Niềm nhục nhã của dân tộc Pháp trong giai đoạn đầu của Thế Chiến thứ II (1939-1944) đã được xóa bỏ nhờ sự lãnh đạo kháng chiến một cách anh dũng của Charles de Gaulle đến ngày Đức Quốc Xã đầu hàng (1945).
Năm 1945, mặc dù có công cứu nước, Charles de Gaulle vẫn bị loại khỏi chính trường vì không được các chính trị gia ủng hộ.
Khi nước Pháp đi xuống vì hai cuộc chiến tranh Việt Nam và Algérie, Charles de Gaulle trở lại chính quyền năm 1958. Trong chương trình thay đổi Hiến Pháp, cải tổ quốc gia, tái thiết một nền kinh tế mạnh, De Gaulle còn xây dựng một chiến lược nguyên tử trong mọi tự túc khó khăn của quốc gia trước nhiều cản trở từ các đồng minh Anh và Mỹ.
Trong chiến lược đó, Pháp chỉ dựa vào các giới khoa học gia, kỹ thuật gia và kỹ nghệ gia của Pháp mà thôi.
Thái độ cương quyết của Charles de Gaulle đã đưa nước Pháp trở thành cường quốc nguyên tử số 3 sau Mỹ và Nga.
Pháp cho nổ bom A đầu tiên năm 1962 tai sa mạc ở Algérie.
Từ Thế Kỷ thứ 18 đến ngày nay, nước Pháp cùng với nước Anh, đứng đầu trong trong danh sách những QUỐC GIA NHỎ, DÂN TỘC LỚN.
Người Việt mình nên suy ngẫm tư tưởng trên đây.
3. Cuộc cách mạng kỹ nghệ của Đài Loan
Trong suốt Thập Niên 1970 đến nay, công việc và chức vụ đưa đẩy tôi liên hệ với nhiều đối tác Đài Loan.
Trong khoảng thời gian 1970-80, làm việc và theo theo dõi nhiều tài liệu và báo chí kinh tế từ Paris, chúng tôi ngạc nhiên trước sự tăng trưởng (*) nhanh chóng về kinh tế của Đài Loan, nhưng không ai nghĩ rằng quốc gia này đang manh nha mở màn cho một cuộc cách mạng lớn về kỹ nghệ và kinh tế có tầm vóc thế giới.
(*) Theo thống kê về chỉ số tăng trưởng kinh tế
Cuối Thập Niên 80, tôi được mời cộng tác trong một chức vụ quan trọng của một tập đoàn Đài Loan tìm thị trường ở Âu Châu. Trong vòng hai năm làm việc, hội họp, thực hiện những mục tiêu trong chiến lược lớn cho thế giới (trong lãnh vực làm việc).
Từ khi Đài Loan thông đồng với Trung Cộng chiếm giữ một số đảo trong Quần Đảo Trường Sa của Việt Nam và sau đó Đài Loan tổ chức tại đây những căn cứ quân sự và du lich một cách thách thức Việt Nam, tôi không coi nước này là một quốc gia bạn hữu thân thiện nữa.
Trên phương diện kinh tế, Đài Loan coi Việt Nam là một hũ gạo, một thị trường quan trọng phải lợi dụng triệt để, nhưng họ vẫn giữ thái độ kỳ thị và không coi trọng Việt Nam.
Nếu có binh đao khói lửa giữa Việt Nam và Trung Cộng tại Biển Đông thì chắc chắn Đài Loan sẽ là nước đâm sau lưng Việt Nam.
Không nói đến vấn đề chính trị này thì Đài Loan là quốc gia duy nhất làm được cuộc cách mạng kỹ nghệ hiệu quả: không đổ máu, không thanh trừng, không theo một chủ nghĩa ngoại lai nào, trong một hoàn cảnh tự lập về mọi phương diện Tài Chính, Giáo Dục, Kinh Tế và Thương Mãi.
Từ một quần đảo NGHÈO, LẠC HẬU, KHÔNG TÀI NGUYÊN vượt lên đứng hàng 15 trong bảng xếp hạng (1985 – 1990) và trở thành một cường quốc kinh tế và kỹ nghệ.
