KÝ BÚT

Thay lời tựa.

Trong cuộc sống xã hội và nghề nghiệp, tôi có nhiều cơ hội trải nghiệm những Sứ mệnh có tính cách chính trị địa dư (géopolitique). Đây là những câu chuyện nhỏ ghi lại qua hình thức bút ký, xin chia sẻ cùng anh em.

Tôi chỉ ghi lại hai Sứ mệnh có sắc thái đặc biệt: Sứ mệnh tại Việt Nam năm 1982 (Việt Nam 7 năm sau chiến tranh, giai đoạn đen tối nhất của lịch sử) và Sứ mệnh tại Kênh Jonglei (Tái thiết một hệ thống văn phòng Điện Toán trong bối cảnh chiến tranh sa mạc tại Nam Soudan).

Trên tinh thần này, khi ghi lại những Sứ mệnh tại Việt Nam năm 1982 hay các nơi khác, tôi sẽ không đề cập đến những đụng chạm gay go trong những lần tiếp xúc với các cơ quan chính trị, nhất là an ninh, cảnh sát, công an của chính quyền địa phương.

1. Sứ mệnh TẠI VIỆT NAM NĂM 1982

Bảy năm sau đình chiến …

Sau ngày 30/04/1975, ngoại trừ các nước thuộc khối cộng sản, phía Thế Giới Tự Do chỉ còn Pháp là quốc gia duy nhất thiết lập quan hệ ngoại giao với Việt Nam trên cấp bực Đại Sứ.

Tòa Đại Sứ Pháp có thêm nhiệm vụ làm đại diện và bảo vệ quyền lợi cho một số lớn các nước Âu Châu.

Trong chức vụ International Technical and Support Department Director của Công Ty R.E.E. tại Pháp, tôi phải đi nhiều Sứ mệnh ở nhiều quốc gia.

Câu chuyện này xảy ra trong bối cảnh chiến tranh lạnh giữa hai khối Thế Giới Tự Do và Khối Cộng Sản. Biên giới của hai khối được giữ chặt chẽ. Không khí liên lạc giữa hai khối rất ngột ngạt và căng thẳng.

Dưới thời Tổng Thống François Mitterand (1981-1988) thuộc Đảng Xã Hội, Chính Phủ Pháp có khuynh hướng mở rộng biên giới ngoại giao với các nước cộng sản. Bộ Ngoại Giao Pháp thiết lập nhiều chương trình Hợp Tác Văn Hóa và Kỹ Thuật, ngay cả triển lãm kinh tế với các nước này.

Tháng 10 năm 1981, Bộ Ngoại Giao Pháp chuyển thơ cho Công Ty R.E.E. báo tin muốn mua sáu máy vi tính để viện trợ cho Việt Nam trong chương trình hợp tác và viện trợ văn hóa. Trong thời điểm bấy giờ, máy vi tính là những thiết bị mắc tiền, hiếm và chỉ được dùng trong lãnh vực quốc phòng. Theo chương trình này, sáu máy được phân phối như sau: ba máy dành cho Faculté des Sciences ở Saigon và ba máy cho Ủy Ban Khoa Học Kỹ Thuật Nhà Nước ở Hà Nội.

Xin nhắc thêm, hơn mười năm sau 1975 hệ thống Đại Học Khoa Học của miền Nam vẫn còn giữ cách tổ chức và chương trình của hệ thống Đại Học Pháp.

Đại diện Bộ Ngoai Giao Pháp sợ Hội Đồng Giám Đốc của Công Ty R.E.E. từ chối đơn mua hàng này. Họ tổ chức nhiều buổi họp với chúng tôi để trình bày mục tiêu của chuyện đặt hàng này. Phòng Kinh Tế của Bộ Ngoại Giao Pháp còn muốn đi xa hơn nữa, họ sẽ áp dụng công thức và mô hình này qua Thái Lan và nhiều nước Trung Đông thân Pháp.

Sau buổi họp và thảo luận lần thứ ba, Công Ty quyết định chấp thuận đơn mua hàng của Bộ Ngoại Giao. Quyết định này có thêm mục đích: tránh Đảng Cộng Sản Pháp đang ở trong Nội Các Chính Phủ có thể chính thức và hợp pháp đứng tên mua thiết bị, nhưng sau đó sẽ chuyển lậu về Việt Nam. Hậu quả là những thiết bị này sẽ nằm ngoài vòng kiểm soát của Công Ty chúng tôi.

Tổng Giám Đốc giao trách nhiệm cho tôi phải tổ chức kế hoạch từ giao hàng và đặt máy, nhất là phải bảo đảm an ninh công nghệ (sécurité technologique – technological security) và bảo toàn luôn quyền sở hửu trí tuệ của Pháp cho các thiết bị.

Chủ Tịch Tổng Giám Đốc của Công Ty cũng điện thoại cho vợ tôi xác nhận những biện pháp bảo vệ an ninh cho tôi và mọi nhân viên tháp tùng tôi trong Sứ mệnh này.

Hà Nội đề nghị những điều kiện sau đây và được Bộ Ngoại Giao Pháp chấp thuận:

- Visa vào lãnh thổ Việt Nam giới hạn HAI NGƯỜI.

- Thời hạn của Visa là BỐN NGÀY và phải xin tái cấp mỗi bốn ngày.

- Vì vấn đề AN NINH rất quan trọng, Bộ Ngoại Giao Pháp cam kết theo dõi mọi hoạt động của tôi, đồng thời cử thêm một nhân viên có kiến thức cao về kỹ thuật và điện tử đồng thời giữ vai trò Phụ Tá và cận vệ cho tôi. Kỹ Sư Thibault Peuchot được chỉ định thi hành nhiệm vụ này.

