Chi Tý, con thú biểu trưng là Chuột, đứng đầu một Giáp là một chu kỳ 12 năm.
Người sanh nhằm năm thuộc Chi nào thì được gọi là tuổi theo Chi đó, hoặc là Tuổi theo con thú biểu trưng của Chi đó. Thí dụ Sanh năm Canh Tý thì nói là tuổi Tý hay tuổi Con Chuột.
Trong Ca Dao, Tục Ngữ, văn chương, người ta không chú trọng mấy đến Thiên Can.
Mỗi một tuổi con gì đều có câu ca dao nói về tính cách của con thú biểu trưng. Nên có bài thơ nói về 12 con giáp :
Tuổi Tý, con chuột lông xù
Cắn gà, cắn vịt, chạy ù xuống hang
Tuổi Sửu, con trâu kình càng
Cày chưa đúng buổi lại mang cày về
Tuổi Dần, con cọp quá ghê
Bắt người ăn thịt, tha về non cao
Tuổi Mẹo là con mèo ngao
Hay quấu, hay quào, ăn vụng thành tinh
Tuổi Thìn, rồng ở Thiên đình
Làm mưa, làm gió, ẩn mình trên mây
Tuổi Tỵ, rắn ở bộng cây
Nằm khoanh trong ổ, có hay điều gì.
Tuổi Ngọ, ngựa ô đen sì
Ỷ mình chạy giỏi ngại gì đường xa.
Tuổi Mùi là con dê chà
Giống nai, có gạc, râu ria bùm xùm.
Tuổi Thân, con khỉ ở lùm
Chuyền qua, chuyền lại, té ùm xuống sông.
Tuổi Dậu, con gà vàng lông
Có mỏ, có mồng, lại gáy ó o.
Tuổi Tuất là con chó cò
Nằm khoanh bên lò, mặt mũi lọ lem.
Tuổi Hợi, con heo ăn hèm
Đóng chuồng mà nhốt, chẳng thèm thả ra!
Riêng về tuổi Tý con chuột, trong kho tàng Văn Học Việt Nam có rất nhiều câu ca dao, tục ngữ, thành ngữ có nhắc tới chuột.
Tuổi Tý con Chuột trong nhà,
Tha gạo tha nếp tha dồn xuống hang.
Tuổi Tý là con chuột nhà
Bắt vịt bắt gà, soi ngách đào hang
Bày đường chuột chạy
Bắt chuột không hay, hay ỉa bếp
Cháy nhà lòi mặt chuột / Cháy nhà ra mặt chuột
Chín rồng một chuột
Chuột cắn dây buộc/cột mèo
Chuột chạy hở đuôi
Chuột chù đeo chuông
Chuột đội vỏ trứng
Chuột gặm chân mèo
Chuột sa chĩnh gạo / hũ nếp
Đầu thử kỵ khí : Liệng/Ném chuột sợ bể đồ
Đầu voi đuôi chuột
Đuôi chuột ngoáy lọ mỡ
Hồng ngâm chuột vọc
Làm cách sạch ruột, làm chuột no bụng
Lấm lét như chuột ngày
Len lét như chuột ngày
Liệng/Ném chuột sợ bể đồ - Đầu thử kỵ khí
Lờ đờ như chuột phải khói
Lôi thôi như mèo sẩy chuột
Lù đù / Lù rù như chuột chù phải khói
Mèo già lại thua gan chuột lắt
Mèo nhỏ bắt chuột con/nhỏ
Ném chuột e bể lọ quý
Ném chuột vỡ lu
Nói dơi nói chuột
Nửa dơi nửa chuột
Sào sậy chống bè lim, mèo con bắt chuột cống
Súc miêu phòng thử : Nuôi mèo để bắt chuột
Sừng chim nanh chuột
Trái núi đẻ ra con chuột
Ướt như chuột lột/lụt
Voi đú, chó đú, chuột chù cũng nhảy cẫng
Sừng chim nanh chuột
(Từ một câu trong Kinh Thi: “Thử nha tước giốc”(Nanh chuột, sừng chim sẻ), ý nói chuột không có nanh vẫn cắn thủng vách nhà, chim sẻ không sừng mà đục thủng được mái nhà)
-------
Chơi chữ đồng âm chữ Nho
Nhân nói chữ nghĩa về mèo chuột, nhớ hồi đó có nghe đố câu tiếng Hán Việt nghĩa là gì. Các cụ chơi chữ đồng âm chữ Nho.
