Đã lâu lắm rồi, tôi không thể nào tìm lại được mùi hương Tết, có lẽ sẽ không bao giờ. Đó là mùi thơm mát của vôi quét tường vào mỗi dịp Tết và mùi pháo đêm Giao Thừa. Mùi pháo thì ai (những người trên 60 tuổi) cũng biết, nhưng mùi pháo của đêm Giao Thừa mới có mùi đặc biệt, khi nhà nào cũng đồng loạt đốt, chứ sau đó tới “mùng”, pháo vẫn đốt nhưng lẹt đẹt mùi không nồng nặc như trong đêm Giao Thừa.
Đốt pháo đêm Giao Thừa quan trọng và có ý nghĩa “tống cựu nghinh tân”, nên hầu như nhà nào cũng đốt: giàu thì pháo nồi mấy chục thước, nghèo thì một phong pháo chuột, cũng xong.
Ngoài hương còn vị và việc: vị Tết là có một số món ăn chỉ được ăn vào dịp Tết, cũng như một số việc chỉ cần làm cho năm mới. Đó là ngày đầu năm mọi thứ phải sạch bóng: tường quét vôi, dọn dẹp bàn thờ, giặt màn cửa, ...
Mẹ tôi có 7 đứa con, đứa nào cũng có một việc phải làm vào dịp Tết, và mức phải hoàn tất công việc là ngày cúng “Ông Táo”.
Hai ông anh lớn phải làm việc nặng là quét vôi các bức tường, công việc này kéo dài 1 tuần. Việc đầu tiên là ngâm vôi với a giao (chất keo cho vôi dính vào tường) trong thùng phuy. Vôi sôi ùng ục, phải tránh xa kẻo bị phỏng khi nước vôi văng vào người. Sau đó dùng cái rây để lọc bỏ cặn, chổi quét giống như chổi lúa quét nhà, nhưng bó tròn, lõi là cây gỗ tròn làm cán.
Đồ đạc kéo ra giữa nhà, đầu tiên quét bức tường ở cửa trước, rồi mới đi dần vào bên trong. Quét từ phòng khách, còn dư mới tới nhà bếp, nếu thiếu thì thôi, không sao. Nhưng quan trọng nhất là mặt tiền và phòng khách, vì sợ khách tới thăm, chê nhà cửa nhếch nhác.
Nhiều nhà giàu pha vôi nhiều quá, chỗ dư cho nhà nghèo trong xóm. Nhiều khi cũng chỉ đủ cho vách tường phía trước, nhưng cũng tạm coi được (nhà nghèo chẳng có ai thăm viếng), nhờ vậy vào ngày Tết, cả xóm trông thật rực rỡ, sạch sẽ.
Mấy ông anh lớn sau khi quét vôi nhà, còn phải đi tới nghĩa trang (tận Hóc Môn, Quang Trung), để quét vôi và làm cỏ mộ ông bà. Còn tôi, con gái lớn phụ mẹ nén dưa cải, làm dưa món, mắm tôm chua, thịt ba rọi luộc ngâm nước mắm. Đó là mấy món làm trước 3 tuần (tới Tết là vừa ăn). Cô em và cậu em còn nhỏ cũng có việc nhẹ nhàng là chùi bộ lư hương bằng tro bếp.
Mẹ tôi hò hét mọi người khi lịch vừa qua đầu tháng Chạp, chứ bản thân mẹ mới là nhân vật quan trọng lo mọi thứ cho Tết.
Trước Tết ba tháng, mẹ tôi nuôi một con heo mọi và một con gà trống tơ. Con heo mọi nhỏ như con chó, nên được chạy lũn cũn trong nhà, riêng con gà thì phải thiến.
Mẹ tôi bảo gà trống thiến cho nhiều thịt, vì không tốn sức đạp mái. Trên trần đời này, tôi không thấy người đàn bà nào dạn tay như mẹ tôi, con nào chui vô nhà tôi đều bị thiến. Chó thì khỏi đi hoang, tránh lùng sục đi tìm chó cái, gà thiến mau lớn cho nhiều thịt.
Nuôi heo mọi, khỏi lo làm chuồng, khỏi nhờ người giết, lượng thịt đủ cho cả nhà ăn Tết, không cần phải chia chác với ai.
Lo xong phần thịt, mẹ tính tới phần bánh và xôi chè. Mẹ tôi không gói bánh chưng mà làm bánh nếp cho gọn. Ngâm gạo một đêm rồi đem xay, sau đó bỏ vô túi vải (thường là túi bột mì viện trợ của Mỹ, có hình hai bàn tay vắt chéo), dùng cái cối đá đè lên túi bột. Tới chiều tối mới bắt đầu nặn bánh. Nhân là đậu xanh giã trộn dừa non thái chỉ, có thêm chút đường. Vỏ bánh màu đỏ cam vì trộn với gấc, nên gọi là bánh gấc.
