thi Tửu, Kỳ Cầm theo
Khi vào bàn “nhậu”, uống rượu ngâm thơ, thì cũng cầm theo bàn cờ tướng (Kỳ).
(Nhưng nếu bắt bẻ về ý thì hoàn cảnh tả trong hai vế không có liên quan gì với nhau hết!)
4/
Nếu xét 3 tiêu chuẩn trên thì vế đối này khá chỉnh.
Nhưng nếu xét về chính tả và văn phạm thì vế đối này chưa được chỉnh, vì những điểm sau:
1. Cách dùng từ ngữ
“Tây” đối với “Kỳ”
Dùng từ đồng âm khác nghĩa:
- chữ “Tây” chỉ phương hướng, dùng để chỉ người Pháp, lính Pháp
- vế đối không dùng từ đồng âm khác nghĩa, chữ “Kỳ” nghĩa là bàn cờ tướng.
2. Dùng chữ đồng âm nhưng sai chính tả:
- chữ “Bắc” chỉ phương hướng, dùng là động từ “bắt”, phải đổi cách viết “bắt”
- vế đối, dùng chữ “cầm” là động từ, đúng chính tả, không cần đổi cách viết
3. Về cấu trúc câu (văn phạm):
- Vế ra “Tây bắt lại”
“Tây” là chủ ngữ (subject, sujet) của động từ “bắt” - Tây bắt người đi ra cửa Đông Nam.
- Vế đối “Kỳ cầm theo”
“Kỳ” là bổ ngữ trực tiếp của động từ “cầm” (subject, complément d'objet direct) - Người đi vào bàn nhậu cầm theo bàn cờ tướng (Kỳ).
Trở lại câu đối của bạn Minh Hà
Chào bạn Minh Hà,
Cám ơn bạn gởi câu thách đối cho Đặc San Khoa học Xuan Canh Tý 2020 và mời quý Thầy Cô và các bạn đối chơi cho vui.
Tý tỵ mùi hợi, tý tỵ mùi ngọ, thân “xỉu” dần dần.
Trước hết Quan xin ghi lại nghĩa câu thách đối theo sư suy diễn và hiểu biết của mình.
- Câu này dùng toàn tên các Địa Chi để ra vế đối
(Tý, Sửu, Dần, Mẹo, Thìn, Tỵ, Ngọ, Mùi, Thân, Dậu, Tuất, Hợi)
- Dùng các tiếng đồng âm và biến âm để câu có nghĩa:
- Đồng âm:
Tý Tỵ - đồng âm “tí tị” có nghĩa một ít, một chút xíu, tí xíu,
Mùi - đồng âm “mùi”: mùi vị, mùi huơng, mũi ngửi được
Thân - đồng âm “Thân”, Thân thể
Dần - đồng âm “dần” có nghĩa từ từ, lần lần,
- Biến âm:
Sửu - biến âm “xỉu” có nghĩa mệt quá xỉu, bất tỉnh
- Giữ nguyên từ, nhưng hiểu theo nghĩa khác:
Hợi, Ngọ là tên hai Địa Chi, nhưng có thể hiểu là con heo và con ngựa (Heo biểu trưng cho chi Hợi, tiếng Hán Việt là “trư”, cũng như Ngựa biểu trưng cho chi Ngọ, tiếng Hán Việt là “mã”).
- Có thể hiểu vế thách đối này có nghĩa như sau:
Một chút xíu (tí tị) mùi của heo (Hợi) và một chút xíu (tí tị) mùi của ngựa (Ngọ), làm cho ta (thân) từ từ / lần lần (dần dần) bị "xỉu" (Sửu).
Vế thách đối, Minh Hà dùng các từ ngữ trong “bộ đề tài” Địa Chi, thì để đối, Thầy Chí dùng đề tài các nốt nhạc, TLQuan dùng Thiên Can và Bát Quái. Thầy Soạn dùng tên riêng.
Nhưng để đối cho thật chỉnh thì ... Khó lắm!
TLQuan cũng bắt chước dùng tên riêng, nhưng khó mà đối chỉnh lắm:
Ban đầu định viết “Tiền quan soạn chơi”, vì có ông bác bạn của Ba tên thật là Chơi, hay chơi chữ, người ta hỏi “Anh chơi đi đâu đó?” - Trả lời “Anh Chơi đi chơi ...”.
Nhưng hình như không có tên “Chơi” trong Nhóm Khoa Học, nên tạm dùng tên “Mơ”.
Tý tỵ mùi hợi, tý tỵ mùi ngọ, thân “xỉu” dần dần.
- Tiền quan soạn chi?
- Tiền quan soạn chơi!
Cần xin tiếc tiếc ...
- Soạn mấy đồng tiền quan để làm chi vậy?
- Soạn mấy đồng tiền quan đó để chơi vậy thôi!
Mà hễ có ai cần, xin (Sinh) mấy đồng tiền quan đó, nếu cho thì cũng tiếc (Tiết), không muốn cho.
Hoặc Cần Sinh Lý có xin mấy đồng tiền quan đó, nếu cho Cần Sinh Lý thì cũng thấy tiếc!
* Về hình thức thì vế đối này cũng tạm chỉnh, xét về đối Thanh thì cũng khá chỉnh:
- “Tiền quan” (Bằng) đối với “Tý Tỵ” (Trắc)
- “soạn” (Trắc) đối với “mùi” (Bằng)
- “chi”, “chơi” (Bằng) đối với “Hợi”, “Ngọ” (Thanh Trắc)
Nhưng nếu phân tích kỹ thì chỉ để ... chơi vậy thôi!
* Về đối ý thì ý vế đối không "dính dáng" gì với ý của vế ra.
* Về loại từ:
- “Tiền quan” là danh từ, không đối với “Tý Tỵ” là trạng từ được
- “soạn” là động từ không đối được với danh từ “mùi”
- cũng như “chi” và “chơi” không đối được với “Hợi” và “Ngọ”.
Chỉ có 3 chữ cuối tạm đối chỉnh:
- “Cần” (nếu là tên riêng) danh từ riêng tạm đối chỉnh với “Thân” là danh từ chung
- “xin” (biến âm chính tả của “Sinh”), động từ, Thanh Bằng, đối khá chỉnh với “xỉu” (Biến âm chính tả của “Sửu”), động từ, Thanh Trắc
- “tiếc tiếc” đối chỉnh về Thanh: Thanh Trắc đối với “dần dần”, Thanh Bằng
Nhưng lại không đối chỉnh về từ ngữ, phải viết lại chính tả tên riêng “Tiết”, trong khi chữ “Dần” ở trên không cần viết lại về chính tả.