- Bây giờ nói về vấn đề chuyên chở Pháp - Việt Nam. Mỗi tuần mới có MỘT chuyến bay AIRFRANCE đến và đi Việt Nam. Lộ trình của chuyến bay này: PARIS – BANGKOK – SAIGON – HANOI.

Bộ Ngoại Giao Pháp sẽ giúp tôi đi tìm người thân trong gia đình tôi và gia đình bên vợ.

……..

Chuyến bay …

Thứ Tư, … tháng 09 năm 1982

Tôi và Thibault Peuchot (gọi là Thibault trong chuyến đi) rời Paris. Chiếc B 747 đông khách, gần 2/3 máy bay. Đến Bangkok khoảng 8 giờ sáng, tất cả mọi người đều xuống …

Gần như phi trường Bangkok là chặng cuối cho mọi hành khách. Trên chặng đường còn lại: Bangkok – Saigon, ngoài phi hành đoàn (5 người), chỉ còn có hai hành khách: tôi và Thibault và hai nhân viên của AIRFRANCE được thuyên chuyển từ Bangkok để đi Việt Nam làm việc.

Theo chương trình được hoạch định từ Paris với Bộ Ngoại Giao Pháp, chúng tôi bắt đầu công tác tại Hà Nội (3 ngày), sau đó mới vào Saigon (3 ngày).

Khoảng 11 giờ trưa máy bay hạ cánh xuống phi trường Tân Sơn Nhất, Saigon trong một khung cảnh vô cùng tiêu điều. Từ trên trời cao nhìn xuống những vết tích của bom đạn vẫn hiện diện như những nhân chứng lịch sử.

Hành khách còn lại chỉ có tôi và Thibault vẫn ngồi trên máy bay để chờ một giờ sau sẽ cất cánh ra Hà Nội. Tôi đứng bên cửa máy bay bùi ngùi nhìn khung cảnh phi trường Tân Sơn Nhất.

Thình lình, một chiếc xe Công An gắn loa chạy đến bên cạnh máy bay gọi tên tôi và mời “phái đoàn Pháp” xuống máy bay để gặp người “Tiếp Tân”. Phi Công Trưởng cùng phi hành đoàn đã biết lộ trình của tôi từ Paris. Vị Phi Công Trưởng đến hỏi ý tôi và để tôi quyết định: hoặc là tôi đi Hà Nội theo chương trình từ Paris, hoặc là tôi xuống Saigon ngay bây giờ theo lời mời của Công An “Tiếp Tân”! Người Phi Công Trưởng tử tế này cũng cam kết bảo vệ tôi và Thibault nếu tôi không muốn thay đổi lộ trình và vẫn ở trên máy bay (“Territoire de France”).

Tôi nghĩ đến mục tiêu của chuyến đi này, những mục tiêu đã được quyết định từ Paris:

1. Thiết lập 3 máy vi tính cho Faculté des Sciences ở Saigon

2. Thiết lập 3 máy vi tính cho Centre National de Recherche Scientifique (Ủy Ban Khoa Học Kỹ Thuật Nhà Nước)

3. Tìm người thân và bạn bè ở Saigon

4. Bảo vệ những Kỹ Thuật Công Nghệ để không rơi vào tay của người ngoại quốc (Đông Đức và Cuba).

Tôi trấn an mọi người và quyết định cùng Thibault xuống phi trường Tân Sơn Nhất.

Bắt đầu chuyến công tác, một Sứ mệnh …

Tôi nhờ người Phi Công Trưởng báo tin cho Tòa Đại Sứ Pháp về mọi thay đổi trong chương trình đã được sắp đặt. Nên nhớ trong thời buổi bấy giờ không có phương tiện thông tin, dùng điện thoại cũng rất khó khăn. Cuộc sống lúc bấy giờ không có những phương tiện liên lạc, truyền thông như ngày nay.

Có năm người ra đón tôi và Thibault: Nguyễn Ngọc Trân, Tiến Sĩ Toán Học tốt nghiệp tại Paris (Tôi và Trân đã từng có những xung đột vì chính kiến khác nhau không biết bao nhiêu lần ở Faculté des Sciences d’Orsay, phía Nam Paris); người thứ hai, Trần Lưu Chương, Giám Đốc Ủy Ban Khoa Học Kỹ Thuật Nhà Nước; ba người khác, tôi không biết là ai, tôi nghĩ họ là nhân viên Công An, chính họ tự xưng là “có nhiêm vụ bảo vệ cho tôi và Thibault.

Chúng tôi lên xe và không phải qua cửa kiểm soát của Cảnh Sát Biên Phòng và được đưa tới Khách Sạn Cửu Long (tên cũ trước 30/04/75: Hotel Majestic).

Từ lúc nhận phòng cho đến mọi lúc, đi ra ngoài hay dùng cơm trong nhà hàng, những “nhân viên” gọi là “bảo vệ” cho chúng tôi làm đủ mọi cách để tôi và Thibault không thể nào liên lạc hay tiếp xúc với người bên ngoài, ngay cả tiếp xúc với nhân viên Tiếp Tân của khách sạn.

Thibault làm đúng nhiệm vụ là không rời tôi nửa bước và còn có trách nhiệm bảo vệ mọi hồ sơ liên quan đến công việc.

Tất cả mọi cửa phòng đều không có ổ khóa! Ngay cả tủ trong phòng cũng không có ổ khóa!

Khách sạn này không có khách Việt Nam, tất cả khách đều là khách ngoại quốc.

Tôi chỉ tạm nhận biết các khách ngoại quốc là người nước nào: nếu nói tiếng Tây Ba Nha, họ là những cán bộ Cuba, nếu nói tiếng Đức, họ là những cán bộ Đông Đức, ...

Khách sạn được canh gác cẩn mật như một khu quân sự.

…...

Mái trường Đại Học Khoa Học của tôi ...

Ngày thứ Sáu, … tháng 09 năm 1982

Ngày làm việc tại Faculté des Sciences Saigon.