Xã hội từ nghèo bước sang giàu, không tham nhũng, không tệ nạn, một xã hội SẠCH, theo nghĩa bóng và nghĩa đen.
Một sự kiện đáng ngạc nhiên là rất ít sách vở, báo chí nghiên cứu về hiện tượng này.
Nhìn những kết quả thực hiện được tại nước này, Việt Nam có thể tìm được nhiều bài học mặc dầu đã bị chậm trễ gần 50 năm!
Trong bối cảnh chính trị thế giới vào Thập Niên 50-60, Đài Loan không được sự công nhận của nhiều quốc gia trong khối “Thế Giới Tự Do”.
Nước này không đóng một vai trò quan trọng gì ngoài cương vị là Thành Viên Thường Trực của Hội Đồng Bảo An Liên Hiệp Quốc để lại từ Tưởng Giới Thạch, lúc chưa thống nhất ở Trung Hoa Lục Địa. Đến năm 1970, cương vị này đã bị Mỹ làm áp lực lấy lại để nhường cho Trung Hoa Lục Địa của Mao Trạch Đông.
Muốn viết đến cuộc cách mạng kỹ nghệ của một nước chắc chắn là phải dùng hàng ngàn tấn giấy để ghi những con số.
Tôi chỉ xin phép trình bày những nét chính của một cuộc cách mạng kỹ nghệ thực hiện trong một khoảng thời gian kỷ lục.
Khoảng Thập Niên 50, Tưởng Giới Thạch cùng quân đội thua trận tại lục địa Trung Hoa, chạy ra chiếm đảo Đài Loan trong một tình trạng tan nát, quân đội, xã hội, dân tình. Quần đảo lúc bấy giờ còn trong tình trạng thật sơ khai.
Chính Phủ Tưởng Giới Thạch phải tái lập gấp cuộc sống ở đây. Lúc đầu họ cũng chỉ muốn tái lập kinh tế của quần đảo để trở thành một thành phố tương đương với Thượng Hải.
Chương trình đầu tiên là đoàn kết và giáo dục dân chúng.
Những vấn đề khó khăn phải đương đầu:
XÃ HỘI : nghèo
KINH TẾ : số KHÔNG
TÀI NGUYÊN THIÊN NHIÊN : số KHÔNG
DÂN SỐ : chỉ khoảng 8 - 9 triệu
NÔNG NGHIỆP : Thiếu đất đai canh tác – nhập cảng gần 90% nhu cầu.
TÀI CHÍNH QUỐC GIA : rất thấp. Sau này trong mọi kế hoạch, họ phải lấy tài chính từ nguồn tiết kiệm của dân chúng, không có đồng vốn giúp đỡ nào của Ngân Hàng Thế Giới!
Ba mô hình và kiểu mẫu Chính Phủ Đài Loan đã theo đuổi và áp dụng một cách tuyệt đối:
1. Mô hình 1 = HỒNG KÔNG nhất là trong lãnh vực tài chính và thương mãi.
2. Mô hình 2 = NHẬT BẢN
Về giáo dục, Tưởng Giới Thạch theo chủ thuyết Quốc Dân Đảng của Tôn Dật Tiên, đặt chủ thuyết này làm chủ thuyết quốc gia của Đài Loan.
Trong chủ thuyết này nền tảng giáo dục có phần ảnh hưởng của Nhật Bản, nhất là về phương diện giáo dục con người trong xã hội.
Đài Loan từ bỏ hoàn toàn mọi tư tưởng giáo dục cổ điển của Trung Quốc.
3. Mô hình 3 = USA
Tổ chức công ty, xí nghiêp theo Âu Mỹ.
Áp dụng phương pháp GIÂY CHUYỀN vào mọi lãnh vực sản xuất.
Khuếch trương học vấn về Economie và Marketing trong giai đoạn 1960 - 1965
Theo chủ nghĩa Tư Bản, ổn định chính trị của quốc gia, củng cố ý chí Tiết Kiệm và Hy Sinh của toàn dân.
Chỉ trong khoảng 25 năm Đài Loan đã thành công trong một cuộc cách mạng kỹ nghệ này.
Ngày nay nhìn Việt Nam và Đài Loan, là người Việt Nam mình phải thán phục.