Câu tiếng Hán Việt như nhau, nhưng viết Hán tự khác, có nghĩa khác.
Sát nhứt miêu, cứu vạn thử
- Viết: miêu 貓 con mèo ; thử 鼠 con chuột
- Nghĩa: Giết một con mèo, cứu muôn con chuột
Có câu cùng ý: “Giết một con cò, cứu muôn con tép”
- Viết: miêu 蝥 một loài sâu cắn gốc lúa ; thử 黍 cây lúa
- Nghĩa: Giết một con sâu, cứu vạn cây lúa non
Lại có 2 chữ “miêu” 苗 苖 cũng có nghĩa là cây lúa non
Sát nhất miêu 蝥, cứu vạn miêu 苗/苖: Giết một con sâu, cứu vạn cây lúa non.
CA DAO
Chuột kia xưa ở nơi nào ?
Bây giờ ăn lúa nhà tao thế này ?
Cần chi cá lóc cá rô
Thịt chuột thịt rắn nhậu vô hơn nhiều
Con mèo con mẻo con meo
Muốn ăn thịt chuột thì leo xà nhà
Con mèo leo cây dò cá
Lũ chuột ở nhà ăn cả thúng ngô
Con mèo nhắm mắt, vểnh râu
Để cho lũ chuột trên đầu trèo leo
Chuột chù chê khỉ rằng hôi
Khỉ mới trả lời cả họ mày thơm
Chuột kia xưa ở nơi nào ?
Bây giờ ăn lúa nhà tao thế này ?
Muốn mèo bắt được chuột
Thì chớ nên ràng buộc xích dây
Cô tưởng mình cô ái ố mỹ miều
Chồng con chả lấy để liều thân ru
Hai nách cô thơm như ổ chuột chù
Mắt thì dán nhấm, lại gù lưng tôm
Chuột chê xó bếp chẳng ăn
Chó chê nhà dột ra nằm bụi tre
Mèo khen mèo dài đuôi
Chuột cậy mình nhỏ, dễ chui dễ luồn
Con cua càng bò ngang đám bí
Nói với chị mày giờ tí qua qua
Mồ cha con chuột lăng loàn
Vì mi ai mới không tàn giấc hoa
Con chi rọt rẹt sau hè
Hay là rắn mối tới ve chuột chù?
Cưới nàng anh toan dẫn voi
Anh sợ quốc cấm nên voi không bàn
Dẫn trâu sợ họ máu hàn
Dẫn bò sợ họ nhà nàng co gân
Miễn là có thú bốn chân
Dẫn con chuột béo mời dân mời làng
Mẹ chồng đối với nàng dâu
Như mèo với chuột có thương nhau bao giờ
Thứ nhất đom đóm vào nhà,
Thứ nhì chuột rúc, thứ ba hoa đèn
Hễ nói tới chuột thì nhớ tới con mèo, vì mèo thường hay rình bắt chuột.
- Con mèo con mẻo con meo
Muốn ăn thịt chuột thì leo xà nhà.
- Con mèo nhắm mắt, vểnh râu
Để cho lũ chuột trên đầu trèo leo.
- Con mèo leo cây dò cá
Lũ chuột ở nhà ăn cả thúng ngô.
- Mèo khen mèo dài đuôi
Chuột cậy mình nhỏ, dễ chui dễ luồn.
- Con mèo mà trèo cây cau
Hỏi thăm chú chuột đi dâu vắng nhà
Chú chuột đi chợ đường xa
Mua mắm mua muối giỗ cha chú mèo.