Không ngờ tôi trở lại trường cũ trong hoàn cảnh đen tối và tan nát của đất nước: Ô!… La Faculté des Sciences của Saigon. Bao nhiêu kỷ niệm thời sinh viên ở Việt Nam! Tôi nhìn lên lầu 3, nơi tôi học Toán Học Đại Cương với Giáo Sư Monavon. Xúc động! Không gặp lại hình ảnh náo nhiệt mà tôi đã biết hai mươi năm trước. Đã đúng hai mươi năm, tôi đã rời nơi mình đang đứng. Tôi không gặp lại một khuôn mặt quen thuộc nào. Hình như không còn một ai quen biết ở lại đây.

Trường thật lặng lẽ, lạnh lẽo. Nhiều sinh viên tò mò muốn đến gần trò chuyện với tôi đều bị các nhân viên Công An cản lại.

Nhiều gia đình sống hẳn trong các phòng học, bếp núc làm ngay trong phòng. Các gia đình này đến từ miền Bắc.

Mặc dầu đã chuẩn bị tinh thần từ Paris cho mọi hình ảnh bi quan nhất, tôi không tránh được một nỗi buồn tê tái, một nỗi buồn đau xót.

Nhìn núi thùng carton chứa giàn máy tính và những thiết bị phụ thuộc, Bộ Ngoại Giao Pháp đã cẩn thận chuyên chở đến đây, tôi đo được những khó khăn đang chờ tôi trong Sứ mệnh này.

Trong đầu tôi nhiều ý nghĩ mâu thuẫn lẫn những nỗi đau.

Tôi giữ ý nghĩ cuối cùng là nếu không có gì trắc trở xảy ra cho tôi hay cho Thibault, tôi sẽ thực hiện đúng như mục tiêu yêu cầu của Bộ Ngoại Giao Pháp: để lại giàn máy vi tính, những hiểu biết mới cho thế hệ trẻ của Đại Học Khoa Học Việt Nam.

Với thời gian, được mở mang kiến thức khoa học, hy vọng trong tương lai thế hệ trẻ này sẽ xây dựng một thể chế chính trị mới cho đất nước.

Nơi tôi làm việc là tầng thứ hai của tòa nhà đối diện với tòa nhà Toán Học. Hình như đây là tòa nhà Phòng Địa Chất cũ (?).

Chúng tôi làm việc suốt ngày trong hoàn cảnh khó khăn. Những hạ tầng cơ sở đều thiếu thốn đến mức độ không tưởng tượng được, từ sợi dây điện cho đến những thiết bị nhỏ nhặt, cọng thêm những khó khăn về kỹ thuật của thời bấy giờ như chưa có Hard disc, O/S, … mà thời gian làm việc lại rất ngắn ngủi theo chương trình công tác.

Đi tìm người thân …

Vừa làm việc, vừa không rời ý nghĩ là làm thế nào để có thể tìm lại bạn bè cũ và những người thân trong gia đình … Tôi đã có vài tin tức từ Paris về những người này: họ có thể đang trong tình trạng nguy cấp.

Giờ giới nghiêm ở Thành phố Saigon là 22 giờ, nhưng một hai giờ trước đó (20 – 21 giờ) ngoài đường đã bắt đầu vắng người. Rất nhiều khu phố không có điện. Trong tình trạng đó, việc thực hiện ý định đi tìm người thân sau bữa cơm tối ở khách sạn quả thật là một chuyện táo bạo với những hậu quả không thể biết trước được.

Vấn đề khó khăn nữa là sự hiện diện của nhiều công an tại khách sạn và những người công an có nhiệm vụ theo sát tôi và Thibault.

Ba mẹ tôi đã mất, tôi chỉ còn phải đi tìm ba mẹ và những người trong gia đình bên vợ. Tôi nhất quyết đi tìm họ, nhưng tôi chỉ có địa chỉ cũ (tên đường thời VNCH). Nên nhớ thêm là tôi không thể nói chuyện hay tiếp xúc với bất cứ người Việt Nam nào.

Tôi ngỏ lời về ý định của tôi với những người công an có nhiệm vụ theo tôi và Thibault đi tìm lại người thân trong gia đình (bên vợ). Người Tổ Trưởng trả lời rằng họ phải báo cáo lên cấp trên. Ngay sau đó tôi được tin họ chấp thuận đưa tôi đi tìm người thân với điều kiện tôi không được dắt Thibaulttheo! Nhưng theo quy định từ Paris, Thibault không được rời tôi nửa bước! Thật Khó nghĩ! Tấn thối lưỡng nan.

Sau cùng tôi quyết định: Thibault ở lại khách sạn để bảo vệ những tài liệu về công việc và những tài liệu kỹ thuật liên quan đến các thiết bị.

Ba người công an tìm được địa chỉ nhà ba mẹ vợ tôi. Tôi và ba nhân viên công an đi vào nhà này. Mọi người đều sửng sốt và sợ hãi. Người nhà bên vợ tôi chỉ biết tôi qua những hình ảnh tôi đi du học, hình đám cưới, … và chưa gặp tôi một lần nào.

Trong không khí “lạnh tanh” về đêm, dưới ánh sáng lung linh của ngọn đèn dầu, tôi được gặp mọi người trong gia đình bên vợ gồm: ba mẹ vợ, em gái, em trai và vợ chồng người anh cả. Người anh cả là một bác sĩ nổi tiếng ở Saigon, bác sĩ Y Khoa cũ của VNCH. Tôi nhớ lời căn dặn của Trần Lưu Chương: “Anh Long đừng để phiền hà cho người ở lại, khi anh ra đi về Pháp.”

Không khí buổi nói chuyện với những người trong gia đình bên vợ rất lạnh lẽo vì sự hiện diện của công an.