Học hỏi thêm để hiểu được tầm nhìn xa của những lãnh tụ và chính phủ nước này. Ngày nay Đài Loan là một quốc gia giàu và hùng mạnh về kinh tế, họ vẫn tiếp tục áp dụng:
- Tổ chức xã hội, giáo dục theo kiểu mẫu Âu Mỹ
- Tổ chức tìm thị trường toàn diện trên thế giới
- Có cả một quốc sách đầu tư về máy móc, cơ khí, điện tử tối tân trong mục đích sản xuất mọi sản phẩm với giá thật rẻ
- Kiểm soát triệt để tài chính quốc gia. Hệ thống ngân hàng khắc khe, bảo vệ mọi hối đoái và tránh thất thoát
Máy móc tối tân để bù vào sự thiếu nhân công và nhân lực.
Đài Loan tạo được danh hiệu “Made in Taiwan” vừa có giá rẻ, vừa bảo đảm phẩm chất.
Nền kinh tế mạnh này đã đưa Đài Loan vào vị trí thứ 15 các quốc gia đứng đầu trên thế giới.
Từ cuối Thập Niên 80, Đài Loan trở thành động lực chính cho cuộc cách mạng kỹ nghê của Trung Quốc Lục Địa.
Trong giai đoạn đó, rất nhiều xí nghiệp Đài Loan đã chuyển cơ sở sản xuất về Trung Quốc để tận dụng giá nhân công rẻ tại đây.
Tài chính là của Đài Loan, nhân công Trung Quốc, sản phẩm nhờ giá rẻ chinh phục thị trường thế giới.
Một kết quả khác tối ưu quan trọng = từ cơ hội đó Trung Quốc ngày nay là cường quốc thứ hai trên thế giới về kinh tế nhờ guồng máy sản xuất từ mô hình đầu tiên của Đài Loan để lại.
4. Nỗi đau của mẹ việt nam … xương, da, máu đổ
Mẹ Việt Nam đã khóc cho sự ra đi của biết bao đứa con.
Cứ tính lại từ 70 năm nay, chiến tranh liên miên … Trong những giai đoạn 1948 – 1954,
1956 - 1975 và 1979 - 1988 (Campuchia, Trung Cộng) trên khắp 3 miền Bắc, Trung, Nam, hàng ba, bốn triệu người Việt Nam đã chết, bị thương, hoặc vĩnh viễn tàn tật ...
Sự vô lý đau đớn và nhục nhã nhất là NẠN ĐÓI năm Ất Dậu (1945) xảy ra tại quê hương Việt Nam, một nước nông nghiệp! Chết đói và bệnh gần triệu người.
Những con số sau đây sẽ làm cho hậu thế hãi hùng và sẽ rất thắc mắc.
- Di tản năm 1975: gần 2 triệu người
- Chết trên biển: hơn năm trăm ngàn người
- Di dân từ 1975 đến nay (chính thức hay không chính thức): gần triệu ngươi
- Lấy chồng ngoại quốc (Hàn Quốc, Đài Loan, Singapore, Trung Quốc) mấy trăm ngàn phụ nữ
- Xuất khẩu lao động (chính thức hay không chính thức): 500 đến 800 ngàn người. Tài sản và chất xám cũng mất theo.
Con người Việt Nam trong những tình huống đó có giá trị thế nào?
Đau khổ cho Mẹ Việt Nam khi biết là trong một quốc gia có dân trí cao, kinh tế SẠCH, mọi người đều trân trọng từng công dân. Họ coi trọng giá trị con người mà quốc gia đó đã đầu tư: vào cuộc sống, vào giáo dục, … để người này trở nên hữu ích cho xã hội. Hữu ích với tài sản và trí tuệ gọi là chất xám làm giàu cho xứ sở.
Tại quê hương Việt Nam không kể bao nhiêu tài sản vật chất bị tàn phá vì bom đạn, bây giờ từ hơn hai mươi năm nay lại có thêm sự mất mát do tham nhũng, ăn cắp, rút tỉa tài nguyên quốc gia để chuyển lậu ra ngoại quốc.