Mẹ tôi không chú trọng phần mứt, dù thỉnh thoảng cũng có làm, nhưng thường là những loại mứt dễ làm như mứt dừa, mứt gừng, mứt dứa. Tuy nhiên chè là món không thể thiếu trong ngày Tết, mẹ tôi chỉ nấu chè kho và chè hoa cau. Chè kho làm trước Tết mấy ngày, vì để được lâu. Còn chè hoa cau đợi sáng Mùng Một mới nấu (cúng chay) để ăn với xôi vò.
Lưỡi là phần “khôn” nhất trong các giác quan của con người. Tai nghe, mắt nhìn, tay sờ, mũi ngửi còn có thể lầm, chứ lưỡi thì không. Ngon dở gì vừa nếm là lưỡi biết ngay, bởi vậy chè kho lúc nào cũng thiếu, còn chè hoa cau thì ế ơi là ế. Chè gì mà chỉ có bột năng quậy với đường rồi rắc trên mặt vài hột đậu xanh, cũng thoang thoảng mùi nước hoa nhài, nhưng không hấp dẫn trẻ con. Chè kho giống như bánh đậu xanh, ăn vô cùng hấp dẫn. Chè không đựng trong chén mà đổ vào đĩa, rồi cắt ra từng miếng (tay có thể cầm lên)
Cuộc đời của những bà nội trợ chỉ lo có 2 ngày quan trọng, đó là ngày giỗ và ngày Tết, mẹ tôi cũng không ngoại lệ. Suốt năm luôn dành dụm một ít mỗi tháng để lo cho Tết, quần áo giày dép con cái cũ sờn, cũng hẹn đến Tết mới được mua cái mới. Anh Cả, cậu Út đi lính ở xa về thăm nhà, lúc chào từ giã, thế nào mẹ cũng hỏi: “Thế Tết có về không?”. Radio gần Tết phát hoài bản nhạc “Xuân này con không về”, với câu mở đầu “Con biết bây giờ mẹ chờ em trông”.
Tất cả mọi thứ chuẩn bị làm cho không khí Tết càng thêm rộn ràng. Trẻ con mong Tết mau đến để được tiền mừng tuổi, được nghỉ học cả tuần, được ăn ngon, nhất là bánh kẹo rất nhiều. Còn một điều vô cùng quan trọng là không bị la mắng vào ngày Tết. Chao ôi, sung sướng như thế mà bảo sao ai không mong Tết.
Hình như ngày xưa chỉ có Tết mới có thức ăn (nhiều thức ăn hơn), còn các ngày khác gọi là Lễ: Lễ Giáng Sinh, Lễ Vu Lan, Lễ Giỗ Tổ (Giỗ Tổ Hùng Vương), chú trọng phần lễ bái nhiều hơn phần ẩm thực.
Lưu lạc xứ người, nhất là ở xứ Mỹ cứ khoảng độ 2 tháng là có một ngày nghỉ (holiday).
Nhờ đời sống sung túc, nên vào bất kỳ ngày nghỉ holiday nào ở Mỹ, người ta cũng ăn uống tưng bừng, chứ không phải chờ “no ba ngày Tết” như ở Việt Nam. Vì vậy New Year ở hải ngoại không mang ý nghĩa thiêng liêng như ngày Tết Nguyên Đán Việt Nam. Ngay từ hồi còn nhỏ, chúng tôi thấy bố mẹ chuẩn bị mọi thứ cho ngày đầu năm vô cùng kỹ lưỡng. Dù đồng lương giới hạn, nhưng mỗi đứa con cũng có ít nhất một bộ quần áo, một đôi giày săng-đan, hay một đôi dép mới. Dĩ nhiên chẳng có kiểu cọ màu sắc loè loẹt, bởi vì quần áo mới mặc Tết, sau đó để mặc đi học. Chỉ có vậy thôi, nhưng các con của mẹ vui lắm, đứa nào cũng răm rắp chu toàn bổn phận mẹ giao. Người ta thường nói “Già được bát canh, trẻ manh áo mới”. Có quần áo mới mừng hơn cho bánh quà, đồ chơi. Bánh quà thì thỉnh thoảng cũng có chút đỉnh khi mẹ đi chợ về, chả thế mà người ta ví “mong như mong mẹ về chợ”.