Thình lình anh công an tài xế lái xe thỏ thẻ bên tai tôi:

- Anh Long ơi! Có phải đây là Bác Sĩ Võ Thành Phụng?

Tôi trả lời:

- Đúng rồi! Đây là Bác Sĩ Võ thành Phụng, làm việc tại Bệnh Viện Chợ Rẫy.

Anh công an nói thêm:

- Nhờ anh Long nói với Bác Sĩ Phụng là em có người con gái mà hai bác sĩ miền Bắc mổ ruột dư. Không biết họ mổ làm sao mà con em chết lên chết xuống từ cả tháng nay. Em nhờ Bác Sĩ Phụng coi và mổ lại.

Tôi quay qua anh Phụng:

- Anh Phụng coi dùm con gái của anh đây. Nghe nói cô ấy bị bác sĩ miền Bắc mổ ruột dư mà gặp khó khăn.

Anh Phụng hứa với tôi là sẽ coi cháu này ngay ngày mai.

Ngay sau đó tôi thoáng thấy một thay đổi lớn trong ánh mắt của anh công an, tài xế lái xe, một sự mừng rỡ, một lời biết ơn.

Không khí buổi gặp gỡ gia đình này rất nặng nề. Vì có sự hiên diện của công an xung quanh tôi, những người trong gia đình không ai dám nói điều gì, ngay cả chuyện hỏi thăm thông thường, chỉ biết lặng lẽ nhìn tôi …

Sáng thứ Bảy, … tháng 9 năm 1982

...…

Theo chương trình của phía Việt Nam, tôi sẽ thuyết giảng và trình bày về giàn máy vi tính với nhân viên giảng huấn của Faculté des Sciences. Trong thành phần thính giả, tôi gặp lại nhiều khuôn mặt của những nhân viên công an có mặt tại khách sạn Cửu Long, và hiển nhiên cũng có thêm những nhân viên công an có nhiệm vụ đi theo tôi và Thibault.

Thình lình từ xa tôi gặp lại một người bạn cũ tên là Trương Thiệu Hùng, bạn thân cùng học lớp Đệ Tam 3B1 (Classe Seconde), Hùng chắc có nhiều điều muốn nói riêng với tôi. Thấy thái độ của Hùng không tự nhiên, ba nhân viên công an đứng bật dậy ngay. Họ bắt đầu phản ứng.

Phần tôi, một mặt phải báo cho anh Hùng rằng tôi không thể tiếp chuyện riêng với anh, một mặt tôi phải ngăn chận hành động bất ngờ của những người công an này đối với Hùng. Tôi nói khẽ với họ: “Đây là bạn học cũ của tôi.”. Họ thay đổi thái độ, nhưng vẫn ngăn chận mọi liên lạc giữa tôi và Hùng. Tôi và Hùng không nói với nhau được một lời nào. Lạnh lẽo, tê tái.

(Anh Trương Thiệu Hùng về sau này qua được Mỹ và sống với gia đình ở Houston.)

Đi tìm mộ phần của những người thân…

Saigon, chiều thứ Bảy, ... tháng 9 năm 1982

Để trả ơn cho việc tôi giúp đứa con gái, anh công an lái xe tên Tân hỏi chiều thứ Bảy tôi muốn đi tìm bà con hay gia đình nào nữa không.

Tôi trả lời là trong chuyến đi công tác này, tôi muốn đi tìm mộ phần của ba má, chú, bà ngoại và người dì, chị của mẹ tôi.

Tất cả mộ phần của những người thân này đều ở Bắc Kỳ Nghĩa Trang gần Tân Sơn Nhứt, nay Nghĩa Trang này là khu quân sự, mọi người dân đều bị cấm ra vào.

Anh công an Tân hứa sẽ xin được giấy tờ đặc biệt cho tôi được ra vào khu quân sự Bắc Kỳ Nghĩa Trang để tìm mộ người thân.

Tôi đã cùng với anh Tân và một người công an khác đến được Nghĩa Trang. Tôi đã tìm được năm ngôi mộ: ba, má, chú, bà ngoại và một người dì, chị của mẹ tôi.

Niềm ao ước của tôi đã được toại nguyện phần nào trong chuyến đi này.

Tôi không kể ra đây những đụng chạm căng thẳng giữa tôi, Thibault và các nhân viên công an có nhiệm vụ theo sát chúng tôi, nhất là đối với Thibault luôn luôn trung thành với nhiệm vụ cận vệ cho tôi và giữ gìn cẩn thận mọi tài liệu làm việc.

Lúc về khách sạn, khoảng 17 giờ, anh Tân nói với tôi một cách thân mật:

- Anh Long, em biết trong những ngày vừa qua, anh rất bực dọc vì tụi em “lo an ninh” cho anh, anh không được tự do. Để trả ơn về chuyện Bác Sĩ Phụng giúp đỡ cho con gái em, chút nữa đây, khi em đưa anh Long về khách sạn, em sẽ khai bị bệnh. Sau đó, anh Long muốn đi đâu thì cứ tự do đi. Nhớ tránh mọi chuyện lôi thôi với công an ngoài đường, và có đi đâu anh cũng phải về khách sạn sớm trước giờ giới nghiêm (22 giờ).

Tôi quyết định đi tìm một người bạn rất thân, tốt nghiệp Kinh Tế Paris, vừa đi học tập về (theo lời người vợ tên là Hạnh đang ở Pháp). Anh này tên là Nguyễn Đại T. (tạm gọi là NĐT).

Tôi và NĐT quen nhau lúc NĐT từ Belgique qua Paris học, khoảng năm 1968, trước khi có gia đình. Cả hai chúng tôi đều cùng chí hướng chính trị, rất thân với nhau hơn nhiều người khác, nhất là trong những ngày khói lửa tàn khốc tại quê nhà.