Những thí dụ cụ thể:
- Hàng chục tỷ dollars để mua bất động sản ở Mỹ,
- Hàng chục tỷ dollars lấy cớ đi trị bệnh ở ngoại quốc
- Bao nhiêu tài khoản mở tại các ngân hàng ở ngoại quốc.
Thảm kịch của Mẹ Việt Nam vẫn tiếp tục, và còn tiếp tục như thế này cho đến ngày nào nữa?
Theo báo chí, tháng 9 năm 2017 hiện đang có tên của 270.000 người Việt Nam tại Tòa Lãnh Sự Mỹ trong danh sách xin visa đi dịnh cư.
Gia đình nào nhận được visa định cư sẽ “bán tống bán táng” tài sản để chuyển tiền ra ngoại quốc.
Một trong những điều làm đau lòng thêm là những “hồ hởi”, hăng say “mua” sản phẩm “Visa Đầu Tư” EB5 / USA.
Sản phẩm này được “bán” với giá tiền chuyển đi tối thiểu là 500,000 dollars US.
(Số tiền này là tiền sinh sống của MỘT TRĂM GIA ĐÌNH VIỆT NAM trong một năm!)
Bao nhiêu báo chí kinh tế trên thế giới đã phê bình gay gắt sản phẩm này và gọi là “sản phẩm chính trị” của vài cường quốc trên thế giới lập ra để “bịp” những người giàu của các xứ nghèo. Những báo chí này còn kết án nặng nề hơn. Họ nói là ... để “bịp” những người giàu của các xứ không có dân trí cao (xứ ngu).
Về phương diện pháp lý và “luân lý”, sản phẩm này bị kết án vì đây là một hình thức khuyến khích sự chuyển lậu hối đoái và ngoại tệ, tài sản của một quốc gia, mà không dựa vào tính cách chuyên nghiệp, kỹ thuật hay văn hóa giáo dục.
Nhập cảng một chiếc xe hơi, người tiêu dùng phải đóng thuế hơn 200% tại Việt Nam. Chuyển tiền lấy Visa Đầu Tư thì lại không có thuế!
Chuyển được số tiền lớn 500,000 dollars từ Việt Nam thì tất cả đều sử dụng phương thức CHIA CHÁC, THAM NHŨNG, LƯỜNG GẠT, ĂN CẮP, ..., những phương thức không lương thiện.
Tham quan, trọc phú, thương gia lại còn chấp nhận giao thiệp, bán buôn những sản phẩm có hại cho an ninh quốc gia như bán cát biển cho Trung Quốc xây dựng căn cứ quân sự tại những hải đảo cướp được của Việt Nam, như cho phép mở xí nghiệp làm ô nhiễm môi trường sống, hay môi trường kinh tế. Ô nhiễm này sẽ tồn tại hàng trăm năm.
Và bao nhiêu những chuyện đau xót như thế không kể hết.
Trả lời thế nào cho hậu thế?
Mỗi một năm qua là một năm mất đi.
Thời gian qua mau …
Các nước Nhật và Đức chỉ cần 15 năm để phục hưng, Đài Loan 25 năm.
Việt Nam và Tương Lai Việt Nam?
ĐAU KHỔ của Mẹ VIỆT NAM đã như Trời như Biển. Không giọt lệ nào có thể làm nguôi đi.
Làm thế nào để đền đáp công ơn Tổ Quốc?
Chỉ còn một đường là phục hưng “DIÊN HỒNG” để lấy lại hết những gì Mẹ Việt Nam đã mất. Mất vì ngoại bang hay mất vì những đứa con lạc đường.
Đây là một bổn phận thiêng liêng cho dù phải làm qua nhiều thế hệ.
Đã đến lúc phải làm Lịch Sử cho quê hương theo chiều hướng khác mà không còn là Lịch Sử tang tóc hay nô lệ.
Mong những đớn đau của Mẹ Việt Nam trở thành động lực để biến đổi quê hương dân tộc: biến đổi thành một QUỐC GIA NHỎ NHƯNG DÂN TỘC LỚN.
Đây là tiếng kêu gọi tha thiết gởi đến TUỔI TRẺ VIỆT NAM: phải vương lên làm SẠCH VÀ TÁI THIẾT lại Tổ Quốc.
Paris, ngày cuối năm 31/12/2019