Đồ chơi là thứ xa xỉ, không có dành cho con nhà nghèo. Không hề gì, tuổi thơ vẫn hồn nhiên với trò chơi không tốn tiền: chơi u, tạt lon, bịt mắt bắt dê cho con trai, hay giải gianh, đánh chuyền cho con gái. Mùa nào thứ nấy, đến Tết thì con trai lượm pháo lép hay pháo chuột chưa nổ, rồi bỏ đốt từng cái, có cái lon sữa bò úp lên trên, giả làm “pháo thăng thiên”. Con gái thì lấy vỏ bưởi được cắt còn giữ nguyên vòng để chơi đồ hàng, hay úp lên đầu giả làm khăn đóng cô dâu, …
Mọi thứ tất bật lo cho ngày Tết đã bị chìm vào quên lãng từ ngày mất nước 30/4/75, cả nước thất nghiệp, nhất là những gia đình có cha anh bị bắt vô tù, chữ Tết không bao giờ được nói đến. Ngày thường còn không đủ ăn, nói chi ngày Tết, dù rằng người ta vẫn nói “Đói ngày giỗ cha, no ba ngày Tết”. Giỗ cha phải làm thịnh soạn, nhưng người ta kéo đến đông quá, nên chủ nhà phải nhịn (đói), còn Tết thì nhà nào cũng có thức ăn, chẳng ai bị đói, nhưng con của các gia đình có bố đi tù vẫn đói như thường.
Pháo nổ tưng bừng thời VNCH, nhưng sau biến cố Tết Mậu Thân 1968 thì bị cấm vĩnh viễn. VC đã lợi dụng tiếng pháo nổ để làm cuộc tấn công, vi phạm hiệp định ngừng bắn.
Kể từ khi có biến cố Tết Mậu Thân và ngày 30/4 kinh hoàng, Tết không còn là niềm vui trọn vẹn cho những người dân miền Nam. Tết trở thành ngày tưởng nhớ những người thân bị sát hại vào ngày có hai biến cố trên. “Một con ngựa đau, cả tàu không ăn cỏ”, đó là cái tang chung, là ký ức không bao giờ phai nhạt cho tất cả người dân miền Nam.
Vận nước nổi trôi đã đưa làn sóng người Việt chạy trốn ra nước ngoài, tránh sống với Cộng Sản. Xuân về nơi quê nhà, nhưng quê người là mùa Đông lạnh giá, người Việt vẫn duy trì nếp sống văn hóa truyền thống. Ở những thành phố lớn có đông người Việt như Cali, Toronto, Sydney, Paris, ... chúng ta có thể thấy mọi sinh hoạt của ngày Tết khi xưa được phục hồi. Các hội đoàn cũng lập ra bàn thờ Tổ (Vua Hùng Vương) với khói hương nghi ngút, để nhắc nhở mọi người: “Cây có cội, nước có nguồn”.
Tết là phải có báo Xuân, hoa mai, hoa đào, hoa cúc, hoa lan.
Tết là phải có:
Thịt mỡ, dưa hành, câu đối đỏ,
Cây nêu, pháo, bánh chưng xanh.
Trẻ con được mặc quần áo mới đi chúc Tết ông bà, và có tiền mừng tuổi. Đây là tiền ông bà cho con cháu để mừng cho cháu được thêm một tuổi, có nghĩa là các cháu sẽ khôn lớn hơn, học hành giỏi giang hơn. Vì vậy nên gọi là “tiền mừng tuổi”, không gọi theo tiếng Tàu “lì xì” là tiền hoa hồng. Chữ lì xì bị lạm dụng, trở nên méo mó hiểu ngầm là đút lót. Một thứ tham nhũng đã trở thành vấn nạn ở Việt Nam.
Con cháu chúc ông bà khoẻ mạnh sống lâu trăm tuổi, thì ông bà mừng cho cháu. Mọi người qua lại thăm viếng nhau đó là nét đẹp văn hóa của ngày Tết Việt Nam.
Cả năm không cần qua lại, nhưng ngày Tết mà không hỏi thăm nhau, đó là một thiếu sót lớn.
Mọi thứ tốt đẹp đều dành cho Tết, vì vậy tôi viết hoa chữ Tết để cho thấy ngày Tết khác ngày thường.
“Tết chẳng riêng ai khắp mọi nhà”.
Tết yêu thương, Tết hạnh phúc.
Hoa bướm ngày Xuân chẳng thiếu gì. Xin chúc cho tất cả mọi người một mùa Xuân như ý, hy vọng: Xuân này cuộc sống sẽ tốt đẹp hơn những xuân qua.
Lại Thị Mơ