Cả hai cùng hiện diện trong nhiều hoàn cảnh, như trong cuộc đấu tranh chiến tranh chính trị quốc gia - cộng sản tại Pháp.

Sau khi tốt nghiệp năm 1972, NĐT về nước, hình như làm việc trong Ngân Hàng Quân Đội.

Sau khi VNCH thua cuộc, tôi được tin NĐT bị đày trong một trại cải tạo, một trong những trại “khủng khiếp và tàn ác nhất” ở vùng biên giới Việt Nam - Trung Quốc.

Hạnh (vợ cũ của NĐT) cho tôi biết tin NĐT vừa được thả từ trại cải tạo và đang sống tại Saigon. Hạnh có đưa tôi địa chỉ. Tuy nhiên, có trong tay địa chỉ không có nghĩa là dễ dàng để đi tìm NĐT vì nhiều lý do. Suốt ngày làm việc, chúng tôi không thể tiếp xúc với ai vì sự hiện diện của công an xung quanh. Sau này tôi còn biết thêm là không ai dám tiếp xúc với chúng tôi vì họ tưởng chúng tôi là người Xô-Viết (người Nga) ??!! đang làm việc cho chính phủ.

Tôi nói ý định đi tìm NĐT với Thibault và phân tích những khó khăn. Khó khăn nhất là lạc lỏng và luôn luôn bị theo dõi trong một thành phố bị thiết quân luật, giới nghiêm (21-22 giờ). Lực lượng an ninh của thành phố đi tuần hành khắp nơi. Passeport và giấy máy bay của tôi và Thibault đã bị nhân viên “an ninh” thu giữ. Họ lấy cớ là để bảo vệ chúng tôi khỏi bị nạn ăn cắp.

Thibault không suy nghĩ gì cả và trả lời ngay là sẽ cùng đi với tôi để tìm NĐT. Anh ta còn hứa sẽ cùng tôi chung vai sát cánh trong mọi hoàn cảnh khó khăn, dù nguy hiểm thế nào đi chăng nữa trong chuyến đi này.

Theo địa chỉ lấy từ Paris, nhà NĐT ở Quận 1, gần Bến Bạch Đằng, cũng gần Khách Sạn Cửu Long.

Không có đèn đường, trời đêm mù mờ ánh sáng, chúng tôi rời khách sạn bằng ngõ sau để tránh sự dòm ngó của nhân viên Tiếp Tân. Như hai bóng ma, hai người chúng tôi âm thầm đi tìm từng dãy nhà. Saigon vào mùa này trời mau tối lắm. Khu phố không có đèn! Khu nhà cũng không có đèn! Tìm được nhà NĐT, chúng tôi phải đi lên lầu. Không đèn, tôi và Thibault phải dùng briquet (quẹt máy) để có ánh sáng đi lên cầu thang.

Thình lình một anh công an đang gác ngay đầu cầu thang chặn chúng tôi lại, anh ta quát: “Đi đâu?!”

Tôi và Thibault ngừng bước. Thibault tiến gần sát tôi, cả hai chúng tôi cố nhìn xung quanh để nhận biết tình hình. Anh công an đến gần nhìn mặt chúng tôi, cố tình cho chúng tôi thấy anh có vũ khí.

Tôi chẫm rãi trả lời: “Tìm em ruột.” Xong tôi bước qua anh công an! Bầu không khí căng thẳng làm tôi cảm thấy ớn lạnh sau lưng. Trong tình thế này tôi không thể quay bước, bắt buộc phải đi tới.

Tôi và Thibault đi lên lầu qua ánh quẹt lửa và tìm được phòng của NĐT.

NĐT kể chuyện bị đày ở trại gần biên giới Tàu, một trong những trại gọi là hãi hùng và khó khăn nhất, tù nhân chết hằng ngày, những cảnh tù nhân bị hành hạ, …

Chúng tôi phải đi gấp về khách sạn vì đã quá giờ giới nghiêm.

Về sau gặp lại Thibault, anh ta vẫn còn giữ những ấn tượng mạnh trong chuyến đi tìm NĐT.

Tôi không thể kể hết những chi tiết và những giai thoại trong vòng mấy ngày làm việc.

Tôi được toại nguyện, được gặp lại bạn cũ trong một hoàn cảnh khó khăn nguy hiểm của Saigon năm 1982.

….

Đi Hà Nội …

...…

Sáng thứ Hai, …. tháng 09 năm 1982

Tôi và Thibault đi từ Saigon ra Hà Nội bằng phi cơ của hãng Hàng Không Việt Nam. Máy bay là một chiếc Tupolev (?!).

Thibault, ở Pháp có bằng lái máy bay, giải thích cho tôi là chiếc máy bay đang chở chúng tôi ra Hà Nội là một oanh tạc cơ cũ, đã được sửa lại thành máy bay dân sự. Chỉ cần nhìn phía “cockpit”, đúng là hình dáng một oanh tạc cơ.

Giám Đốc Ủy Ban Khoa Học Kỹ Thuật Nhà Nước cùng đi với chúng tôi.

Khoảng 11 giờ, máy bay đáp xuống phi trường Nội Bài. Chúng tôi được đưa về Khách Sạn Metropole (Khách sạn này của Pháp để lại từ năm 1954), bây giờ trở thành Nhà Khách Chính Phủ. Khách sạn rất cũ kỹ. Trời nóng, quạt máy trên trần nhà xiêu vẹo, gần như sắp rơi xuống.

Khách sạn cũng chỉ toàn người ngoại quốc, nhiều nhất là người Cuba và người Nga (Tôi nhận biết được khi nghe họ nói chuyện với nhau).

Khách phải ngủ trong mùng để tránh muỗi. Mùng thì cũ mèm, từ lâu không được giặt nên trở thành màu đen vì bụi.

Nhà bếp của khách sạn đóng cửa lúc 13 giờ, lý do chính là thực phẩm bị hạn chế.