Bài dân ca “Lý con chuột” cũng có nhắc tới con mèo
Bài Lý Con Chuột
Chuột chê, chuột chê tình bằng lúa lép
Lúa lép ta thấy nó hổng ăn
Chuột chê, chuột chê tình bằng nhà dột
Nhà dột ta thấy nó ra nằm tre mà bụi tre.
Chuột kêu chuột kêu chụt chịt chụt chịt
Đồng ruộng ta ra đó khỏi chê
Chuột kêu chàng ơi bò cho khéo
Nối đuôi chuột kêu ngoài đồng mà tiệc
Ta nói lúa trổ rồi ăn là mần ăn
Anh bạn mình ơi.
Giỡn trăng, giỡn trăng xà quần xà nẹo
Xà nẹo hai đứa nó giỡn nhau
Rủ nhau rủ nhau ngoài đồng mèo chuột
Hai đứa lấy nhau rồi ra nằm bụi tre
Chơi mèo chuột chơi.
Hội Đồng Chuột
Chuột thường hay bị mèo rình bắt ăn thịt. Do vậy chuột rất sợ mèo. Buổi tối ra khỏi hang đi kiếm ăn thiệt là nguy hiểm, lũ chuột lúc nào cũng phập phồng lo sợ, không biết có mèo rình núp ở đâu đó hay không, rồi sẽ bị mèo bất thình lình nhảy ra vồ bắt chuột ăn thịt lúc nào không biết. Số chuột bị mèo rình bắt ăn thịt càng ngày càng nhiều mà lũ chuột không biết phải làm sao để tránh bị nạn mèo. Bèn triệu tập một phiên họp đề cử một hội đồng để bàn bạc, tìm biện pháp phòng chống mèo, tránh phải nạn bị mèo xơi.
Vì lũ chuột không con nào biết mèo sẽ ẩn núp chỗ nào để rình rập bắt chuột, nên có một ý kiến đề xuất là nên đeo vào cổ con mèo một cái vòng lục lạc, khi mèo đi tới đâu thì lục lạc kêu leng keng ... khi nghe tiếng lục lạc ở đâu thì biết là con mèo đang ở đó, lũ chuột sẽ đề phòng cẩn thận, tránh lui tới chỗ có mèo là an toàn, sẽ tránh bị mèo vồ bắt.
Cả hội nghị, chuột nào chuột nấy đều tán thành, tấm tắc khen đây quả là một ý kiến hay, một đề nghị tuyệt vời! Tới khi đề cử một “anh hùng” chuột tình nguyện xung phong lãnh nhiệm vụ cao cả là đem cái vòng lục lạc đeo vào cổ con mèo thì cả hội nghị im re, không có con chuột nào dám tình nguyện đứng lên nhận lãnh trách nhiệm nặng nề và vinh quang cao cả này cả! Vì thực tế biết con mèo ở đâu mà đeo vòng lục lạc cho nó, mà điều trở ngại chánh là khi chuột vừa chạm trán với mèo thì đã bị mèo vồ bắt lấy ăn thịt rồi! Thành ra ý kiến đề nghị dù có hay ho cỡ nào thì cũng là điều không tưởng, không thực tế, là một điều bất khả thi!
Do chuyện vui này mà cụm từ “Hội Đồng Chuột” hàm ý châm biếm những phiên họp dài lê thê của những ban bệ, những hội đồng này nọ, ... ý kiến ý ruồi bàn cãi nhì nhằn, mất thì giờ, nhưng đưa ra những quyết nghị, những biện pháp này nọ thiếu thực tế, bất khả thi ... rồi cuối cùng chẳng đi tới đâu …
Truyện Trinh Thử
Nói đến chuột, không thể không nhắc tới truyện Trinh Thử trong Văn Học Việt Nam.
Trinh thử có nghĩa là con chuột có lòng trinh trắng, giữ gìn tiết hạnh. Đây là một truyện ngụ ngôn viết bằng văn Nôm (khác với Hán văn), theo thể thơ lục bát, gồm 850 câu, do Trân Triều Xử Sĩ Hồ Huyền Quy Tiên Sinh biên soạn vào cuối đời Trần, khoảng cuối Thế Kỷ thứ 14. Nhân vật chánh trong truyện là con một chuột bạch, hình tượng chuột bạch tượng trưng cho sự thanh khiết, trinh tiết, ... Hàm ý tác giả muốn tán dương lòng trinh tiết và chỉ trích thói tà dâm của người đời.
Chuột bạch góa chồng đi kiếm mồi nuôi con. Bỗng bị chó đuổi phải chạy vào trong hang trốn. Không ngờ trong hang này có con chuột đực, nhân lúc vợ đi vắng, tìm cách ve vãng, “lấy lời lẽ ngọt ngào quyến rũ chuột bạch” (trong sách in chữ “rũ” dấu ngã). Nhưng chuột bạch một mực từ chối. Vừa lúc đó chuột cái về tới thấy vậy tỏ thái độ ghen tuông. Lúc đó lại có con mèo tới hang chuột. Chuột cái sợ quá té xuống ao sắp chết đuối. Thời may có Hồ Sinh là một người nghe hiểu và nói được tiếng muông chim, đuổi mèo đi và cứu chuột cái. Nhờ nghe thấy câu chuyện từ dầu nên Hồ Sinh tìm lời phải trái nói rõ về lòng trinh tiết của chuột bạch và khuyên nhủ chuột cái về đạo cư xử trong nhà.
“Lời văn trong truyện này bình thường giản dị mà vẫn chải chuốt thanh tao”. Nét đặc sắc trong lời văn là tác giả đã dùng khá nhiều câu phương ngôn, tục ngữ, thành ngữ rất khéo léo. Vì là một truyện cổ được biên soạn từ cuối Thế Kỷ thứ 14, nên trong truyện có khá nhiều từ ngữ cổ hiện nay ít được dùng.
Chúng tôi xin trích vài câu trong truyện để quý độc giả thưởng thức một lối hành văn và dùng từ ngữ thời xưa.
Nàng nghe chàng nói thấp cao,
Nỗi mình mới kể tiêu hao xa gần :
“Thiếp nay ở mái đông-lân,
“Vì cơ thương-cẩu lang-quân tếch ngàn.
“Nỗi lòng khôn xiết thở than,
“Thương chồng lại xót một đàn con thơ.
“Rồng-rồng theo nạ sớm trưa,
“Của đâu cho được dư thừa miếng ăn.
“Pha-phôi chẳng quản nhọc-nhằn,
“Chân le chân vịt, nào phân đêm ngày.
...
Chàng nghe nông-nỗi giải bày,
Quyết lòng cầm-sắt một hai dỗ dành
...
“Chữ rằng : Tòng nhất nhi chung,
“Gái hiền thờ chỉ một chồng không hai,
“Cương-thường đạo cả, há chơi !
“Một niềm hằng giữ mấy lời đinh-ninh.
...
“Tóc-tơ giải hết nguồn cơn,
“Quyết liều chịu tốt thờn-bơn một bề.
“Vu-qui núi chỉ non thề,
“Tấc lòng đá tạc vàng ghi, dám dời.
“Ở đời chen cạnh với đời,
“Kẻo e anh yến những lời khen chê.
…
Liệu lời Sinh mới dạy cho,
Lấy đường khuyên giải điển-mô mọi lời :
“Việc này cơn-cớ vì người ;
“Liệu về nói rõ, chồng ngươi thôi là.
“Muốn cho yên cửa yên nhà,
“Chẳng gì hơn ở thuận-hòa cùng nhau,
“Dễ ai đội áo qua đầu?
“Sao không nghĩ trước nghĩ sau cho tầy?
“Ái ân là nghĩa nặng thay !
“Vợ chồng há phải một ngày dám quên.
…
(Dương Quảng Hàm, 1973. Việt Nam Thi Văn Hợp Tuyển. Trung Tâm Học Liệu - Bộ Giáo Dục Sài Gòn - trang 44 – 48)