…..

Gặp lại chú ruột ...

Giám Đốc Ủy Ban Khoa Học Kỹ Thuật Nhà Nước đi cùng với một công an lái xe đưa chúng tôi đi đến quán phở duy nhất ở Hà Nội dành cho người ngoại quốc. Nghe nói đây là nơi duy nhất có thể nhận khách ngoại quốc (!). Gọi là quán phở, nhưng thực ra là một chiếc xe phở ở ngoài đường, bàn ghế gồm có hai bàn bằng gỗ và sáu ghế đẩu.

Có một lon sữa Guigoz đựng nước lạnh ở giữa bàn để rửa đũa.

Vì không có chỗ để rửa muỗng và đũa, chúng tôi nhờ người bán hàng nhúng vào nồi nước phở.

Đang ăn, thình lình có ba chiếc xe Jeep của Quân Đội đến. Sĩ quan và binh lính đứng bao xung quanh bàn của chúng tôi. Tiếng giày và vũ khí nghe mạnh và khô khan răm rắp.

Thì ra một người chú của tôi, có chức vụ rất cao trong Quân Đội, được tin tôi về Việt Nam trong chuyến công tác này nên đã đến khách sạn tìm tôi và được biết tôi và Thibault đi ăn phở bên ngoài.

Giám Đốc Ủy Ban Khoa Học Kỹ Thuật Nhà Nước đứng nghiêm chỉnh chào chú tôi. Chú tôi, trước khi đến gặp tôi, lên tiếng khiển trách ông Giám Đốc này:

- Cháu tôi về đây công tác, đồng chí đã đưa đi ăn ngoài. Lỡ cháu tôi bị ngộ độc bởi CIA, ai sẽ chịu trách nhiệm về sự thất bại của kế hoạch này? Kể từ nay mọi người phải ăn uống tại khách sạn. Tôi sẽ ra lệnh cho khách sạn.

Nghe lời nói này, tôi ngạc nhiên vô cùng. Đây là lần đầu tiên tôi gặp chú tôi từ lúc sinh ra đời.

Sáng thứ Ba, ... tháng 9 năm 1982

Một chiếc xe Jeep tới khách sạn rất sớm đợi tôi để chở tôi và Thibault đến gặp chú tôi.

Chúng tôi được đưa ra Tháp Bút ở Hồ Gươm. Chú chỉ cho tôi Tháp Bút là ý muốn chỉ cho tôi công trình xây cất Nhà Lưu Niệm của Tằng Tổ họ HÀ.

Sự thăm viếng này không nằm trong chương trình đã được hoạch định. Chương trình công tác do Công Ty ở Paris và Bộ Ngoại Giao Pháp đã bị xáo trộn.

Tôi phải vừa cố gắng theo đúng chương trình làm việc, vừa phải tính toán và đề phòng những biến cố có thể xảy ra bất cứ lúc nào.

Trở về Tòa Đại Sứ Pháp tại Hà Nội để làm thủ tục “xuất cảng” hàng hóa, gồm những thùng carton đựng máy móc. Tại sao phải nói là XUÂT CẢNG? Lý do là ra khỏi cửa Tòa Đại Sứ Pháp là lãnh thổ Việt Nam. Tuy chỉ phải qua một cánh cửa thôi nhưng thủ tục hành chính cũng rất phức tạp như từ Paris sang Hà Nội.

Giàn máy tính sẽ được lắp đặt tại Ủy Ban Khoa Học Kỹ Thuật Nhà Nước.

Những gì tôi và người phụ tá Thibault đã trải qua tại Việt Nam trong chuyến công tác này đúng y như những gì đã được dàn cảnh trong cuốn phim « LE RIDEAU DE FER » nói về Cộng Sản Đông Đức bao vây một người Mỹ có Sứ mệnh đi cứu một người thân trong gia đình bị kẹt ở Berlin phía Đông Đức: những cảnh giao tiếp với dân chúng, những suy luận của chính quyền hay của các cơ quan an ninh, cảnh sát, …

Thời gian còn lại để hoàn tất công tác theo chương trình rất ít trong hoàn cảnh khó khăn thời bấy giờ như những giờ cúp điện, hệ thống máy móc phức tạp, v.v... Nhưng cuối cùng chúng tôi cũng làm xong mọi công việc theo kế hoạch.

Bao nhiêu trắc trở, khó khăn, bao nhiêu vấn đề phải giải quyết trong sự liên lạc với người Việt Nam cùng chủng tộc với tôi trong bối cảnh những nền chính trị khác nhau … Dù trong hoàn cảnh nào, tôi bắt buộc phải thành công trong Sứ mệnh này.

Công tác đã được hoàn thành mỹ mãn, nhất là việc bảo vệ tài sản của Công Ty.

Một buổi lễ đơn sơ để bàn giao giàn máy vi tính được tổ chức, có chúng tôi, đại diện cho Tòa Đại Sứ Pháp và Ủy Ban Khoa Học Kỹ Thuật Nhà Nước.

Tối thứ Tư trước ngày lên đường rời Việt Nam, tôi đi thăm chợ Đồng Xuân.

Hầu hết những hàng quán, kiosques, đều không có điện.

Tôi đến thăm một quán bán chuối chiên. Đó chỉ là một cái sạp để dưới đất, hàng hóa chỉ là vài trái chuối. Bà bán hàng cắt chuối thành từng khoanh nhỏ, xong chiên trong một cái hộp đồ hộp bằng thiếc cũ (boite de conserve) thay cái chảo.

……..

Tôi rời Việt Nam, quê hương tôi từ Hà Nội để đi Bangkok vào buổỉ trưa thứ Năm … bằng một máy bay Caravelle cũ của hãng Hàng Không Việt Nam của VNCH đã để lại, … mang theo trong lòng bao nhiêu hình ảnh ngậm ngùi của một xứ sở, một Tổ Quốc tan nát đau thương ...

2. Một chuyến đi ở Kênh Jonglei, Nam Soudan (1983)

Mỗi chuyến đi là một Sứ mệnh …

Thế Kỷ thứ 19 là thế kỷ đào kênh. Những kênh lớn và quan trọng trên thế giới gồm Kênh Suez, 194 km (1859-1869), Kênh Panama, 77 km (1880), …

Đồ án Kênh Jonglei ở miền Nam Soudan (Sudan) là kênh dài nhất, 360 km, đã được nghiên cứu từ năm 1898. Ban đầu, mục đích của việc đào Kênh Jonglei là chỉ để phát triển thủy lợi và nông nghiệp cho vùng sa mạc này.

Đồ án Kênh Jonglei này không được sự hậu thuẩn chính trị và tài chính. Các nước Phi Châu quá nghèo, các nước Âu Mỹ giàu có không thấy lợi lộc gì lớn trong đồ án to tác này …

Phải đợi đến …

Năm 1960, đập thủy điện Assouan của Ai Cập được Chính Phủ Nga viện trợ tài chính và kỹ thuật.

Từ lúc này Ai Cập rời bỏ khối những quốc gia Không Liên Kết (Non-Aligned Movement countries) để đi vào quỹ đạo của các nước thân Nga.

Việc khai thác điện lực đập Assouan bắt đầu từ năm 1967. Năng suất của các máy điện bị giảm đi vì lượng nước sông Nil không đủ cung cấp cho nhà máy thủy điện tại đây. Hằng năm, sông Nil bị mất khoảng 14% - 20% lượng nước vì sự bốc hơi nước ở thượng nguồn.

Chính Phủ Ai Cập, Chính Phủ Nga (Liên Bang Xô-Viết) và Chính Phủ Soudan mở lại hồ sơ đồ án Kênh Jonglei.

Với sự hỗ trợ của Nga, Ai Cập vay được ngân sách cho đồ án này từ Ngân Hàng Quốc Tế.

Công trường Kênh Jonglei được một Công Ty hỗn hợp Pháp-Anh xây dựng vào khoảng năm 1978.

Không đi sâu vào những chi tiết kỹ thuât, chỉ cần biết là chiều dài phảỉ đào của Kênh Jonglei là 360 cây số (Kênh đào dài nhất trên thế giới). Kênh Jonglei nằm trên sa mạc, theo hướng Bắc – Nam, cắt ngang những nhánh sông trên thượng nguồn sông Nil thuộc lãnh thổ Soudan.

Cách tổ chức của công trường Kênh Jonglei rất lớn này là cứ 60 cây số thì có một căn cứ làm Trung Tâm Kỹ Thuật.

Trong giai đoạn đầu, ba căn cứ được xây dựng:

- Căn cứ cây số 0 (gọi là Căn cứ K0)

- Căn cứ cây số 60 (Căn cứ K60)

- Căn cứ cây số 120 (Căn cứ K120)

Công trường có hơn 40.000 nhân công.

Số nhân công này (người Soudan và nhiều nước lân cận) mang theo cả gia đình sinh sống bên cạnh công trường. Họ sống theo cách bộ lạc du mục trên sa mạc.

Công Ty chúng tôi cung cấp nhiều giàn máy vi tính cho công trường Kênh Jonglei từ năm 1980.

Lúc này Soudan đang trong tình trạng chiến tranh giữa Bắc Soudan và Nam Soudan, không khí khủng hoảng chính trị và quân sự giữa hai miền rất căng thẳng. Công trường nằm trong vùng chiến tranh.

Trung tâm máy vi tính của công trường, Căn cứ K0 (cây số 0) bị hư hại từ hơn ba tháng. Mọi công việc điều hành và quản trị bị xáo trộn.

Công trường bị đình trệ về lương bổng tạo nên sự bất mãn trong nhân công (Soudan, Phi Châu) …

Không khí căn thẳng, sự an ninh của tất cả các kỹ sư, cán bộ Pháp – Anh và người Âu Châu bị đe dọa …

Bộ Ngoại Giao Pháp báo tin gấp: công trường đang trở thành một mục tiêu có thể bị tấn công bởi du kích Nam Soudan kết hợp với sự bất mãn của nhân công trong việc quản lý cuộc sống tại công trường vì sự đình trệ của trung tâm máy tính ...

Trong mọi hoàn cảnh, chiến tranh hay không, phòng máy vi tính phải được sửa chữa và tái thiết khẩn cấp để tái lập công việc quản trị của công trường, nhất là cứu vãn cả một dự án lớn lao này.

Trong vấn đề quản trị nhân sự, quan trọng nhất là lương nhân công (40.000 nhân công cùng gia đình sinh sống bên cạnh công trường).

Sứ mệnh đến với tôi

Thời hạn làm việc rất ngắn ngủi. Không khí rất ngột ngạt, phương tiện di chuyển khó khăn. Thời buổi bấy giờ không có lực lượng vũ trang thế giới nào bảo vệ công trường. Sa mạc thì quá rộng lớn. Quân đội của Soudan đóng cách xa hàng mấy trăm cây số. Hệ thống truyền tin bằng radio.

Chuyến đi được quyết định sau khi cân nhắc những điều kiện kỹ thuật và tình hình chính trị thế giới (Géopolitique).

Trong giai đoạn đầu, tôi phải đi thị sát tại chỗ để kết luận cho những chuyến công tác sau.

Từ Paris đến Khartoum, Kinh Đô Soudan bằng chuyến bay thương mãi thường lệ. Nhưng từ Khartoum đi đến Jonglei, tôi phải đi bằng máy bay nhỏ, type Cessna 4 hay 6 chỗ ngồi. Vừa cất cánh khỏi phi trường Khartoum, là vào luôn sa mạc. Chuyến bay xa khoảng 600 cây số về huớng Nam.

Trên máy bay chỉ có bốn người: phi công (người Anh tên là Brian H.), một kỹ sư người Pháp và vợ (cả hai người là nhân viên làm việc cho công trường) và tôi, có nhiệm vụ tái thiết toàn diện phòng máy vi tính của công trường.

Chúng tôi phải đáp xuống một phi trường nhỏ để tiếp tế nhiên liệu cho máy bay, trước khi đến sân bay riêng của công trường cách xa gần 100 cây số.

Nói là sân bay nhưng thật ra chỉ là một quãng đường dành cho máy bay nhỏ chở hàng tiếp tế đáp.

Cảm động nhất là những kỹ thuật viên đến từ Âu Châu đón tiếp tôi thật thân mật. Họ dành cho tôi một lòng thiện cảm đặc biệt khi biết tôi đã chấp nhận một công tác đi đến một công trường mà vấn đề an ninh đang bị đe dọa một cách trầm trọng.

Công trường đang bị dân quân du kích Nam Soudan bao vây.

……

Một kỷ niệm lạ

Một người bạn đưa tôi một cây gậy và một đèn pile căn dặn tôi:

- Ban đêm trước khi bước xuống giường, nhớ phải rọi đèn và dùng gậy khua nhiều lần dưới chân trước khi bước xuống đất. Làm như vậy để có thể xua đuổi bò cạp hay rắn của sa mạc.

Tôi rất ngạc nhiên vì mặc dù phương tiện rất khó khăn, nhưng các kỹ thuật viên vẫn xây được một hồ bơi nhỏ trong một bối cảnh nước ở sa mạc là một sản phẩm đại quý. Hồ bơi dành cho mọi người giải trí và xoa dịu nhiệt độ nóng của sa mạc sau một ngày làm việc.

Cuộc sống ở công trường rất bận rộn. Mọi người gần như làm việc không nhìn đồng hồ. Họ làm việc thật đắc lực để quên những nguy cơ đang rình rập.

Thời bấy giờ (1983) không có TV, mà chỉ có những video cassette tin tức. Nhưng Video casettes này đến từ Paris hai lần một tuần, cho biết tin tức thời sự thế giới.

Theo chương trình, tôi sẽ ở ba đêm tại căn cứ này.

Trong hầu hết các công tác phải đi xa, thực tế tại nơi đều không đúng với mọi dự kiến lý thuyết từ Paris. Từ thiết bị dự trù mang đi nhiều lại không cần thiết. Thiết bị tối cần tại chỗ thì không có, phải xoay xở chế tạo trong mọi điều kiện thiếu thốn. Thiếu thốn từ Hardware đến Software …

Tôi có bốn ngày và ba đêm, tại công trường ở sa mạc này, khí hậu gay gắt và không khí chiến tranh.

Rất cần nhân lực. Công việc đầu tiên là tuyển dụng những nhân công tại chỗ có hiểu biết về máy vi tính hay hiểu biết về điện tử và điện lực.

Tôi tuyển được 12 người.

Mọi người biết trước lời căn dặn của tôi là công việc đòi hỏi phải làm việc không ngừng, cho dù là ngày hay đêm.

Mọi người thay phiên nghỉ ngơi, ăn uống, làm việc và ngủ tại chỗ trong điều kiện khí hậu rất nóng của sa mạc. Không khí hoạt động như một tiểu công trường, náo nhiệt trong lo âu căng thẳng. Nhiều bà vợ của các nhân viên ban đêm tiếp tế cà-phê và thức ăn cho chúng tôi.

Mục tiêu là tái thiết 80% phòng máy tính và những máy vi tính.

Lòng hăng hái của tất cả làm mọi nguòi quên mệt, ngay cả những người đầu bếp.

Tất cả đều cật lực làm việc theo đúng chương trình, quên cả ăn lẫn ngủ.

Cảm động nhất là lúc hai máy chủ và những Terminales được tái thiết xong trong tiếng ầm ầm của máy phát điện chạy bằng xăng. Phòng máy tính đã sống lại!

Sự cảm động hiện trên nét mặt mọi ngưòi … Lần đầu tiên trong đời, tôi được chứng kiến nét hân hoan của nhiều người nhân công tin tưởng sẽ nhận được số tiền lương của họ. Đó là cuộc sống của gia đình những người này ...

Hơn ba ngày làm việc, tạm có thể gọi là thành công của chuyến đi công tác của tôi.

Tôi lên máy bay rời khỏi công trường, nhưng ….

Năm ngày sau, du kích Nam Soudan mở một cuộc tấn công khá lớn vào căn cứ. Hơn hai mươi người chết, trong đó có ba kỹ thuật viên Âu Châu, Phi công Brain H. bị bắt làm con tin.

Một tuần sau đó tôi được tin từ Paris là may mắn đã không đến với Brian H.: trong tiếng súng nổ của hai bên, anh đã bị du kích quân Nam Soudan giết vì anh tìm cách bỏ chạy ra chiếc máy bay nhỏ của mình định trốn thoát.

……..

Chiến tranh càng ngày càng khốc liệt …

Kênh Jonglei chỉ đào được hơn 300 cây số trên 360 cây số dự định trong đề án và đã bị bỏ hoang cho đến ngày nay (2019).

Một công trình lớn của nhân loại!

Bây giờ nước Soudan bị chia đôi: SOUDAN và NAM SOUDAN.

Tôi viết lại kỷ niệm chuyến công tác này với mọi tâm tư tưởng nhớ người phi công đã chở tôi đi về bình an từ Khartoum đến Jonglei, cùng những kỷ niệm sinh hoạt trong những ngày ở công trường của một Sứ mệnh thực hiện vào mùa Xuân năm 1983.

HÀ ĐỨC LONG